Dưới đây là phần trích từ tác phẩm "Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù" của Mũ Xanh Út Bạch Lan cho thấy ông và Bùi Đức Lạc ra Huế trong mủa Hè Đỏ Lửa cùng một ngày và hai tác giả đă có những cảm xúc khác nhau về xứ Thần Kinh trong mùa tao loạn.


Huế 1972

Ngày 15 tháng 5 năm 1972, …Khi vừa đến phi trường Phú Bài, Tôi gọi tất cả 4 Sĩ Quan Trung Đội Trưởng, 6 Sĩ Quan Toán Trưởng, Thường Vụ, Sĩ Quan tiền trạm họp bỏ túi tại chỗ, mỗi người đă có sẵn bản đồ hành quân trên tay được phân phối khi c̣n trong C130 trên đường bay ra xứ Huế. Tôi bắt đầu ra lệnh “Hành Quân Đóng Phim”:
– Các Anh cũng biết, chúng ta là đơn vị Nhẩy Dù đầu tiên đến Huế và sẽ vào Quảng Trị từ khi Quảng Trị đă bị mất vào tay Cộng Quân…! Bây giờ th́ hăy ghi nhớ những khẩu lệnh của Tôi, nếu chỉ một hành động sơ xuất nào th́ các Anh phải trực tiếp chịu trách nhiệm…! Thôi,… tất cả đă thông suốt, cứ thế mà thi hành, nhớ luôn luôn trên máy…!
10 giờ 30 phút sáng, đoàn xe 6 chiếc GMC lăn bánh chạy rời khỏi phi trường với chiếc jeep có huy hiệu con Ó Nhẩy Dù dẫn đầu. Theo lệnh, tất cả quân nhân khi lên xe, tháo ba lô để xuống sàn xe, thay mũ sắt bằng Mũ Đỏ, chỉ có giây ba chạc và súng cá nhân, không được ngồi mà phải đứng quay mặt ra ngoài thành xe tŕnh diễn khí thế Bataillon De Commandos vào “đại lễ” dẹp trừ bạo loạn và an dân…!!!
Tôi dẫn đầu đoàn xe, chạy thật chậm, khoảng chừng được vài cây số cho dừng lại trên Quốc Lộ I…Ngược đường trước mặt là đoàn người chạy loạn, hằng trăm, hằng nhiều ngàn nam phụ lăo ấu, đàn ông, đàn bà, con nít tay gồng, vai gánh thân nhân, đồ vật với xe lam, xe ḅ, xe đ̣, xe đạp, xe máy chất đầy bao bị tất tả đang hướng về phí Nam, Đại Lộc, Lăng Cô, Đèo Hải Vân…!

“Tài tử” ĐĐTS2ND bắt đầu đóng phim: họ nhẩy xuống xe, tận t́nh, tận lực phụ giúp đẩy những chiếc xe do người kéo cực nhọc nặng nề, bồng mấy đứa bé mà bà mẹ đang cỏng, tay bồng tay dắt dăm ba đứa bé con, mấy “ông Thiên Lôi” nhanh nhẩu móc trong giây ba chạc những hộp trái cây, thịt ba lát, thuốc lá cà phê trong khẩu phần Ration C phân phát cho mọi người hể hả rất ư là chí t́nh Quân Dân như cá với nước và “Phim” đă trở thành “Thực” trước t́nh huống đùm bọc, chở che đồng bào hoạn nạn trong chiến cuộc…! Thật sự cảm động đă có nhiều giọt lệ ứa trên khoé mắt đỏ cay v́ thiếu ngủ không ngăn được chảy dài trên làn da mặt đen đủi rám nắng dạn dầy chiến trường của mấy “ông Thiên Lôi” và đồng bào đồng cảm…Ôi có hạt kim cương nào sánh bằng những giọt nước mắt thấm đượm ân t́nh trong cơn “tao ngộ” hoạn nạn nầy…!
– Các Ôn là Lính con Ó hỉ, bộ đội Cộng Hoà hỉ…? Tụi tui từ Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị chạy vào Huế cả tháng nay…khổ quá phải chạy tiếp vào Lăng Cô kiếm thóc, kiếm cá mắm mà ăn đói quá…! Bà con ơi…! Bà con ơi…Lính Dù đây nè…Lính Dù trở ra Quảng Trị ń…!!!

Chúng Tôi c̣n nhiều “pha” đóng phim và có nhiều trường hợp, trạng huống như thật lẫn lộn chẳng biết đâu là thực hư rất “truyền cảm” và cũng rất nực cười khoái trá tạm quên đi mai đây chúng tôi sẽ phải xông vào nơi gió cát với súng nổ đạn bay xé rách không gian, không biết ai c̣n ai mất trong cuộc tử sinh…?! Chúng tôi và đoàn người chạy loạn tiếp tục xuôi ngược cuộc hành tŕnh lên đường ra Huế…bất giác tôi tự hỏi những ngày tháng kế tiếp rồi họ sẽ ra sao và về đâu ? Tôi làm sao biết được khi mà thành phố Huế trước mặt đang trong t́nh trạng hỗn loạn, tang tóc thê lương…!
Đoàn xe dừng lại phía Bắc cầu Tràng Tiền, Trung Đội1Trinh Sát Nhẩy Dù (TĐ1TSND) phụ trách khu Quốc Học Đồng Khánh, Trung Đội 2Trinh Sát Nhẩy Dù (TĐ2TSND) trách nhiệm khu Đài Phát Thanh, Đại Học Luật Khoa, Văn Khoa, Trung Đội 3Trinh Sát Nhẩy Dù (TĐ3TSND) đi dọc xuống Vĩ Dạ…ba lô mũ sắt để lại trên xe, súng cầm tay, giây ba chạc,mũ đỏ tinh anh “hành quân dạo phố” với phương châm ghi nhớ nằm ḷng “phải thanh lịch” (lời của đàn anh Mũ Đỏ Bác Sĩ Trần Văn Tính), phải tươi cười nhả nhặn vẩy tay, vẩy tay phe phẩy chào hỏi với mọi người trên đường phố như thân thương tà áo tím ngày thanh b́nh chưa có bóng giặc “răng hô mả” tấu từ núi rừng kéo về chặt đầu chôn sống trong những hố hào lấp cạn…! Tôi chợt nhận ra là ḿnh như quen đă thuộc với Huế qua những tác phẩm văn chương tả về Huế và nỗi niềm của bạn thân kể chuyện t́nh của Anh khi đóng quân ở Huế trước kia rất vui, rất t́nh và cũng rất ngổ ngáo dễ thương, lính ồn ào trêu ghẹo sổ sàng không “thanh lịch” lại nữa dù ở đâu trên đất nước Việt Nam cũng là quen thuộc trú xứ biết bao t́nh v́ là Quê Hương mà:
“Núi Ngự B́nh không “chim” buồn xao xác…! Đ̣ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời…!”

Và hôm nay ngồi đây hồi tưởng lại mối t́nh ray rức với người “Em xứ Huế” chưa nguôi. Cái dịu dàng lăng mạn như tiết Xuân thoảng nhẹ qua cành chồi mai non buổi sớm, nhưng nồng nàn âm ỉ dễ bốc cháy bùng ngọn lửa trong ḷ nấu bánh tét,bánh nậm …giao thừa của nửa đêm về sáng…Huế đấy, “Huế của Tôi”, Huế với thành nội, với lăng tẩm, hồ Tĩnh Tâm cổ kính với những tà áo tím buồn muôn thưở, buồn năo thiên thu những ngày mưa tầm tả, mưa ră rít dai dẳng như không muốn tạnh mang theo hơi lạnh hoang vu của cây cỏ gẩy đổ làm tan tác Kim Long, làm thêm cho mười hai nhịp cầu Trường Tiền như muốn run rẩy và cô quạnh chi lạ …hay chính tâm hồn tôi đang nỗi cảm hàn v́ chiều mưa qua phố Huế…Ôi …Cầu Trường Tiền dài mười hai nhịp, lỡ thương nhau rồi không biết duyên kịếp về mô…!

“Cầu Trường Tiền dài mười hai nhịp…
Bến Vân Lâu vắng bóng người câu !
Nước Hương Giang trôi dạt nặng hồn sầu !
Đ̣ Gia Hội tiếng đàn ca lặng vắng !
Trường Đồng Khánh đâu rồi tà áo trắng ?
Bạch Hổ Cầu cũng thiếu nắng tà huy,
Bài thơ Kim Long trong chiếc nón kiêu kỳ,
Chùa Thiên Mụ giục sáng trời cũng hết,
Gà Thọ Xương bặt tiếng gáy kêu sương,
Hồ Tịnh Tâm mang nặng cảnh đoạn trường !
Chùa Diệu Đế, mă Âm Hồn vắng lạnh,
Dốc Nam Giao, Chùa Từ Đàm hiu quạnh !
Biết bao giờ mới có sự đổi thay…?
Nắng mới l ên sư ởi ấm những hồn gầy,
Cho Dân Tộc chuyển vươn ḿnh sống dậy .”

(Phù Vân Am)

Tiếp tục trên đường “tiến quân” bắt gặp những quân nhân ăn mặc xốc xếch, chận lại xét hỏi giấy tờ, không giấy tờ, lịch sự mời lên xe và canh giữ tại chỗ để giao lại Quân Cảnh sau đó, cũng không quên mời họ một điếu Pallmall hay Lucky, một gói cà phê Instant từ Ration C…rất ư là “thanh lịch”…!!! Trung Đội 4Trinh Sát Nhẩy Dù (TĐ4TSND), Trung Đội Viễn Thám (TĐVT) và Bộ Chỉ Huy Đại Đội (BCHĐĐ) đặc trách chợ Đông Ba, Thành Nội, đường Trần Hưng Đạo từ cầu Bạch Hổ xuống tới cầu Đông Ba và những màn tŕnh diễn thật ngoạn mục:
– Út Bạch Lan…207 ?.. (207 là danh hiệu truyền tin của Đại Tá Trần Quốc Lịch). Tới đâu rồi ?
– Tŕnh 207 mọi việc diễn tiến như đă hoạch định…Nghe có tiếng âm thoại khác là lạ trong máy…?
– Út Bạch Lan … Đây Thái Xuân ?…(Thái Xuân là Thiếu Úy Thái Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 Quân Cảnh 204 của Sư Đoàn Nhẩy Dù).
– Tôi nghe. – Đích Thân đang ở đâu ? – Đầu cầu Trường Tiền. – Đích thân chờ Tôi, Tôi sẽ đến đó ngay. Năm phút sau, chiếc xe Jeep mui trần QC204 của SĐND trờ tới, ném vội vả lên GMC của Trung Đội Viễn Thám hơn hai chục bộ quần áo bộ binh bẩn thỉu rách rưới, hơn chục đôi dép không chiếc nào giống chiếc nào, sáu toán viễn thám thay đồ “trang phục” chớp nhóang, xong phóng vội xuống xe biến mất trong ḷng đường phố… Thượng Sĩ Nhất Nguyễn Tá thường vụ Đại Đội, anh nguyên là Vơ Sư Vơ B́nh Định. Mỗi lần mấy “ông thần” ba gai phạm kỷ luật tŕnh diện Thượng Sĩ Tá thường vụ th́ cũng thường có cái màn “khúc nôi” khóc lóc không thể nín cười:

“ Thượng Sĩ nh ́n Em Thượng Sĩ cười
Em nh́n Thượng Sĩ lệ Em rơi…!
Vợ Em mới đẻ ngày hôm trước
Trể phép v́ Em rước vợ dźa “

Đến 12 giờ trưa trong khi tất cả đơn vị đang thi hành nhiệm vụ. Tôi vào nhà lồng chợ Đông Ba, t́m sạp cơm tôm chua thịt ba rọi luộc, rau sống với trái vă để ăn trưa. Ba máy PRC25 kêu rè rè bên cạnh, một máy hàng dọc với các Trung Đội, một máy hàng ngang với Thiếu Úy Thái QC, một máy trực tiếp với Lữ Đoàn… Một cô bé mang rỗ rau và tô cơm trắng đặt lên bàn ngập ngừng hỏi :
– Các Ôn là Lính Nhẩy Dù hả ? …Ừ ! Cô ta bổng la lên: – Mệ ơi…Mệ ơi Lính Dù ń, Lính Dù ra “Huệ” rồi ń…!!!
Một cảm xúc không thể diễn tả nổi lâng lâng dâng ngập trong hồn tôi khi nh́n cô bé mang đĩa thịt luộc trở ra bàn với gương mặt rạng rở vui mừng cười chúm chím và nói mời:
– Ăn đi mấy Anh, hết Em mang ra nữa…!!!

(không trích phần hồi ức của Tác giả trong lần ra Huế Mậu Thân 1968) . . .

Đêm đó, đêm 15-5-1972 chúng tôi tạm đóng quân ở cầu An Ḥa, đường ra Quảng Trị. Không ngủ được, tôi bước xuống vơng, xỏ chân vào giày Sault, mang giây ba chạc, rút cái đèn pin bằng cây bút cấm trong túi với cái mũ sắt chụp lên đầu. Sơn Nhung, Hạ Sĩ Nhất người Miên bên cạnh Tôi như h́nh với bóng ḷm c̣m ḅ dậy, ṃ trong ba lô t́m C4, bật diêm quẹt, chỉ hai phút sau tôi có ly cà phê nóng hổi trên tay. Trong những giây phút này, tôi không có một thoáng suy nghĩ nào về cha mẹ vợ con gia đ́nh mà tôi chỉ nghĩ đến những người Lính Trinh Sát Nhẩy Dù thân thương như thể tay chân của chính ḿnh, họ đă ở bên cạnh cuộc đời và đồng chia cộng gian khổ hiểm nguy 24 giờ ngày đêm đối diện với thần chết không biết đâu mà lường, nào ai biết ngày mai sẽ ra sao trên đường chiến chinh máu lửa…?! Chiều nay họ c̣n đùa với nhau: “ lính ḿnh uưnh lính ta, tao uưnh hộc máu ra, cho mày tởn tới già, đừng la cà phá phách… ở đây nữa “, rồi ngày mai, ngày mốt, hay những ngày sau nữa, họ cùng tôi lao vào lửa đạn với địch thù thứ thiệt, sống chết chỉ cách nhau như sợi tóc có vài giây đồng hồ. Tôi với Sơn Nhung đi một ṿng qua các lều poncho dă chiến, trở về chỗ của ḿnh th́ trời vừa gần sáng. Dân chúng ở khu vực chung quanh đă thức dậy, các bếp ḷ cũng nhóm lửa. Tôi vẫn ngồi đó với ly cà phê đă nguội chờ trời sáng hẳn. Thiếu Úy Hiền Toán Trưởng Viễn Thám, vừa đi vừa cài nút áo đến gặp tôi và nói :
– Đại Úy có mấy người dân muốn gặp …!!!
Tôi đi ra niềm nở đón tiếp người dân xứ Huế thăm đơn vị Nhẩy Dù. “Phái đoàn” gồm có: một người đàn ông trung niên và hai cụ bà với gánh gồng trên vai thân thiện: – Thưa Đại Úy,…dân ở đây gọi tui là Bảy Sói, trước đây tui là Cảnh Sát, Tết Mậu Thân gia đ́nh tui bị VC giết rụi, tui thoát chết được v́ lúc đó tui không có ở nhà…đây là gánh xôi, đây là gánh bánh bột lọc với nồi chè Vĩ Dạ của bà con nấu đêm qua khi nghe nói Nhẩy Dù ra Huế…xin Đại Úy nhận cho Anh Em…tuy chỉ là thức ăn đơn sơ gia bản…Nhưng là tấm ḷng của dân Huế thương mến Lính Nhẩy Dù đă xă thân chiến đấu bảo vệ Huế trong những ngày dầu sôi lửa bỏng…! Có thêm tiếng phụ nữ phụ hoạ: “ …răng mà thương như núm ruột, dân “Huệ” tui thương Lính Nhẩy Dù “đựt” ruột…“En” ăn bánh, ăn chè đậu “vạn” hỉ…ngọt thanh nớ…”! Tôi quá xúc động và bổng dung “tịt ng̣i” bèn ú ớ không thưa thốt được một lời “huê mỹ” chữ nghĩa ba hoa thường ngày “phú lĩnh” mất tiêu …để đáp lễ cám ơn tấm thịnh t́nh cho ra vẻ lễ nghĩa cung cách hoặc thể hiện t́nh Quân – Dân, “hậu phương và tuyền tuyến” bèn phổng đá vả lă âm thanh nghẹn trong cổ họng, nhưng run run tay bắt mặt mừng rất ư là cảm động…thật là “cảm động”…!!! Thuở nhỏ mài quần “xà lỏn” trên ghế trường làng cũng có đọc qua sách vở và tiểu thuyết về lịch sử sự h́nh thành Cố Đô Huế của Vua Gia Long và những chuyện t́nh lăng mạn ở đất Thần Kinh, cũng t́m hiểu chút chút phong tục tập quán Hoàng Triều nhà Nguyễn cùng những nét đặc thù của dân Huế: Phụ nữ Huế dù buôn gánh bán bưng nhưng lúc nào cũng mặc áo dài giữ phong cách, cô gái Huế dù con nhà nghèo hay phú quư cũng vẫn một vành nón Huệ nghiêng nghiêng với tà áo tím và dăm bài thơ trữ t́nh lăng mạn, “Huệ” thơ mộng qua mái tóc đen tuyền bay bay sợi tóc mai qua cầu Bạch Hổ hay Tràng Tiền với ḍng sông Hương uốn khúc biết đâu là mái tóc, đâu là sông Hương ! “Huệ” với những lễ nghi triều chính Hoàng Triều và cả chục “Họ” của ḍng Tôn Thất dài lê thê năm chữ, sáu, bẩy từ …xướng danh nghe lạ tai và thích thú …!!! “Huệ” cũng vẫn là “quê hương tôi nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu ăn và tiếng ḥ Mái Đẩy tâm sự của Cụ Thúc Địch nghe buồn năo nuột từ đầu nguồn con sông kéo dài lê thê như không muốn rơi rớt ở cuối sông khiến chạnh ḷng “nược non”…! Tuy nghèo ăn thiếu mặc nhưng dân “Huệ” không thiếu t́nh người không nghèo ân nghĩa…! Tôi ân cần: – Cụ cho cháu xin nắm xôi ! Xôi c̣n nóng bốc khói thơm phức hương nếp một, buổi sáng lạnh mù sương mà có nắm xôi của cụ lúc này chẳng thua ǵ buổi “ngự thiện” của Vua Minh Mạng trong Nội Cung…!
Tôi nói thật chí t́nh mà nghe sao cứ như “hài” kịch…quả thật vụng về không phải lúc ! Qua h́nh ảnh ân cần của Ông Bảy Sói và hai cụ bà, tôi chợt nghĩ đến h́nh ảnh đau thương của dân Huế …! Đâu phải chỉ với Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, biến cố 75…mà tự xa xưa người dân xứ Huế đă phải nhận chịu rất nhiều tai ương oan khiên như thời:

” Nhất giang lưỡng quốc bất khả Thuyết,
Tứ nguyệt tam Vương b ất khả Tường …”

Hay Vua Duy Tân hỏi Trần Cao Vân:
– Tay dơ lấy nước rửa, Nước dơ lấy ǵ để rửa ?
Và quả thật là khí thiêng sông núi thiên niên vận hành khuôn đúc h́nh hài ḍng giống Việt tinh anh nên Khẩu Khí của một Vị Vua tuổi đời c̣n thơ dại mà đă Chính Khí Hạo Nhiên bàng bạc khắp đất trời đă trẩm triệu phán:
– Nước dơ lấy máu rửa.
Tôi bảo Thượng Sĩ Tá gọi các Trung Đội lên nhận xôi chè và bánh bột lọc phân phối cho đều đơn vị.
. . .
Trích từ "Đại Đội 2 TSND"- Mũ Đỏ và cũng là Mũ Xanh LĐ81BCD: Trương Út tức Út Bạch Lan(Khoá 22/TVBQGVB)