Page 68 of 94 FirstFirst ... 185864656667686970717278 ... LastLast
Results 671 to 680 of 937

Thread: Ngày này năm xưa

  1. #671
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (2/7)
    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...ngi-vit-2.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-2-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (2)

    Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi
    (Dương Dũ Thúc, báo Nông cổ ḿn đàm, 1902)
    Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét hơn thua không rơ, cứ người sau th́ làm theo những điều người trước hay làm. Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo th́ nghèo đến đỗi không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày sinh tháng đẻ. Cổ đạo (1) là những lẽ phải; có vua tôi, có cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều đó mới mang tai(2). Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng, đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược (3) ra thanh, đổi như vậy th́ là phải lắm. Xin hăy coi gương người dị quốc (4), hoặc phương Đông phương Tây, phương Nam cùng phương Bắc, người ta thường hay đổi hay sửa, ít bắc chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi th́ quả là khờ và bị thiệt hại.
    (1) đạo lư cổ truyền
    (2) chịu những điều khốn khổ, có hại
    (3) trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch
    (4) người các nước khác

    Trí túc và Hiếu cổ
    (Quốc dân độc bản – tài liệu do Đông Kinh Nghĩa Thục soạn, 1907)
    Dân ta đại để bảo thủ mà không biết tiến thủ. Sở dĩ bảo thủ một là do trí túc, hai là do hiếu cổ (1). Thường thường cho rằng quê mùa chất phác là hay, lặng lẽ rút lui là cao thượng, không biết rằng như vậy là chỉ muốn ăn chơi lười biếng. Đó là tri túc làm trở ngại cho chí tiến thủ. Không biết rằng thế đạo (2) ngày một suy, mà lại than thở phong tục xưa không được phục hồi. Ḷng hiếu cổ ấy trở ngại cho chí tiến thủ.
    (1) Trí túc: biết thế nào là đủ; hiếu cổ; ưa thích những ǵ đă có từ xưa.
    (2) đạo sống ở đời

    Cái ǵ cũng đổ tại trời
    (Quốc dân độc bản, 1907)
    Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài, mà lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không pḥng ngừa đói kém mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn th́ nói con người sống chết có số, đề pḥng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại, cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi. Than ôi! sao lại có cách nói tự hại ḿnh đến thế?

    Dân khí bạc nhược
    (Phan Chu Trinh – Thư gửi Chính phủ Pháp, 1906)
    Nước Nam độ bốn mươi năm nay, vận nước ngày một suy, suốt từ trên đến dưới chỉ biết chuyện lười biếng vui chơi. Pháp chế luật không c̣n có cái ǵ ra tṛ, nhân tài cũng tiêu diệt đi mất cả. Người trên th́ lâu lâu được thăng trật(1), chẳng qua như sống lâu lên lăo làng; người dưới '74h́ đem của mua quan , thật là tiền bạc phá lề luật. (...). Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo th́ như ma như quỷ, lừa gạt bóc lột, cái ǵ mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu th́ như lợn như ḅ, giẫm cổ đè đầu, cũng không dám ho he một tiếng.
    (1) trật: cấp bậc phẩm hàm.

    Pháp luật đơn sơ
    (Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục, 1907)
    Dân trí càng mở mang th́ pháp luật càng phải tinh tế. Luật lệ nước ta sơ sài hết sức. Những điều rơ ràng th́ hoặc là phiền toái vô dụng, hoặc là khe khắt quá khó ḷng giữ đúng (...) Những điều ta nói ta làm hàng ngày mà theo luật quy tội, th́ sáng bị tội đồ, tội lưu, chiều bị tội phạt trượng. Đến những điều đáng phải theo cũng không thể theo được. Trên cũng như dưới đều mơ mơ màng màng, cơ hồ thành một nước không có pháp luật. Dân không giữ chữ tín, trong dân gian người ta làm khế ước với nhau, thường mực chưa khô đă bội ước. Quy tắc của trường học, kế hoạch của công sở phần lớn nằm trên giấy, treo lên cho vui mắt, đọc lên cho vui tai mà thôi. Trên dưới không tin nhau, mà mong giữ đúng pháp luật th́ thật là khó thay! Đă không giữ được
    th́ thay đổi đi là hơn.

    Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
    (Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân, 1928)
    Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả... Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, Nam hát Bắc ḥ, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đă có mấy phần người biết quyền nước đă mất th́ tính mạng không c̣n, hồn nước có về th́ giang sơn mới sống. Nếu những tấm ḷng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn th́ giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao? Nhưng tội t́nh thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh th́ đầy đường đầy ngơ. Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ th́ rặt nước mắt gừng; tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi th́ rặt là chuông tṛ trống hội; ngoài miệng th́ ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người th́ ái quốc mà đến lúc đếm khuya thanh vắng th́ tính toán những chuyện chó săn chim mồi. Cha ôi! Trời ơi! ái quốc ǵ, ái quốc thế ư? Đeo mặt
    nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt th́ ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.

    Học đ̣i làm dáng một cách sống sượng
    (Nguyễn Văn Vĩnh, Đăng cổ tùng báo, 1907)
    Cứ chiều đến, độ sáu bảy giờ, đứng ở góc hồ Hoàn Kiểm, trông kẻ đi qua người đi lại, thấy ngứa mắt quá. Nhăng trông mấy ông ăn mặc quần áo Tây. Gớm, sao mà khéo bắt chước, giả sử sự học hành, sự buôn bán mà cũng bắt chước được khéo thế th́ hay quá! Ông cổ cồn trắng, cổ nút xanh, nút đỏ, đầu th́ mũ cỏ, tay th́ ba toong, giày th́ bóng nhoáng, hai ngón tay th́ khéo gẩy gẩy cái nách áo gi-lê. Ông ngồi xe thực khéo lấy dáng. Ngày xưa cái ô lục soạn , cái điếu thuốc lá bọt. Nay những cái ấy đă cho là đồ cũ rồi. Cái xe Nhật Bản bây giờ cũng bỏ. Bây giờ có xe cao su, êm hơn mà ngồi ưỡn ra bệ vệ hơn nhiều. Tay cần quyển sách hay là cái nhật tŕnh (1), mắt giả lờ trông th́ lại ra tuồng (2) nữa. Em (3) thực là người hiếu sự duy tân. Cách ăn mặc An Nam đội cái khăn bằng cái rế, búi tóc như quả bưu , áo lướt tha lướt tư ướt, giày lẹp cà lẹp kẹp, móng tay găi đầu như người rũ chiếu th́ cũng bẩn lắm thực. Em cũng muốn rằng người An Nam ăn mặc cho gọn gàng sạch sẽ diện mạo tinh nhanh, nhưng mà thấy những tṛ sài sơn (4) của các ông cũng ngứa mắt lắm.
    (1) báo ra hàng ngày
    (2) trông có vẻ phường tuồng.
    (3) Bài này kư tên Đào Thị Loan là một trong những bút hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi in trong mục: Nhời đàn bà, nên xưng "em”
    (4) Ăn diện.

    Cái hay của người không biết học
    (Nguyễn Trọng Thuật - Điều đ́nh cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
    Từ Lê Hồng Đức bắt đầu gieo cái mầm cẩu thả , rồi Mạc Trịnh lại càng tài bồi cho thành cái rừng cẩu thả. Cẩu thả nên toàn mô phỏng, mô phỏng th́ không c̣n biết biến hóa nữa. Như người học vẽ tranh mà làm cách lồng phóng hay là can-ke th́ thế nào cũng không đúng. Kỳ cạch măi càng không đúng, bấy giờ khoanh tay lại lắc đầu lè lưỡi mà rằng "Bức vẽ mẫu là thiên tài trời đă định, mà ḿnh là bất tài trời đă định"... Bấy giờ dẫu có ai hoán anh cho biết cũng không tin, có ai biệt sáng biệt lập (1) cái ǵ cũng không thèm ngó tới.
    (1) sáng tạo.

    Óc sùng ngoại lại quá nặng
    (Nguyễn Trọng Thuật – Điều đ́nh cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
    Anh thợ vẽ cầm lấy cái bút là vẽ ngay phong cảnh Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự; thày đồ t́m đến cái bút là tả ngay lịch sử Hán Cao Tổ Trương Lương Hàn Tín; anh phường tuồng ra tṛ là diễn ngay tấn Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Thổ sản thổ hóa mà hễ cái ǵ tồi th́ cho một tiếng "nam” vào để giễu, như cái áo tơi gọi là áo cừu nam sột soạt, anh chàng dở người mà hay bàn thời thế họ gọi là Gia Cát nam. Cái ǵ tốt th́ cho một tiếng "tàu" vào để khen, như măng khô gọi là măng tàu. Ấy cũng v́ tư tưởng đă thiên di như thể, những nhà chế tạo nội hóa rất khốn khổ, đồ tốt không bán được phải thất nghiệt, mà những đồ thô bỉ tầm thường th́ may c̣n ngoi ngóp sống để kiếm ăn với những người quê mùa nghèo khó.

    Tính ỷ lại
    (Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)
    Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đă có Ngô xây - Việc ǵ vợ góa lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô không sang th́ vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng ḍm, nghiễm nhiên một đống bù nh́n rồi hẳn. Hỏi v́ cơn cớ làm sao? Th́ chỉ v́ ỷ lại.
    Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm t́nh người nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của ḿnh th́ có gánh ǵ không cất nổi. Nhưng tội t́nh thay, anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo, thím Lục lại ỷ có anh Cột, cô Hường rồi. Rày lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm.

    Quá tin ở những điều viển vông
    (Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)
    Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bày định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu; v́ nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo; v́ che mưa gió mà có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc ǵ cũng trông mong vào thần; kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của ṃn người hết, tin thần bao nhiêu th́ tai họa bấy nhiêu...

    Tư tưởng gia nô
    (Phan Bội Châu - Cao đẳng quốc dân 1928)
    Xem lịch sử nước ta tư xưa đến nay hơn ba ngh́n năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế. Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẳng thân giá (2) lại c̣n ǵ. Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu buộc cương vào th́ cắm cổ cứ đi, gác ách vào th́ cúi đầu cứ lủi . Gặp Đinh th́ làm nô với Đinh, gặp Trần th́ làm nô với Trần, gặp Lê Lư th́ làm nô với Lê Lư.
    Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa, canh thải, đă lấy làm hớn hở vênh vang; tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra th́ “cơm vua áo chúa"; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua", lại giữ chặt một hoạt kê vô lư (4). Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời măn kiếp.
    (1) thêm vào đó
    (2) giá trị con người
    (3) quanh năm
    (4) đại ư: Tự ḿnh làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười

    Cái tánh di truyền của dân tộc ta
    X.T.T. (Tiếng Dân, số 179, ngày 15-05-1929)
    Trong mục “Lật chồng báo cũ” chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu với độc giả trích đoạn các b́nh luận về đạo đức xă hội của các nhà văn hóa thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 trên các báo chí công khai.
    Trước hết là một số bài của báo Tiếng Dân do nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số 1 của báo ra ngày 10-08-1927. Sau khi ra số 1966 ngày 24-04-1943, báo Tiếng Dân đă bị nhà cầm quyền đ́nh bản.
    Tức như hiện trạng xă hội ta ngày nay, thử hỏi cái tánh di truyền từ thuở này ở đâu, th́ không biết t́m vào đâu, mà nói đến cái xấu th́ hiện trên thế giới đều lấy ḿnh làm gương. Xin kể mấy điều về h́nh di truyền của người ḿnh như sau này: Một là học để làm quan. Người sinh ở đời có học mới khôn, có khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người ḿnh có cái tánh di truyền "đi học cốt để làm quan !" v́ cái tánh đó, cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học, phép thi đổi ra cách mới, càng chiến thương chiến, giặc tới bên chân, mà người đi học trong nước vẫn ôm lấy cái hy vọng "làm quan" là chú chốt. Hai là, làm quan ăn lót. Người ḿnh mà có cái hy vọng làm quan không phải v́ ra mà kinh bang tế thế đặng ăn lộc nước mà thôi đâu, cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng nữa, v́ thế nên làm quan mà ăn của dân, cho là cái quyền lợi tự nhiên ḿnh được hướng, tập dữ tánh thành, không ai cho là điều quái lạ hổ thẹn nữa. Ba là, a dua người quyền quư. Theo thời đại chuyên chế, ông quân chú là thần thánh
    bất khá xâm phạm, lần lần rồi đến những chân tay đầy tớ của ông cũng không ai dám động đến. Ngu dốt mà cũng xưng là thông minh, bạo ngược mà cũng tán răng nhân đức. Dầu cho ké nào có dựa được một chút quyền vị nọ mà đứng vào cái địa vị, dân cũng không dám nói đến. Tham nhũng đến đâu mà cũng phô rằng thanh liêm, hèn mạt đến đâu mà cũng tôn làm tài đức. (Thử xem mấy bài tấu, sớ, biểu, chương của đám quan trường, cùng những đơn nguyện lưu các phú huyện, th́ gần như trong đời không có ông hôn quân cùng kẻ tham lại nào, mà thuần là thần thánh tài năng cả). V́ cái tánh đó di truyền đă lâu, cho nên bất kỳ việc ǵ, người ra thế nào, đă là quyền quư th́ cứ nhắm mắt tán dương. Thói này th́ ngày nay lại thịnh hơn ngày xưa" v́ không cần phải vua quan mà thôi, xem những tiếng "vạn tuế" cao xướng hàng ngày th́ đủ biết! Bốn là, trọng xác thịt. V́ trọng xác thịt, nên ngoài sự án sung mặc sướng, ở yên ra, gần như không có tưởng ǵ nữa, tự ḿnh đă thế mà đối với kể khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét, nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn th́ sinh ḷng hâm mộ muốn bắt chước theo, dầu có hại ṇi nát giống, mắng mẹ đạp cha, mà đạt được mục đích th́ cũng không từ. Những điều như thế kể ra không xiết, nếu những điều xấu cũ cứ một mực thịnh hành, mà không có cái ǵ ngăn ngừa, lại thêm cái văn minh xu xác thế lực kim tiền noi theo mà thối giục lên nữa, thôi th́ lửa nọ được dầu, sóng kia thuận gió, không những quét sạch bao nhiêu tánh di truyền tốt của ông bà ngày trước, mà c̣n có thể cuốn cả hai mươi triệu đồng bào ta xoay vào cái rốn biển trầm luân mà không sao
    ngóc đầu dậy được Ai mà nói rằng cải lương, xưng rằng tiến bộ, xin trước nhất bắt đầu từ chỗ cái tánh di truyền của ta mà phù thực điều tốt bỏ hẳn điều xấu rồi mới nói đến chuyện khác.

    Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc
    (Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, 1912)
    “Xét nước ta đời thụ phong Trung Quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là tṛ chơi, không coi là vẻ vang. Kẻ lấy Trung Quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối (1): vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta (2) lại càng nhiều. Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung Quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than , tiếng cười của sĩ phu Trung Quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang. Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.
    (1) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại.
    (2) triều ta đây tức là nhà Nguyễn.

    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  2. #672
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (3/7)
    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...ngi-vit-3.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-3-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (3)

    Thạo sử người hơn sử ḿnh
    (Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, 1914)
    Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao. Tồ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ - phát nguyên từ nơi nào.
    Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại c̣n lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)... chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ v́ cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
    (1) các việc thuộc về đ́nh đám, ma chay, cưới xin…
    (2) hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn
    (3) tức lịch sử Trung Hoa.

    Ai cũng học mà chẳng học ai cả
    (Ngô Đức Kế, Nền quốc văn - Tạp chí Hữu Thanh, 1924)
    Người nước ḿnh từ xưa đến nay, cái tâm lư đối với việc học là học mà đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước ḿnh tôn sùng đạo Khổng, song đó là v́ học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải v́ tôn sùng mà phải học. Cho nên ngày trước triều đ́nh th́ Hán tự th́ người ḿnh lo học Hán tự để lấy ông cử, ông nghè. Ngày nay Chính phủ bảo hộ thi Pháp văn th́ người ḿnh lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán…

    Không có can đảm là ḿnh
    (Nguyễn Duy Thanh, Muốn cho tiếng An Nam giàu, báo Phụ nữ tân văn, 1929)
    Ông Dorgelès trong quyển Con đường cái quan có nói đến thói hay bắt chước của người ḿnh. Đại khái ông nói rằng: "Ngày xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, h́nh như phải dịch tiếng ḿnh ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào th́ lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn".
    Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng phải.
    ...Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà cũng lạ thay cho người ḿnh không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang thương có khác ǵ chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá ḿnh nói "Bức tranh mây chó vẽ người bể dâu”(2) tất phần nhiều người cho là mách qué!
    Người Tàu trước kia làm ǵ có những tiếng cộng ḥa, cách mạng, cá nhân, vật lư học, kỷ hà học (3)… V́ ḷng sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người ḿnh th́ không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, th́ cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.
    (1) hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: "Trải qua một cuộc bể dâu” và "Lạ cho mặt sắt cũng ngây vi t́nh”.
    (2) một câu trong "Cung oán ngâm khúc”. "Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”
    (3) tức h́nh học.
    (4) tức từ điển.

    Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học tṛ
    (Phạm Quỳnh, Bàn về quốc học, Nam phong, 1931)
    Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy tṛ chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học tṛ! Ấy cái t́nh trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu th́ làm học tṛ Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học tṛ Tây mà thôi... chưa mấy ai là rơ rệt có cái tư cách - đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà thôi - muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả. Như vậy th́ ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
    (1) suốt đời.

    Học không biết cách
    (Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, năm 1913)
    Về đạo cương thường cứ nói rằng thâm nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều ǵ gọi là thâm nhiễm cả. Trong hết cả số người theo Nho học th́ họa là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. C̣n những bực nhoàng nhoàng th́ thường cứ thấy người học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy vào tính t́nh riêng của người nước ḿnh nó ra sao... Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước ḿnh có, cho đến những điều ḿnh không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ. Cương thường đạo lư toàn là giả dối hết cả, không có điều ǵ là có kinh có điển.
    (1) thâm nhiễm: ảnh hưởng sâu sắc.
    (2) kháp: tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp
    (3) bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật đời Đường.

    Chỉ học theo lối ṃn
    (Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930)
    Về đường học thuật và tư tưởng th́ xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lư và nhà Trần th́ sự học của ta theo lối huấn hỗ (1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về sau th́ theo cái lối học của Tống nho. Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi của lối học ấy chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác. Phần nhiều người trong nước lại có cái tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đă đủ hết cả rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo cho đúng những điều ấy mà tiễn lư (2) thực hành, chứ không ai để ư mà t́m cho đến cái chân lư nó thường lưu hành biến hóa. Cũng có người đạt tới chỗ uyên thâm của Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cái học sâu xa là tự ḿnh phải lư hội (3) lấy chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được. Bởi vậy các tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ để tả cái tính t́nh của ḿnh mà thôi, không hay làm sách vở để phát minh tư tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo th́ rộng khắp cả nước mà cái học thuyết th́ không thấy có ǵ là phát minh vậy.
    (1) lối học bám vào từng chữ để giải thích
    (2) tiễn ở đây là noi theo; tiễn lư là theo cái lư vốn có
    (3) hiểu

    Giỏi bắt chước, thiếu sáng tạo
    (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)
    Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn ư chí tâm t́nh của ḿnh, cũng không phải là người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người th́ họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công...
    Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có tính chất lưu động (1) và phiền phức (2), nhưng thiếu hẳn hoạt khí (3), cách biến hóa chỉ ở trong phạm vi h́nh thức...
    (1) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động, mềm mại
    (2) rườm rà nhiều mối
    (3) sức sống.

    Những mâu thuẫn nội tại
    (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
    Nói chung người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lư tính. Yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đă vạch sẵn, không đ̣i hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển.
    Chẳng có mặt nào của tính cách người Việt lại không có mặt bù lại và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đă nói vế tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và những người lao động sẵn sàng làm những trong việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.
    Chúng ta cong đă nói về tính phóng túng bông lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ dàng khám phá ở người dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định chiều hướng tâm hồn người nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay những người thợ mỹ nghệ. Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người Việt th́ ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là những tay dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ, là những kẻ sính kiện tụng không ai địch nổi, là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được bằng cấp.

    Phá hoại rồi bịa ra những thứ không đâu để thờ (Vũ Ngọc Phan, Chuyện Hà Nội, năm 1944)
    Kư văng là kư văng. Ngậm ngùi hay nhớ tiếc cũng đều là vô ích, nhưng đọc lại lịch sử Việt Nam, người ta không khỏi lấy làm lạ về cái tài phá hoại của người Việt Nam ta, một dân tộc vốn có tính thích duy tŕ cả những cái không đáng coi là quốc hồn, quốc tuư.

    Khiêm nhường giả, kiêu căng thật
    (Phan Khôi, Báo phổ thông, năm 1930)
    Có sao nói vậy mới là ngay thật. Vẫn biết tự khiêm là một nết tốt, song làm người có sự tự tin th́ mới ra người. Cái chỗ ḿnh đă tự tin rồi mà nói ra không dám tỏ ư quả quyết, th́ lại thành ra giả dụ, mất sự ngay thật đi.
    (…) Người nước ḿnh đă giả dối có tiếng, mà trong đám học thức, cũng lại giả dối quá người thường. Thật bụng th́ kiêu căng tự phụ, coi người ta nửa con mắt, mà nói làm ra bộ khiêm nhường, theo lời tục nói, ở nhà như con tép. Cái sự tự khiêm giả dối ấy mỗi ngày một thêm lêm, làm cho sự tự tin mất đi, dần dần chẳng có ai dám chịu trách nhiệm trung việc ǵ hết, mà ai ai cũng thành ra hiền nhân quân tử hết, v́ chỗ tự khiêm đó. Đó là cái bệnh di truyền mà Tống nho đă để lại.

    Tự giam hăm ḿnh trong lũy tre làng
    (Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)
    Tục nước ḿnh thường hay thiên trọng ở chốn hương thôn, quanh năm suốt tháng lẩn quẩn ở trong làng, chiếm được một chỗ ngồi nơi hương đảng đă lấy làm vinh dự, tranh nhau làm ông phó, tranh nhau làm ông xă, tranh nhau ăn trên, tranh nhau ngồi cao, chửi mắng nhau, đánh đập nhau, kiện tụng nhau. Cái câu "Hương đảng tiểu triều đ́nh" (1) cùng "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" luôn luôn ở cửa miệng. Có nhiều người hết cơ, hết nghiệp v́ một việc tức khí nơi hương thôn. Có nhiều người khánh kiệt gia tài v́ một bữa hương ẩm (2). Ngoài cái làng ra, không c̣n biết đến nước nhà là ǵ, thế giới là ǵ. V́ vậy mà tư tưởng cục cằn kiến văn chật hẹp. Mấy dăy tre nơi đầu làng đă là cái khám nhốt người ta rồi. Không những không có người nào ra ngoại quốc học tập làm ăn, mà ngay đến trong nước, mỗi tỉnh mỗi xứ cũng coi như một thế giới riêng.
    (1) làng xóm là một triều đ́nh thu nhỏ
    (2) cuộc ăn uống mời gần như cả làng

    Kéo bè kéo cánh nắm giữ quyền lực
    (Phan Kế Bính,Việt Nam phong tục, năm 1915)
    Xét cách bầu cử tổng lư của ta khi xưa thật lắm phiền nhiễu mà phần nhiều dùng cách tư t́nh (1), những người làm việc chẳng qua lại.là con cháu họ hàng với những chức sắc kỳ mục. Trừ ra những làng khó khăn không ai muốn làm không kể, c̣n về các làng tốt bổng (2), con cái nhà có thế lực tranh nhau mà ra, có mấy khi lọt vào tay người khác được. V́ thế lư dịch hay có bè đảng, mà nhất là hay a dua với hàng kỳ mục (3) để dễ cho sự thầm vụng của ḿnh.
    (1) tức sử dụng những mối quan hệ cá nhân
    (2) có nhiều quyền lợi
    (3) kỳ mục là những người có thế lực nói chung, c̣n lư dịch là những người đương làm việc, đương nắm quyền.

    Đám đông chỉ chờ kiếm chác
    (Vũ Văn Hiền, Mấy nhận xét nhỏ về dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1944)
    Việc làng thường định vào những ngày tuần tiết, là những ngày ở đ́nh có tế lễ và ăn uống. Khi nào có việc ǵ khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn th́ số người ra họp rất đông. C̣n khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mê nhưng chưa ai thấy lợi trực tiếp cho ḿnh th́ buổi họp rất vắng. Nhiều người chỉ ra tế lễ ăn uống rồi về mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao nhiêu người dự bàn mới là đủ.
    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  3. #673
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (4/7)

    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...ngi-vit-4.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-4-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (4)

    Cường hào lư dịch gian giảo điêu ngoa
    (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
    Công việc trong làng, trên th́ tiên chỉ không muốn nh́n đến, dưới th́ phường lư dịch chẳng qua cũng là con em đầy tớ các kỳ mục, há miệng mắc quai nón. Quyền hành của kỳ mục rất lớn, thế lực rất to. Mà trong hạng này, một hai người phi tay cường hào hách dịch, th́ là tay gian xảo điêu ngoa, c̣n nữa chẳng qua a dua về mấy người ấy mà thôi. Phần nhiều ích kỷ, họ có thiết ǵ đến vận dân, chỉ động có chút lợi lộc th́ xâu xé nhau hoặc dân đàn em hơi có chút ǵ lầm lỗi th́ bới móc hạch lạc. Những người có kiến thức, cho việc hương thôn là việc nhỏ nhặt, không thèm tưởng đến, không mấy nơi cải lương được tục làng, cho nên tục hay.

    Người dân quen sống cẩu thả
    (Ngô Tất Tố, Thời vụ, năm 1938)
    Dân ta xưa nay chỉ quen sống "sau lũy tre xanh", không thạo cách hội họp. Vả lại về tinh thần lại hay có tính cẩu thả, sống được là may, học hành mà làm ǵ... đó là những câu họ thường trả lời cho ta khi ta khuyên họ nên học cho biết.

    Làng xóm “quân hồi vô phèng”, không ai bảo được ai
    (Vũ Văn Hiền, Mấy nhận xét nhỏ về dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1904)

    Làng ở xứ ta như một hội riêng của tư nhân. Nếu cái đặc tính của một pháp nhân cai trị(1) là quyền ban hành những nghị định có ư nghĩa cưỡng bách, buộc mọi người thi hành, th́ làng xứ ta quả không phải là một pháp nhân cai trị.
    ...Muốn đắp một con đường ư? Quyết định năm nay, nhưng có nhẽ rồi một hai năm sau mới làm xong, mỗi họ mỗi thôn mỗi gia đ́nh ung dung tiện lúc nào th́ làm lúc ấy. Muốn đào một giếng nước ăn ư? Nếu người khởi xướng ra việc đó không can đảm đứng ra mà đốc thúc th́ dân làng cứ chịu khó ăn nước ao măi. Hội đồng làng xă đặt lệ cấm đổ rác ra đường cái ư? Nếu không có một mối hiềm thù riêng từ trước, th́ không một chức dịch nào thấy ḿnh có trách nhiệm là ngăn cản hay trừng phạt người làm trái lệ ấy.
    Thường thường những cuộc bàn căi trong những buổi họp việc làng không dẫn đến một kết quả thiết thực ǵ cả.
    Biết bao nhiêu luật lệ của cơ quan cai trị đă bị xếp bỏ không thi hành được chỉ v́ một vài người không muốn nghe theo.
    Chỉ cần một kẻ phản đối cũng đủ làm cho điều đề nghị hay đến đâu cũng phải gác bỏ. Mà ở làng nào cũng có vài viên kỳ mục, vài người bướng bỉnh, bao giờ cũng giữ thái độ phản đối: Hoặc v́ họ thấy công việc sẽ làm không trực tiếp lợi cho họ, hoặc v́ họ ghét người khởi xướng ra công việc ấy hoặc v́ họ nghĩ rằng người khởi xướng định bới việc ra để ăn - điều nghi kỵ sau này, tiếc thay, nhiều khi cũng đúng.
    (1) kẻ có tư cách pháp lư

    Dân quá sợ quan
    (Phạm Quỳnh, Phụ mẫu dân hay công bộc dân, Nam Phong, năm 1926)

    Một cái thiên kiến rất trái ngược với đời nay và hiện c̣n phổ biến trong dân gian lắm, là cái thiên kiến coi quan là dân chi phụ mẫu, sợ quan như sợ cha mẹ, sợ thánh thần. Bởi dân sùng phụng mê tín quan như thế, nên quan mới có kẻ tác ác tác hại được như thế.
    Cũng bởi dân sùng phụng mê tín quan như thế nên kẻ nào chưa được quan th́ cậy cục cho kỳ được, kẻ nào đă được quan th́ hết sức mà giữ lấy, củ quốc(1) xô đẩy nhau về một đường ấy, ngoại giả không c̣n có học vấn, không c̣n có tư tưởng, không c̣n có sự nghiệp, không c̣n có công danh ǵ nữa, bao nhiêu cái khôn cái khéo chỉ dùng để ăn quẩn lẫn nhau, diễn ra trong xă hội một cái bi kịch có thể gọi là "gà què ăn quẩn cối xay".
    (1) củ: chữ Hán, nguyên nghĩa là kết hợp lại. Củ quốc như ngày nay nói cả nước

    Việc quan hỗn hào lẫn lộn
    (Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, năm 1939 )

    Các cụ ngày xưa quá tin vào sự nhiệm màu của đạo Khổng. Họ tưởng rằng lầu thuộc Tứ thư, Ngũ kinh, học hết mấy pho sử, làm được câu thơ bài phú là có đủ đức hạnh để dạy dỗ dân, đủ tài kinh luân để đưa dân đến cơi hạnh phúc. Họ tướng rằng đă là sĩ phu, th́ là một người hoàn toàn, một đấng thánh hiền, nên họ mới phó thác cho trách nhiệm quá nặng.
    Những quyền hành lớn ấy, từ xưa đến nay, quan trường vẫn nắm trong tay, tuy rằng cuộc sinh hoạt của dân chúng đă đổi thay nhiều lắm. Một ông huyện chẳng hạn, không biết rằng chức phận của ḿnh là phải làm những việc ǵ nữa. Ông ta là một ông quan toà lúc xử việc kiện tụng, một ông cẩm (1) lúc coi sóc việc trị an, một viên chức sở lục lộ (2) lúc thúc dân hộ đê... Đó là không kể cai trị là công việc chính của ông ta. Bấy nhiêu nhiệm vụ hỗn hào lẫn lộn là một điều khó khăn cho ông quan mà cũng là cái mầm cho sự lạm quyền. Và đối với những ông quan không theo đuổi một lư tưởng ǵ cao siêu, đó lại là một cái mầm cho sự ăn tiền.
    (1) cảnh sát.
    (2) sở giao thông.

    Đă thành bia miệng trong dân
    (Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)

    Khi chưa được làm quan th́ lo lót luồn cúi để được làm quan, khi đă được làm quan th́ cho rằng cái cầu phú quư đă tới nơi rồi, mất tất cả cái đức tính liêm sỉ, quên hết cả cái giá trị thanh cao. Mài dao cho sắc mà khoét xương dân, há họng cho lớn mà hút máu dân. Những câu cửa miệng "túi tham không đáy", “đèn trời thắp bằng mỡ dân", “cướp đêm là giặc cướp ngày là quan" đă là cái bằng cấp danh dự của đám quan trường kia vậy.

    Quan trường không có chuyên môn và chỉ giỏi xoay sở
    (Thân Trọng Huề, Con đường tiến bộ của nước ta, Nam Phong, năm 1918)

    Nước ta dùng người th́ hoặc lựa chọn ở trong bọn con quan hoặc lấy ở trong hàng khoa mục, mà mấy người khoa mục bất quá văn hay chữ tốt th́ đỗ, thế là làm quan. B́nh sinh học tập chỉ mấy câu trường ốc văn chương, lúc ra làm quan, th́ h́nh như bổ vào mặt ǵ cũng giỏi, tưởng quan lại bên Châu Âu chưa có ai toàn tài được thế. Cũng là một người lúc th́ bổ giáo chức làm một nhà giáo dục, lúc th́ bổ chính chức ra làm một nhà chính trị, lúc th́ sung giám đốc công trường làm một nhà công nghệ, lúc th́ sung chánh sứ đồn điền làm một nhà thực nghiệp, lúc th́ đi quân thứ làm một nhà tướng hiệu, mà hỏi ra th́ chẳng có một cái học thức chuyên khoa nào. Quan nước ta như thế trách nào mà chẳng mang tiếng bất tài.
    Ngày 31/5/ 1917, Báo Đông Kinh có một đoạn rằng "một tên đầu đảng trộm cướp kiếm cả đời không bằng một ông quan giỏi lấy tiền trong một năm". Ngày 12/7, Báo Hải Pḥng có một đoạn rằng "cái căn tính ăn tiền của người An Nam di truyền từ tổ tông, không dễ kể năm kể tháng mà chữa ngay được".
    (1) chỗ đóng quân.
    (2) tướng tá nói chung. Cả đoạn này có nghĩa chuyển sang làm một quan chức quân sự.

    Hư hỏng cả hệ nên không cách ǵ sửa chữa
    (Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1906)

    Cũng có đôi khi thay đổi một vài ông đại thần hoặc là thăng giáng một vài viên quan lại. Cái người bị đuổi đi đă đành là không làm được việc, mà cái người thay chân ấy cũng có phải là người làm được việc đâu?! Cái người bị cách(1), vẫn là gian tham mà cái người được bổ cũng không phải là người liêm khiết! Phương chi hôm nay bị giáng, bị cách, ngày mai lại được thăng được thưởng, ở nơi này can khoản(2) lại đổi đi nơi kia, th́ tuy có phạm tội tham, mang tiếng xấu cũng có hại ǵ đâu.Lâu rồi quen đi, đứa càn rỡ lại càng càn rỡ, chỉ lo đem tiền đi mua quan, đứa biếng lười lại càng biếng lười chỉ biết khoá miệng cho yên việc. Mũ áo thùng th́nh, ngựa xe rộn rịp, hỏi quan chức th́ ông này là đại thần trong triều, ông kia là đại lại(3) các tỉnh, chỉ biết có một việc là ngày đi hội thương(4) hay ra công đường xử kiện , c̣n hỏi đến việc lợi bệnh(5) trong nước hay là trong một tỉnh th́ mơ màng chăng biết một chút ǵ.
    C̣n đến việc đút lót người trên, sách nhiễu kẻ dưới th́ không cứ là quan to quan nhỏ, đều công nhiên cho là cái quyền lợi của người làm quan đáng được, dẫu có ai bàn nói đến cũng không kể vào đâu.
    (1) tức là cách chức, ngược với bổ là giao việc
    (2) can khoản: bị vướng vào một tội nào
    (3) cũng nghĩa như chức quan lớn
    (4) hội họp
    (5) tức lợi hại, từ cổ, nay ít dùng

    Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường
    (Nguyễn Văn Vĩnh, Chuyên mục Nhà nho, Đông dương Tạp chí, năm 1914)

    Các tật của nhà nho đại khái như sau:
    1- Tính lười nhác, làm việc gỉ không mấy ông chịu chăm chút siêng năng. Đi đâu th́ lạng khang rẽ ràng. Sáng không dậy được sớm, mà đứng dậy th́ làm thế nào cũng phải ngồi ngáp một lúc, rồi nào hút thuốc, nào uống nước, nào ăn trầu, nào rửa mặt sau mới nhắc ḿnh lên được mà ra ngoài.
    2 - Tính nhút nhát, động làm việc ǵ th́ lo trước nghĩ sau, không dám quả quyết làm ngay. Thí dụ như chưa đi buôn đă lo lỗ vốn, chưa làm ruộng đă sợ mất mùa. Quanh năm chỉ ngồi một xó không được một tṛ ǵ.
    3 - Hay nghĩ viển vông mà không lo việc trước mắt. Tiền sờ túi không một xu mà vẫn gật gù đánh chén, sánh ḿnh với Lư Bạch, Lưu Linh. Gạo trong nhà không c̣n một hột, mà vẫn lải nhải ngâm thơ, tỉ(1) ḿnh với Đào Tiềm, Đỗ Phủ. Học th́ chẳng được một điều ǵ thực dụng mà vẫn tự đắc là tai thánh mất hiền(2). Nói khoác th́ một tấc đến trời mà rút lại mười voi không được bát nước sáo.
    4 - Ngoại giả các tính ấy, lại c̣n một tính làm cho hại việc là tính cẩu thả. Xem điều ǵ hoặc làm việc ǵ, chỉ cẩu cho xong việc, chớ không chịu biết cho đến nơi đến chốn hoặc làm cho thực kinh chỉ(3) vững vàng. Lại một tính tự măn tự túc, học chưa ra ǵ đă lấy làm khôn, tài độ một mẩu con đă cho là giỏi. V́ các tính ấy mà làm cho ngăn trở sự tiến hóa.
    (1) so sánh.
    (2) người có tài có đức.
    (3) tạm hiểu: đạt tới chuẩn mực.

    Bóc lột thay cho quản lư
    (Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)

    Vua đè ép các quan lớn. Các quan lớn đè ép các quan nhỏ. Các quan nhỏ đè ép dân. Cái không khí áp chế chỗ nào cũng nồng nặc khó chịu, xuống đến bậc dân th́ không c̣n dân đạo(2) dân quyền ǵ nữa. Có miệng không được nói có tai không được nghe, phần nào sưu thuế nặng nề, phần nào quan lại sách nhiễu, biết chết mà không đám tránh, bị ép mà không dám than. Chốn thôn đă th́ đường xá khuất lấp, trộm cướp nổi lung tung. Ngoài thành thị một bầy quỷ sống, đua nhau ăn thịt dân uống máu dân. Mỗi năm băo lụt, dân bị chết đói, mỗi năm tật dịch, dân bị đau chết, không biết chừng nào.
    (1) lễ tế trời của nhà vua.
    (2) đạo, nghĩa gốc là giáo lư, chủ thuyết, dân đạo có thể hiểu là một quan niệm về người dân trong xă hội.

    Quan cao chức lớn cũng sống như kẻ hạ lưu
    (Tản Đà, Đông Pháp thời báo, năm 1927)

    Nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mày đay kim khánh mà gian tham xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương hút máu hút mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, như thế có phải là hạng người hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận. Lại nghĩ như những người tây học nho học, học rộng tài cao duyệt lịch giang hồ, giao du quyền quư mà quỷ quyệt giả trá, bôi nhọ ra hề, lấy văn học(1) gạt xă hội để mua cái hư danh, phụ xă hội thân người ngoài(2) để kiếm bề tư lợi , như thế có phải là hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận.
    (1) văn học ở đây tức là học vấn nói chung.
    (2) người ngoài: chỉ người Pháp cũng như người Tàu là các thế lực lúc ấy đang có nhiều ảnh hưởng.

    Từ ảo tưởng tới thoái hóa
    (Phan Khôi, Báo Thần chung, năm 1929)

    Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân(1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi c̣n đang đi học th́ người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng ḿnh ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi ḿnh sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp(2) ghi vào thanh sử(3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra tṛ chi, th́ trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn. C̣n người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan th́ lại ỉ rằng bấy lâu ḿnh đă có cái công phu minh đức, nghĩa là ḿnh đă học giỏi rồi, th́ bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi. Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái c̣ khẩu súng là ǵ. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng(!).
    (1) trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
    (2) cũng tức là sự nghiệp.
    (3) thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.

    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  4. #674
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (5/7)

    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...-vit-4_31.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-5-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (5)

    Tŕ trệ và bất lực
    (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)

    Bị ư thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không c̣n một chút hoạt lực(1) nào, không c̣n được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đă chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đă lấy cái học bă giả(2) của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.
    …"Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt t́nh cảm, quá câu nệ về h́nh thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không chút sinh khí.
    Qua ngay h́nh thức của thơ, ta cũng thấy rơ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xă hội có tính chất cấp tiến.
    (1) sức sống.
    (2) thường nói bă chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhăo nhoẹt.

    Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường
    (Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)

    Danh dự là có tài có đức có công nghiệp(1) có khí tiết thật, c̣n kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mă ngoài ấy th́ tất là lộn ṣng về cái chân giá trị. Nào trong xă hội mấy ai là người biết cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là cái danh dự thực! Hỏi trọng ǵ, ắt là vơng lọng cân đai, hỏi quỷ ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái ǵ là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm vóc, hỏi cái ǵ là sướng , tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ thu tiền. Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết người tợn tâng công khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần thế lo ǵ cũng xong xin ǵ cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông nọ, em lâm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng(2) ngôi thứ, ấy là vẻ vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như thế, trăm người đều như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nới!
    (1) cũng tức là sự nghiệp.
    (2) nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi thứ.

    Thiết thực nhưng lại phù phiếm
    (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)

    Về tính chất tinh thần th́ người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức kư ức th́ phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lư(1). Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo(2) và h́nh thức hơn là tư tưởng hoạt động. Năo tưởng tượng thường bị năo thực tiễn hoà hoăn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.
    Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Năo sáng tác(3) th́ ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng , dung hoà th́ rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có năo tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.
    (1) tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết.
    (2) những ǵ đă quá quen.
    (3) nói theo cách nói hiện thời, tức "sức sáng tạo" nói chung.

    Hay tự ái và hiếu danh
    (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)

    Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm quan trọng xă hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một vị trí tốt giữa những người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa măn tính hiếu danh, họ chẳng lùi bước trước một điều ǵ. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đ́nh nhân được thụ phong một loại bằng sắc nào đó.

    Thói tục di truyền
    (Huỳnh Thúc Kháng, Báo Tiếng dân, năm 1929)

    Một là, học để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mà không khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người ḿnh có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan", cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, mà người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan chủ chốt.
    Hai là, làm quan ăn lót: Làm quan... cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên ḿnh được hưởng, tập dữ tính thành(1) không ai cho là điều quái lạ hồ thẹn:
    Balà, a dua người quyền quư. Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược mà cũng tán rằng nhân đức. .. bất cứ việc ǵ người ra thế nào, đă là quyền quư th́ cứ nhắm mắt tán dương.
    Bốn là, trọng xác thịt (2): Ngoài sự ăn sung mặc sướng ở yên ra, gần như không có tư tưởng ǵ nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét Nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn th́ sinh ḷng hâm mộ, dầu có hại ṇi nát giống, mà đạt được mục đích th́ cũng không từ.
    (1) làm quen măi rồi thành ra một thuộc tính tự nhiên.
    (2) tức là trọng vật chất.

    Ỷ lại như một căn bệnh
    (Lưu Trọng Lư, Một nền văn chương Việt Nam, năm 1939)

    Tôi không nhớ vị Giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đă nói: “Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn". Lời b́nh phẩm có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự thực. V́ cái bệnh ỳ lại đă ăn sâu vào trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
    Không phải bây giờ mà từ bao giờ, ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đă tỏ ra ḿnh là một giống người sống một cách lười biếng và cẩu thả (...) trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn tư tưởng. Tự tử không hề cố gắng và tạo tác ra một cái ǵ hoàn toàn của ta, ta chỉ muốn hường thụ những của sẵn và cam tâm làm kiếp con ve của thơ ngụ ngôn (1). Ta đă vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lư cao xa. Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam cả.
    (1) ư nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để sống qua ngày Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn con ve và con kiến của La Fontaine, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.

    Ai mạnh th́ theo, bỏ hết liêm sỉ
    (Phan Khôi, Luận về khí tiết, báo Hữu Thanh, năm 1923)

    Sĩ phong (1) nước ta, suy đồi đi là tự đời Lê Trung Hưng về sau. Lúc bấy giờ các Vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh. Hóa nên cái tâm lư sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ Vua Lê để tránh tiếng phản quân, thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong ḷng, về sau tập thành quen, không c̣n biết thế nào là sỉ nhục.
    Một người như thế th́ trăm ngh́n người hùa theo, người trên như thế th́ người dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào ṿng danh lợi. Từ đó về sau, người ḿnh trở nên mềm như con bún, không biết vua là ǵ, không biết nước là ǵ, hễ ai mạnh th́ theo. Ḷng tự trọng của người ḿnh như ngọn lửa đă tắt, không c̣n bừng lên, như hạt giống bị ẩm, không c̣n nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới(2) lên, làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Ḷng tham lợi mạnh hơn ḷng tư kỷ(3) th́ luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ, ưa cái sống đục hơn cái thác trong, th́ mặt dạn mày dày đâu có quản.
    (1) tương tự như một thứ khí hậu trên phương diện tinh thần.
    (2) theo Tự vị An Nam Latin (1772 - 1773) đợ có một nghĩa cổ "trao của tin cho ai”, ở đây đợ lên tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận.
    (3) tự ư thức về cá nhân ḿnh.

    Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh
    (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)

    Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lư sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ c̣n thích ăn không ngồi rồi.
    Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm bởi nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Sau khi chất đầy trí nhớ các loại kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng c̣n nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó ganh ghét mà kiếm chuyện lại thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng lực lập luận khoa học.
    Có những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá. Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn đuổi, họ buộc phải bao quanh ḿnh một tấm màn bí mật. Làng xă cũng vậy, trong quan hệ với chính quyền trung ương họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập th́ cũng ương bướng bất phục.

    Nặng óc hư danh
    (Phạm Quỳnh, Danh dự luận, Nam phong, 1919)

    Dân ta là dân rất hiếu danh, mà hiếu hư danh, tật đó dẫu người nông nổi xét xă hội ḿnh cũng đủ biết. Từ trên xuống dưới từ thấp chí cao, từ anh khố rách trong làng cố cầu cạnh cho được chức trương tuần phó lư để được người ta khỏi gọi là bố đĩ, bố cu cho đến bậc phú thương nơi thành thị thi nhau mà mua lấy tiếng ông bá ông hàn để ra mặt thượng lưu trong xă hội, cậu cả cậu hai luồn lót hàng chục hàng trăm để được gọi là thầy thông thầy phán, hết thảy đều như có cái ma lực nó run rủi, phải cố chuốc lấy chút danh tiếng hăo mới măn nguyện.
    Không có ḷng danh dự mà có tính hiếu danh thời dễ táng thất lương tâm. Quỵ lụy khúm núm trước mặt người trên, châu tuần(1) nơi quyền quư để cầu sự nọ, khấn việc kia, ví phải đập đầu xuống đất mà lạy cũng cam tâm. Xét cái danh dự phổ thông trung xă hội, cái danh dự hàng ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế(2), thời phải chịu rằng người ḿnh ít có thật.
    (1) loanh quanh chầu chực nơi nào đó.
    (2) quan hệ trao đổi tiếp xúc với nhau.

    Sống không lư tưởng
    (Hoa Bằng, Hư sinh, Tri Tân, 1943)

    Có chí mà không làm nổi, đó là v́ tài lực không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người sau: sống ở đời, không có mục đích ǵ cao hết. Họ không có một cuộc đời lư tưởng. Họ không coi một thứ ǵ là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.
    Ngoài ra, lại c̣n một hạng cho ai cũng là người vơ vị , việc ǵ cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết hăn (1) của cha, mẹ, vợ, con vào ṿng trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói thâu canh. Họ chỉ cốt sống để t́m những thỏa măn về vật dục (2)...
    (1) huyết: máu, hăn: mồ hôi, ngày nay hay nói mồ hôi nước mắt.
    (2) mọi ham muốn vật chất.

    Mong t́m yên lành, hóa ra bảo thủ
    (Quốc dân độc bản, tài liệu do Đông Kinh Nghĩa thục soạn năm 1907)

    Trải qua các đời, dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể dùng tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống c̣n. Trên có vua hiền tướng giỏi th́ tạm thời yên ổn. Bất hạnh là không có vua hiền tướng giỏi th́ cả nước loạn ly, nhân dân lầm than. Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được b́nh trị(1), mà có lắm cuộc loạn ly, nguyên nhân là ở đó.
    Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành thực, nhẫn nại. Không biết lợi dụng những ưu điểm ấy th́ sẽ sinh ra ba cái tệ. Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ. Hai là dựa vào người mà không biết tự lập. Ba là yên thân ḿnh nhà ḿnh, mà không biết ái quần ái quốc. Không trừ ba cái tệ đó th́ dù có vua hiền tướng giỏi cũng chỉ b́nh trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được. Ngày nay phải nghĩ đến tự cường th́ ngày sau mới tự cường được.
    (1) xă tắc trong cảnh thái b́nh, có trên cô dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy.

    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  5. #675
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (6/7)

    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...ngi-vit-6.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-6-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (6)

    Từ chối mọi cuộc cải cách
    (Nguyễn Văn Huyên vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ năm 1939)

    Tầng lớp trên ở nông thôn, các kỳ mục(1) trong làng, phản đối mọi cuộc cải cách thực sự và sâu sắc. Đây là những người đă trả giá trong hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm để củng cố địa vị xă hội của ḿnh. Họ đă ở tuổi có thể b́nh thản ngồi xếp bằng trên những manh chiếu trải giữa đ́nh để đánh giá cung cách người ta phục vụ họ ăn uống ra sao. Nếu có ai dám nghĩ đến chuyện thực hiện một cuộc cải cách nào đó th́ người ấy chắc chắn chuốc lấy những mối hiềm thù không thương xót.
    (1) những người có điển sản hoặc từng có phẩm hàm và chức vụ tập hợp lại làm nên hội đồng kỳ mục, có nhiệm vụ đề ra các chủ trương chung của làng xă.

    Không h́nh thành nổi một dư luận sáng suốt
    (Vũ Văn Hiền việc cai trị ở thôn quê, năm 1945)

    Ngoài tinh thần độc tôn bè đảng, c̣n một trở lực nữa ngăn cản mọi công việc cải cách ở thôn quê tà dư luận trong làng, một thứ dư luận mạnh mẽ, ác nghiệt và mù quáng. Nhiều việc cải cách đă quyết định rồi đành bỏ dở chỉ v́ người thừa hành sống trong làng xóm, không thể chịu đựng được những dị nghỉ chế giễu mà hàng chục hàng trăm người nhắc lại ở khắp đầu làng cuối ngơ. Đă không có quyền bắt mọi người im, lại sống luôn với những người đó, hương chức tránh sao nổi ảnh hưởng của dư luận và sau vài ba tháng làm việc, người hăng hái đến đâu cũng đành “dĩ ḥa vi quư", bỏ hẳn những ư định của ḿnh để sống theo nếp cũ.

    Sự tự do, cam chịu bất công
    (Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, 1939)

    Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của ḿnh c̣n quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa. Tục ngôi thứ đă in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến lũy tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.
    Tục vị thứ hóa ra tục sùng bái nhân tước (1) một cách u ám đê hèn, và thay vào óc kính thượng là một óc nô lệ đáng khinh.
    Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường. Cũng v́ thiếu tự do - nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu - nên t́nh cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng v́ thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái năo ngờ vực. Sức phản động d́m dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.
    (1) Vị thứ tức ngôi thứ trong làng, nhân tước là những tước vị do con người đặt ra.

    Thù ghét mọi sự thay đổi
    (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử đại cương, 1950)

    Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây dựng được những công tŕnh huy hoàng phong phú. Chúng ta chỉ cốt sống được, và trong địa hạt sinh hoạt vật chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái ǵ có thể giúp cho ḿnh thích ứng với hoàn cảnh ác liệt, để theo đuổi một cuộc sống tầm thường kín đáo mà thôi. Bởi thế nếu thỉnh thoảng có một người nào có khí độ phóng khoáng, không chịu ép ḿnh làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài ṿng lề lối - mới vượt ra ngoài chứ chưa chắc đă xây dựng được cái ǵ mới - th́ xă hội đă xem là quái vật mà không dung. Hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện được một cái ǵ to lớn phi thường như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà Nội(1) chẳng hạn th́ cái mái nặng nề của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng tối ṃ của gian chính tẩm(2). Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ(3) ấy thường bị cái tính thiết thực của dân tộc ḱm hăm hay bài xích ngay.
    (1) pho tượng này cao 3, 95m, đặt ở chùa Quán Thánh.
    (2) gian nhà to rộng ở giữa.
    (3) bày ra kế lạ, có những tư tưởng mới mẻ.

    Tưởng nói thật mà hóa ra nói dối
    (Hoài Thanh, Thành thực và tự do trong văn chương, 1936)

    Văn chương ta từ trước từ nay v́ bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xă hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên(1). Văn chương thành ra một cách để dối ḿnh và dối người.
    (1) trong xă hội học có sự phân biệt giữa cái tưởng là sự thật, đang được một người trong xă hội công nhận và các sự thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo, ở đây ư nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.

    Hợm hĩnh quá đáng
    (Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hăn ở nước ta, 1939)

    Một vài ông vua nước Nam đă làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước ḿnh cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác(1) ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ.
    Lê Thánh Tông phê b́nh hai câu thơ của Thân Nhân Trung quan đại học sĩ tại triều ḿnh "Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn cảnh - Hàn giang thi lạc dạ tam canh" hợm hĩnh cho rằng dù Lư Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức(2)... cũng vị tất đă nghĩ được ra.
    Gần này người ta c̣n truyền tụng hai câu thơ phê b́nh thi văn bản triều(3): "Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán - Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường".
    Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn đáng gọi là thịnh hơn các triều khác, nhưng nếu bảo vượt qua cả Hán Đường th́ quá lố!
    Những lời tự khoe ấy cần phải cải chánh.
    (1) Thác giác: lầm tưởng.
    (2) Các thi hào nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung quốc.
    (3) tức triều Nguyễn.

    Tinh thần voi nan
    (Xuân Diệu, sinh viên với quốc văn, đầu năm 1945)

    C̣n những tật xấu riêng của người Việt ta là ǵ? Chỉ cần kể ra đây một cái tật đại biểu, cái tật to lớn nhất, rơ rệt nhất, có hại nhất là cái tinh thần mà tôi gọi là: tinh thần voi nan. Phải, những con voi to lớn lắm, có đủ chân đủ ṿi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài bằng giấy. Trong kinh tế những cái “imprimene" hay "boulangene universelle"(1) chẳng hạn là những cái nhà có dăm mươi thợ làm, những đại thương cục(2) là những hiệu bán một ít khăn quàng bít tất, th́ trong văn chương nhiều quyển sách là những sự bôi phết qua loa chẳng đủ tài liệu mà cũng chẳng nói ra được điều ǵ mới lạ. Mấy năm nay, các bạn chắc cũng bị cái mă khảo cứu nó đánh lừa, mua quyển sách về được cái b́a là có ư nghĩa.
    Một bản dịch "Ly tao" mà đem điệu Sở từ dịch qua loa ra lục bát là voi nan. Một tập sách nói nhảm dông dài mà gọi là tiểu thuyết, một quyển sách gọi là "Hát dặm Nghệ Tĩnh” mà chỉ góp nhặt những bài hát dặm vài huyện Nghi Xuân Can Lộc tại Hà Tĩnh, chứ chẳng thấy tỉnh Nghệ An ở đâu: đều là voi nan cả. Voi nan đề lừa độc giả, voi nan để làm tiền, kể làm sao xiết voi nan!
    (1) Tiếng Pháp chỉ các nhà in, các cửa hàng bánh ḿ lớn.
    (2) giống như các trung tâm nọ trung tâm kia thời nay.

    Co ḿnh trong hủ lậu
    (Văn minh tân học sách, 1904)

    Ḱa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ(1), bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lư, phù thủy ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm ǵ. Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tư được cái tiếng quèn đă vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ ǵn thế đạo(2), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh. Hạng kém hơn nữa thi chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác. Có một ông nào đă nói với các bạn hậu tiến(3): "Các thầy muốn ra làm quan, th́ phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới”, nếu không biết đến sách báo mới th́ thôi, chớ đă biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không thấy chuyện ǵ, để tự ḿnh lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thể thiệt nên lấy làm đau đớn!
    (1) đầu hồ: một tṛ chơi của người xưa, ném một cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được "Đại Nam quốc âm tự vị” miêu tả là "một cuộc chơi lịch sự”.
    (2) thế đạo: đạo lư ở đời.
    (3) hậu tiến: đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc thế hệ sau, chữ không phải người kém cỏi.

    Văn chương nặng về chơi bời đùa giỡn
    (Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta, 1939)

    Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ th́ chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi th́ chăm về văn thù ứng(1). Có những người nổi tiếng mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để đi thù phụng thiên hạ. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường một cách “jeu de mots"(2) mà thôi, th́ cũng chẳng quá nào!
    (1) thứ văn thơ làm khi giao tiếp khoản đăi nhau.
    (2) chơi chữ.

    Lười biếng và hay nói hăo
    (Xuân Diệu, Sinh viên với quốc văn, 1945)

    Tật đầu sổ là tật lười, tật làm biếng. Lười suy nghĩ thích nhàn nhă, thích ngồi không. Nếu máu chúng ta chạy mạnh th́ tất chúng ta phải xung xăng làm cái nọ cái kia chớ vô vi th́ chịu sao nổi. Vậy th́ trong văn học thôi ta đừng dùng cái khẩu khí hát cô đầu nữa mà phải thế này: cúc cung tận tuỵ.
    Thứ hai là tật "một tấc đến giời". Ngồi mà thanh tịnh vô vi th́ dễ hiểu vũ trụ lắm: Ta cho vũ trụ là thế nào th́ vũ trụ sẽ thế ấy chớ chi. Nhưng sự thật là ta phải đi nghiên cứu t́m ṭi mới hiểu vũ trụ được. Một tật nữa là năo(1) huyền hoặc, năo chuộng thần quyền. Gần đây trong thơ văn có cái mốt nói chuyện Liêu Trai. Có những thi sĩ nhất định lấy hồ ly làm vợ và nếu buông cụ Bồ Tùng Linh ra th́ họ không biết nói ǵ.
    (1) năo ở đây là một lối suy nghĩ, nay hay thay bằng "óc”

    Trọng mê tín và xem nhẹ trách nhiệm với xă hội
    (Nguyễn Trường Tộ(*), Tám việc cần làm gấp 1867)

    Trong dân gian, phần nhiều hễ có công sai đến thúc giục thuế khóa th́ cả hương hào lư dịch cũng lánh mặt. Thế mà ngày cúng thần th́ không thiếu mặt nào cả. Có những gia đ́nh không được khá giả, qua một kỳ cúng thần mang nợ suốt đời. Có người c̣n phải bỏ xứ đi phiêu tán. Thế mà họ không hề oán trách chuyện thần thánh phiền phức, lại đi oán trách sưu cao thuế nặng.
    (*) Nguyễn Trường Tộ thuộc thế kỷ XIX, nhưng về tư tưởng gần với các trí thức thế kỷ XX, nên xin phép được đưa vào đây.

    Khổ v́ hội hè
    (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, 1915)

    Xét cái tục hội hè của ta, rước xách rất phiền phí, ăn uống rất lôi thôi, chơi bời rất chán chê, tiêu pha rất tốn kém, thực là hại của mà lại mua lấy cái khó nhọc vào ḿnh. Đă đành mở hội trước là trọng việc sự thần (1), sau là cầu vui cho dân, nhưng trong mà rước xách tế bái lắm hóa ra khổ. Hội đến hàng tháng, chịu làm sao cho được?
    Vả lại đă gọi là hội, trừ ra việc đóng góp, việc ăn mặc cũng đă tốn kém nhiều rồi, c̣n ngần nào chơi bời, ngần nào cờ bạc, con em bỏ công bỏ việc ở nhà để đi hội, chẳng những vô ích mà lại hại thêm cho làng nữa.
    …Xưa nay chỉ mấy người hào trưởng (2) trong làng sính mớ hội v́ họ có nhiều món lợi riêng, như mở tổ tôm điểm, bài phu điểm (3), hoặc gá bạc để lấy hồ (4)… Họ mượn tiếng sự thần, kỳ thực lá cầu tư lợi. Mà khốn nạn cho dân đàn em lại phần nhiều là ngu xuẩn, nói đến việc sự thần không ai dám gàn trở ǵ nữa, dẫu khổ cực thế nào cũng phải nhắm mắt chịu. Nếu ai gàn trở th́ sợ thần quật chết tươi. Mà thần chẳng quật, bọn hào trưởng cũng quật, tội nghiệp!
    (1) sự ở đây là thờ phụng.
    (2) người có thế lực trong làng.
    (3) những địa điểm ăn chơi, bài phu cũng là một loại bài lá như bài bất bài cào…
    (4) tiền người đánh bạc nộp cho chủ ṣng gọi là hồ.

    Nạn “thần măn”
    (Ngô Tất Tố, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông thần nào đă - báo Thời vụ 1938)

    An Nam vốn là một nước nhiều thần nhất thế giới. Cái vạ thần măn(1) kéo dài mấy trăm mấy ngàn năm nay làm hại bao nhiêu trâu ḅ gà lợn... của chúng ta. Đành rằng cũng có nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ niệm, song cũng vô số thần cực kỳ bẩn thỉu dơ dáy, thí dụ như ông thần Cường Bạo đại vương chẳng hạn, nếu c̣n sống chắc phải đầy đi Côn Lôn. Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan cho cái đầu cái cổ.
    (1) quá nhiều thần, thừa thần,cũng như nạn nhân măn là quá nhiều người, thừa người.

    Mê muội hưởng lạc
    (Nguyễn Trường Tộ, tám việc cần làm gấp, 1867)

    Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than văn, thế mà đến ṣng bạc th́ cầm nhà bán cửa không tiếc. Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi th́ ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết...
    Cũng có nhiều người mới học kha khá đă truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng "Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường(1) th́ mọi việc sẽ đâu vào đấy". Rắp tâm hành động như thế, rơ ràng là quan trộm cướp của công chứ c̣n ǵ?
    (1) tức là thi đỗ, rồi ra làm quan tha hồ kiếm chác.

    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  6. #676
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Thói hư tật xấu của người Việt (7/7)

    http://bloganhvu.blogspot.com/2008/1...ngi-vit-7.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...-viet-7-7.html

    Thứ Năm, 1 tháng 1, 2009
    Thói hư tật xấu của người Việt (7)

    Lười nhác, ốm yếu
    (Phan Bội Châu, Bàí diễn thuyết tại trường Quốc học Huế, 1926)

    Người nước ta quư trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đă thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu Châu ập vào, người ta coi chừng đă tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục c̣n chưa nghiên cứu đến nơi. Cái căn tính lười nhác đă quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đăng tính dâm dê(1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải cách nào là công khóa2) về đường thể thao, nào là lợi ích về cách vận động. Trong một ngày có 12 giờ nửa ngồi chết trước cuộc tài bàn(3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện. Vận động đă không có công phu th́ huyết mạch lấy ǵ làm lưu thông, huyết mạch đ́nh trệ th́ thân thể phải hèn ốm cho rồi, dân mới hóa ra dân nô lệ, nước mới hóa ra nước bạc nhược.
    (1) thói đăng là cách sống buông thả, riêng dàm dê là ǵ, chúng tôi chưa tra cứu được, không rơ có phải là dàm dê hay không?
    (2) những công việc khi vào học phải làm là công, những học tṛ phải học là khóa, gọi chung là công khóa (Theo Đào Duy Anh , Hán Việt từ điển).
    (3) một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục).

    Đầy rẫy tệ nạn
    (Đỗ Đức Dục, vấn đề tổ chức những th́ giờ nhàn rỗi của người b́nh dân ở xứ ta, Thanh Nghị, 1945)

    Thử nh́n vào đám dân quê dư dật xem họ có việc ǵ, ta thấy ngoài công cuộc làm ăn, họ chỉ c̣n quân bài lá bạc thuốc phiện hay cô đầu. Đám dân nghèo cũng vậy, không phải là họ không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ đen, ḥng kiếm thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ. Thành ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng như nghèo, không to th́ nhỏ, cờ bạc đă trở nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho dân tộc ta vậy.
    Ngoài ra nếu không cờ bạc th́ người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm nhí, từ đó sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
    Không có ham muốn phiêu lưu (Văn minh tân học sách, 1904)
    Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi ṿng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy. Nước ta có thể không? Ĺa nhà mươi dặm đă bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! Ở lữ thứ(1) vài năm đă than thở quan hà đầu bạc(2). Nói ǵ đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao Miên không ai chịu đặt chân tới nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện giao tế, cái ǵ cũng giống nhau, thế mà người Tàu th́ ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội bên ta, c̣n người nước ta th́ chưa một ai đến thành Ngũ Dương(3) cả.
    (1) lữ thứ: nhà trọ, chỗ xa lạ.
    (2) quan hà: cửa ải và sông, quan hà đầu bạc chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu khiến người ta già đi.
    (3) thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ phủ Quảng Đông, chứ không phải Quảng Đông nói chung như một số tài liệu đă chú.

    Vay mượn cẩu thả thêm thắt tuỳ tiện
    (Nguyễn Văn Vinh, Tật huyền hồ sáo hủ, 1913)

    Ngày nay có cải lương (1) ǵ th́ sợ rằng trái đạo lư cũ của ḿnh. Đạo lư cũ của ḿnh là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà cúng phải t́m trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên Tàu các ơng ấy khóc cha ra làm sao, th́ cứ thế mà khóc. Gián hoặc (2) trong hai cách có điều ǵ khác nhau th́ cũng biết vậy, lúc tung việc th́ vớ được quyển nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo một lệ năo đó, th́ là nhà có văn phép.
    Trong cả các tṛ chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước nhưng cách vô lư. Tấn tuồng th́ lấy trong các sự tích của Tàu mà lúc Ta hát th́ quên cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân được chỗ nào hát được mấy câu nam th́ nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi.hài th́ khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, th́ làm măi.
    (1) cũng tức là cải cách.
    (2) giá như.
    (3) thời tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian.
    (4) nam: vốn được hiểu là những ǵ mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành nôm. Và chữ nam thứ hai th́ dùng như một động từ.

    Gọt chân cho vừa giày
    (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950)(*)

    Vô luận là vấn đề ǵ, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung Quốc giải quyết sẵn cho ḿnh rồi, cái công phu của ḿnh chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút ǵ. Trái lại, cái ǵ của Trung Quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, th́ chúng ta lại phải hăm lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta. Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng, một nhà triết học nào. Chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lư chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất măn với đạo lư xa mà băn khoăn khao khát đi t́m đạo lư mới.
    (*) Đây là một cuốn sách mỏng, do nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết và xuất bản ở Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chứ không phải Việt Nam văn hóa sử cương của tác giả in lần đầu 1938.

    Cái ǵ cũng giả
    (Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)

    Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xă hội Vệt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.
    Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng th́ một miếng thịt, người ta bày ra đủ tṛ: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương th́ lại bảo là giả dê.
    Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng th́ nó là lợn hay trâu, hay ǵ ǵ nữa, cái lưỡi sẽ biết tức th́, thế mà chúng ta cứ làm giả, th́ có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái ǵ mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra.

    Những cuộc khao vong nặng nề vô nghĩa
    (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)

    Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàm... đều phải khao vọng. Nhà vua cũng đă đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài th́ khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân th́ khao một con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền. Nhưng ngặt v́ tục dân đă quen, chiếu lệ ra mà làm th́ họ cung phải chịu, nhưng t́nh ư không thỏa hiệp th́ họ sinh ra lắm sự ngăn trở. Họ có câu rằng "Phép vua thua lệ làng" thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
    Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục, động ai có việc ǵ mới mọc đến ăn uống no say rỗi th́ giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém th́ đă thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng lọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
    Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không c̣n biết trời đất là đâu, người sự ăn uống không c̣n có sự nghiệp ǵ, như thể th́ trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược?

    Tài hèn trí đoản, bán quẩn buôn quanh
    (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)

    Việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái ǵ cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, th́ chẳng qua Hà Nội xuống Hải Pḥng, Sơn Tây xuôi Nam Định đă cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái hoặc vào đến B́nh Định, Sài G̣n. C̣n chỉ lo những nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc, mà quanh năm chí tối bán quẩn buôn quanh.
    Phàm làm việc ǵ có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu(1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều ǵ đă ngă ḷng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc có cơ tấn tới cũng phải tan không thành nữa.
    (1) tức có kết quả.

    Bôi bác, giả dối
    (Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, năm 1994)

    Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: qùa muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu ḷng khách, c̣n cái phẩm có tất hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người ḿnh có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất te bột, nặn xuề x̣a để trông càng to hơn, nhưng nhân th́ hết sức kín đáo và nhỏ bé v́ được một tí thịt chỗ bàng nhạc(1) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều -nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
    Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó lấy nhiều hoa mắt người ta được. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon th́ người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thức giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người ḿnh không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua th́ lấy làm sung sướng.
    (1) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.

    Cần mẫn một cách bất đắc dĩ
    (Nguyễn Văn Tĩnh, Xét tật ḿnh, Đông Dương Tạp chí số 12)

    Dân An Nam ta có nhiều tật xấu, duy có một tật làm biếng là không ai trách được (1). Chỉ hiềm một điều làm ăn th́ cần mẫn, nhưng lại không coi cái cần mẫn ấy là vinh hiển, tựa hồ như một điều bất đắc dĩ phải làm th́ làm, chớ không có ǵ vẻ vang. Hồ (2) nhờ được cày cuốc mà có dư ra th́ lo ngay danh miệng(3). Đến lúc lên được ông nọ ông kia, mà có ai nhắc đến phận cày phận cuốc khi xưa th́ xem h́nh như người ta xỉ vả ḿnh.
    Cái lư tường sai ấy là do trong bọn thượng lưu, trong các nhà chữ nghĩa lấy cái nhàn làm cái hân hạnh. Chỉ có dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều, c̣n gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra, không nghĩ đến.

    (1) ư nói phải nhận là người chăm chỉ.
    (2) nếu, giả như.
    (3) tiếng hăo.

    Không thiết chuyện ǵ
    (Phạm Huỳnh, Hoàn cảnh, Nam phong, 1924)

    Người nước ta, đối đăi với nhau một cách nghiêm khắc, trách bị nhau những chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, một tiểu lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không thiết chuyện ǵ: phàm những sự nghiệp lớn lao, những chủ nghĩa cao thượng cho là viển vông, không biết đem ḷng ham chuộng, không biết dốc chí theo đuổi.
    Tật thứ nhất của dân ḿnh là hay xét nét. Bới lông t́m vết, người nọ dùng trí khôn để ḍ xét người kia. Xă hội như cái sa-lông, đông khách ngồi, nhưng cứ rụt rè mà nh́n nhau, ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị, không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng thú.

    Trống rỗng tầm thường
    (Nguyễn Văn Vĩnh, Đời sống và khung cảnh An Nam, Báo L’Annam Nouveau, năm 1934)

    Trong sự bày biện của chúng ta thiếu hẳn sự hợp lư. Sự thiếu hợp lư này có đôi khi mang lại tính chất muôn màu muôn vẻ mà ờ những nước hiện đại không thể có: họ mắc chứng rập khuôn hàng loạt.
    Thế nhưng rút lại th́ ở ta cái ấn tượng chung vẫn là một bức toàn cảnh tầm thường. Con người tŕ trệ, quần áo đồ đạc cũ kỹ và đáng sợ hơn cả là người ta luôn luôn gặp những khung cảnh đẹp mà bên trong rỗng tuếch, những trang trí sặc sỡ tham gia vào một vở kịch nhạt nhẽo, cái nọ triệt tiêu cái kia, do đó mà chỉ có những vai phụ ra múa may để làm ra vẻ đang đóng những vai chính.

    Nông nổi, hời hợt
    (Thạch Lam, Theo ḍng, năm 1941)

    Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào ǵ, đều có một tính chung là nông nổi, hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề ǵ chúng ta cũng không biết được rơ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.
    Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính t́nh phong phú, dồi dào hay mănh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái ǵ tha thiết và cũng chẳng dám ghét cay đắng, ḷng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi ḷng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no.

    Đối với những tư tưởng lớn chỉ hiểu sơ sài
    (Nguyễn An Ninh, Lư tưởng của thanh niên An nam, năm 1924)

    Thu nhặt tất cả những ǵ về văn chương nghệ thuật đă được làm ra trên đất nước ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng manh so với các dân tộc khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành một chỗ đứng trên thế giới.
    Những tác phẩm đă đóng góp vào việc nâng cao tŕnh độ học thức của người Trung Quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, h́nh như các ông ấy chỉ biết mỗi một ḿnh Khổng Tử.
    Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đă gây tai hại: Các nhà Nho ta muốn Khổng hóa tất cả những ǵ nằm trong tầm mắt của họ, giải thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp ḥi của họ.
    Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hóa Trung hoa c̣n rất xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đă hiểu thấu đáo văn hóa Trung Hoa có đủ tŕnh độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ư nghĩa của văn hóa Pháp.

    Tín ngưỡng xen lẫn hoài nghi
    (Lương Đức Thiệp, Xă hội Việt Nam, năm 1944)

    Tín ngưỡng của người Việt không có tính cách đơn thuần. Họ nhận thức rằng trong vũ trụ có những lực lượng có thể nguy hại tới họ, nên họ t́m cách ngăn ngừa. Không rơ các lực lượng âm thầm tác động ra sao nên họ tế lễ để cầu yên. Đối với họ, ông thánh nào cũng thiêng, ông thần nào cũng mạnh, Phật tổ Lăo tổ đều là bậc thánh thần cả, bởi vậy họ phải kiêng sợ mà lễ bái để cầu lợi lộc. Thực ra, trong trí họ vẫn lởn vởn ít nhiều ngoài nghi. Đem chứng nghiệm với cuộc đời thực, họ thấy uy quyền của Thần Phật có mà cũng lại không. Thái độ lưng chừng và thiết thực làm họ dung ḥa được các tôn giáo. Họ không có một tín ngưỡng vững chắc nào

    Được đăng bởi Unknown vào lúc Thứ Năm, tháng 1 01, 2009

  7. #677
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    The End of China Inc? | 101 East



  8. #678
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hậu trách nhân...

    http://catbuicarolineth.blogspot.com...cong-hung.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/08...rach-nhan.html

    dimanche 28 avril 2013
    Hậu trách nhân...Nguồn: blog Văn Công Hùng.
    Kính mời quý anh chị đọc một bài xã hội.


    Hậu trách nhân...
    Có thể nói bây giờ, đi đến chân trời góc bể nào cũng gặp người Việt. Chả bù cho ngày xưa, mới cách đây hơn trăm năm, sau hàng năm trời lặn lội, Nguyễn Trường Tộ đến được nước Pháp rồi về suưt bị chém đầu v́ dám kính cẩn bẩm với vua rằng ở bển người ta đi xe hai bánh không ngă và đèn th́ thắp lộn ngược…
    Người Việt ra ngoài làm ăn, thăm thú… là một sự đổi đời rất lớn đối với cư dân của một đất nước lấy lũy tre làng làm biên giới từ ngàn đời nay. Nó khẳng định sức mạnh, vị thế của người Việt, nhưng đồng thời cũng đi kèm những hệ lụy…
    Không ai trong chúng ta có thể chấp nhận việc ra nước ngoài thấy người Việt bị kỳ thị. Nhiều người ra nước ngoài đă chụp những bức ảnh rất đau ḷng, nhẹ nhất là “nhắc”:
    Không lấy thừa thức ăn- chỉ bằng tiếng Việt- th́ đương nhiên dành cho người Việt.
    Nặng hơn th́ như vừa rồi một nhà hàng ở Trung Quốc tuyên bố không phục vụ người Việt và… chó th́ là quá xúc phạm.
    Chưa hết, đến ngay trong nước, chính người Việt cũng kỳ thị người Việt mà một chủ nhà hàng ở Phan Thiết và mới nhất là một cửa hàng ở phố cổ Hà Nội là ví dụ nhỡn tiền. Họ không phục vụ người Việt chỉ bởi người Việt… ăn cắp. Đau đớn thay, cái việc rất phản nhân văn, phản đạo lư ấy, thực ra, về mặt nào đấy, nó cũng… có một tí lư.
    Năm nào đó, ở Sigapore người ta đă bắt cả một nhóm trộm cắp sang trọng người Việt. Nhóm này bay sang Singapore như cơm bữa, vào các siêu thị và… lấy cắp hàng mang về Việt Nam bán.
    Cũng năm nào đó, một nữ giám đốc doanh nghiệp lớn, lương hàng trăm triệu một tháng, thế mà vào một cửa hàng miễn thuế nước ngoài cũng.. cầm nhầm một loại mỹ phẩm, tất nhiên là bị phát hiện. Rồi cũng năm nào đó, một người rất nổi tiếng, con một gia đ́nh đầy máu mặt, thế mà cũng… lận trong người một cái áo không phải của ḿnh khi vào một shop hàng hiệu ở một nước Châu Âu. Ồn ĩ một thời gian rồi… im lặng.

    Nhưng nó không im lặng trong kư ức của các nước đă được đón người Việt, đă xảy ra những việc tương tự như trên.

    Tôi cũng vài lần đi nước ngoài. Gặp rất nhiều người Việt đi du lịch. Phải nói rằng việc người Việt đi du lịch nước ngoài rất nhiều chứng tỏ dân ta đang giàu lên, sành điệu hơn, nhu cầu hưởng thụ lớn hơn. Nhưng mặt khác nó cũng chứng tỏ ngành du lịch Việt Nam thua trên chính sân nhà. Ở nhiều nước mà người Việt Nam sang nhiều họ có cả những khu phố, những dăy cửa hàng phục vụ người Việt, dùng chính người Việt… chém người Việt. Thế mới thấy họ giỏi.

    Trở lại việc gặp người Việt ở nước ngoài.

    Lên máy bay là đă thấy không khí rất… Việt. Th́ cứ gọi là náo loạn máy bay: Nói rất to, gọi nhau í ới, đổi chỗ loạn xạ, b́nh phẩm râm ran, đi lại nhốn nháo, bấm nút gọi tiếp viên liên tục, dù có khi chỉ để… đùa một câu hoặc hỏi những câu rất vô lư... gặp các đoàn tour du lịch đội mũ đồng phục đi theo cờ th́ c̣n ối chuyện để cười. Của đáng tội, rất nhiều người đang một nắng hai sương, uỵch phát có suất ǵ đấy, hoặc là được đền bù đất, hoặc là được con bao… thế là xuất ngoại, mang nguyên theo cái nửa chân chất nửa ma mănh của anh nông dân ra nước ngoài. Ngay ở trong nước kia thôi, thích đâu vất rác đấy, bạ đâu khạc đấy, tiện đâu... tè đấy
    (c̣n vào toilet tè th́ nam không bao giờ chịu nhấc cái nắp giữa lên, tôi cá 10 ông th́ đến 9 ông để thế đứng tè vào, sau đấy ai ngồi th́ người ấy chịu)…
    chướng tai gai mắt khắp hang cùng ngơ hẻm có cai được đâu. Hay cái đoạn đi xe ngoài đường mà không được bóp c̣i là khó chịu lắm rồi. Ô tô xe máy sắm ra cái c̣i để bóp, thế mà không được bóp, xe cứ nối nhau chạy câm lặng như cua ḅ, tức chết đi được.
    Mà chả cứ nông dân, tôi chứng kiến rất nhiều cuộc ăn buffet mà xấu hổ. Có mấy nguyên tắc ăn buffet, một là ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, hai là lấy xong nhường chỗ cho người khác lấy... Đây các bác người Việt ta, rất nhiều com lê cà vạt, rất nhiều giày đen áo trắng- tức là tầng lớp trên của xă hội- hoặc là đứng ngay tại bàn bốc ăn, chen chúc như… xin ấn đền Trần, hoặc là khuân từng đĩa tú ụ về bàn, hể hả như thu chiến lợi phẩm, và ăn không hết vất đầy ra đấy trong con mắt ngạc nhiên của người khác. Có được nhắc th́ nói rất ngang: Nó tính tiền hết trong ấy rồi.

    Thế nên để tránh xấu hổ, nhiều hướng dẫn viên phải phổ biến rất kỹ, rằng là các bác ăn bao nhiêu th́ lấy chừng ấy, hết lại lấy tiếp, vừa ăn được nhiều món, vừa được đi lại cho… nhẹ bụng để ăn tiếp. Có hướng dẫn viên c̣n… dọa: nếu lấy nhiều mà ăn không hết sẽ bị… phạt.

    Nên có lần tôi đi với mấy bác nhà văn lớn tuổi, các bác bảo có 4 điều khiến các bác luôn căng thẳng, ấy là lấy thức ăn nhiều (khi ăn buffet) sợ bị… phạt, tính tỉ giá tiền lúc mua sắm, đi tàu điện ngầm và t́m pḥng ở khách sạn…
    Có lần một anh bạn tôi là giảng viên của một trường đại học ở Hà Nội sang Lào dạy, nửa đêm anh phải từ Viên Chăn điện cho tôi phàn nàn rằng văn hóa rượu của Việt Nam đă tràn sang Lào. Tôi đă sang Lào nên biết, đấy là đất nước của tĩnh lặng và nhu ḿ. Hầu như rất ít người uống rượu ồn ào say xỉn như ta. Thế mà hôm ấy tập đoàn nổi tiếng H.A khánh thành cái sân vận động giúp Lào th́ phải, xong các bố kéo nhau uống rượu. Cái cách uống rượu chỉ ở Việt Nam mới có là hàng chục người đứng lên chụm lại rồi đếm một hai ba zdo đến mấy lần rất to làm kinh thiên động địa hàng xóm được mang ra phơi bày ở đây.
    Anh bạn kia nói xấu hổ không chịu được. Toàn bộ sinh viên trong kư túc xá đại học quốc gia Lào nhao hết ra sảnh để… chiêm ngưỡng.
    Mà đúng là không biết từ đâu các bạn trẻ bây giờ có cái kiểu uống một hai ba dzo lạ kỳ như thế. Không phải tự phát mà nó h́nh như trong các cuộc liên hoan có tổ chức hẳn hoi?
    Cái tư tưởng mua mâm th́ đâm cho thủng hiện rất rơ khi dân Việt ta vào khách sạn, vậy nên rất nhiều bi hài đă xảy ra.
    Với quan niệm tao đă thuê th́ nó là của tao, có ông ngồi táy máy cả buổi nghiên cứu bật tắt tất cả các loại công tắc, cho đến nửa đêm th́ phát hiện c̣n một cái đèn tranh chưa bật, thế là reo lên bật bằng hết. Dùng bàn ủi cá nhân cắm vào phích mà ở đấy nó đă tính rất kỹ để anh không thể dùng bàn ủi, thế là phụt, cháy cầu ch́. Tiền đền cầu ch́ quá tiền keo kiệt thuê người ủi. Không biết chữ nên không phân biệt được loại nào miễn phí loại nào trả tiền trong pḥng tắm, cứ xé ra xài vô tội vạ đến lúc nó tính tiền cho mặt méo như quai bị.
    Có anh đi Thái, khách sạn để bao cao su loại xịn ở tủ đầu giường. Anh này không dùng nhưng… thủ mang về. Lúc xuống trả pḥng, nhân viên khách sạn tính tiền, mọi người đi cùng mới trố mắt: xài ǵ nhiều dữ vậy cha? Anh này vội lục va ly t́m gói bao cao su… trả lại.
    Lại c̣n cái nạn… ḿ tôm. Đồn nhau ra nước ngoài th́ phải mang ḿ tôm. Mà khổ, đi học hay công tác dài hạn không nói, đây đi du lịch theo tour, nó lo từ A đến Z, no kềnh no càng, nhưng đă mang rồi th́ phải ăn. Thế là lọ mọ như cú suốt đêm, phân công nhau người th́ ăn cắp tô, người th́ giấu th́a… tối về x́ xụp chan chan húp húp…
    Tôi có dự một cuộc ḿ tôm như thế. Lần ấy chúng tôi đi Malaixia, đến khu du lịch Genting và ở khách sạn 11.000 pḥng. Khách sạn tất nhiên là rất xịn, nó tính toán chi li để không thừa và cũng không thiếu cái ǵ phục vụ khách. Tất nhiên là không có khoản… ḿ tôm.
    Nhưng quân ta th́ cứ phải là ḿ tôm. Thế là mấy ông lọ mọ run rẩy (v́ sợ lạc giữa cái trận đồ bát quái 11.000 pḥng) lần ṃ đi xuống nhà hàng mượn tô và th́a. Không có, thế là lấy trộm ly giấy và ống hút. Về làm ḿ trong ly giấy rồi lấy ống hút nhựa ấy thay… đũa. Nhễ nhă ăn quá thợ cày thợ hồ thế mà ông nào ông nấy hể hả như là vừa được… trả thù dân tộc.
    Ngay một số chủ khách sạn ở mấy thành phố du lịch nước ta mà tôi quen, họ cũng bảo phục vụ khách Tây sướng hơn, bởi Tây nó biết điều hơn. Người Việt đă vào là hành đủ thứ, từ sáng sớm đến đêm khuya, lúc nào cũng gọi được, có khi chỉ là những việc rất sơ đẳng, rất ngẫu hứng và hoạnh họe với tâm lư ông chủ.
    Cũng mới đây tôi chứng kiến mấy người vào nhà hàng kêu một con nhím, hẹn là đánh tiết canh và hấp. Nhân viên mang xuống bếp cắt tiết rồi làm dưới ấy thế là bị quát ầm lên, bảo là tao hẹn mang lên cắt tiết tại bàn mà. Và cương quyết từ chối không ăn dù nhân viên nói hết lời, xin lỗi hết lời. Không biết tự bao giờ cái tâm lư không tin nhau, tâm lư ông chủ bắt nạt nhau khi ḿnh có tiền nó khiến con người đổ đốn ra thế. Tôi biết hôm ấy cu nhân viên kia phải bỏ tiền ra đền con nhím khách hàng kêu mà không ăn kia.
    Sau đấy tôi thấy mấy ông ấy gọi rau và cơm và lặng lẽ cúi đầu ăn rất gượng gạo. Cái tâm lư mua mâm th́ đâm cho thủng của người Việt nó cứ hừng hực ở mọi nơi mọi chỗ như thế…
    Đang viết bài này th́ có ông bạn vào chơi, ông này kể làm cùng chỗ với một quan chức hàm tỉnh, tay này có tính rất lạ là… tham. Suốt đời đi nhậu không bao giờ rút ví, nhưng cứ gần hết tiệc th́ kêu thêm chai Chivas, rót ra nửa ly uống tại chỗ xong rồi… xách về. Chưa hết, tiện thể kêu thêm vài gói thuốc…
    Rất nhiều người Việt có ḷng tự trọng đi ra nước ngoài về phải viết báo mà kêu lên rằng, họ rất xấu hổ, đau đớn, thậm chí thấy nhục khi gặp đồng bào ḿnh cứ hồn nhiên mang vác thứ văn hóa kỳ lạ của riêng họ mà xuất ngoại. Thế nên, trách người một, về việc kỳ thị người Việt, th́ ta cũng nên nh́n lại ḿnh, trách ḿnh hai, về những ǵ mà ḿnh mang ra phô với thế giới…

    Nguồn: blog Văn Công Hùng
    Publié par Anonyme à dimanche, avril 28, 2013

  9. #679
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Người Việt Nam Hèn Hạ
    https://www.tvvn.org/nguoi-viet-nam-hen-ha-suu-tam/
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/09...-httpswww.html

    Người Việt Nam Hèn Hạ – Sưu Tầm
    June 13, 2019 | by Ban Tu Thư | 0

    Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa.
    Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.


    Cách đây đă lâu, tôi đọc “Người Trung Quốc Xấu Xí” của ông Bá Dương (Đài Loan), chưa bàn tới hay/dở/đúng/sai của nội dung cuốn sách gây tranh căi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật ḿnh của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách. Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong ḷng. Tôi biết thế giới đă từng có những cuốn “Người Mỹ Xấu Xí”, “Người Nhật Bản Xấu Xí”, rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này?
    Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ ḿnh trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” & “nh́n đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ”…

    Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?

    Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng ḿnh có quay cóp một cách hoàn toàn, không có chút tự trọng (đó là được hỏi, c̣n báo chí không cần hỏi vẫn có những h́nh ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy th́ thi cái ǵ? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó c̣n có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi th́ năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đ́nh, nhà trường, xă hội – những nền tảng đă cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn ḷng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế… trước thần tượng.

    Một dân tộc ǵ đă sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế? Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đă nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao?

    Đừng ai đổ thừa cho ai. V́ trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xă hội, xă hội đổ cho cha mẹ & nhà trường. Tóm lại, đừng đổ nữa. Hăy biết hốt về ḿnh đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi.

    Bởi người lớn có hơn ǵ?

    Một xă hội mà người ta đang sẵn ḷng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan th́ chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy tŕ sự thống trị trước nhân dân. Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn ǵ thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường & trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động?
    Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu.

    Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm”. Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn th́ hăy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời b́nh”. Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó!

    Tiếng súng không c̣n nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất Mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc c̣n phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân ḿnh. Cuộc chiến đó là ŕnh ṃ, là theo dơi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lư do, là bị bịt miệng tại ṭa, là con cháu theo lời lănh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ cḥm xóm của ḿnh v́ họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ ǵ khi quay lưng lại với dân tộc ḿnh? Đơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng v́ lợi ích cá nhân & gia đ́nh nó – nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu c̣n cái lư tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này?

    Đừng nói với tôi là “lư tưởng Hồ Chí Minh” hay “lư tưởng cộng sản” nhé!

    Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ Đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đă thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động”. Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ ḥa b́nh, tự do, hạnh phúc. C̣n bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đă cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân pḥng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,..

    Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân ḿnh. Họ c̣n biết làm ǵ nữa? Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho ḿnh, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức: Bên trên, chúng nh́n thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nh́n thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ c̣n biết nghĩ tới ḿnh + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh & ức hiếp bên dưới.

    Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?! Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lư, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân! Bọn công bộc đó đă cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài g̣n ngồi vạ vật dầm mưa dăi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan. Bọn công bộc đó đă đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đ̣i lại công bằng. V́ trong tay họ c̣n có ǵ để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới? Bọn công bộc đó đă đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền v́ không c̣n sức để chịu đựng chúng…

    Tôi sợ bọn chúng v́ bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xă hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi.

    Đáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng. Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém.

    Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những ǵ chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,… không c̣n một lựa chọn nào khác. Không biết làm ǵ khác, không có phản ứng ǵ khác! V́ chúng ta lương thiện.

    Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xă hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hăm hiếp đứa bé mới 3 tuổi. Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật. Tôi đọc tin một gă thanh niên có học chặt chém bạn gái ḿnh thành từng khúc chỉ v́ một chiếc xe máy và chút ít tài sản.

    Tôi đọc tin bọn chủ & lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng. Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt. Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay v́ bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp!

    … c̣n rất nhiều tin.

    Một dân tộc ǵ mà độc ác và hèn hạ thế?

    Dĩ nhiên không chỉ có ḿnh tôi biết đau đớn v́ những điều đó.
    Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc”.

    Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói ḿnh đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng t́m ṭi, cố gắng t́m kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” một cách đúng nghĩa.

    V́ hăy quên những h́nh tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Đó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, t́m cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết & chết. Không hơn không kém.

    Các bạn có t́m kiếm giống tôi không? Và các bạn có t́m thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:

    – Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.

    – Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?

    – Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!

    Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.

    C̣n những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, v́ đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu ḿnh đi, không cần suy nghĩ nữa làm ǵ cho mệt óc.

    Vậy cái ǵ đă gây nên nông nỗi?

    Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái ǵ cũng do lỗi cộng sản. Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái ǵ sai, họ cũng đổ vấy hết cho Cộng Sản.

    Nhưng Cộng Sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, th́ chúng ta cũng tệ không kém!

    Nghe nói cụ Tản Đà có câu:

    Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn!
    Cho nên quân ấy mới làm quan.


    Những ǵ độc ác, bẩn thỉu của Cộng Sản, những người khác đă nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ ḿnh cũng không cần nhắc lại.

    Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái ǵ đă làm Cộng Sản tồn tại lâu như thế?

    Ngoài sự cấu kết quyền lực – quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đă làm ǵ để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự Mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hăi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng c̣n làm ǵ nữa?

    Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, th́ hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngơ ngách tâm hồn.

    Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức.

    Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đă hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ,… V́ những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,… th́ họ c̣n sợ ǵ nữa? Việc ǵ mà họ không dám làm?

    C̣n những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng ḿnh, giúp đỡ ḿnh, ngự trị trong ḿnh, th́ họ c̣n biết dựa vào đâu để t́m lại niềm lạc quan mà sống? Mà tranh đấu để tự t́m lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đă ban cho mỗi chúng ta?

    Tôi có cảm giác như ḿnh đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?

    Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta.

    Chúng ta – những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ ḿnh lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách – nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực – một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lăng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm ǵ cho đúng.

    Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói:

    Đời chúng mày chỉ cần độc lập – tự do – hạnh phúc. Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản ǵ?

    Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân ḿnh, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những ǵ mà một con người có lương tri cần phải hành động.

    Bạn có đang tự hào v́ ḿnh là người việt nam không?

    Hỡi những con người ấu trĩ mang trong ḿnh một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào v́ tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” đă từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có một xă hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng?

    Chứ c̣n thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta c̣n không hơn con chó th́ cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?

    Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đă đến biển Đông”, “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn”,.. để mong ḷng dân yên ổn.
    Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đă từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đă “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Đĩ” chưa từng thấy!

    Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót.

    Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?

    C̣n dân việt nam th́ sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm ǵ? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.

    Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.

  10. #680
    Member nguoi gia's Avatar
    Join Date
    18-02-2016
    Posts
    2,067
    Hạ nhục Dân tộc Việt, gă Tàu khựa bị nữ nhi Việt tấn công

    https://tiengthongreo.blogspot.com/2...hua-bi-nu.html
    https://nuocnha.blogspot.com/2019/09...u-khua-bi.html

    31 May 2019
    Hạ nhục Dân tộc Việt, gă Tàu khựa bị nữ nhi Việt tấn công

    THÁI LAN: Trinh Dương, một cô gái người Việt đang làm việc tại thủ đô Vọng Các ở Thái Lan hiện nổi tiếng như cồn trên mạng internet với hành động đánh thẳng vào mặt một gă Tàu khựa, sau khi tay này tuyên bố Việt Nam là một tỉnh thuộc Trung Cộng và dân Việt là nô lệ của người Hoa.
    Theo đó, trong một ngày được nghỉ việc về sớm do ṭa nhà công ty tiến hành bảo tŕ hệ thống điều ḥa nhiệt độ, Trinh Dương có dịp gặp gỡ một cặp vợ chồng người Hoa đang cùng đứng chờ tàu điện ngầm tại nhà ga.

    **

    Có lẽ 2 người này là du khách đến Thái Lan nên không rành đường xá. Đang không được vui v́ phải kết thúc công việc và trở về giữa cơn mưa tầm tă, nhưng khi 2 người khách lạ hỏi đường bằng tiếng Anh, Trinh Dương vẫn vui vẻ hướng dẫn b́nh thường.
    Trong câu chuyện hỏi han qua lại, bất ngờ người đàn ông kể về việc họ mới du lịch qua Việt Nam và thấy dân chúng biểu t́nh quá xá.
    Mặc dù nắm rơ thông tin người dân nước ḿnh biểu t́nh phản đối Formosa và nhà cầm quyền CSVN về vấn đề môi trường, nhưng Trinh Dương vẫn giả bộ hỏi ông ta có biết dân chúng Việt Nam biểu t́nh về chuyện ǵ hay không.
    Thấy cô gái hỏi sâu về câu chuyện biểu t́nh ở Việt Nam, người đàn ông liền nh́n Trinh Dương với vẻ ngần ngại rồi hỏi cô là người Thái hay người nước nào.
    Biết họ ái ngại, nhưng v́ muốn cặp vợ chồng người Hoa nói thật những ǵ họ nghĩ trong đầu, Trinh Dương liền nhận ḿnh là người Nam Hàn.
    Ngay lập tức, người đàn ông liền tuôn ra một mạch:
    “Biết! Tụi nó biểu t́nh chống cái công ty Formosa bên bọn tao. Mà đâu phải có mỗi Việt Nam, có mấy nước khác cũng từng làm ăn với Formosa. Có sao đâu? Mà bọn lănh đạo bên Việt Nam cũng ăn tiền rồi, bây giờ đuổi th́ đền đi. Làm ǵ mà biểu t́nh thấy ghê. Mà Việt Nam thực ra là một tỉnh của Hoa Lục. Tụi tao sẽ sớm đ̣i lại như Tây Tạng thôi. Dân Việt nó cũng giống dân Tây Tạng, là nô lệ (slave) của tụi tao mà thôi! Tụi tao là dân Đại Lục, là dân tộc đỉnh nhất (unique)...”.
    Nghe gă đàn ông bô bô hạ nhục đất nước và dân tộc Việt, nỗi bực dọc đang sẵn trong người Trinh Dương bỗng bốc hỏa lên thành cơn thịnh nộ.
    RẦM... không kiềm chế được sự giận dữ, Trinh Dương nhào tới vung tay đấm thẳng vào mặt gă đàn ông đang ra rả những lời nói khinh miệt dân tộc Việt. Tay này bất ngờ choáng váng ngă ngửa ra, c̣n bà vợ th́ hết hồn la toáng um sùm một góc nhà ga. Nhiều khách chờ tàu đứng gần đó liền chạy đến can ngăn.
    Thấy mọi người xung quanh không rơ cớ sự, Trinh Dương liền lớn tiếng chửi thẳng vào mặt cặp vợ chồng Tàu khựa:
    “Mày nói ǵ? Nói lại lần nữa tao nghe. Có dám nói lại phân nửa câu nói của mày không? Cái đám Đại Lục thối tha tụi mày dám coi thường tụi tao hả? Tao là người Việt Nam. Tao nói cho mày biết, tụi lănh đạo nước tao không đánh tụi mày, th́ người dân tụi tao đánh! Dân tao không xin xỏ, không cúi đầu!”.
    Lúc này, cặp vợ chồng Tàu khựa hiểu ra họ đă gặp phải ai, liền dẫn nhau lủi đi chỗ khác.
    C̣n Trinh Dương vừa run bần bật ǵ tức gận, vừa túa nước mắt khóc v́ ức cho đất nước và dân tộc Việt. Ngồi trên tàu mà đầu óc cô không ngừng lởn vởn các câu hỏi:

    “V́ đâu nên nỗi? Tại sao vậy? V́ sao nó dám nói vậy? V́ sao nó khinh dân ḿnh? Vi sao nó dám nói như vậy với một người nước ngoài bất kỳ?...”

    Về đến nơi ở, Trinh Dương cảm thấy tay đau mới để ư có máu ứa ra, rửa đi rồi nhưng vẫn ứa ra tiếp.
    Biết được câu chuyện của Trinh Dương, mặc dù không ủng hộ bạo lực, nhưng hầu hết mọi người đều đồng t́nh với phản ứng của cô gái mảnh mai xinh đẹp - xứng đáng là con cháu của các nữ kiệt Việt như Hai Bà Trưng, Bà Triệu...


    (Bước Chân Việt Thời Báo)

    Posted by Tiếng Thông Reo at 8:04 AM

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •