Page 43 of 94 FirstFirst ... 333940414243444546475393 ... LastLast
Results 421 to 430 of 937

Thread: Ngày này năm xưa

  1. #421
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Nghĩa tử là nghĩa tận (3/3): Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...trang-mac.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hia-trang.html

    Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
    Sài G̣n xưa nổi đ́nh nổi đám nhất trong thế giới của người chết là Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Nghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ của giới ‘quư tộc’ Sài G̣n trước khi thành phố đổi tên. Nơi đây nhiều nhân vật nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ "đă từng" yên nghỉ.

    Tôi dùng chữ "đă từng" v́ tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám ngày nay.


    Nghĩa trang MĐC và bức tường rào phía đường Hiền Vương (nay là Vơ Thị Sáu)

    Nhân đây cũng nên nói qua về nhân vật được ca tụng là ‘tuổi trẻ anh hùng’, ‘ngọn đuốc sống’ Lê Văn Tám theo sách giáo khoa hiện đang sử dụng trong hệ thống giáo dục ngày nay.

    Ngày 19/10/1945 (?), cậu bé Lê Văn Tám (16 tuổi) đă tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng Thị Nghè Simon Piétri (?) của thực dân Pháp cách đấy mấy chục mét.
    Về câu chuyện anh hùng này, Phan Huy Lê, giáo sư sử học Đại học Quốc gia Hà Nội, trong bài viết Trả lại sự thật h́nh tượng Lê Văn Tám đă kể lại theo lời dặn của Giáo sư Trần Huy Liệu khi đó đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời:

    “Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10/1945 và được loan tin rộng răi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi [tức GS Trần Huy Liệu – chú thích của NNC] đă "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét”.


    (http://www.bee.net.vn/channel/1984/2...n-Tam-1724804/)

    http://tuanbaovannghetphcm.vn/su-tha...ng-le-van-tam/

    https://danchuvietnam.wordpress.com/...-th%E1%BA%ADt/

    https://www.rfa.org/vietnamese/in_de...018124756.html


    Đài BBC đưa tin và hôm sau b́nh luận: “Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy th́ sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng”. Ông Liệu chắc đă phải tự trách ḿnh v́ thiếu cân nhắc về logic nên có chỗ chưa hợp lư.

    Thời Nam Bộ kháng chiến, có rất nhiều tấm gương hy sinh v́ Tổ quốc cho nên ‘dựng’ chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), c̣n việc đặt tên Lê Văn Tám có lẽ v́ họ Lê Văn rất phổ biến và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám (?).

    Ông Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28/8/1945 đến ngày 1/1/1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1/1/1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2/3/1946. Ông Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do ḿnh tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến.

    Theo GS Lê, ông Liệu đă căn dặn: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không c̣n nữa. Trong câu chuyện, GS c̣n tiên lượng là biết đâu sau này có người đi t́m tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đ́nh, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi [tức GS Lê – chú thích của NNC] coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đă quá cố và đối với lịch sử”.

    Nói đi th́ cũng phải nói lại. Trong loạt bài viết trên báo Sài G̣n Giải phóng có nêu một số nguồn tham khảo cho biết Lê Văn Tám là một nhân vật có thật. Theo nhà văn Trần Trọng Tân, với tư liệu Lịch sử Sài G̣n - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975) của Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh (1994) th́ có thể khẳng định kho đạn Thị Nghè đă bị nổ hai lần vào ngày 17-10-1945 và ngày 8-4-1946. Vụ nổ ngày 17-10-1945 gắn liền với Cây đuốc sống Lê Văn Tám là có thực.

    Kho đạn hay kho xăng gần cầu Thị Nghè trong thời gian 1945-1946 đă từng bị cháy đến hai lần? Lần đầu xảy ra vào ngày 17-10-1945, khi đó thiếu niên Lê Văn Tám, dưới sự chỉ đạo của Lê Văn Châu, đă đột nhập vào kho đạn, mang theo diêm và xăng. Khi rút lui, Lê Văn Tám bị dính xăng và bốc cháy như một cây đuốc sống.

    Biểu tượng ‘ngọn đuốc sống Lê Văn Tám’ đă được quảng bá rộng răi, đi sâu vào tâm thức của mọi người, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ư chí xả thân v́ nước của quân dân trong buổi đầu của Nam kỳ Kháng chiến chống thực dân Pháp. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đă mang tên Lê Văn Tám nhưng tiếc thay vẫn c̣n nhiều nghi vấn, không biết đó là hư cấu v́ mục đích tuyên truyền hay chuyện có thật.


    Bức tượng về ‘ngọn đuốc sống’ trong công viên Lê Văn Tám, nơi trước đây là Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi

    Cũng tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, tiền thân của công viên Lê Văn Tám ngày nay, vốn được coi dành riêng cho quân đội Sài G̣n, có đến hàng trăm ngôi mộ chiến sĩ t́nh báo ‘cách mạng’, ‘binh vận’ từng đóng vai quan chức, quân nhân tư bản của chế độ Sài G̣n. Khi nằm xuống, họ vẫn mang cái ‘vỏ’ cũ... Thế là dù cách mạng hay phản cách mạng, những người đă nằm xuống đều có chung ‘thân phận’. Đó là thân phận của người chết.


    Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm chết trong thiết vận xa M113

    Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông Diệm h́nh hộp, áo quan của ông Ngô Đ́nh Nhu có nắp tṛn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Diệm, c̣n chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu.

    Mộ hai ông Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai ngôi mộ nằm lọt thỏm, đ́u hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố.


    Quan tài của ông Diệm nằm bên phải, của ông Nhu bên trái trước khi được chôn

    Những kẻ cơ hội quay lưng với gia đ́nh họ Ngô đă đành, những người thân cũng ngại đến thăm viếng v́ sợ chính quyền thời đó ḍm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí c̣n không người đưa tiễn!

    Hai ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn c̣n cứng. Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.

    Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái Thiêu (B́nh Ḥa, Thuận An, B́nh Dương). Mộ ông Ngô Đ́nh Cẩn (được chôn tại nghĩa trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.

    Trong khu đất rộng hàng ngh́n hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ gia đ́nh họ Ngô nằm cùng một dăy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh) và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quăng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc Jean Baptiste Cẩn.


    Mộ ông Ngô Đ́nh Diệm (trên bia khắc tên ‘Gioan Baotixita Huynh’)


    Mộ ông Ngô Đ́nh Nhu (trên bia khắc tên ‘Giacobe Đệ’)


    Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân (nằm giữa mộ hai người con, Huynh và Đệ)


    Mộ ông Ngô Đ́nh Cẩn
    (trên bia chỉ đề Jean Baptiste Cẩn)

    Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu c̣n có mộ thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất, ḍng dơi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng ngh́n nhân vật tên tuổi trong chính quyền. Trước năm 1975, một số người v́ muốn thân nhân đă khuất được danh giá, bản thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

    Một người từng cải táng mộ thân nhân tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi vào năm 1983 là bà Thanh Triều. Bà có chồng là sĩ quan VNCH và cháu là Hồng Ngọc (vợ của ca sĩ Elvis Phương) chôn tại đây. Chồng bà bị tử nạn khi máy bay rơi trên đường từ Đà Nẵng về Đà Lạt năm 1973. C̣n cô cháu Hồng Ngọc mất năm 1970 do tai nạn giao thông.

    Bà Triều nhớ lại: "Tôi nhận được thông báo di dời nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi vào đầu tháng 5/1983. Thời gian di dời là 3 tháng. Nói thật, tôi thấy bàng hoàng, v́ khi chôn th́ xác định rằng chôn vĩnh viễn. Nhưng sau, suy nghĩ cạn lư, tôi thấy việc này không đừng được. Nghe đâu mấy ổng trước [chính phủ Sài G̣n – chú thích của NNC] đă nhiều lần định làm rồi, nhưng cứ nán lại v́ sợ đụng ông nọ, ông kia".

    Bà Triều thuê đội bốc mộ cải táng. Khi cải lên, do chôn trong kim tĩnh, lại chôn trong vùng đất cao và khô, nên cả hai thi hài vẫn giữ nguyên h́nh dạng. Bà cho đem đi thiêu cả hai. Từ đó đến giờ, bà gửi tro cốt chồng tại chùa Phổ Quang. Bà vẫn thường xuyên lên chùa, hương hỏa cho chồng.

    C̣n phần tro cốt của Hồng Ngọc đă được ca sĩ Elvis Phương mang ra nước ngoài để tiện việc thờ cúng. Không biết có chính xác hay không, theo nhiều người kể lại, trên mộ của Hồng Ngọc tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi hồi đó, Elvis Phương có khắc ḍng chữ “Ngọc chết rồi Phương chơi với ai?”.


    Ca sĩ Elvis Phương trước năm 1975

    Trước 75, Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, c̣n được gọi qua tên Đất thánh Tây, là một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm uất của Sài G̣n xưa. V́ là nghĩa trang của giới quư tộc nên một khoảnh đất nhỏ trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài G̣n.

    Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với ḍng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lư “Hăy nhớ ḿnh là cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đă chết”... Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đă lo cho ‘người đă chết’ bằng những mộ phần hào nhoáng trị giá gấp trăm, thậm chí gấp ngh́n lần, những căn nhà ọp ẹp dựng trên bờ kinh nước đen Nhiêu Lộc.


    Truy lùng VC tại nghĩa trang MĐC vào Tết Mậu Thân 1968

    Công bằng mà nói, việc biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn Tám - dù có đụng chạm đến quyền lợi của một số người có thân nhân nằm trong đó - vẫn là một việc phải làm khi đất đai tại trung tâm thành phố ngày càng thu hẹp, dân số ngày càng gia tăng.

    Chắc hẳn những người đă an nghỉ tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng rộng ḷng thông cảm cho lớp hậu duệ ngày nay!

    ***

    (Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 4: Thời quân ngũ)

    Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

    Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
    Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
    Chương 3: Thời thanh niên (Sài G̣n)
    Chương 4: Thời quân ngũ (Sài G̣n – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
    Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
    Chương 6: Thời điêu linh (Sài G̣n, Đà Lạt)
    Chương 7: Thời mở ḷng (những chuyện t́nh cảm)
    Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
    Chương 9: Thời hội nhập (Bút kư những chuyến đi tới 15 quốc gia và lănh thổ)

    Tác giả c̣n dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

    ***

  2. #422
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Đường sắt có răng cưa Tháp Chàm- Đà Lạt

    https://caphecaumat.blogspot.com/201...59933737232454
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...-cham-lat.html

    Hoài Cổ


    Đầu thập niên 1950, thuở c̣n là sinh viên trẻ, độc thân, nhân dịp nghỉ hè, tôi có thực hiện một chuyến du lịch một ḿnh, lần đầu tiên, lên Dalat, lúc ấy c̣n thuộc HoàngTriều Cương thổ (đi "phượt", nói theo ngôn từ của giới trẻ ngày nay ở Việt Nam).
    https://i.postimg.cc/vHh1qkfX/LenXe.jpg

    Chuyến du lịch bằng xe lửa Saigon-Dalat, đầy lư thú. Tôi được trải nghiệm đi tuyến xe lửa đường sắt có răng cưa từ Tháp Chàm đến Dalat.

    (ga Tháp Chàm)

    (đường sắt có răng cưa)

    Khởi hành sáng sớm từ ga Saigon. Đến ga Tháp Chàm, hoàng hôn vừa buông xuống. Tàu phải dừng lại để thay đầu máy khác, đặc biệt, chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh đường đèo và leo núi.
    Lúc bấy giờ, v́ ngồi trong toa xe, vă lại, chưa biết cách thiết trí và vận hành của hệ thống xe lửa chạy trên đường sắt có răng cưa như thế nào, nên không mấy chú ư .
    Suốt cả đoạn đường, tôi có cảm giác như xe chạy chậm lại, ́ ạch leo đèo, khói tuôn cuồn cuộn, đen cả đoàn tàu. Sương mù buổi chiều rơi phủ cả rừng núi mênh mông. Nh́n cảnh vật hai bên như bức tranh thủy mạc. Khói lam chiều tỏa ra từ các mái nhà sàn. Đồng bào thượng ngồi ngoài sân, chung quanh những khóm lửa bập bùng đốt lên để sưởi ấm. Ḷng tôi man mác, không khí lạnh bao trùm. Nh́n thấy đồng bào thượng vẫn truyền thống, cổ truyền, khố, gùi, ống điếu to, dài và uốn cong, có vẻ như vô tư lự... thật thanh thản, sung sướng làm sao. Phong cảnh này đă in sâu vào tâm khảm, theo đuổi tôi, nên không c̣n nghĩ đến bằng cách nào xe lửa chạy lên đèo với hệ thống trang bị đường sắt có răng cưa.
    Đến nay, nhân đọc những tài liệu trên mạng, h́nh dung và tưởng tượng lại cảnh trí ngày xưa, tôi cảm thấy thú vị vô cùng. Thầm nuối tiếc cho một công tŕnh, một di sản quư hiếm, đă bị mai một trên quê hương. Ước ǵ tôi được đọc các tài liệu nầy, trước khi khởi hành chuyến du lịch, th́ thích thú biết mấy. Vừa được ngấm cảnh thiên nhiên huyền ảo, vừa thưởng thức được kỹ thuật vận hành xe lửa chạy lên đèo bằng đường sắt răng cưa như thế nào.
    Giả thử như bây giờ c̣n loại xe lửa nầy, trên tuyến đường Tháp Chàm-Dalat như xưa, tôi sẽ quên thân già, trở về Việt Nam, thực hiện lại chuyến du lịch, không phải để chiêm ngưởng cảnh phồn vinh giả tạo ở các đô thị, tỉnh thành, mà để khơi lại và chụp những ǵ trong kư ức ngày cũ.
    Tiếc thay!

    Là người hoài cổ, tôi cố truy t́m lại lịch sử, tiến tŕnh xây dựng, cách thiết trí và vận hành của tuyến xe lửa Đường Sắt Có Răng Cưa Tháp Chàm-Dalat.

    1-Dự án xây dựng:
    Tuyến xe lửa Đường Sắt Có Răng Cưa (ĐSCRC) Tháp Chàm-Dalat được dự án xây dựng trong 30 năm (1902-1932), từ thời toàn quyền Pháp Doumer và bác sĩ Yersin.
    https://i.postimg.cc/8k3XFXjK/Paul-Doumer.jpg
    Paul Doumer (1857 – 1932)
    Quan Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương (1897-1902)
    https://i.postimg.cc/sgCnmBP5/Alexandre-Yersin.jpg
    Bác sỉ Alexandre Yersin (1863 - 1943) - Người Pháp gốc Thụy Sỉ.

    Trong cuộc hành tŕnh lần thứ ba sang Việt Nam, năm 1893 Ông khám phá ra cao nguyên Lang Biang.
    Đứng trên ngọn núi Tà Đùng (Ta Dung Mountain)
    nh́n xuống những mê lộ sâu và lạnh của ḍng Da Dung, bác sĩ Yersin nhớ đến quê nhà của ông bên Thụy Sĩ . Nếu Thụy Sĩ là xứ lạnh miền núi bên Âu châu, trên dăy núi Alps, th́ Dalat là xứ lạnh miền núi, trên dăy Trường Sơn ở Đông Dương. Ông đă chọn Suối Dầu dưới chân rặng Trường Sơn ở VN làm quê hương thứ 2 khi mất.
    Toàn quyền Pháp Paul Doumer muốn xây dựng một nơi nghỉ dưỡng cho pháp kiều ở Đông Dương như những nơi nghĩ dưỡng ở Ấn Độ. Yersin đề nghị nên chọn Đankia - cách Dalat hơn 10 km về phía Tây Bắc.

    https://i.postimg.cc/Y9vVV5vF/dalat-cograil18-2.jpg
    Một nhóm sĩ quan và chuyên gia địa lư Pháp sang Việt Nam nghiên cứu địa h́nh để xây dựng tuyến đường sắt Tháp Chàm - Dalat vào khoảng năm 1901-1902.

    2-Thời gian xây dựng:
    https://i.postimg.cc/Wzryp06b/dalat-cograil61.jpg
    -Năm 1908 đoạn đường Tháp Chàm-Xóm G̣n mới được thi công.
    -Năm 1917 tuyến đường Tháp Chàm chạy đến Song Pha.
    -Năm 1922 xây tuyến Song Pha tới Trạm Hành(Đơn Dương) và đến Đà Lạt. Đó là tuyến đường sắt leo núi gồm có đoạn đường bằng và đoạn leo dốc.
    -Năm 1932 th́ hoàn tất tuyến Tháp Chàm-Dalat. Toàn tuyến dài 84km.


    (Vua Bảo Đại và Quan Toàn Quyền Pháp René Robin khánh thành tuyến xe lửa năm 1936)

    3-Tuyến đường:

    Tuyến miền núi Tháp Chàm-Dalat có 3 đoạn có đường ray răng cưa để leo dốc và xuống dốc trên 12%, với tổng chiều dài 16km. Xen kẽ là các đoạn đường bằng phẳng chạy bằng ray thông thường, với 5 hầm xuyên đồi núi.

    4-Vận hành:

    Đầu kéo là máy hơi nước chuyên dụng HG, mă hiệu dùng cho đường sắt có đoạn ray răng cưa.
    Công ty SLM (Schweizerische Lokomotiv) Winterthur Thụy Sĩ chế tạo loại đầu máy HG này.
    Công ty Đường Sắt Đông Dương CFI (Chemin de Fer de l'Indochine) đặt hàng công ty SLM Winterthur Thụy Sĩ để mua 7 đầu máy đặc hiệu HG4/4, loại có 4 trục bánh vận hành đồng bộ, chế tạo riêng cho tuyến đường sắt Tháp Chàm-Dalat, nhằm đáp ứng chạy tàu vùng có độ dốc trên 12%.
    Tàu chạy đến ga chót Dalat, không cần trở đầu, để đổ dốc về lại ga Tháp Chàm.
    Khi tàu chạy đến gần đoạn răng cưa, lái tàu giảm tốc độ, khởi động giàn bánh răng ở đầu tàu, cho móc vào đường ray răng cưa, nằm giữa 2 thanh ray trơn, rồi khóa hệ thống bánh răng. Bánh răng của đầu máy bám chặt vào răng cưa đường ray để tàu leo dốc và xuống dốc. Những bánh răng cưa nầy có thể tự điều chỉnh chiều cao phù hợp với độ ṃn của các bánh xe. Hệ thống vận hành gồm 2 bộ phận cơ khí vận chuyễn sức kéo biệt lập, một cho đường mặt bằng và một cho đường răng cưa.



    https://i.postimg.cc/BZcc3h2P/a017.jpg

    5-Quá tŕnh nhập đầu máy kéo:

    Thập niên 1920 CFI - ở Đông Dương nhập 7 đầu máy HG 4/4 do Công ty SLM Winterthur Thụy sĩ chế tạo theo kiểu mẫu của kỷ sư Roman Abt.
    Năm 1929 CFI nhập thêm 2 đầu máy HG 4/4 do công ty MFE (Maschinenfabrik Esslingen) Đức Quốc chế tạo, dựa trên mẫu của SLM nhượng quyền, dưới chương tŕnh bồi thường chiến tranh cho Pháp khi Đức thua trận thế chiến 1914-1918.
    Như vậy CFI sở hữu tất cả 9 đầu HG 4/4 chỉ có ở Việt Nam. Trong chiến tranh với Nhật 4 đầu máy HG 4/4 bị mất tích.
    Sau đó, Công ty SLM lại chế tạo đầu máy HG ¾ cho tuyến đường Furka bên Thụy Sĩ. Như vậy đầu máy HG4/4 dùng ở Việt Nam cổ xưa hơn đầu máy HG3/4 dùng ở Thụy Sĩ.
    Rồi sau đó, công ty FO(Furka-Oberwald) thay thế công ty SLM, khai thác tuyến đường miền núi Furka-Oberwald.
    Sau thế chiến thứ 2, vào năm 1947, Công ty CFI ở Đông Dương sang Thụy Sĩ hỏi mua 4 đầu máy HG ¾..
    Như vậy, lúc bấy giờ tuyến Tháp Chàm-Dalat xử dụng 9 đầu máy HG: 5 đầu HG 4/4 và 4 đầu HG ¾.
    Năm 1954 Khi công ty CFI rời Việt Nam, CFI chuyễn giao lại cho Việt Nam Hoả Xa (VNHX) 5 đầu máy kéo HG 4/4,cùng với 4 đầu máy kéo HG ¾. Mă số chỉ thay CFI bằng VHX:

    Thời Việt Nam Cộng Ḥa và sau 1975.

    Trong suốt gần 30 năm(1947-1967), 4 đầu máy HG¾ của công ty FO ở bên Thụy Sỷ làm nhiệm vụ trên tuyến đường Lang Biang trước khi bị ép buộc vào cơn "ngủ" dài đến tận năm 1990 th́ may mắn hồi hương trở về Thụy Sĩ.
    Trước nhất, chúng “ngủ” v́ tuyến đường mất an ninh nên phải ngưng xử dụng vào năm 1968. Tuyến đường bị phơi sương từ đấy tới tháng 4 năm 1975. Hai tháng sau chợt thức dậy. Ngày 6-6-1975, chiếc đầu máy răng cưa lăn bánh gần 70km, vượt D’ran(Đơn Dương), qua Eo Gió (đèo Ngoạn Mục), qua Krongpha về Tân Mỹ. Chỉ chờ cầu Tân Mỹ hoàn nhịp (v́ trước đó bị phá sập), th́ về tới ga chót Tháp Chàm để hoàn tất tuyến đường 84km. Nhưng chỉ chạy đúng 27 chuyến. Đến tháng 8-1975 th́ bị ngưng chạy. Người ta ra lệnh cho tháo gỡ ray và tà vẹt đường sắt leo núi Tháp Chàm-Dalat để dùng vào việc đại tu đường sắt mặt bằng Thống Nhất nối liền Bắc Nam. Phần đường có ray răng cưa không phù họp th́ bỏ phơi sương để rồi bị đánh cắp bán làm sắt vụn. Tiếp sau đó đến lượt các cầu cũng bị tháo gỡ bán nốt làm sắt vụn. Tuyến đường chỉ c̣n trơ ra những cái hầm đục trong khối đá c̣n sót lại tiếp tục “trơ gan cùng tuế nguyệt” để cho người đời ngâm câu “nước c̣n cau mặt với tang thương.”

    6-"Châu về hiệp phố" (back to Switzerland)

    Công ty DFB là công ty thứ 3 sau công ty SLM và FO khai thác tuyến đường sắt miền núi Furka ở Thụy Sĩ, trên dăy núi Alps. Tuyến có tên xưa cũ là Glacier Express.

    Để giử ǵn dịch vụ của Glacier Express xưa cũ, họ cần có những đầu máy kéo hơi nước chạy đường sắt răng cưa. Họ truy lục trong các tài liệu, thấy việc FO đă bán lại cho công ty CFI ở Đông Dương 4 đầu máy kéo hơi nước HG 3/4 do SLM Winterthur chế tạo. Họ hướng sự t́m kiếm đến Việt Nam. Lănh sự Thụy Sĩ viếng thăm Đà Lạt, nắm được thông tin về đường sắt Tháp Chàm-Dalat bị bỏ hoang.


    H́nh chụp các đầu máy kéo rỉ sét được gởi về Thụy Sĩ. Công ty DFB có ư định thu mua đầu máy kéo cổ của tuyến đường Furka đă “lưu lạc” sang Việt Nam để đem về. Tháng 6 năm 1988 kỹ sư Ralph Schorno và Roger Waller đến Việt Nam để khảo sát những đầu máy kéo hơi nước c̣n có thể t́m thấy. Đến nơi, không những họ t́m lại được đầu kéo HG ¾ mà công ty FO đă bán nhượng lại cho công ty CFI ở Đông Dương năm 1947 mà c̣n phát hiện đầu máy HG 4/4 (cổ hơn) mà SLM đă chế tạo riêng cho CFI dùng ở VN. Có 2 đầu máy kéo HG ¾ và 2 đầu máy kéo HG 4/4 đều có thể sửa chửa để dùng được và những phế liệu của đầu máy kéo khác c̣n tốt có thể dùng như cơ phận rời.
    Cũng trong năm này họ đến VN để thu hồi các đầu máy kéo HG3/4 mà FO đă bán cho CFI.

    a)Việt Nam bán cổ vật cho Thụy Sỉ:

    Nay công ty DFB vớ được đồ cổ quí giá do chính nước ḿnh đă chế tạo th́ lập tức thu hồi đem về nói là để bảo tàng, nhưng sự thật là tái khai thác tuyến xe lửa có đường răng cưa hoài cổ Glacier Express ở đèo Furka.

    Việt Nam bán cho Công ty DFB toàn bộ 7 đầu máy và các phế liệu của ĐSRC kiểu Abt của tuyến đường Tháp Chàm-Dalat do Thụy Sĩ chế tạo c̣n sót lại ở VN. Thương vụ được thực hiện th́ coi như “Châu Về Hợp Phố”. Đường sắt “đặc chủng leo núi” Tháp Chàm-Dalat, có 1 không 2 trên thế giới, được Công ty Đường Sắt Đông Dương CFI đặt hàng mua ở Thụy Sĩ, nay trở về đất mẹ Thụy Sĩ.

    b) DFB thu hồi đầu máy kéo hơi nước ở VN
    Năm 1990 họ thu hồi được 7 đầu máy kéo cũ và các bộ phận rời.
    Tất cả tập trung ở ga Tháp Chàm để kéo về ga Sóng Thần.

    (tập trung ở ga Tháp Chàm)

    (tập trung ở ga Sóng Thần)

    Ngày 20-9-1990, các đầu máy kéo hơi nước, toa xe, cơ phận rời và thiết bị, mà trọng lượng tổng cộng là 250 tấn được bốc dỡ lên chiếc tầu thủy cựu Đông Đức "Friedrich Engels", rời khỏi Việt Nam, vượt biển cả , dự tính sẽ cập bến Hamburg ngày 31-10-1990, vào lúc nước Đức thống nhất.

    Đến Đức Quốc, 250 tấn hàng được chở bằng tuyến đường xe hoả Đức Quốc Deutsche Bahn, để được vận chuyển về Thụy Sĩ.

    Chiến dịch “Back to Switzerland” hoàn thành nhiệm vụ tại thời điểm khánh thành cuộc triển lăm “Tuyến đường sắt miền núi Furka” vào ngày 30-11-1990 ở Bảo Tàng Vận Tải Lucerne. Rồi các đầu máy kéo được tân trang để đưa vào xử dụng.

    https://i.postimg.cc/zD0bp4n7/a013.jpg
    https://i.postimg.cc/7YRCr7tT/a014.jpg
    https://i.postimg.cc/tgQYYbjq/a015.jpg

    “Châu Về Hợp Phố”!

    Nếu như ngày xưa, tuyến đường sắt có răng cưa, kiểu Abt Tháp Chàm-Dalat là 1 trong 2 (Việt Nam và Thụy Sĩ) nổi tiếng trên thế giới, th́ nay chỉ c̣n có 1 là tuyến leo đèo Furka ở Thụy Sỉ mà thôi. Người Thụy Sỉ độc quyền sở hữu.

    Ngày nay, dân Việt Nam nói chung hay người Đà Lạt nói riêng:
    -Có ai muốn thấy h́nh ảnh con tàu ́ ạch, thở ph́ phèo leo núi; ngắm cảnh con tàu nhả làn khói than đá hay gỗ thông, băng qua cánh rừng thông trong làn khói phảng phất mùi nhựa thông, mùi than đá;
    -Có ai muốn nhớ tiếng c̣i “hít”chói tai, đặc trưng của tàu chạy bằng hơi nước xưa kia…;
    -Có ai c̣n muốn nhớ tiếng va chạm kim khí của bánh răng đầu máy với răng của đường ray, với cảnh con tàu gh́ sát, ôm chặt vào đường sắt, như “người” ḿnh yêu để leo lên hay tuột xuống núi vùng mù sương Lang Biang Dalat... phải vượt hành tŕnh nửa ṿng trái đất để đến xứ Thụy Sĩ mà nghe, mà thấy những đầu máy kéo của ta đang hoạt động trên hành tŕnh du lịch hoài cổ Glacier Express.

    (sưu tầm-tổng hợp)
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...oi-tho-au.html
    https://i.postimg.cc/rFvkL143/2.jpg
    Ga Đà Lạt (h́nh chụp năm 1948)
    https://i.postimg.cc/zGn9Z98H/8-R-i-...n-t-Th-y-S.jpg
    Đầu máy xe lửa chuẩn bị vướt đềo Furka sau nhiều năm lưu lạc ở Việt-Nam!

  3. #423
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Học tṛ thời xưa

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...-thoi-xua.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hinhhoiuc.html

    Học tṛ thời xưa
    Không biết nên gọi cuốn sách “Tuấn chàng trai nước Việt” là tiểu thuyết hay hồi ức. Ngay phần mở đầu sách, tác giả Nguyễn Vỹ đă khẳng định: “Bộ sách này không phải một tiểu thuyết. Cũng không phải là một kư ức cá nhân…”. Cuốn sách được viết năm 1959 tại Sài G̣n và dựa vào bối cảnh đất nước trong hai thập niên 1900-1910 với nhân vật chính là Tuấn.

    Nguyễn Vỹ (1912[1]-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.
    Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.


    Tên cúng cơm của Tuấn là Chuột. Đến khi đi học, Chuột được thầy giáo đặt tên là Trần Anh Tuấn và với tư cách của một nhân chứng thời đại, Tuấn thuật lại một cách vô tư, khách quan và chân thật những diễn biến của đất nước khi người Pháp đến Miền Nam.


    Tác phẩm “Tuấn chàng trai nước Việt” – Nguyễn Vỹ (1959)

    Vào đầu thế kỷ 20, chữ Hán c̣n rất thịnh hành, chữ quốc ngữ được rất ít người học, thậm chí c̣n chê bai. Năm 1910, thằng Chuột khi đó mới 9 tuổi, đă vào học Lớp Năm (lớp Một ngày nay) để bắt đầu học chữ quốc ngữ tại một tỉnh ở miền Trung.

    Vào thời đó, những đứa con nít như Chuột đều sợ hăi mỗi khi gặp “ông Tây, bà Đầm”. Chúng chạy trốn vô nhà và chỉ ló đầu ra nh́n khi họ đă đi qua! Nguyễn Vỹ c̣n đưa ra hai nhân vật: cậu Bốn, một thanh niên thuộc loại đẹp trai nhất xóm, anh đem ḷng thầm yêu trộm nhớ cô Ba Hợi. Chuột nói với bạn (tên Đít) về cậu Bốn:

    “- Ảnh sợ Tây vậy, chớ hôm trước gặp cô Ba Hợi con gái ông Bá Hộ đi chợ về, ảnh cứ đeo theo chọc hoài, không sợ đâu mầy ơi! Cô Ba không thèm nói ǵ hết, để cho ảnh cứ đi theo cho tới gần ngơ cổ mới quay lại bảo ảnh: "Nhà tôi có con chó dữ lắm, cậu đừng xớ rớ đây, tôi xịt nó ra cắn th́ chịu đấy". Vậy mà anh Bốn cũng không sợ con chó Vện của cô Ba Hợi, mầy ơi!
    - Ảnh cứ đứng ngoài ngơ hả?
    - Ừ, mầy biết ảnh mê cô Ba Hợi lắm. Mẹ tao nói thế đó. Tại cô Ba Hợi có nhan sắc hơn hết thẩy ở đây.
    - Cô Ba Hợi có xịt chó ra cắn ảnh không?
    - Không. Nhưng không biết cổ có méc với ông Bá Hộ làm sao mà ông cầm cây roi mây chạy ra ngơ... Anh Bốn thấy cái roi của ổng, sợ quưnh cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một mạch về nhà, mầy ơi…(hết trích)


    Một lớp học vùng ven

    Ở xóm Cửa Bắc, chỉ có thằng Chuột là đi học “Trường Nhà Nước” vào năm 1910. Nói một cách nôm na, Chuột thuộc loại “Lắc-léo-mê-ḍng-lô”, được phiên âm từ tiếng Tây “bồi”: “L'élève maison l'eau”, ám chỉ “Học Tṛ Nhà Nước”.

    Số là thầy giáo cứ đến nhà thằng Chuột, thuyết phục cha mẹ nó cố xin cho nó đi học. Thầy c̣n đem cho nó một xấp “giấy tây” thật trắng, một quyển vở ngoài b́a có in h́nh “Bà Đầm xoè” thật đẹp, một cây bút, một ng̣i bút, một b́nh mực, một cây thước, một cây bút ch́ và một cục “gôm”.

    Tuy thầy giáo đă dụ dỗ nó ba lần bảy lượt, mà thằng Chuột cứ nhất định không đi học Trường Nhà Nước, nó muốn học “chữ ta” tức là chữ Nôm. Sau cùng, một hôm thầy giáo đến hăm dọa cha mẹ nó: "Chú thím không cho thằng Chuột đi học th́ Quan Tây bỏ tù, đừng có trách tôi, nghe không?".

    Thầy giáo cũng thú thật rằng thầy được lịnh Quan Đốc và Quan Sứ bảo phải đi kiếm con nít tới học cho đông v́ Trường Nhà Nước chưa có học tṛ. Mấy ngày đầu Tuấn chỉ muốn trốn học, v́ thầy giáo bắt học “chữ Quốc Ngữ” ABC. Chuột thấy kỳ cục quá… không giống những chữ “Thiên trời, Địa đất, Thất mất, Tồn c̣n, Tử con, Tôn cháu, Lục sáu, Tam ba...”.

    Thầy giáo bắt nó học “Ba, Bă, Bâ, Bi…”, nó vừa học vừa tức cười. Nó mắc cở, nhưng v́ nó sợ ba mẹ nó bị bắt bỏ tù nên nó phải đi học. Trường tỉnh mà vẫn ít học tṛ, lớp Năm mà chỉ có 7 đứa, lớp Tư cũng 7 đứa, lớp Ba 6 đứa. Lớp Nh́, lớp Nhất chưa có tṛ nào.

    Thầy giáo bảo thằng Chuột về nhà dụ những đứa trẻ khác đi học, Nhà Nước phát cho giấy bút, mực, khỏi phải mua, lại c̣n phát cho nó một cái mũ trắng nữa. Nó rủ thằng Đít, con chú thợ mộc, nhưng thằng Đít không chịu đi. Thằng Đít nhất định ở nhà học chữ “Thánh Hiền”. Cha nó, chú thợ mộc, muốn thế.

    Trong tháng đầu, mỗi lần thằng Chuột đi học là nó cứ khóc tuy nó đă 9 tuổi rồi, cái chởm tóc trên đỉnh đầu đă dài xuống đến ót. Nhưng học được một năm, nó biết chút ít “tiếng Tây”.

    Dân Cửa Bắc đồn rùm lên là thằng Chuột giỏi tiếng Tây lắm, mới học một năm mà đă nói được chữ Tây. Nó vô t́nh trở thành người quảng cáo chữ Tây và Trường Nhà Nước cho cả dăy phố Cửa Bắc. Nhờ nó mà tháng 9/1910, sau kỳ nghỉ hè trường có thêm khá đông học tṛ.


    Thầy đồ và lớp học chữ Nho

    Trường hợp của cậu Bốn khác hẳn với chuyện đi học của thằng Chuột. Cậu nhất định chê chữ Tây không có nghĩa lư cao thâm bằng chữ Ta. Vả lại, cậu đă 18 tuổi rồi, chữ Hán cậu đă giỏi, đă thuộc hết “Tứ Thư Ngũ Kinh”, c̣n học chữ Quốc Ngữ và tiếng Tây làm chi nữa?

    Không dè rốt cuộc cậu cũng phải học chữ Quốc Ngữ. Nguyên do là tại cô Ba Hợi, con gái ông Bá Hộ ở bến Tam Thương. Không biết ai bày vẽ cho cổ từ hồi nào, mà cô ở nhà đă học chữ Quốc Ngữ, thuộc vần xuôi, vần ngược, bắt đầu đánh vần và viết được rồi.

    Cô đi chợ, mua một đồng tiền bột phẩm tím về nhà bỏ trong một cái ve, đổ nước sôi vào, hoà thành ra mực. Cô đến một tiệm lớn của khách trú mua một “manh giấy Tây” giá là một tiền, cô bọc lá chuối thật kỹ, cho khỏi nhớp. Cô cũng mua một cán bút, một ng̣i bút.

    Những lúc rảnh, cô tập viết chữ Quốc Ngữ một ḿnh. Kể ra ở tỉnh cô Ba Hợi là một cô gái tân tiến nhất lúc bấy giờ trong giới phụ nữ, nghĩa là chỉ có ḿnh cô là con gái học chữ Quốc Ngữ mà thôi. Cô phải học lén ở nhà với một ông thầy v́ sợ chúng bạn ngạo.Một hôm cô Ba đi chợ, t́nh cờ gặp lại cậu Bốn Thanh, khăn đeo áo dài với cái búi tóc trên đầu mà lại… đi chưn không. Đến chỗ vắng, chàng thanh niên chận cô Ba Hợi giữa đường để tán tỉnh. Nguyễn Vỹ tả lại cách tán gái của chàng thanh niên Nho học:

    - Cô Ba ơi! cô nỡ ḷng nào chê bai kẻ tiện sĩ này sao? Tôi không thấy mặt cô mộtngày th́ nhớ cô ḷng thắt ruột đau. Sách có chữ “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”,mà cô không thương xót tôi sao đành! Cô ơi, sách lại có chữ “Xuân bất tái lai”, th́ giờ chạy mau như bạch câu quá khích, hay là cô c̣n chọn đá thử vàng mới kết duyên TầnTấn?

    Cô Ba đội nón, c̣n cúi mặt xụp xuống nữa, không dám ngó cậu Bốn, nhưng cô la lớn: “Cậu không để tui đi, tui la làng la xóm bây giờ đây”.

    Câu Bốn sợ cô Ba la làng, nên phải đứng né qua một bên để cô Ba đi, nhưng cậucứ lẽo-đẽo theo sau nói lải-nhải hoài. Cô Ba làm thinh không trả lời một tiếng. Tối hômấy, dọn dẹp bếp núc xong, cô lấy một tờ giấy Tây, b́nh mực tím và cây viết… cổ vừađánh vần Quốc Ngữ, vừa viết thật kỹ:

    “CẬU BỐN

    “Chừng nào cậu đọc được bức thư này, th́ tôi mới nói chuyện với cậu. C̣n cậu không đọc được thư này, th́ cậu đừng có nói chuyện với tui mất công. Thư bất tận ngôn.

    Nguyễn Thị Hợi”

    (hết trích)


    Học tṛ thời Pháp thuộc

    Hôm sau, cô Ba đi chợ, dắt thằng em trai 6 tuổi đi theo. Đi khỏi nhà được một quăng, gần chỗ ngă tư rẽ ra Cửa Bắc, cô gặp cậu Bốn Thanh đứng câu cá nơi mương. Cậu giả vờ câu cá mà thực ra là mong được gặp cô Ba đi chợ như mọi ngày.

    Cô tḥ tay trong yếm (năm 1910, cô Ba mặc yếm cũng như đời nay mặc coóc-xê), cô rút ra phong thư bằng giấy Tây mà cô đă viết đêm qua. Cô đút thư trong bàn tay của đứa em trai và nói thầm ǵ với nó. Cô bước đi thật nhanh, để em đứng lại sau đưa thư cho cậu Bốn Thanh. Nó sợ sệt nói ấp úng: “Chị tui đưa cho chú cái này nè”.

    Chàng trai vui mừng cầm giấy th́ đứa bé đă chạy thật lẹ để theo kịp chị nó. Chàng mở giấy ra coi, đứng tần ngần một lát, mắc cở đỏ mặt tía tai… v́ chàng không biết chữ Quốc Ngữ. Chàng không đọc được bức thư của cô Ba Hợi, tức quá, không biết là cổ viết ǵ?

    Thế là chàng nhất định phải t́m người dạy chữ Quốc Ngữ. Thầy giáo chỉ cho chàng học A,B,C, Ba, Bă, Bâ... không ai xa lạ: chính là thằng Chuột! Thằng Chuột thật là quái ác. Thanh đă dặn nó đừng tiết lộ cho ai biết câu chuyện “bức thư quốc ngữ” của cô Ba Hợi, thế mà thằng nhỏ lại đi mách lẻo cùng cả dăy phố, làm cho ai nấy ôm bụng cười.

    Từ hôm đó, cả ngày Thanh không dám bước chân ra phố. Chàng lén đưa tiền bảo thằng Chuột mua dùm giấy, bút và mực để nó cứ tối tối đến dạy cho chàng học chữ Quốc Ngữ. Thằng Chuột đă học hết vần xuôi vần ngược, và đă tập viết, tập đọc, ba tháng sau khi đến trường nên nó đủ sức dậy lại cậu.

    Tuy nhiên, thân sinh của cậu Bốn là ông Xă không bằng ḷng. Một hôm ông rầy con với giọng bực tức: “Mầy đă 18 tuổi, thằng Chuột 9 tuổi mà nó làm Thầy mầy, thiệt ốt nhột quá”. Ông c̣n nói, học A.B.C. đó là “chữ Tây” chứ đâu phải “chữ Ta”.

    Cậu Bốn giải thích đó là chữ Tây nhưng đánh vần thành ra… chữ Ta. Thí dụ như muốn viết chữ "cha", th́ đánh vần ch.a.cha.. Chữ "mẹ" th́ đánh vần m-e-me-nặng-mẹ. Cuối cùng, v́ sợ ba rầy, cậu nói với Chuột là cậu đă đánh vần được chữ quốc ngữ nên từ nay khỏi đến dạy nữa.


    Thầy giáo dạy môn địa lư

    Biết quốc ngữ nên để trả lời cho người đẹp, chàng thanh niên tên Lê Văn Thanh đă viết một bức thư dài hai trang giấy tây với chữ thật to.. v́ mới tập viết! Và thế là chuyện t́nh của Lê Văn Thanh – Nguyễn Thi Hợi đă tiến tới một đoạn kết… có hậu.

    Cả khu phố Cửa Bắc, và cả làng Chánh Lộ, ở ngay tỉnh lỵ, không ai ngờ cậu Bốn Thanh học tṛ chữ Nho của ông Tú Phong, bây giờ lại cắp vở đến Trường Nhà Nước học chữ Tây. Ai hỏi tại sao th́ cậu trả lời: “Tại Nhà Nước Đại Pháp bắt buộc, khôngđi học th́ bị tù”.

    Thật t́nh cô Ba Hợi yêu cậu Bốn Thanh, nhưng cô chỉ bằng ḷng làm vợ của cậu với một điều kiện là người yêu của cô phải đi học chữ Tây ở trường Nhà Nước, phải thi đậu làm thầy Thông, thầy Kư.

    Chàng Thanh đă 18 tuổi bắt đầu vào học lớp Năm! Nhưng chàng không ngượng, v́ thời bấy giờ theo học chữ Hán học tṛ toàn là 17, 18 sắp lên. Tụi con nít như thằng Chuột chưa phải là học tṛ chánh hiệu. Vả lại, Trường Nhà Nước mới mở, học tṛ c̣n hiếm lắm.


    Chân dung một học tṛ

    Ngày nhập học, Lê Văn Thanh, vẫn để búi tóc trên đầu, vẫn bịt khăn đen, mặc áo dài đen, chân mang guốc, cặp hai quyển vở và cây bút sắt, cây bút ch́, thước gạch, b́nh mực tím, bẽn lẽn đến trường. Đây là một ngôi trường lợp tranh, vách tường bằng phên tre quét vôi, nền tô xi-măng. Ông Đốc là người Việt Nam nói:

    “Trưa nay về nhà, tṛ phải cúp tóc ca-rê, bỏ cái búi tóc kia đi và đừng bịt khăn... Chiều nay cậu cúp tóc rồi Nhà Nước sẽ cho cậu một cái mũ trắng để đội”.

    Ba cậu phản đối kịch liệt, ông nói: “Làm con, có cái búi tóc ở trên đầu để thờ Cha kính Mẹ mà cắt bỏ đi, th́ c̣n ǵ là Cha con, Mẹ con nữa!... Mầy mà nghe lời người ta cắt bỏ cái búi tóc là tao nhẩy xuống giếng tao tự tử!”

    Ông Xă khóc, bà Xă khóc, chàng thanh niên Lê văn Thanh cũng khóc, nhưng rốt cuộc cái búi tóc trên đầu chàng cũng phải cắt bỏ đi, tóc phải cúp "carré" v́ Quan Đốc học trường Nhà Nước đă truyền lịnh như thế.

    Nhưng năm 1910, tận nơi tỉnh lỵ ở Trung Việt, chỉ mới có một vài người làm nghề hớt tóc. Chú Bảy theo ghe nước mắm vào Đồng Nai học nghề cúp tóc trước đó một vài năm. (Lúc bấy giờ các tỉnh Trung Việt, người ta vẫn gọi Sài G̣n là Đồng Nai, danh từ Saigon chưa được thông dụng).

    Chú mua kéo, toon-đơ, dao cạo, cũng ở tại Đồng Nai, đem về mở tiệm cúp tóc ở tỉnh lỵ.Nói là mở tiệm, nhưng chú chỉ thuê một xó hè của một tiệm buôn khách trú, đặt mộtcái bàn con, một chiếc ghế đẩu, và treo một tấm kiếng trên vách tường. Thế là đủ chochú hành nghề.

    Chú treo tấm vải trắng phía ngoài đường, trên vải chú viết bằng mực Tàu, một chữ Tây "COIFFEUR" và chua ở dưới hai chữ Hán (Thế Phát: Cắt Tóc). Chữ Quốc Ngữ v́ chưa được truyền bá, ít người biết, nên chú thợ hớt tóc chỉ viết quảng cáo bằng chữ Hán và chữ Tây. Chú để chữ Tây cho oai, bắt chước chữ Tàu học lỏm trong Đồng Nai, và thỉnh thoảng chú c̣n nói với mấy bác lính tập: "Tui làm cốp phơ cho quan Công Sứ".

    Cậu Thanh t́nh thật đến nhờ chú Bẩy đem đồ nghề qua nhà cúp tóc v́ ông già c̣n phải cúng ông bà để cho cắt tóc. Chú Bẩy cốp phơ gật đầu lia lịa. Chú c̣n nói cái búi tóc trên đầu ḿnh là của ông bà cha mẹ. Cắt nó đi là có tội, cho nên phải cúng ông bà.

    Chú “cốp phơ” gói đồ nghề đến nhà ông Xă. Trên bàn thờ có bầy một hộp trầu cau, một nải chuối chín và một con gà luộc. Một mâm gỗ lớn đựng mười chén cháo và mười đôi đũa, đặt trên bộ ván kê trước bàn thờ. Ông Xă thắp đèn hương, đứng khấn vái hồi lâu. Ông khấn như sau:

    “Bữa nay, thằng con bất hiếu Lê văn Thanh, tuân lệnh Quan, phải cắt tóc để đi học trường Nhà Nước, nên có lễ vật để cáo với liệt vị tiền nhân, các bậc Cao tằng Tổ khảo với Tổ phụ, Tổ mẫu, chứng giám. Xin vong linh liệt vị phù hộ cho con cháu, để nó học hành, công danh hiển đạt”


    “Coiffeur” ngày xưa

    Mỗi năm Thanh đều lên lớp, đến năm 22 tuổi anh học hết lớp Nhất, được đi thi “Khoá Sanh”, nói theo tiếng Pháp là thi “Ri me” (Primaire). Thi “Ri me” rất khó v́ có ông Tây chấm thi, và hầu hết các môn thi bằng chữ Tây.

    Lê văn Thanh bây giờ đă hoàn toàn là một cậu học tṛ “Trường Pháp Việt”, học chữ quốc ngữ, chữ Tây, nói tiếng Tây, tuy chưa phải là thứ tiếng Tây đúng đắn, nhưng cũng cứ nói được, hiểu được khá nhiều để có thể bập bẹ đối đáp với “ông Tây bà Đầm”.

    Một tuần lễ sau khi tuyên bố kết quả kỳ thi “Ri me” năm 1915 là ngày cậu Khoá Lê Văn Thanh được “vinh quy bái tổ” về làng. Tám giờ sáng, cậu mặc áo dài đen mới may bằng “vải trăng đầm”, mang đôi guốc, đội mũ trắng, được quan Đốc học dẫn đến chào Quan Công Sứ Pháp và Quan Tuần Vũ.

    Trước cổng dinh Quan Tuần, chức sắc và dân làng sở tại đă về tựu rất đông với cờ quạt, trống chiêng, và một chiếc xe kéo gỗ, bánh bọc bằng niềng sắt. Lúc bấy giờ, từ khoảng năm 1910 đến 1920, chưa có bánh xe bằng cao su.

    Ông Xă phải giết một con ḅ và một con heo để đăi làng, đăi dân. Kể từ đây, chàng thanh niên Lê Văn Thanh được lên địa vị “khoá sanh”, được miễn khỏi xâu, khỏi thuế, lại c̣n được đứng vào hàng chức sắc Hương Cả.


    Lễ Vinh quy Bái tổ

    ***

    * Thay thời kết:

    Học chữ quốc ngữ và tiếng Tây hồi đầu thế kỷ 20 xem ra cũng không có ǵ là khó. Chỉ một cậu bé 9 tuổi như thằng Chuột cũng có thể chỉ cho người người lớn như chú Bốn Thanh. Thời gian cũng chỉ mất vài tháng vừa đánh vần xuôi, vần ngược mà lại c̣n có thể viết ra giấy.

    Ấy thế mà các vị khoa bảng ngày nay không hài ḷng với tiếng Việt. Họ muốn cải tiến. Nhưng h́nh như càng sửa lại càng làm cho tiếng Việt mất đi sự trong sáng vốn có từ bao đời nay.

    Phải chăng chuyện của tác giả Nguyễn Vỹ trong “Tuấn chàng trai nước Việt” có thể coi như bài học cho các Giáo sư, Tiến sĩ và các quan chức ngày nay? Các vị hăy dừng lại những “tối kiến” trước khi làm cho tương lai tiếng Việt… ngày một tối tăm! Xin đừng để con em chúng tôi trở thành những con chuột bạch trong pḥng thí nghiệm.


    Mong lắm thay.


    Lớp học ngày xưa

    Sách “Tuấn Chàng trai nước Việt”
    https://vnthuquan.net/truyen/truyen....237nvn#phandau

  4. #424
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: (1/4) Vay mượn từ tiếng Tàu

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...-tu-tieng.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hinhhoiuc.html

    Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua h́nh thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, c̣n phải kể đến các yếu tố khác như địa lư, lịch sử, chính trị và xă hội trong việc h́nh thành ngôn ngữ vay mượn.

    Miền Nam nói chung và Sài G̣n nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng ḥa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để giải thích sự vay mượn của ngôn ngữ Việt: “Một ngh́n năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Như vậy, Việt Nam đă trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ tự thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những năm chiến tranh gần đây nhất.

    Trước hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:

    “…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là v́ khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài G̣n-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.

    “…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nh́n người Tàu là anh em, bằng không th́ cũng là người đồng châu với cha ḿnh, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha ḿnh. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.

    “…C̣n kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác th́ kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...”

    Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn v́ đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người b́nh dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa.

    Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ư miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận v́ họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải v́ vậy mới có câu:

    Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
    Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!

    Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, ḅ viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tíu Tiều Châu.

    Người ta c̣n dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ư miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rơ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm c̣n nam giới th́ lại là chú ba.

    Năm 1956, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm của nền Đệ nhất Cộng ḥa (1955-1963) đă có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. V́ vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa.

    Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đă làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đă có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đă nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ c̣n khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.

    Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng v́ thế, ở Sài G̣n có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi c̣n sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách ŕnh rang.

    Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng v́ thế, ngôn ngữ Sài G̣n xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.

    Người Sài G̣n thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).

    Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài G̣n xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Ḥm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.

    Kết hợp ư nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đă quá phổ biến trong xă hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành tŕnh của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.

    Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sàig̣n Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.

    Theo B́nh-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu c̣n có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:

    - Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
    - Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
    - Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
    - Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.

    Chủ tiệm thường biết rơ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền th́ phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:

    - Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
    - Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
    - Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về

    Nổi tiếng tại Sài G̣n xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Ḱnh Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây c̣n phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan ǵ đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đăi các nguyên thủ quốc gia).

    Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc x́ dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đă thấy ngon rồi.

    Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này th́ những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (h́nh như ở số nhà 61) chắc đă dẹp tiệm từ lâu rồi! H́nh dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Kư trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?).


    Cơm thố

    Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Ḥa lan, hành lá... c̣n dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!

    Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Ban không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài G̣n, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột ḿ, sau khi hấp chín bột nở ph́nh ra trông thật hấp dẫn.

    Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đ̣i hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.

    Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng ǵ trong Chợ Lớn. Khắp Sài G̣n, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe ḿ, xe hủ tiếu, chỉ nh́n cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ h́nh các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.


    Xe ḿ Tàu c̣n giữ đến ngày nay
    (Ảnh chụp tại xe ḿ gần Hồ Con Rùa, Sài G̣n)

    Ăn điểm tâm th́ có ḿ, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa c̣n có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên c̣n được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên c̣n có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu th́ có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.

    Sang hơn th́ gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.


    Cà phê pha bằng vợt
    (ảnh Trần Việt Đức)
    Người b́nh dân c̣n có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn B́nh-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “… Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài G̣n vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy tŕ cách uống đặc trưng của Sài G̣n xưa.

    Vào một quán nước b́nh dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” v́ dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có b́nh trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà c̣n có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu c̣n “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).

    Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ ḿnh đă xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường ĺ x́ cho con cháu vào dịp Tết hoặc ĺ x́ cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một h́nh thức hối lộ.

    Lạp xưởng (người miền Bắc gọi là Lạp xường) là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng v́ thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…

    Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm v́ chắc hẳn có thêm chút bột màu.


    Lạp xưởng
    Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía c̣n được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.

    Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đ́nh. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột ḿ có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có ḷng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay.

    Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các ḷ bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, ḷng đỏ trứng muối... Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 ḷ chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số ḷ bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xă Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.


    Bánh pía Sóc Trăng
    V́ bài quà dài, phải cắt bớt


    Thịt quay Chợ Lớn
    Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài G̣n xưa đă xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là tṛ chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập ṣng tài xỉu nên c̣n có tên là sóc đĩa.

    V́ bài quà dài, phải cắt bớt

    Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài G̣n xưa: “Nhất Sỹ, nh́ Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lư Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Ḥa). (Xem Triệu phú Sài G̣n xưa, http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/11).

    Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên tŕ trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đ́nh chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để t́m đến bến bờ tự do.


    Tiệm chạp phô của người Tàu
    Cao cấp hơn là những x́ thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là đại gia. Điển h́nh cho giai cấp x́ thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hăng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng ḿ gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đă chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.

    X́ thẩu Lư Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hăng xưởng lớn: hăng dệt Vinatexco, Vimytex, hăng nhuộm Vinatefinco, hăng cán sắt Vicasa, hăng dầu ăn Nakyco, hăng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hăng tàu Rạng Đông…

    V́ bài quà dài, phải cắt bớt


    Quảng cáo kem đánh răng Hynos
    Có rất nhiều x́ thẩu được Sài G̣n xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hăng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài G̣n - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lư Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hăng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài G̣n cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
    V́ bài quà dài, phải cắt bớt


    Pháp trường cát trước Chợ Bến Thành

    (C̣n tiếp)

    V́ bài quà dài, phải cắt bớt

  5. #425
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Ngôn ngữ (2/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...-tieng_24.html
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...-tieng_24.html

    Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Vay mượn từ tiếng Pháp

    (Tiếp theo)

    Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây” (Trịnh Công Sơn, Gia tài của Mẹ), Việt Nam nói chung và Sài G̣n nói riêng đă trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng v́ thế, tiếng Pháp đă có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xă hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân.

    Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng kư tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.


    Linh mục Alexandre de Rhodes

    Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đă nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.

    Đối với người b́nh dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ v́ vốn liếng tiếng Pháp của ḿnh vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài ḍng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).

    Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)... Học tṛ trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng v́ thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ư là toi (anh) trong tiếng Pháp).

    Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài G̣n từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Măi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài G̣n-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lănh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km đường ray nhưng v́ chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.

    Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công tŕnh kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi (aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille) cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi c̣n có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện ḿnh không thích sang một đề tài khác.


    Xe lửa ngày xưa

    Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng v́ lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua h́nh thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dăn, không đúng giờ), kẹo cao su (chewing-gum), bao cao su (c̣n gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc tránh các bệnh lây nhiễm qua đường t́nh dục)…

    Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày c̣n xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ư xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà pḥng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài G̣n xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính.
    [img] https://i.postimg.cc/tJR3NmZJ/5box-ojzb.jpg [/img]
    Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lănh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay c̣n gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…

    Về thịt th́ có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn th́ có ra-gu (ragout), cà-ri (curry)… Khi ăn xong, khách xộp c̣n cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ư nghĩa cho tiền thưởng, hay c̣n gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.

    Từ rất lâu, ở Sài G̣n xuất hiện các loại bánh ḿ theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ư du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh ḿ ba-ghét (loại bánh ḿ nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa ḍn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay c̣n gọi là bánh sừng ḅ – croissant).


    Bánh “pathé chaud”

    Người Sài G̣n thường ăn sáng với bánh ḿ kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên ḷng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).

    Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài G̣n nhiều người đă mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi h́nh”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.

    Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. B́nh thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp th́ mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.

    Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên th́ mang xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới th́ có x́-líp (slip). Nam giới th́ mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần th́ phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng th́ mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).

    Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài G̣n lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).


    Mũ phớt

    Đi lính cho Tây th́ được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại lính nhảy dù, biệt kích (ngày nay là đặc công) gọi là c̣m-măng-đô (commando). Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa (convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để pḥng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt c̣n được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.

    Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mă-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui), sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông c̣ (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan c̣n có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.

    Nông phẩm th́ có đậu cô-ve (c̣n gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Ḥa Lan có hột tṛn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (c̣n gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…

    Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm), kèn harmonica (khẩu cầm)... Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ư chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ư nghĩa nguyên thủy của nó.

    Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đă đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)... Nổi tiếng ở Sài G̣n có hai nhăn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim (Nestlé) như đă nói ở phần trên.

    Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già th́ làm sao có sữa? Xin thưa, h́nh tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ (longévité) của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim th́ làm ǵ có sữa? Thực ra th́ logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2 chim con) nhưng người Việt ḿnh cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện.


    Logo của Nestlé

    Cũng v́ thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về sữa Con Chim. Chú Ba Tàu, chủ tiệm “chạp phô”, giải thích v́ sao sữa Con Chim lại bán với giá mắc hơn những sữa khác: “Sữa con ḅ v́ có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên đắt nhưng Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quư lắm th́ phải mắc tiền nhất chớ!”.

    Các ông lại giải thích một cách hóm hỉnh khi các bà thắc mắc Con Chim làm ǵ có sữa: “Tại mấy bà không để ư đấy thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra một thứ sữa màu trắng đục, đó không phải là sữa th́ là ǵ?”.

    Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa ḅ khác như Núi Trắng (Lait Mont-Blanc) và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đ́nh trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn c̣n nhớ cảm giác khi ăn vụng một th́a Guigoz của em út: vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.

    Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn th́a để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác v́ lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…


    Lon Guigoz

    Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đă dùng hết. Lon Guigoz đă theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để pḥng khi cần đến.

    Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên th́ dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô c̣n tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc.

    Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên có cái may là c̣n rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái ḷ “dă chiến” và lon gô để vào trong ḷ vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đă ăn ư với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô th́ nhắn gia đ́nh t́m để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”.

    Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng v́ công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài G̣n thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một h́nh ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. T́nh cờ tôi bắt gặp trang web (http://www.teslogos.com/ancienne_boi...ollection.html) của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa!


    Sữa bột Guigoz

    Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa th́ khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ (khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe - chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí th́ người Sài G̣n dùng các từ ngữ như cờ-lê (ch́a vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ (thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…

    Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lư thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).

    Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tṛn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó c̣n có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).

    Mỗi chiếc xe đạp xưa c̣n trang bị một ống bơm (pompe) để pḥng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi c̣n nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.

    Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài G̣n xưa có các nhăn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đă tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” c̣n lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài G̣n xưa.


    Xe đạp Mercier ngày xưa
    có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz

    (C̣n tiếp)

    ***

    Bài quá dài, phải cắt bớt

    ***

    14 Comments on Multiply

    cobasg wrote on Mar 23
    Hay quá! vậy là Xà Bông Cô Ba phải gọi là Savon Coba
    https://trithucvn.net/van-hoa/nhung-...g-sai-gon.html


    phantran53 wrote on Mar 23
    Nhớ quá chừng... hiiiiiiiiiii cảm ơn tác giả rất nhiều! Chúc hai ngày cuối tuần thật vui vẻ thoăi mái nghe. Thân mến.

    chackadao wrote on Mar 23
    ngon ngu vay muon khong co gi la xau. VNam la thuoc dia, mot dan toc bi tri, khong phai la cai noi van van hoa thi ngon ngu vay muon la chuyen binh thuong.

    nam64 wrote on Mar 24, edited on Mar 24
    chackadao said “ngon ngu vay muon thi co gi la xau. VNam la thuoc dia, mot dan toc bi tri, khong phai la cai noi van van hoa thi ngon ngu vay muon la chuyen binh thuong”
    Tại sao mày cứ ngậm phân đi phun tùm lum nhà người ta quài vậy, sao mày không về cái xứ tàu (?) của mày mà mày phun vào tổ tiên của mày.

    nam64 wrote on Mar 24
    Xin lổi anh... Ṛm bực cái thằng chắccàchótàu này quá. Đă tự nhủ, hổng thèm để ư tới phân từ trong mơm của nó phun ra, nhưng đọc Entry của anh mà lại thấy c̣m của nó làm bực ḿnh, phải ḍm coi nó viết ǵ.

    nam64 wrote on Mar 24
    Em đă đem link 4 Entry từ nhà anh về bên em rồi. Khi rảnh em sẽ gom lại tất cả và làm ra một cái file PDF.

    thahuong82 wrote on Mar 24
    Sưu tầm anh Chính viết rất dí dỏm và chỉ những người có tuổi mới cảm nhận được những danh từ đă Việt Nam hoá xuất xứ từ đâu, tôi nghĩ ḿnh cũng chẳng vay mượn ai v́ vay mượn là phải có ḥan trả, cứ cho là thấy hay, thấy tiện là xá thành tiếng ḿnh, như tiếng Anh &Mỹ chỉ xài 2 chữ OK là diễn tả được hết ư ngày nay có thể nói nước nào cũng dùng chữ OK để diễn tả sự: đồng ư, nhất trí, chấp thuận, hoàn tất......

    nam64 wrote on Mar 26
    Ṛm đă gom 2 Entry vào một
    Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Những chữ vay mượn
    http://nam64.multiply.com/journal/item/4800/4800
    Attachment: Ngôn ngữ Sài G̣n xưa Những chữ vay mượn.pdf

    Bài quá dài, phải cắt bớt

  6. #426
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Ngôn ngữ (3/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...ieng_1755.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hinhhoiuc.html

    Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Vay mượn từ tiếng Anh

    Đây là bài thứ 3 trong loạt bài nghiên cứu về những chữ vay mượn trong ngôn ngữ Sài G̣n xưa. Sau khi bàn về tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng Anh và bước vào một nền văn hóa đă có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào đời sống của người Việt trong khoảng 30 năm chiến tranh vừa qua.

    Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng ḥa, Hoa Kỳ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa, Liên Xô và Trung Quốc.

    Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến tranh.

    Nước Mỹ c̣n được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đă xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”. Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung t́m bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nh́n ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.

    Nguyễn Công Hoan trong Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.

    Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lư dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lư dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, c̣n có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hăng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hăng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).

    Royal Dutch Shell (người b́nh dân gọi là hăng dầu “con ṣ”) đă thực hiện một chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đời sống của người Việt th́ cũng là lúc mọi người làm quen với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.

    Nhăn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con ṣ” trên thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất lề quê thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hăng bán dầu đă chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rơ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào”.


    Bức tranh "Đèn Hoa Kỳ" của họa sĩ Bùi Xuân Phái
    Như vậy, thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” (c̣n gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu hỏa (c̣n gọi là dầu lửa hay dầu hôi), đă xuất hiện từ rất lâu, trước khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam. Người ta c̣n dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt tây như trong bức tranh Bán dầu Tây của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt này sau khi đựng dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.


    Tranh khắc “Bán dầu tây” của Henri Oger
    Một trường hợp tiếng Anh khác đă du nhập vào Việt Nam từ lâu là tṛ chơi của trẻ con: “Oẳn tù t́” dịch từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đă từng ra cái búa, cái kéo hoặc cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù t́. Ra cái ǵ? Ra cái này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn, cái búa th́ đập cái kéo, cái kéo th́ cắt cái bao và cái bao lại bao được cái búa.

    Về nặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất Cộng ḥa (1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ bậc Trung học (lớp Đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh vẫn lệ thuộc vào chương tŕnh của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của British English (c̣n gọi là Ăng-lê – Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp).


    L’Anglais Vivant
    Đệ nhị Cộng ḥa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam. Điều này cũng dễ hiểu v́ sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (2). Vào giai đoạn này, người ta bắt đầu sử dụng những sách giáo khoa theo trường phái American English như English for Today, English 900, American Streamline… Ngôn ngữ Sài G̣n xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những vay mượn rất lư thú.

    OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng răi tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh căi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read, OK là dạng viết ngắn của cụm từ “all correct”. Những người khác th́ cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ư với những giải thích này nên kết luận hăy c̣n bỏ ngỏ.

    Tại miền Nam, c̣n phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi giới b́nh dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một h́nh ảnh phải nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các chú GIs (Government Issues – ám chỉ lính Mỹ v́ dùng đồ chính phủ cấp phát) để ch́a tay xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng th́ OK Salem rối rít.

    Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một h́nh thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài G̣n chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…

    Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệt trong khi Pall Mall được giới lính tráng biến thành cụm từ Phải Anh Là Lính, Mời Anh Lên Liền… Có điều thuốc Salem tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!


    Thuốc lá Salem

    Number one cũng là một cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Nam với ngụ ư… số dzách hay số một. Người b́nh dân dùng number one thay cho good chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ “number ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi hài?

    Cao bồi là thuật ngữ đă đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western movies) hay c̣n gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys vốn là những chàng trai chăn ḅ, có người hành động một cách nghĩa hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh Miền Tây Hoang dă (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys c̣n có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp.

    Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tên The Great Train Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời Sài G̣n xưa phải kể đến Gunfight at the O.K. Corral (năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…


    Cao bồi đeo ngôi sao Sheriff
    (ảnh chụp năm 1971 tại Alamo Village, San Antonio, Texas)
    Từ ngữ cao bồi sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ư nghĩa. Người lái xe cao bồi được hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi…

    Tôi c̣n nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương (nghe bản nhạc này tại http://www.youtube.com/watch?v=f2oYK...eature=related) với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:

    “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
    Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”

    Thế nhưng, bài hát này đă được ai đó, chắc là mấy cậu học tṛ “rắn mắt”, cải biên thành:

    “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
    Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”

    Chả là học sinh chỉ có đồng phục quần xanh-áo trắng nên anh nào mặc áo ca rô th́ bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi. C̣n cái vụ hủ tiếu mà ăn tới “hai, ba tô” th́ phải “xét lại”, có thể v́ “bí vận” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba tô” chứ học sinh làm ǵ có tiền mà ăn nhiều đến thế.

    Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài G̣n xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta c̣n dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.

    Người Sài G̣n đă có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, với James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất); Vertigo (1958, với James Stewart, Kim Novak); Psycho (1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh); The Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)… (Xem thêm bài viết về Điện ảnh Sài G̣n tại http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10).

    Một trong những tác động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là hiện tượng x́-nách ba (snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài G̣n. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… c̣n kèm theo đồ uống.

    Sang đến Việt Nam, x́-nách ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái x́-nách ba, hay c̣n gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến 2 đô la một ly. Các cô làm ở x́-nách ba không hẳn là gái điếm v́ không phải cô nào cũng “đi khách”.

    Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài G̣n ti nhé) hay c̣n rùng rợn với câu “No star where”, một cụm từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt: Không sao đâu!

    Lính Mỹ c̣n đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đàn bà lớn tuổi họ dùng mama-san, đàn ông th́ gọi là papa-san c̣n con nít là baby-san. Cũng v́ thế, trong câu chuyện ở snack bar người ta thường bắt gặp những từ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đ́nh ḿnh. Mama-san c̣n được dùng để chỉ người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán, người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.

    Kinh doanh x́-nách ba là một nghề hái ra tiền tại Sài G̣n bên cạnh những dịch vụ như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đă khiến cuộc sống trong xă hội mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất nước trong t́nh trạng chiến tranh.


    Sài G̣n và những quán bar, nhà hàng, khách sạn
    Xă hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người làm việc tại các quán ba c̣n có một giai cấp cao hơn, họ làm việc cho các hăng thầu tư nhân của Mỹ như hăng RMK được thành lập từ đầu thập niên 60 với các công tŕnh xây dựng xa lộ Biên Ḥa, Quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như USAID.

    Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một tŕnh độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có tŕnh độ cao hơn th́ làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.

    Năm 2011, tại Little Saigon, đă có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đă đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đă từng làm việc tại Ṭa đại sứ, Tổng lănh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng những nhân viên hăng thầu RMK của tư nhân.

    Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ Sài G̣n chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippy, hippy bụi đời, hippy choai choai, hippy yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy th́ ngắn cũn cỡn mặc chung với quần ống loe c̣n con trai th́ tóc dài đến độ nh́n từ xa không thể nào phân biệt được giới tính…

    Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xă hội. Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.

    Cuối thập niên 60s, phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đă nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa không lá (c̣n gọi là hoa hippy), đó là h́nh tượng của Power Flower (sức mạnh của hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta c̣n nhớ măi h́nh ảnh một cô gái hippy đă gắn hoa trên họng súng của một quân nhân thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu t́nh phản chiến (3).


    “Power Flower” – Hoa Hippy
    Ở Sài G̣n, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta c̣n vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi lúc c̣n thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo, xe ba gác, xe ḅ. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước là để “ngụy trang” sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài G̣n khi đó giống như Trăm hoa đua nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc.

    Tôi c̣n nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy mới từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó.


    Bức h́nh này gợi nhớ “Thịnh Hippy” ở trường SNQĐ

    Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại chốn phồn hoa đô hội.

    Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm đi “bum” tại các pḥng trà, dancing. Một đằng th́ phải hy sinh tính mạng để “tham chiến” c̣n một đằng th́ lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng là một trong những lư do khiến miền Nam sụp đổ?

    ***

    Chú thích:

    Bài quá dài, phải cắt bớt

  7. #427
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Ngôn ngữ (4/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...ngu-i-vao.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...hinhhoiuc.html

    Những từ ngữ đă đi vào quá khứ
    Ngôn ngữ là phương tiện trao đổi ư tưởng trong cuộc sống hàng ngày. Thế cho nên, ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo cách sống và lối sống của từng thời kỳ. Sự kiện tháng 4/1975 là một cột mốc thay đổi lớn nhất trong đời sống văn hóa, chính trị và xă hội của người miền Nam, kéo theo sự mai một của một số từ ngữ vốn đă dùng quen hàng ngày.

    Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính trị tại miền Nam cho nên những từ ngữ có liên quan đến ư thức hệ cũ dần dần đă đi vào quá khứ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Bài viết này có mục đích ghi lại những từ ngữ đă một thời phổ biến trong xă hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những ǵ cha ông đă thường nói trong cuộc sống hàng ngày.

    Chiêu hồi là một trong những từ ngữ của Sài G̣n xưa và sẽ dần dần đi vào quên lăng. Đây là một chương tŕnh do chính phủ Việt Nam Cộng ḥa đề ra để khuyến khích các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền được thực hiện dưới nhiều h́nh thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua những chương tŕnh phát thanh và đài phát thanh [1].


    Giấy Thông Hành

    Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các cán binh, du kích trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy thông hành có cờ VNCH và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4 ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần dưới có nội dung như sau:

    “MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh Phủ Quốc Gia các bạn sẽ được:
    Đón tiếp tử tế
    Bảo đảm an ninh
    Đăi ngộ tương xứng
    (Kư tên)
    Nguyễn Văn Thiệu
    Tổng thống Việt Nam Cộng ḥa

    Song song với việc phổ biến Giấy Thông Hành là các chương tŕnh Phát thanh Chiêu hồi được mở đầu bằng bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm nhạc hiệu (nghe Ngày Về qua giọng ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):
    NGÀY VỀ -Hoàng Giác -Hà Thanh -LienNhu


    "Tung cánh chim t́m về tổ ấm
    nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
    nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
    luyến tiếc bao ngày xanh…”

    Điều khá lư thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn là nhạc sĩ theo kháng chiến chống Pháp và đă từng là đội viên tuyên truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm 1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ư nhất. Năm 1948 Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật như một nhạc sĩ và cũng là một ca sĩ được dân Hà Thành hâm mộ.

    Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng, vượt thời gian như Mơ hoa, Ngày về, Hương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con trai là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.

    Báo Công an Nhân dân trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Măi giấc mơ hoa” có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về:

    “Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng ḥa chọn làm nhạc hiệu cho chương tŕnh Chiêu hồi. V́ t́nh huống nhạy cảm này mà măi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”


    Nhạc sĩ Hoàng Giác

    Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánh hay hồi chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn Chính (con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi kư Đường Đi Không Đến và Vượt Trường Sơn, đă qua đời tại Texas năm 2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị chính quyền mới xử tử h́nh vào ngày 30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan Văn Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự…


    Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
    Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà

    Chiêu hồi, ngoài ư nghĩa chính trị c̣n được dùng như động từ để chiêu dụ ai đó, chẳng hạn như trong câu: “Hắn đă ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy nước về làm việc dưới trướng”.

    Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ư nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.

    Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết:

    "Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một h́nh thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…" (http://www.trantrungdao.com/?p=262).

    Thuật ngữ “chém vè” cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miền Nam. Chém vè, nguyên thủy có ư nghĩa ẩn ḿnh dưới nước hoặc những nơi lùm bụi rậm rạp gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba (cua đinh) với hai càng rất khỏe c̣n gọi là vè. Hễ nghe tiếng động, hai vè của nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.

    Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ t́nh trạng các cán binh “giă từ vũ khí” để ra “hồi chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ư nghĩa hoàn toàn khác nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước đang trong t́nh trạng chiến tranh về ư thức hệ.

    Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà th́ thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa ḅ đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận xa M113, chú thích của NNC], bỏ chạy trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở đây chỉ thuần túy là ẩn núp.

    Theo hồi kư "Chém vè giữa làng báo Sài G̣n" của nhà văn Nguyên Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong bài viết này chỉ việc những cán bộ Cộng sản, sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài G̣n để “trường kỳ mai phục”, “hoạt động trong ḷng địch” hay c̣n gọi là “nằm vùng”.

    “Nằm vùng” quả là một từ vừa gợi h́nh lại gợi ư. Đối với chính quyền VNCH, nằm vùng là một từ có ư miệt thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động bí mật cho Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản”. Măi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm vùng mới dần dần lộ diện.

    Theo cuốn Decent Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, có đến hàng chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm vùng” tại miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Họ có thể là một người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo đuổi công việc của ḿnh nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố Sài G̣n c̣n đang trong thời kỳ hỗn mang.

    Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ Sài G̣n, nổi bật nhất là nhân vật t́nh báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong khi chính phủ của Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm vẫn không biết ông c̣n là Đại tá trong Quân đội Nhân dân ở miền Bắc.

    Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đ́nh Nhu đă quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Ḥa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương tŕnh B́nh định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, t́nh h́nh an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không c̣n bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng sản nằm vùng”, ông thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu.

    Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến (nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị, thực chất là cơ quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đă kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963, Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng.

    Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật cho phía bên kia chiến tuyến v́ ngày càng nhiều nghi vấn ông là Việt Cộng mằm vùng. Phạm Ngọc Thảo bị chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử h́nh và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục an ninh quân đội (Số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày 17/7/1965 khi mới 43 tuổi.

    Những năm hoạt động “nằm vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc được ngụy trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà t́nh báo. Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh v́ ông hoạt động “đơn tuyến”. Măi sau này, một số đồng đội đă sưu tầm tài liệu về ông và đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm 1987, nhà cầm quyền truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với quân hàm đại tá và mộ của ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).

    Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 t́nh báo viên xuất sắc nhất của Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy). Đối với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn không kém!

    Tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lư (Trần Bạch Đằng) được mở đầu bằng câu: "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đă chiến đấu hy sinh thầm lặng". Nhân vật chính trong truyện, Nguyễn Thành Luân, chính là h́nh ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí danh Chín T. hay Chín Thảo.


    Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia

    Nhân vật “nằm vùng” thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng t́nh báo của Hà Nội với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn sống tại Sài G̣n dưới vỏ bọc “kư giả” làm việc tại Việt tấn xă, cộng tác với hăng thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor...

    Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đă gửi về Hà Nội 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đă được sao chụp, các thông tin thu lượm cùng phân tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là người đă từng được đào tạo về ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan t́nh báo miền Nam cũng như miền Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.

    Ngày Sài G̣n đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đă rời Việt Nam theo chiến dịch di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động t́nh báo. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đă đề nghị cấp trên cho ngưng công tác v́ lư do đă “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đă phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường ṿng: Paris - Moscow - Hà Nội - Sài G̣n.

    Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”, lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New York mà ông được mời với tư cách khách mời đặc biệt. Trong những năm cuối đời, có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những ǵ ông chứng kiến tại Việt Nam sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who Loved Us: "Dân chúng tại đây [tức Việt Nam] không được viết tự do. Đó là v́ sao tôi không viết hồi kư".

    Năm 1978, Phạm Xuân Ẩn phải ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Sự kiện này được xem như một h́nh thức “cải tạo” và ông giải thích v́ lư do đă “sống quá lâu trong ḷng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.

    Ông đă từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/1975 (Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm 1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xă, phụ trách bộ phận các phóng viên ngoại quốc làm việc trong cơ quan này).



    Phạm Xuân Ẩn và các con

    Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng t́nh báo của Hà Nội cũng là một trường hợp “nằm vùng” ngay trong đầu năo của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng ḥa tại miền Nam, kéo dài từ năm 1954 đến ngày Sài G̣n sụp đổ. Miền Bắc ca tụng ông là “điệp viên siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”.

    Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đă từng sát cánh với Giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ trở thành một người tâm phúc, thường xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Thời Đệ nhất Cộng ḥa có “bốn con rồng”: Bạch Long (Ngô Đ́nh Diệm), Hồng Long (Ngô Đ́nh Thục), Thanh Long (Ngô Đ́nh Nhu) và Hắc Long (Ngô Đ́nh Cẩn). Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă gọi Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ nhất Cộng ḥa.

    Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong nhóm các tướng trẻ, tướng Nguyễn Văn Thiệu đă sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai tṛ liên lạc viên với Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm t́m chỗ dựa chính trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đă khéo léo sử dụng vai tṛ này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị cả trong dân sự lẫn quân sự.

    Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm mạng lưới t́nh báo A.22 (vốn là mật danh riêng của Nhạ) được h́nh thành và phát triển. Thành công ngoạn mục nhất của cụm t́nh báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng thống Thiệu.

    Tháng 8/1968, tướng Thiệu đă cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn của Việt Nam Cộng ḥa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm ḍ thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đă góp một phần cho Hà Nội trước khi ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.


    Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”

    Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ trong quân lực VNCH, cũng đă có vài trường hợp “nằm vùng”. V́ vấn đề tế nhị, tác giả xin chỉ viết tên tắt của những nhân vật này.

    Bài quá dài, phải cắt bớt

    ===

    Chú thích:


    [1] Chương tŕnh Chiêu hồi phát động dưới thời Đệ nhất Cộng ḥa vào đầu năm 1963 theo hai mô h́nh mẫu của Phi Luật Tân và Mă Lai Á: (1) chương tŕnh EDCOR của Philippines để chiêu dụ lực lượng cộng sản Hukbalahap và (2) chương tŕnh của Sir Robert Thompson thuộc quân đội Anh để b́nh định tại Malaysia.

    Chương tŕnh này trực thuộc Bộ Công dân vụ của Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu và một thời mang tên Phong trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm đường. Sau năm 1963 được phân thành Ban Chiêu Hồi trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965 lại được chuyển sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị Cộng ḥa th́ chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi để điều hành hệ thống chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh thành của bốn vùng chiến thuật, mỗi tỉnh có một Ty Chiêu hồi.


    Huy hiệu ngành Chiêu hồi

    Bài quá dài, phải cắt bớt


    Tem Chiêu-Hồi của VNCH

    Bài quá dài, phải cắt bớt

  8. #428
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay (1/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/...a-tinh-en.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...ua-nay-14.html

    Từ tiếng La-tinh đến Quốc ngữ

    Tiếp tục loạt bài về “Hành tŕnh ngôn ngữ” (*), chúng ta trở lại vấn đề thời sự nóng bỏng để t́m hiểu về một cuộc hành tŕnh dài nhất trong lịch sử ngôn ngữ Việt Nam, từ thế kỷ thứ 17 cho đến nay. Đó là việc chuyển đỗi từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ.


    Vào thế kỷ thứ 17, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Ư và Pháp đến Việt Nam để truyền đạo. Trở ngại lớn nhất là vấn đề “ngôn ngữ bất đồng”. Giải pháp tốt nhất là dùng mẫu tự tiếng và giọng đọc tiếng La-tinh để phiên âm tiếng nói của người Việt, tạo sự thuận tiện khi họ học tiếng Việt cũng như truyền đạo cho người Việt.

    Tiếng La-tinh vốn thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Ư của ngữ hệ Ấn-Âu, được dùng ban đầu ở Latium, vùng xung quanh thành Roma, hay c̣n gọi là La Mă. Tiếng La-tinh là ngôn ngữ chính thức của Đế quốc La Mă, tất cả những ngôn ngữ trong nhóm “Ngôn ngữ Rôman” (Romance languages) đều có nguồn gốc từ tiếng La-tinh.


    Văn khắc bằng tiếng La-tinh tại Đấu trường La Mă

    Ở Phương Tây, tiếng La-tinh là một ngôn ngữ quốc tế, thứ tiếng dùng trong khoa học và chính trị trong suốt hơn một ngh́n năm. Măi đến thế kỷ thứ 18 tiếng La-tinh được thay thế bởi tiếng Pháp và sang đến thế kỷ thứ 19 là tiếng Anh. Người ta cho rằng 80% các từ ngữ tiếng Anh có tính học thuật ngày nay đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh, trong đó đa số trường hợp là thông qua tiếng Pháp.

    Mặc dù hiện tại đă trở thành một “tử ngữ” v́ không được dùng trong giao tế hàng ngày, tiếng La-tinh vẫn xuất hiện trong các ngôn ngữ chính của thế giới như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Trong khi đó, các nước láng giềng với chúng ta như Trung Hoa, Thái Lan, Miên, Lào, Myanmar (Miến Điện cũ) vẫn giữ nguyên cách viết xưa, không được “La-tinh hóa” như tiếng Việt.

    Phải nói, việc chuyển đổi từ chữ Nôm sang chữ quốc ngữ tại Việt Nam là một “cái may cho cả dân tộc” trong việc tiếp xúc với thế giới ngày nay. Nhờ đó, chúng ta có nhiều cơ hội tiếp cận, học hỏi cũng như giao tiếp dễ dàng hơn với nền văn minh Phương Tây.

    Công lao đó, trước nhất, thuộc về các giáo sĩ, trong đó nổi bật nhất là linh mục Alexandre de Rhodes (1591-1660). Thứ đến, c̣n có sự đóng góp và bổ sung của những trí thức người Việt để chữ quốc ngữ trở thành hệ thống kư hiệu ngôn ngữ hoàn chỉnh như ngày nay.


    Alexandre de Rhodes (1591-1660)

    Việc h́nh thành chữ quốc ngữ cũng trải qua nhiều giai đoạn rất nhiêu khê. Trước tiên, các giáo sĩ phải ghi lại cách đọc các âm tiếng Việt theo tiếng La-tinh. Cũng v́ thế, cách đọc tiếng Việt và cách đọc tiếng La-tinh rất giống nhau.

    Đó là điều khiến người Việt có nhiều thuận lợi khi nh́n mặt chữ và học phát âm các thứ tiếng thuộc họ La-tinh. Ngược lại, người Phương Tây khi tiếp cận với văn tự tiếng Việt cũng t́m thấy nhiều nét quen thuộc.


    Trang đầu sách “Phép giảng tám ngày” song ngữ bằng tiếng La-tinh (bên trái)
    và tiếng Việt với chữ Quốc ngữ (bên phải)

    ***

    · Trích dẫn FB Nguyễn Đ́nh Diễn:

    “Để thấy được sự tương đồng giữa tiếng La-tinh và tiếng Việt (cũng như giữa tiếng La-tinh và tiếng Anh hay tiếng Pháp mà nhiều người Việt Nam được học), từ đó luôn biết tri ân người xưa đă khai sinh và tài bồi văn tự tiếng Việt mà ra sức ǵn vàng giữ ngọc cho chữ quốc ngữ hiện hành, mời các bạn trẻ xem và nghe video tŕnh bày cách đọc hai bản kinh bằng tiếng La-tinh hiện nay vẫn đang được đọc hoặc hát trong đạo Công giáo: Pater Noster (Kinh Lạy Cha) và Ave Maria (Kinh Kính Mừng).

    “Lưu ư, các âm "r" và "tr" được đọc rung lưỡi rất mạnh. Có phân biệt "r" (như trong từ "regnum") với "gi" (như trong từ Iesus / Jesus). Cũng có phân biệt "tr" (như trong từ "nostra") với "ch" (như trong từ "caelis"). Người miền Nam Việt Nam dù chưa được học tiếng La-tinh chỉ nh́n mặt chữ mà đọc hú họa cũng sẽ đọc gần đúng trọn vẹn các bản văn La-tinh này.

    “Bản kinh Ave Maria (Kinh Kính Mừng) có danh Chúa Giêsu được viết là Iesus v́ chữ "i" trong tiếng La-tinh vừa là nguyên âm vừa là phụ âm. Sau này "i" là phụ âm được kéo dài cách viết thành "j" (Iesus được viết thành Jesus). Tuy nhiên, khi chọn âm "gi" ghi cách đọc tiếng Việt, các nhà truyền giáo đă lấy "gi" từ tiếng Ư và tiếng Bồ Đào Nha.

    · Xem video clip “Nghe giọng đọc tiếng La-tinh để thấy sự tương đồng với giọng đọc tiếng Việt” tại https://www.facebook.com/10000928313...6533020999448/



    ***
    Chú thích:

    (*) Xem lại loạt bài:

    “Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay: Từ Tản cư, Sơ tán đến Di tản”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...tu-tan-cu.html

    “Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay: từ Việt gian, Việt cộng đến Việt kiều”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...y-tu-viet.html

    “Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay: A Bê Xê hay A Bờ Cờ?”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...be-xe-hay.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Lính tráng (1)”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...h-trang-1.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Lính tráng (2)”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...h-trang-2.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Vay mượn từ tiếng Tàu”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...-tu-tieng.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Vay mượn từ tiếng Pháp”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...-tu-tieng.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Vay mượn từ tiếng Anh”
    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...ieng_1755.html

    “Ngôn ngữ Sài G̣n xưa: Những từ ngữ đă đi vào quá khứ” http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...ngu-i-vao.html
    ***

  9. #429
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay (2/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...tu-tan-cu.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...ua-nay-24.html


    Từ Tản cư, Sơ tán đến Di tản

    Trước tiên, xin xác định, hành tŕnh ngôn ngữ Việt có cột mốc thời gian Xưa và Nay được căn cứ vào thời điểm Trước và Sau 1975 giữa bối cảnh cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Qua loạt bài về hành tŕnh ngôn ngữ, tác giả có tham vọng phản ảnh những giai đoạn lịch sử Việt Nam qua những thay đổi về ngôn từ trong cuộc sống hàng ngày.

    Tiếng Việt rất phong phú. Trước một sự kiện hoặc sự vật, người ta có rất nhiều từ ngữ để diễn tả. Trong thời kháng chiến chống Pháp có hiện tượng tản cư. Người dân tại các thành phố về nông thôn ở tạm hoặc ở nhờ để rồi quay lại Hà Nội khi đă ḥa b́nh hoặc dinh tê (quay trở về sống tại vùng do Pháp kiểm soát).

    Trong Hồi kư Phạm Duy, tác giả hồi tưởng lại những ngày tản cư: “Miền trung du vào thời điểm mùa Xuân 1947 là nơi có đông đảo đồng bào ở các đô thị di tản lên. Những thành phố nấm (ville champignon = được gọi như vậy là v́ mọc lên một cách rất nhanh chóng, do dân tản cư tạo ra) đă có mặt ở nhiều nơi và là những chợ trời với khá đầy đủ những đồ tiêu dùng mà người đi kháng chiến cần đến hằng ngày như sà pḥng, thuốc đánh răng, kim chỉ, thuốc men... Nhất là có những quán cà phê với sữa, đường và thuốc lá là những thứ mà dân tiểu tư sản thành thị đang làm việc tại các cơ quan Hành-Kháng di động lúc nào cũng thèm….”

    https://i.postimg.cc/0j0G9qyj/57-1-doibucaret.jpg
    Cuộc sống tại chiến khu
    Thời chống Pháp có vùng tề là những làng do người Pháp b́nh định và thành lập hội tề để điều hành. Tuy nhiên, hầu như mọi hội tề đều làm việc cho Pháp vào lúc ban ngày nhưng đến đêm họ bắt buộc phải theo Việt Minh. Vùng tề được coi là vùng xôi đậu, tôi c̣n nhớ măi câu: Ấm ớ hội tề, đánh cho một trận đuổi về Tự Do!

    Vùng tề c̣n là nơi có người chỉ đường dẫn lối cho những ai muốn dinh tê về thành phố. Trong cuốn hồi kư đă dẫn, ngồi tại Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City, California), nhạc sĩ Phạm Duy kể lại hành tŕnh dinh tê của ḿnh sau một thời gian tham gia kháng chiến:

    “Mùng 1 tháng 5 năm 1951, đại gia đ́nh họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê. Chúng tôi chọn ngày Lễ Lao Động để ra đi, tin rằng Công An hay cán bộ trong chính quyền ở nơi này cũng như ở những nơi khác đều lơ là trong việc canh gác, v́ họ rất bận bịu trong công việc tổ chức ngày lễ quan trọng của họ. Ba người đàn ông là tôi và Phạm Đ́nh Viêm, Phạm Đ́nh Chương đi một đàng. Đàn bà, con gái, ông già, trẻ con là ông bà Thăng Long, Thái Hằng [Phạm Thị Quang Thái, vợ Phạm Duy - NNC], Băng Thanh [Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh, em của Thái Hằng - NNC] và bé Quang [ca sĩ Duy Quang, con của Phạm Duy và Thái Hằng - NNC] đi một nẻo khác. Đứa bé được bỏ vào trong một cái thúng để gánh đi. Gia Đ́nh Phạm Đ́nh Sĩ, Kiều Hạnh đi riêng một nẻo khác.

    “Đúng như dự đoán của chúng tôi, cuộc ra đi của ba toán đă chẳng gặp một trở lực nào cả. Tôi, Phạm Đ́nh Viêm và Phạm Đ́nh Chương đă đi qua Đ̣ Lèn để tới vùng Phát Diệm. Chỉ mất một ngày đường là tới vùng tề. Cảnh đồng quê vẫn êm đềm, óng ả như tự bao giờ, chẳng cần biết đến chuyến đi vô cùng quan trọng của chúng tôi. Vừa đi tôi vừa mở rộng đôi mắt, vừa lóng đôi tai để thu vào tâm trí h́nh ảnh và âm thanh của một miền đất nước mà không bao giờ -- phải, không bao giờ -- tôi c̣n nh́n, c̣n nghe thấy nữa. Tôi thở mạnh, không biết có phải tôi đang thở dài hay tôi đang cố hít một lần cuối cùng cái không khí "đồng quê bát ngát" nằm trong một bài hát của tôi đây?

    “C̣n khoảng vài cây số nữa là sẽ tới cái đồn đầu tiên của vùng bên kia chiến tuyến. Chúng tôi gặp một cái quán nhỏ và vào quán để nghỉ ngơi. Lần đầu tiên, sau 5 năm đi kháng chiến, bây giờ chúng tôi mới nh́n thấy những chai rượu bia. Dù tôi không uống rượu bao giờ, cùng với hai anh em vợ, tôi cũng gọi mua một chai bia và một bát phở. Đă từng thiếu chất ngọt trong người từ lâu, cả ba chúng tôi pha đường vào bia để uống. Không ngờ bị say rượu, đỏ mặt tía tai lên. Đó là một kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc đổi đời này. Ăn uống xong, chúng tôi hồi hộp ra đi trên con đường đưa chúng tôi tới thị xă Phát Diệm.

    “Khi tôi cùng với hai anh em vợ tới một con sông nhỏ th́ nh́n thấy một cái đồn ở bên kia sông. Đột nhiên tôi thấy lá cờ tam tài cắm trên nóc đồn. Tôi bảo hai người anh em vợ hăy cùng tôi đứng lại ở bên này chiếc cầu. Ngước mắt nh́n lá cờ Pháp, tôi không làm sao ngăn được hai ḍng nước mắt đang từ từ chảy trên đôi má..."

    Lực lượng kháng chiến lên án những người dinh tê. Đó là chuyện tất nhiên. Kháng chiến cho rằng đa số họ là những thành phần tạch tạch xè (tiểu tư sản), quen với nếp sống tiện nghi ở thành thị nên khó có thể chịu đựng những gian khổ trong cuộc kháng chiến. (Sau dinh tê trong kháng chiến chống Pháp, thời kháng chiến chống Mỹ c̣n xuất hiện những thuật ngữ như chém vè, chiêu hồi được dùng dưới thời VNCH).

    Bản thân những người dinh tê nghĩ sao? Dưới đây là suy nghĩ của Phạm Duy về ‘những giọt nước mắt’ khi dinh tê:

    “... Nước mắt tiếc thương cho những năm đem hết tâm trí ra để cống hiến cho Cách Mạng và Kháng Chiến... Trong đó có giọt nước mắt rơi khi tưởng rằng gặp được t́nh yêu nước qua h́nh ảnh một lănh tụ, trộn vào nước mắt vui trên chuyến xe lửa "xuất quân", nước mắt rơm rớm khi nh́n thấy xác bạn đồng đội trong chiến khu Đất Đỏ, nước mắt cảm động khi nghe bà mẹ quê hát bài dân ca của ḿnh mà ngỡ rẵng đó là một bài hát cổ truyền, nước mắt ào ào v́ chuyện bi hùng của một bà mẹ ở huyện Gio Linh, nước mắt chảy vào trong ruột khi được tin mẹ ḿnh đă mất. Và lúc này là nước mắt nhục nhă...

    Đáng lẽ tôi ngưng trích Hồi kư Phạn Duy tại đây nhưng nghĩ lại sẽ là thiếu sót nếu như người đọc không theo dơi được đoạn kết thúc của một chuyến dinh tê thời kháng chiến. Chuyện dinh tê có hồi kết như sau:

    “Tôi giật ḿnh, vội lấy tay lau khô nước mắt khi nghe tiếng quát ở bên kia sông:
    -- Ê, mấy thằng kia. Đi đâu?

    “Nghe thấy tiếng súng lên đạn lóc cóc, chúng tôi vội vàng giơ cao lá cờ trắng đă làm sẵn với chiếc mù-xoa. Rồi chúng tôi bước qua cầu để tới đồn canh. Ở đây lính giữ đồn là lính "Commando", mặc binh phục mầu đen. Một Quản Binh Pháp tên là Vandenberghe đă tạo ra những toán lính Việt-Pháp này, ăn mặc và trang bị nhẹ giống như Việt Minh để hoạt động ở những vùng tề. Chúng tôi khai là thường dân đi tản cư ở vùng Việt Minh, nay đă kiệt quệ về kinh tế cho nên muốn trở về với gia đ́nh và khai ra tên người anh ruột của Viêm là Phạm Đ́nh Chung hiện đang phục vụ trong Bảo An Đoàn.

    “Sau khi quay tê-lê-phôn hỏi ai đó không biết, trưởng toán lính Commando kư giấy cho chúng tôi ra đi. Chúng tôi vào tới thành phố Phát Diệm th́ trời đă về chiều. Rồi đêm tối xập xuống. Chúng tôi đang đi lang thang ở trong đường phố tối om để t́m chỗ ngủ th́ gặp một người quen tên là Diễn. Anh Diễn niềm nở cho chúng tôi về tạm trú tại nhà anh. Trong đêm đầu tiên ở một vùng cũng là phần đất quê hương nhưng vẫn c̣n cảm như xa lạ, tôi thức thâu đêm suốt sáng.

    “Hôm sau chúng tôi ra Ty Công An Phát Diệm để làm giấy tờ cần thiết. Chụp ảnh, lăn tay và được cấp một cái thẻ tùy thân to như một tấm passeport. Tôi cũng là nhân vật nổi tiếng ở trong vùng thành phố rồi cho nên tôi được đối sử rất là tử tế. Tôi không c̣n mang mặc cảm đầu hàng nữa khi nhận ra rằng vùng Phát Diệm này là một vùng rất độc lập”.

    https://i.postimg.cc/sgvWNW7v/Phamduydan.jpg
    Phạm Duy: "người hát rong"

    Năm 1954, sau Hiệp định Genève, một triệu người từ miền Bắc vào Nam bằng đường biển và đường hàng không được gọi là di cư vào Nam.

    Điều 14 (d) của Hiệp định quy định: “Kể từ ngày Hiệp định hiện hành có hiệu lực đến khi quân đội viễn chinh [Pháp] rút xong, mọi công dân đang cư trú trong vùng thuộc quyền kiểm soát của bên này, được phép cư trú tại vùng kiểm soát của phía bên kia nếu họ muốn. Chính quyền nơi họ cư trú cho phép và giúp đỡ họ”.
    Tuy nhiên, việc di cư được tiến hành ồ ạt với một số lượng lớn trong thời hạn chuyển giao quyền lực giữa quân đội Pháp và Việt Minh lại quá ngắn. Có nhiều đánh giá về số người di cư. Phủ Tổng uỷ Di cư, cơ quan do chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lập ra, đưa ra con số 928.152 người. Giáo hội Công giáo th́ khẳng định trong số đó có khoảng 650.000 người Công giáo di cư (chiếm khoảng 2/3 số người công giáo tại miền Bắc) v́… Chúa đă bỏ vào Nam!
    Có 213.635 người di cư theo đường hàng không, 555.037 người được chuyên chở bằng đường biển. Số c̣n lại di cư theo đường bộ bằng các phương tiện cá nhân, như xe đạp, thuyền, xuồng, v.v… từ Quảng B́nh vượt sông Bến Hải. Số này thuộc những người di cư không đăng kư. Tính chung, khoảng hai phần ba số người di cư bằng các phương tiện chuyên chở của Pháp, số c̣n lại được chuyên chở bởi các phương tiện vận chuyển của Mỹ, Anh. Bên cạnh đó c̣n có tàu của Liên Xô và Ba Lan chở những người tập kết từ trong Nam ra ngoài Bắc.


    Di cư vào Nam
    Ngày 4/8/1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhứt (Sài G̣n) với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai (Hà Nội) và Cát Bi (Hải Pḥng). Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ với khoảng 1.200 km đường chim bay. Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt, tính trung b́nh cứ mỗi 6 phút có một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết có 4280 lượt hạ cánh và đưa vào Nam 213.635 người.

    Trên đường biển, những chiếc tàu há mồm (LST - Landing Ship Tank của hải quân Mỹ) đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... đă giúp 555.037 người vào Nam. “Nam” được hiểu là duyên hải miền Nam Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Vũng Tàu. V́ số người di cư quá đông, Cao uỷ Pháp đă xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đă thoả thuận nên ngày cuối cùng thay v́ là 19/5 được đổi thành ngày 19/8. Trong thời gian gia hạn thêm, 3.945 người đă di cư vào Nam với chuyến tàu cuối cùng cập bến Sài G̣n vào ngày 16/8/1954.
    Ngược lại, cũng năm 1954, một số người miền Nam lại tập kết ngược ra Bắc trên những chiếc tàu của Ba Lan, Liên Xô và Pháp. Theo tài liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, có khoảng 140.000 người tập kết ra Bắc bằng tàu biển và các phương tiện tự túc riêng qua việc băng rừng Trường Sơn. Họ là những người theo Việt Minh cùng gia đ́nh và thân nhân đi theo. Phủ Tổng uỷ Di cư Tỵ nạn của miền Nam (khi đó c̣n là Quốc gia Việt Nam), cũng ghi nhận có 4.358 người sau khi di cư vào Nam lại đổi ư trở ra Bắc nên được chính phủ miền Nam cung cấp phương tiện bằng cả đường thủy và đường hàng không để trở về Bắc.

    'Tàu há mồm' LST chở người di cư
    Đến năm 1972 lại có hiện tượng đi sơ tán tại miền Bắc để tránh bom Mỹ. Đó là thời kỳ miền Bắc bị không lực Hoa Kỳ oanh tạc qua 2 chiến dịch ném bom mang tên Linebacker I và II. Linebacker I diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10/1972 và Linebacker II từ ngày 18/12 đến 30/12/1972 sau khi Hội nghị Paris về Việt Nam bị bế tắc.

    Linebacker II được thực hiện qua hàng loạt đợt oanh kích bằng pháo đài bay B-52 với mục đích đánh thẳng vào các trung tâm đầu năo của miền Bắc (khi đó là Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa). Một loạt các thành phố như Hà Nội, Hải Pḥng, Thái Nguyên bị liên tục thả bom trong 12 ngày đêm với khoảng 36.000 tấn bom.
    https://i.postimg.cc/nLfLG9k8/57-5-d...enkhong-16.jpg
    Xác máy bay Mỹ
    Chính vào tḥi kỳ này, một thuật ngữ thường được dùng phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong cuộc sống hàng ngày của người dân miền Bắc. Đó là sơ tán, tương đương với tiếng Anh là evacuation. Nhà cầm quyền Hà Nội ra lệnh sơ tán các cơ quan đầu năo và thường dân về vùng quê nhằm hạn chế tổn thất.

    Dưới đây là những điều Phạm Minh Hương ghi lại trong Kỷ niệm thời sơ tán, khi đó cô mới 13 tuổi.
    (http://blog.yume.vn/xem-blog/ky-niem...5CF7C0E.html):

    “Tôi vẫn c̣n nhớ như in thời chiến tranh chống Mỹ. Năm 1972, cuộc chiến vô cùng gay go ác liệt. Dân Hà Nội phải đi sơ tán sang các tỉnh lân cận xung quanh Hà Nội. Khi đó đơn vị bố tôi thông báo các gia đ́nh khẩn trương đưa người nhà tập trung lên xe đi sơ tán. Bố đang công tác ở chiến trường Quảng Trị. Mẹ tôi bận công tác nên chỉ đưa hai chị em tôi đến nơi rồi quay lại Hà Nội ngay.

    “Nơi sơ tán là Huyện Thạch Thất, Hà Tây. Khi xe đỗ ngay đầu làng, mọi người ùa xuống, mang vác lích kích nào là quần áo, chăn màn, nồi niêu, bát đĩa. Riêng chị em tôi không có bố mẹ ở cùng nên không mang theo đồ bếp. Chúng tôi phải ăn tập thể. Nhớ măi bữa đầu tiên. Thằng em trai khi đó 8 tuổi nó nhát như cáy. Thấy đông người không chịu ngồi vào mâm. Dỗ măi nó vẫn khóc, không chịu ăn. Tôi th́ đói bụng mà em không chịu ăn, ḿnh ăn sao nổi. Cuối cùng không dỗ được em chị cũng khóc nốt”.

    Cuối cùng là chuyện di tản tại miền Nam vào năm 1975. Người dân Sài G̣n trong suốt tháng 4/1975 thường nhắc đến hai chữ di tản (cũng vẫn là evacuation), khởi đầu là việc ‘chạy loạn’ của thường dân từ miền Trung thuộc vùng I và II chiến thuật, nơi có giao tranh khốc liệt. Ḍng người từ miền Trung xuôi Nam bằng đường bộ, đường thủy và thậm chí bằng chính đôi chân của ḿnh. Cũng v́ thế, chính quyền VNCH gọi đây là… cuộc bỏ phiếu bằng chân.

    Ngày 23/3/75, Huế thất thủ trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính t́m cách chạy thoát bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây dưới những trận mưa pháo. Trong 4 sư đoàn bộ binh của quân lực VNCH, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 người thành công trong việc di tản khỏi miền Trung.

    Di tản chiến thuật
    Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 được di tản bằng đường thủy, 70.000 binh sĩ VNCH c̣n lại sau bị bắt làm tù binh, 33 máy bay phản lực A-37 c̣n nguyên vẹn và gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại.

    Bài quá dài, phải cắt bớt

    Một số người cho rằng quyết định Di tản Chiến thuật là một trong những lư do dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam bên cạnh những yếu tố ngoại lai về phía Mỹ. Phải chăng, Di tản Chiến thuật chỉ là một danh từ hoa mỹ để che đậy một thực tế phũ phàng là Rút lui khi đang trong cơn yếu thế?


    Di tản chiến thuật trên Sông Ba

    Sau đó, từ Sài G̣n, một cuộc di tản trên quy mô lớn và có tổ chức đă được thực hiện. Nhân viên, gia đ́nh các sứ quán và công ty nước ngoài được Hoa Kỳ và các nước đồng minh được xắp xếp để rời khỏi Việt Nam trong t́nh h́nh chiến sự ngày càng bi đát.

    Ngày 29/4/1975, Tổng thống Hoa Kỳ, Gerald Ford, chính thức ra lệnh khởi động Operation Frequent Wind để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ DAO và một số người Việt đă từng cộng tác với chính phủ Hoa Kỳ và VNCH. Trên nguyên tắc, chiến dịch này chỉ kéo dài từ 3g30 chiều ngày 29/4/1975 đến 9g tối ngày 30/4/1975, khởi đầu bằng bài hát White Christmas được phát trên đài Quân đội Hoa Kỳ tại Sài G̣n như một mật hiệu cho việc di tản.


    Di tản khỏi Sài G̣n

    Cùng vào thời điểm này, một số người Việt cũng đă bắt đầu di tản khỏi Việt Nam với bất cứ giá nào bằng mọi phương tiện, qua ngă đường bộ và đường biển. Khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ, những người di tản được biết đến qua thuật ngữ thuyền nhân (boat people). Theo Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian 1975-1995 đă có 849.228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ. Một con số mang nhiều ư nghĩa về mặt nhân bản cũng như chính trị.

    “Thuyền nhân” vượt biển

    Bài quá dài, phải cắt bớt


    Boat People

    Xét cho cùng, chuyện tản cư, di cư, sơ tán hay di tản c̣n tùy thuộc vào mục đích. Nếu ra đi nhằm t́m nơi ở mới phù hợp hơn theo ư muốn của ḿnh một cách chủ động th́ gọi là di cư, c̣n nếu ra đi ồ ạt v́ ở nơi cũ không c̣n phù hợp do các yếu tố khách quan như thiên tai, chiến tranh… th́ gọi là di tản.
    Di tản cũng chưa chắc là di cư v́ có khi di tản tránh băo vài tháng rồi lại về nhưng di cư hàm ư ở lại nơi mới lâu dài. Như vậy, trong số những người vào Nam năm 1954, có người ra đi v́ di cư nhưng cũng có người ra đi v́ di tản. Có thể nói, trong cuộc di cư vào Nam như ta vẫn thường gọi không hẳn chỉ có những người di cư về mặt xă hội mà c̣n bao gồm những người di tản về mặt chính trị. Ngược lại, năm 1975, trong số những người di tản v́ có liên quan đến chính trị, cũng có những người di cư thuần túy v́ lư do xă hội và kinh tế.

    Xem ra, đối với các nhà ngôn ngữ học, cần phải đặt lại vấn đề về danh xưng hay cách gọi sao cho chính xác để những thế hệ sau này khi đọc lịch sử Việt Nam có thể hiểu một cách cặn kẽ những diễn biến trong quá khứ.


    13 Comments on Multiply

    Bài quá dài, phải cắt bớt

    nam64 wrote on May 16, '11
    nguyenngocchinh said “It's OK, Nam Ṛm.”
    Tặng lại cho anh vài h́nh ảnh nè hihihi


    Vĩ tuyến 17


    Di cư


    H́nh chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ, lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đă chứa đến 10,000 người di cư. (H̀NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).

  10. #430
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hành tŕnh ngôn ngữ Xưa & Nay (3/4)

    http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/...y-tu-viet.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2018/12...ua-nay-34.html


    Từ Việt gian, Việt cộng đến Việt kiều

    Trước tiên, xin xác định, hành tŕnh ngôn ngữ tiếng Việt có cột mốc thời gian Xưa và Nay được căn cứ vào thời điểm Trước và Sau 1975 giữa bối cảnh cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Qua loạt bài về hành tŕnh ngôn ngữ, tác giả có tham vọng phản ảnh những giai đoạn lịch sử Việt Nam qua những thay đổi về ngôn từ trong cuộc sống hàng ngày.

    Theo Wikipedia, Việt gian là một cụm từ miệt thị dùng để ám chỉ những người Việt Nam phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang, có những hành động đi ngược lại với quyền lợi dân tộc. Nhiều nhân vật lịch sử từ thời xa xưa cũng đă bị những người thuộc thế hệ sau cho là Việt gian. Đứng đầu bảng ‘phong thần’ những Việt gian trong lịch sử phải kể đến Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống.

    Theo Đại Việt Sử kư Toàn thư, Trần Ích Tắc (1254-1329) là con thứ của vua Trần Thái Tông. Ích Tắc thuộc loại người ‘trên thông thiên văn, dưới thông địa lư’, ngay cả những nghề vặt như đá cầu, đánh cờ cũng rất tinh thông. Ông đă từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho ăn học, nuôi dưỡng các nhân tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu…

    Thông minh hơn người, làu thông kinh sử, Ích Tắc nuôi mộng tranh đoạt ngôi vua với anh cả. Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), Ích Tắc đem cả gia đ́nh đi hàng giặc, được đưa về Trung Hoa và được Hốt Tất Liệt (vua nhà Nguyên) phong làm An Nam Quốc vương và chờ ngày trở về nước.

    Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc) và chết tại đó vào mùa hè năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông, thọ 76 tuổi. V́ sự phản bội này mà sau này nhà Trần đă loại Ích Tắc ra khỏi tông thất, cho đổi tên thành Ả Trần.

    Đại Việt Sử kư Toàn thư ghi lại: “Tháng 5 [năm 1289], sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ ba, bắt được cả một ḥm biểu xin hàng. Thượng hoàng [Trần Thánh Tông] sai đốt hết đi để yên ḷng những kẻ phản trắc. Chỉ có kẻ nào đầu hàng trước đây, th́ dẫu bản thân ở triều đ́nh giặc, cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử h́nh, tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính. Ích Tắc là chỗ t́nh thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ư chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy...”.

    Vua Lê Chiêu Thống (1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm, khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ, là vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê, thực ở ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 tới đầu tháng giêng năm 1789. Lê Chiêu Thống đă sang cầu viện nhà Thanh đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngai vàng.

    Việc làm đó của ông bị các nhà sử học trong nước sau này chỉ trích dữ dội, coi đó là hành vi bán nước, ‘cơng rắn cắn gà nhà’. Các tác giả Ngô gia văn phái thân Tây Sơn trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí viết:

    “Tuy vua Lê Chiêu Thống đă được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu Càn Long của Trung Quốc. V́ có Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu Thống... Nước Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu th́ viết là Càn Long, việc ǵ cũng do viên Tổng đốc, có khác ǵ phụ thuộc vào Trung Quốc?”.

    Có điều, Việt gian hay không c̣n tùy thuộc vào chính kiến hoặc cái nh́n của người sử dụng ngôn từ. Nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh thành lập ra sau đó lại có cái nh́n khá rộng lượng với Lê Chiêu Thống. Hoàng đế Tự Đức có lời phê về Chiêu Thống, đại ư nói: “Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết, kể cũng đáng thương! Vậy nên truy đặt tên thụy là Mẫn Đế”.

    Xem ra, Việt gian hay không c̣n tùy thuộc vào quan điểm của từng thời kỳ lịch sử. Cụm từ Việt gian được Việt Minh sử dụng nhiều nhất trong thời kháng chiến để chỉ những thành phần bị cho là ủng hộ Pháp-Nhật. Ngoài ra c̣n những phải kể đến thành phần Việt gian thuộc tầng lớp địa chủ và phản cách mạng. Sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, Việt Minh đă thành lập những ban trừ gian để tiêu diệt Việt gian.

    Sau này, thật ngữ Việt gian được sử dụng bởi nhiều phe nhóm chính trị để chỉ những cá nhân và tổ chức có quan điểm hay hành động đi ngược lại đường lối của họ. Trên website của Đông Dương Thời báo có bài viết về Việt gian trong lănh vực tôn giáo:

    “Nói về giặc Việt gian Công giáo, th́ phải nói đến Ḍng họ Tam đại Việt gian Ngô Đ́nh khuyển sinh của thực dân xâm lược Pháp và đế quốc bá quyền Mỹ, từ khi chiến thuyền Pháp khởi điểm xâm lược Việt Nam, bắn phá Đà Nẵng năm 1858, có giáo dân Ngô Đ́nh Niệm (tân ṭng, ông nội Ngô Đ́nh Diệm) hầu cạnh linh mục Caspar, giám mục Pellerin, linh mục Nguyễn Hoàng, cùng với linh mục Nguyễn Trường Tộ theo hầu giám mục Ngô Gia Hậu (Guathier)...
    (http://www.dongduongthoibao.net/view.php?storyid=240)

    Ngày nay, thuật ngữ Việt gian đă được tận dụng bởi các phe phái chính trị như một vũ khí để chụp mũ những kẻ bất đồng chính kiến với ḿnh. Như vậy, ư thức hệ quyết định một người có phải là Việt gian hay không. Gần đây nhất lại có hiện tượng Việt gian trong âm nhạc. Hàn Giang Trần Lệ Tuyền viết trên http://www.diendanportland.com/baidoc1/?p=597:

    Bài quá dài, phải cắt bớt


    Trịnh Công Sơn & Khánh Ly trên sân khấu sinh viên

    Bài quá dài, phải cắt bớt

    Không đúng lúc v́ khi đó người dân Sài G̣n c̣n đang hoang mang trước diễn biến bi đát của t́nh h́nh. Nghe TCS hát, phần đông đều có cảm giác ông là người của phe bên kia hát mừng chiến thắng. Rất ít người hiểu được ông chỉ là người phản chiến, không ‘đỏ’ mà cũng không ‘xanh’.

    Không đúng chỗ v́ đó là đài phát thanh Sài G̣n, nơi duy nhất mọi người có thể theo dơi từng giây từng phút vận mệnh của đất nước. Hóa ra ông trở thành ‘cái loa tuyên truyền không công’ cho chế độ mới giữa lúc đa số người Sài G̣n bỗng chốc phải t́m đường tháo chạy… Cũng v́ thế, hằng năm cứ đến ngày 30/4 người Việt ở nước ngoài lại lôi TCS ra ‘đấm đá’ cho đỡ ngứa tay chân, ‘xỉ vả’ cho đỡ ngứa miệng.

    Trong khi đó, người miền Bắc lại bị cấm nghe nhạc ‘ủy mị’ của TCS, phải đợi đến măi sau này mới được chính thức công nhận. Chính quyền miền Nam sau 1975 cũng đă gây khó khăn cho nhạc TCS khi không cho phổ biến trên đài phát thanh, nhưng không thể ngăn cản được sự lưu hành qua băng cassette.

    Hóa ra, TCS chênh vênh giữa hai lằn đạn. Nguyễn Đắc Xuân, một nhà sử học người Huế và cũng là một đảng viên cộng sản, kể lại một cuộc họp ở Huế diễn ra không lâu sau khi Sài G̣n sụp đổ để bàn về câu hỏi: “Trịnh Công Sơn có công hay có tội?”. Những người tham gia cuộc họp đó gồm các quan chức địa phương trong ngành giáo dục, văn hoá, và cũng có các nhà văn lớn vừa từ ‘rờ’ trở về.

    Theo Nguyễn Đắc Xuân, chính những bài hát phản chiến thời đầu của TCS, chủ yếu là tuyển tập Ca khúc Da vàng, mới là vấn đề. Một số quan chức cách mạng không thích quan điểm chính trị trong những bài hát này: TCS phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được giữa “chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc”.

    Đặc biệt, họ không thích câu “hai mươi năm nội chiến từng ngày” trong bài Gia tài của mẹ được sáng tác năm 1965. Câu này ám chỉ cuộc chiến vừa qua không có sự xâm lược nào và chỉ là nội chiến Nam-Bắc. Quan điểm này đă làm cho chính quyền Miền Bắc e ngại. Bởi vậy, trong giai đoạn gần kết thúc chiến tranh, có người quá khích ở chiến khu đă tuyên bố khi về Sài G̣n sẽ ‘xử tử’ TCS.


    Gia tài của mẹ

    Theo tôi, niềm vui thực sự của TCS trong giai đoạn cuối đời là… rượu, bia và thuốc lá. Họa sĩ Trịnh Cung – trong bộ ba thân thiết trước 1975 gồm Trịnh Cung, Đinh Cường và TCS – cho rằng những trở ngại chính trị đối với các sáng tác của TCS, cùng với ‘các bức xúc khác’ trong cuộc đời, đă khiến TCS chán nản và càng ngày càng lún sâu vào tật nghiện rượu. Trong bài viết gây nhiều tranh căi, Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị, Trịnh Cung viết trên Da Màu:

    “Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch, Sài G̣n, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng [nhà văn cách mạng] và một số bạn “mới”.

    Và những ‘niềm vui cuối cùng’ đă dẫn cái thân xác vốn gầy g̣, ốm yếu của TCS đến nơi an nghỉ tại nghĩa trang G̣ Dưa. Bỏ qua những bất đồng chính kiến Nam-Bắc, hàng ngàn người đă đưa tiễn TCS xa ĺa Cơi Tạm.


    Nơi an nghỉ của Trịnh Công Sơn tại Nghĩa trang G̣ Dưa

    Việt Minh được thành lập ngày 19/5/1941 bởi Nguyễn Ái Quốc, quy tụ mọi thành phần, kể cả những người không Cộng sản. Đó là tên viết tắt của Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh với khởi đầu là một tổ chức chính trị và vũ trang nhằm mục đích đánh đuổi Nhật-Pháp. Thành quả của Việt Minh là việc h́nh thành nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa.
    Kể từ khi đất nước bị chia cắt năm 1954, tại miền Nam xuất hiện thuật ngữ Việt cộng, danh từ ám chỉ những người Cộng sản hoạt động tại miền Nam nhằm lật đổ chế độ VNCH. Trung ương Cục miền Nam là cơ quan đại diện cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp lănh đạo miền Nam trong thời kỳ 1951-1954 và 1961-1975. Cơ quan này c̣n có các phiên hiệu là B2, R, Ông Cụ… được dùng để bảo mật tại các chiến trường miền Nam.

    Trên các phương tiện truyền thông quốc tế, Việt cộng thường được biết đến qua tên gọi Vietnamese Communist hay VC (đọc là Vi Xi) hoặc Victor Charlie. Bộ máy tuyên truyền của VNCH phác họa chân dung Việt cộng qua h́nh ảnh 3 cán binh ‘mặt bủng da ch́’ leo một cành đu đủ (cành đu đủ vốn mong manh, ẻo lả nhưng vẫn đủ sức ‘cơng’ 3 Việt Cộng mà không hề oằn xuống). Thời Ngô Đ́nh Diệm c̣n có cả chiến dịch Tố Cộng, Diệt Cộng qua đó không ít những người không-Cộng-sản cũng bị vạ lây.

    Trên thực tế, Việt cộng có mặt khắp các hang cùng ngơ hẻm trong thời VNCH, từ thành thị đến thôn quê và từ Bến Hải đến Cà Mau. Tại miền Nam, Việt cộng có thể là bác tài xế taxi, người đạp cyclo… nhưng cũng có thể là giáo sư đại học, quân nhân hoặc viên chức quan trọng trong chính phủ VNCH. Họ là Việt Cộng nằm vùng, một thuật ngữ ám chỉ những người hoạt động bí mật tại miền Nam.

    Trong biến cố Tết Mậu Thân năm 1968, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm Giám đốc Nha An ninh Quân đội VNCH, phụ trách Đặc ủy Trung ương T́nh báo, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan (1930 – 1998), là người đă cầm súng bắn thẳng vào đầu một Việt cộng có tên là Bảy Lốp (Nguyễn Văn Lém).

    Sự kiện đă được phóng viên AP, Eddie Adams, thu vào ống kính và bức h́nh xuất hiện trên các phương tiện truyền thông quốc tế, dấy lên một đợt sóng phản đối một cuộc chiến ‘phi nhân đạo’. Adams sau đó đă đoạt giải Pulitzer về báo chí với bức h́nh gây nhiều tranh căi.

    Về sau, Eddie Adams viết trên tạp chí Time về Nguyễn Ngọc Loan và bức ảnh của ông: “Viên tướng giết Việt Cộng, c̣n tôi giết viên tướng bằng máy ảnh của ḿnh. H́nh ảnh vẫn là thứ vũ khí mạnh nhất thế giới. Người ta tin vào h́nh ảnh, nhưng h́nh ảnh cũng có thể nói dối, cho dù không cố ư lừa dối. H́nh ảnh chỉ là một nửa sự thật... Điều mà bức ảnh đă không nói lên là 'Liệu bạn sẽ làm ǵ nếu bạn là ông tướng vào lúc đó, tại nơi đó, trong cái ngày chiến tranh nóng bỏng ấy, và tóm được một kẻ bị xem là khốn kiếp sau khi hắn vừa mới bắn tan xác một, hai, hoặc ba người lính Mỹ? Làm sao bạn biết được nếu chính là bạn, bạn sẽ không bóp c̣?”. (*)

    Ngày 14/7/1998 Nguyễn Ngọc Loan qua đời do bệnh ung thư tại Burke, Virginia, ngoại ô Washington, D.C. Sau khi tướng Loan chết, nhà báo Eddie Adams đă gửi lời viếng và bày tỏ sự ân hận v́ những tác động của bức ảnh lên cuộc sống của tướng Loan: “Người này là một anh hùng. Nước Mỹ đáng lẽ phải tiếc thương ông ta. Tôi rất tiếc là đă để cho ông ta ra đi như thế này, trong khi người ta không hề biết một chút ǵ về ông ta cả.” (**)


    Ảnh do Eddie Adams chụp Tướng Loan và Bảy Lốp
    Tết Mậu Thân 1968

    Bài quá dài, phải cắt bớt


    André Menras với lá cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam
    tại tượng Thủy quân lục chiến trước Quốc hội ngày 25/7/1970

    Hiện nay, Việt kiều là một thuật ngữ gây nhiều tranh căi nhất, cả ở Việt Nam lẫn hải ngoại. Theo luật pháp quốc tế, người Việt sống ở nước nào thường mang quốc tịch của nước đó. Theo nhà cầm quyền Việt Nam, người gốc Việt mang quốc tịch Mỹ, Pháp, Úc, Lào, Cambodge, v..v.. sẽ được gọi là Việt kiều, tương tự như những ngoại kiều sống tại Việt Nam như Hoa kiều, Pháp kiều…

    Có khoảng gần 3 triệu người Việt sống ở nước ngoài nhưng một số người không hài ḷng khi chính phủ Việt Nam gọi họ là Việt kiều. Có người cho rằng không thể đánh đồng Việt kiều với các ngoại kiều khác như Hoa kiều hoặc Pháp kiều… về cả mặt pháp lư lẫn t́nh cảm. Những người khác lại nghĩ từ Việt kiều mang ư nghĩa… mỉa mai:

    Ngày đi, đảng gọi Việt gian
    Ngày về th́ đảng chuyển sang Việt kiều
    Chưa đi: phản động trăm chiều
    Đi rồi: thành khúc ruột yêu ngàn trùng


    Cộng đồng người Việt tại hải ngoại rất phức tạp. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, cộng đồng ngày nay được h́nh thành từ nhiều nhóm: khởi đầu là đợt di tản năm 1975, vượt biên vào cuối thập niên 70 kéo dài đến thập niên 90, diện đoàn tụ gia đ́nh (ODP) hoặc con lai, diện quân nhân VNCH (HO).

    Từ tŕnh độ văn hóa không đồng đều nên sau đó h́nh thành những giai cấp xă hội đa dạng trong cộng đồng. Bên cạnh những thành phần tinh túy như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà khoa học, nhà giáo dục, phi hành gia… lại xuất hiện những thành phần được coi là cặn bă của xă hội sở tại với những người tham gia các hoạt động của thế giới ngầm, ma túy, tống tiền… Một cộng đồng không đồng nhất, không cùng giai cấp, rất dễ nảy sinh những mâu thuẫn khó tránh khỏi.

    Về Việt Nam, có những người rất khiêm tốn, low profile. Họ là những người về thăm gia đ́nh, thân nhân, bạn bè để kể lại những khó khăn, cực nhọc của cuộc sống nơi đất khách quê người. Cuộc sống tạm ổn về mặt vật chất nhưng lại thiếu hẳn những ǵ thuộc về tinh thần.

    Cũng có không ít những trường hợp “Áo gấm về làng”. Họ về Việt Nam để khoe khoang với người đồng hương. Họ phóng đại, tô màu những ǵ ḿnh có và cả những ǵ ḿnh không có. Ngày nay, ở Sài G̣n có một cụm từ nói lên tính cách đó: Nổ như Việt kiều.

    Không chỉ về thăm gia đ́nh, nhiều người Việt tại hải ngoại c̣n về Việt Nam làm ăn. Tờ Wall Street Journal đă phải công nhận: “Việt Kiều có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của Việt Nam”. (http://giaodiemonline.com/noidung_de...hp?newsid=3153)

    Henri Trần Anh Dũng thành lập một công ty chuyên về quảng cáo và phim ảnh mang tên Sud-Est Production tại Sài G̣n. Bố mẹ là người Việt Nam, nhưng Henri lại sinh ra ở Lào và theo cha mẹ sang sống ở Pháp từ năm 1975. Đầu những năm 1990, ông trở về Việt Nam để làm bộ phim Cyclo do người anh trai, Trần Anh Hùng, làm đạo diễn. Hùng đă từng được đề cử giải Oscar cho bộ phim Mùi đu đủ xanh (The Scent of Green Papaya).

    David Thái, định cư tại Seattle từ năm 1978, là người sáng lập ra thương hiệu Cà Phê Highlands (Highlands Coffee) mà có một số người ca tụng là Starbucks of Vietnam. Từ một đại lư nhỏ lẻ ở Sài G̣n năm 2002, giờ đây công ty đă có một loạt các cửa hàng và hơn 60 đại lư trên khắp cả nước và xuất cảng cà phê bột ra nước ngoài.


    Highlands Coffee, Sài G̣n
    Tuy nhiên, không phải con đường kinh doanh tại Việt Nam lúc nào cũng suông sẻ. Vào đầu thập niên 1990, ông Trịnh Vĩnh B́nh, quốc tịch Ḥa Lan, về nước đầu tư vào nhiều dự án tại Sài G̣n và một số tỉnh phía Nam, thông qua 2 công ty trong nước. Năm 1998, ông B́nh bị Ṭa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết án tù về tội đưa hối lộ và vi phạm các quy định về quản lư và bảo vệ đất đai, bị phạt tiền, đồng thời tịch thu toàn bộ tài sản có tại Việt Nam.
    Sau khi rời khỏi Việt Nam, ông B́nh đă nhiều năm khiếu nại, yêu cầu Nhà nước Việt Nam bồi thường thiệt hại. Luật sư của ông B́nh đă chính thức nêu vấn đề từ cuối năm 2003 nhưng các cuộc thương lượng giữa 2 bên đă không đạt được kết quả. Phiên ṭa quốc tế nhằm giải quyết vụ tranh chấp này xảy ra tại Stockholm (Thụy Điển) với án phí lên tới hàng triệu Mỹ Kim. Đó là một bài học đắt giá cho những Việt kiều về làm ăn tại Việt Nam.
    Như đă nói, hành tŕnh ngôn ngữ tiếng Việt xưa & nay muốn đi lại một đoạn đường lịch sử qua 3 loại người: Việt gian, Việt Cộng, Việt kiều. Họ gặp nhau ở một cái chung: nguồn gốc vẫn là người Việt Nam nhưng vẫn c̣n nhiều cái riêng về ư thức hệ. Mấy câu thơ dưới đây là tiếng chuông cảnh báo:

    Việt gian, Việt cộng, Việt kiều
    Cả ba thứ Việt lắm chiêu, nhiều tài
    Tương tàn huynh đệ c̣n dài
    Non sông gấm vóc lấy ai giữ ǵn?


    ===

    Chú thích:

    (*): “The general killed the Viet Cong; I killed the general with my camera. Still photographs are the most powerful weapon in the world. People believe them, but photographs do lie, even without manipulation. They are only half-truths... What the photograph didn't say was, 'What would you do if you were the general at that time and place on that hot day, and you caught the so-called bad guy after he blew away one, two or three American soldiers? How do you know you wouldn't have pulled the trigger yourself?”.

    (**): “The guy was a hero. America should be crying. I just hate to see him go this way, without people knowing anything about him.”

    Bài quá dài, phải cắt bớt

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •