Này anh lính trẻ trói tay thất trận
ngày lui binh súng đạn tả tơi
tạ từ buôn bản theo đơn vị
chiều cao nguyên mắt cỏ mục vàng hoe
đêm pháo dập nghe chim trời vỗ cánh”

oOo

Tiếng hát hỏa châu rụng cánh sao sa
ḷng đau uất những điều không muốn nhớ
có v́ sao khuya thức dậy bên trời
sinh bất phùng thời
thiên hạ rối tung
ngày tháng ba giặc tràn qua tây vực
đêm ban mê tanh khiếp máu nhân quần
ở phía thành đô trời chớp lóe
đoàn quân ma trơ trốc núi xương khô”

oOo


Lương Sơn xa lắc đồi rỉ máu
ngựa cuồng quay quắt chiến trường xưa
đồng đội cũ đâu lưng nỗi chết
(…)
biển gầm núi hú quân tàn ră
lịch sử sang sông băo tố tràn
ráng chiều đỏ quạch trăng tận tuyệt
biển dâu cung kiếm bóng chiều sương”

“về đây ngồi ngóng triền sông cũ
chợt thấm vô cùng thương tích xưa
tháng Tư bẻ súng người tự sát
oan khiên tận khốc nỗi niềm đau”

Quân về xuôi tan tác phương Nam
mịt mờ chiến trận
mây lửa mênh mông
(…)
em đau đớn
t́m anh vô vọng
cái chết tuổi tràn xuân
(…) chàng phiêu giạt
rời Sông Pha cùng đơn vị bơ vơ (…)
nước mất thân vong
ngậm ngùi quê quán cũ…
(…)
tháng Tư đêm đen
đồi chiêm rực lửa
trời sông Lâu trôi cuối mùa Xuân
khổ nạn chập chùng
bèo dâu vạn hướng”

oOo


Băi trầm luân se sắt
băo đời xoay
thân lính trận rách bươm
em trồng một đóa hoa trên đá
vỡ nát tàn phai một cuộc t́nh
ngày ấy bên sông tàn nắng mật
chiều vàng rơi lại giọt thiên thu”


Những vần thơ của Cái Trọng Ty, một, “Ban Mê;” và hai, “Tháng Tư Bẻ Súng;” nằm trong “Có Một Mùa Trăng Xa Người” (Thư Ấn Quán 2015), tập thơ đầu tay gồm có 60 bài cùa ông. Cái Trọng Ty đóng ở cao nguyên, ngay chính nơi là “thủ phạm” cho cuộc triệt thoái phi lư, đưa đến sự tan ră của quân đội VNCH: Ban Mê Thuột. Chứng kiến cảnh triệt thoái khiến thơ Cái Trọng Ty vừa thực, vừa bàng hoàng, xót xa xen lẫn phẫn uất. Bài “Ban Mê” (Ban Mê Thuột) khái quát h́nh ảnh đau ḷng của một khởi đầu bi thảm. Rồi đến những vần thơ của Nguyễn Phúc Sông Hương, vị tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 3, Sư Đoàn BB18 đóng quân ở Xuân Lộc, trận chiến cuối mùa bi thảm.

C̣n ta nhận lệnh rời Xuân Lộc
Lại muốn t́m em nói ít lời,
Nhưng sợ áo ḿnh đầy khói súng
Cay nồng mắt người gục trên vai.


V́ chắc ôm nhau em sẽ khóc,
Khóc theo, vợ lính cả trăm người!
Em biết dù tim ta sắt đá
Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

Mây xa dù quen đời chia biệt
Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

Bí mật lui quân mà đành phụ
Mối t́nh Long Khánh tội người ơi.
Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn
Núm ruột miền Trung càng xa vời.
(…)
Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
Như một vành tang bịt đất trời!
Chân theo quân rút, hồn ta ở
Sông nước La Ngà pha máu sôi
(…)
Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
Cao su vướng tóc măi thơm mùi,
Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.
Ta nhớ người bên đàn thỏ trắng,
Cho bầy gà nắm lúa đang phơi,
Chôm chôm hai gốc đong đưa vơng,
Ru nắng mùa xuân đẹp nụ cười…”


Nhưng càng về sau, hơi thơ càng nghe uất ức:
“Nếu được đưa quân lên Định Quán
Cuối cùng một trận cũng là vui
Núi Chứa Chan kia sừng sững đứng
Sư đoàn 18 sao quân lui?
Thân ta là ngựa sao không hí
Cho nỗi đau lan rộng đất trời.
Hồn ta là kiếm sao không chém
Rạp ngă rừng xanh, bạt núi đồi.
(…)
Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui.”

oOo
Ta biết dưới hầm em đang khóc
Thét gầm pháo địch dập không thôi
Em ơi Xuân Lộc, em Xuân Lộc
Xích sắt nghiến qua những xác người.”

Đoạn thơ dưới nằm ở trong một bài thơ khác, cũng của Nguyễn Phúc Sông Hương, “Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ ngày 30-4.”

Tiểu đoàn hai hàng đều bước
Tay không súng đạn,
Vẫn ngước cao đầu,
Dân làng bên đường
Vỗ tay chào đón,
Người được thắng trận
Ngơ ngác nh́n nhau.”