XUÂN-LỘC


Thuở ấy con tôi đẹp nhất làng,
Tháng ngày dệt mộng giỏi, giàu, sang.
Tôi đem tất cả t́nh cưng quư
Lót thảm cho con mỗi bước đàng.

Những tưởng ngày mai mộng nở hoa,
Vào đời rạng mặt với người ta...
Bỗng đâu trời đất dâng giông gió:
Tan giấc mơ xanh, đổ tháp ngà...

Nó vẫn đeo theo học chữ, từ;
Tôi đi “học” nghĩa, lư tân-thư.
Xưa: chôn sĩ-tử, thiêu kinh-sách!*
Nay: loạn luân-thường, đảo thực/hư!

*Tần Thuỷ-Hoàng
thiêu hủy kinh-sách, chôn sống học-tṛ

Rồi nó thi xong, đạt điểm son,
Gửi thư vô trại, báo “tin ḍn”:
“Ba ơi! con chúc Ba mau “đậu”
Để sớm... về nhà với chúng con!”

– Con ạ! Ba chưa “học” thuộc bài:
Toán đời đáp-số vẫn c̣n sai!
Nhân-văn không luận bằng tim óc
Mà tính bằng khoanh sắn, lát khoai!

Nó viết: “Con nay đă lớn khôn,
Không c̣n nương nấp ngưỡng gia-môn,
Vào đởi vững cánh đương-đầu gió,
Đủ sức vươn lên... để tự-tồn!”

Rồi nó vào đời, trán ngửng cao!
Và đời... quật nó những đ̣n đau:
Vào trường đại-học: hồ-sơ nát!
Qua cổng công-nhân: lư-lịch nhàu!

Rồi nó ra khơi, hướng viễn-phương!
Và đời... bủa lưới chắn biên-cương;
Bản-thân cũng nếm mùi lao-ngục
Sớt với toản-dân nỗi đoạn-trường!

Tôi vẫn là tên tù biệt-giam,
Thân ḿnh mà c̣n lo không kham!
Thương con lận-đận tuồng dâu-bể:
Thà xấu, khùng, hay ngu cho cam!

Nhưng nó kiên-tŕ, chẳng khóc rên,
Ngă mà không qụy, vẫn vươn lên.
“Xưa nay – nó viết – làm nên việc
Là những cao-nhân, ư-chí bền!”

Hết trại gần, rồi đến trại xa,
Tâm-tư xót nước lại thương nhà...
Nhưng tôi tin nó, đầy kiên quyết.
– Hăy vững vươn lên, Lộc của Ba!

THANH-THANH