Results 1 to 7 of 7

Thread: 46 năm nh́n lại bối cảnh và diễn biến Hải chiến Hoàng Sa 1974

  1. #1
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484

    46 năm nh́n lại bối cảnh và diễn biến Hải chiến Hoàng Sa 1974



    Nguồn: Carl O. Schuster, “Battle for Paracel Islands”, Historynet, 06/2017.
    Biên dịch: Lê Đỗ Huy | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

    Carl O. Schuster là một sĩ quan Hải quân đă nghỉ hưu sau 25 năm công tác, với những năm cuối cùng phục vụ trong ngành tính báo quân sự. Hiện sống ở Honolulu, Schuster tham gia giảng dạy chương tŕnh Ngoại giao và Khoa học Quân sự tại Hawaii Pacific University.
    Ngày 11/01/1974, các sĩ quan Nam Việt Nam Cộng Hoà nhận được báo cáo về những động thái của Trung Quốc trên hai ḥn đảo của Nam Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hai ngày sau, Bộ tư lệnh Hải quân Sài G̣n phái hai tàu khu trục Lư Thường Kiệt HQ-16 và Trần Khánh Dư HQ-4 tới thám sát.

    HQ- 16 tới đảo Hữu Nhật (Robert Island) vào 16/1 và nhận thấy đảo này đă bị “ngư dân” Trung Quốc, từ hai thuyền đang neo tại băi ven đảo, chiếm đóng. Chỉ huy tàu HQ – 16 lệnh cho những người Trung Quốc rời đảo và bắn thị uy để họ hiểu ư định của ông. Sau đó họ bắn và phá hủy các lá cờ Trung Quốc và một khu vực chế biến cá mà những “người đánh cá” triển khai 6 ngày trước đó. HQ – 4 tới Hoàng Sa ngày 17/1 và phái một đơn vị đặc nhiệm SEAL của Nam Việt Nam lên đảo Hữu Nhật và đảo Quang Ảnh (Money Island) gần đó để nhổ những cờ Trung Quốc. Ngày 18/1, hai tàu chiến của Nam Việt Nam đuổi một tàu đánh cá bằng lưới rà của Trung Quốc, buộc con tàu bị phá hủy nặng nề này phải rời vùng biển. Sau đó các tàu khu trục Trần B́nh Trọng HQ-5 và tàu quét ḿn Nhật Tảo HQ-10 tới Hoàng Sa.


    Hai chiến hạm của HQVNCH tham dự hải chiến lịch sử Hoàng Sa 1974 với giặc Bắc phương : HQ-16 Lư Thường Kiệt và HQ-5 Trần B́nh Trọng

    Chính phủ Sài G̣n (VNCH) nghĩ rằng đă chặn được nỗ lực trong suốt 6 tháng liền của Bắc Kinh nhằm chiếm nửa phía tây của Hoàng Sa. Những “ngư dân” có vũ trang của Trung Quốc trước đó hầu như đă đẩy được các ngư dân Nam Việt Nam ra khỏi vùng biển Hoàng Sa, và ít nhất có hai tàu đánh cá Trung Quốc đă bị phát hiện đang hoạt động tại vùng nước mà Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Nhưng biến động gần nhất này của Trung Quốc lại là khởi đầu của một giai đoạn mới trong nỗ lực nhằm chiếm toàn bộ Hoàng Sa. Lần này, những “ngư dân” Trung Quốc là thành viên của lực lượng Dân quân biển – một lực lượng bán vũ trang của Hải quân Trung Quốc.
    Hai chiếc tàu cá gần đảo Hữu Nhật báo cáo về Bộ Tư lệnh Hạm đội Nam Hải Trung Quốc. Ngày 16/1, Bộ Tư lệnh Hạm đội ra lệnh cho hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt đóng tại đảo Hải Nam tháp tùng lực lượng dân quân biển tới hiện trường, về mặt công khai là để bảo vệ ngư dân Trung Quốc, nhưng chủ yếu là để tập trung binh lực. Trung Quốc cũng hạ lệnh triển khai hai tàu quét ngư lôi. Bắc Kinh quyết định giải quyết tranh chấp tại Hoàng Sa bằng vũ lực nếu thời cơ cho phép.
    Chiều tối hôm đó, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc phái hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 đón một đại đội dân quân biển gồm bốn trung đội (mỗi trung đội 10 người) từ đảo Phú Lâm đưa sang Nhóm đảo Lưỡi liềm. Bắc Kinh cố gắng tăng viện cho quân của họ, nhưng giống như đối phương, tàu chiến của Trung Quốc cũng ở trong t́nh trạng tồi tệ.
    Cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc – một cuộc thanh trừng chống các ảnh hưởng phi chủ nghĩa xă hội và các đối thủ của Mao – đă làm hư hoại gần như hoàn toàn các xưởng đóng tàu của nước này. Hơn 2 triệu nhà khoa học, kỹ sư, nhà giáo, công nhân lành nghề, cán bộ hành chính bị tù đày hoặc giết chết, gồm cả những người đă đóng và bảo dưỡng tàu bè của nước này cũng như mạng lưới đường sắt chuyển vật tư tới các xưởng đóng tàu.
    Kết quả là tàu chiến tốt nhất của Hải quân Trung Quốc, các khu trục hạm loại Type 065 đă không thể khởi hành. C̣n chiếc 271 vừa xuất xưởng và chưa hoàn tất việc chạy thử trên biển, và chiếc 274 với động cơ diesel ở t́nh trạng kém, không thể đạt tốc độ 18 hải lư/giờ. Vậy mà chúng vẫn nhanh hơn, được trang bị tốt hơn các tàu của hải quân Nam Việt Nam. Hai chiếc tiêm kích Thẩm Dương J-6, bản copy của MIG – 19 do Liên Xô sản xuất, yểm hộ đường không cho các tàu săn ngầm, nhưng không có năng lực hoạt động tầm xa đủ để trực chiến trên đầu các tàu khi chúng nhập cuộc sáng 17/1.
    Vào rạng sáng 18/1, hai tàu Trung Quốc đă đưa được một trung đội dân quân biển lên đảo Duy Mộng, một trung đội khác lên đảo Quang Ḥa tây, và hai trung đội lên đảo Quang Ḥa. Các trung đội này lập tức tiến hành đào hầm hào và đặt ḿn và bẫy phía trước trận địa của họ. Hai tàu rà thủy lôi loại Type 10 đóng ở Quảng Châu, mang số hiệu 389 và 396, được lệnh tăng cường cho các tàu săn ngầm loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274. Chúng cũng đến nơi vào cuối buổi sáng hôm đó.
    Hai chiếc tàu chiến khác có thể hoạt động được lúc đó của Trung Quốc là hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam được điều từ Sán Đầu, cách đó khoảng 476 hải lư. Chúng tiến về Hoàng Sa với tốc độ tối đa, được tiếp dầu ở Trạm Giang, phía nam Hồng Kông, và tại Du Lâm. Các tàu chiến này được lệnh hỗ trợ các thuyền đánh cá của dân quân biển với điều lệnh chiến đấu “không gây sự; không bắn trước; nhưng nếu lâm chiến, phải thắng”.

    Quần đảo Hoàng Sa
    gồm 130 đảo san hô, mỏm đá ngầm và băi cát nằm rải rác trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông, cách gần đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200 hải lư) và đảo Hải Nam của Trung Quốc (162 hải lư). Diện tích của toàn quần đảo (chỉ tính mặt đất) là khoảng 3 dặm vuông. Hầu hết các đảo hợp thành Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía đông bắc và Nhóm đảo Lưỡi liềm (Crescent Group) về phía tây, cách nhau khoảng 39 hải lư. Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh là lớn nhất trong các đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng 530 mẫu Anh.

    Cho dù những tuyên bố chủ quyền của cả Việt Nam và Trung Quốc đều có từ các triều đại phong kiến xa xưa, gốc rễ của sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Nam Việt Nam gắn với những năm 1930 và các tham vọng của thực dân Pháp. Nước Pháp, cường quốc đô hộ Việt Nam từ 1858, đă đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ 1932 nhưng từ đầu không quan tâm đến việc chiếm giữ các đảo này trên thực tế. Điều này thay đổi vào năm 1937 khi cuộc chiến của Nhật Bản với Trung Quốc – vốn bắt đầu từ năm 1931 với việc Nhật chiếm Măn Châu Lư – leo thang khi Nhật tiến quân sâu vào lănh thổ Trung Quốc. Người Pháp lo Trung Quốc hay Nhật sẽ chiếm các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) nên đă đặt một trại lính gồm khoảng 100 lính Pháp và Việt tại đảo Phú Lâm vào năm 1938 như một khu đệm để mở rộng chu vi pḥng thủ cho các thuộc địa Đông Dương của Pháp.
    Nhà cầm quyền Anh ủng hộ bước đi này của Pháp v́ nó mở rộng phạm vi pḥng thủ của thuộc địa Malaya của Anh. Cả hai cường quốc châu Âu này cho rằng cuộc chiến tranh của Nhật chống Trung Quốc chỉ là bước đi ban đầu của kế hoạch chiếm các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á. Nhưng thay v́ răn đe hành động của Nhật trên Biển Đông, việc đồn trú tại Hoàng Sa của Pháp lại khiêu khích Nhật. Nhật cho một đơn vị nhỏ lính thủy đánh bộ đổ bộ lên đảo Phú Lâm chỉ một tháng sau khi Pháp cho quân đồn trú. Quân đồn trú trên đảo đầu hàng, không nố súng chống lại. Nhật sáp nhập Trường Sa và Hoàng Sa vào năm 1941, tuyên bố chúng thuộc Đài Loan, đảo đang bị Nhật chiếm đóng lúc đó.

    Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật ngày 6 và 9/8/1945, Tokyo bắt đầu rút quân khỏi các quần đảo này. Chính phủ Quốc dân Đảng Trung Hoa chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) hai tháng sau đó, và đặt một đồn trên đảo Phú Lâm vào tháng Giêng 1946. Pháp sau đó do không đẩy được quân Quốc dân Đảng ra khỏi Nhóm đảo An Vĩnh bằng một cuộc biểu dương lực lượng hải quân đành tuyên bố chủ quyền đối với Nhóm đảo Lưỡi liềm và đổ bộ một trung đội lê dương lên đảo Hoàng Sa (Pattle) để ngăn quân Quốc dân Đảng chiếm đóng đảo này.
    Chính phủ Quốc dân Đảng lặp lại yêu sách đối với toàn bộ Biển Đông năm 1947, xuất bản một bản đồ đưa các yêu sách lănh thổ vào khuôn khổ một “đường chín đoạn” dọc vành ngoài của Biển Đông. Năm 1949, quân Trung Cộng đẩy chính quyền Quốc dân Đảng ra Đài Loan. Nhật Bản từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông tại Hội nghị ḥa b́nh San Francisco 1951, nhưng không giao quyền kiểm soát của ḿnh cho bất cứ một bên có yêu sách cụ thể nào khác, đẩy vấn đề sở hữu các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) rơi vào t́nh trạng không được giải quyết. Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng họ thừa kế các yêu sách đối với Biển Đông từ chính phủ Quốc dân Đảng.

    Mặc dù vậy Nam Việt Nam đă chiếm đóng nhóm đảo Lưỡi liềm từ năm 1954 và đặt một lực lượng đồn trú nhỏ trên ba ḥn đảo. Trung Cộng giành quyền kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo Phú Lâm vào năm 1956. Ngư dân Trung quốc đổ bộ lên đảo Quang Ḥa (Duncan) năm 1959 nhưng phía Nam Việt Nam đă đuổi họ đi.
    Khi Chiến tranh Việt Nam leo thang, Sài G̣n, tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hải quân Mỹ, đă rút các đơn vị đồn trú của ḿnh. Tới năm 1967, sự hiện diện của Nam Việt Nam tại quần đảo chỉ c̣n một trạm khí tượng. Trung Quốc tỏ ra chấp nhận nguyên trạng.

    Hai biến chuyển trong t́nh h́nh những năm 1970 đă thay đổi bàn cờ Biển Đông: các báo cáo về trữ lượng dầu tại thềm lục địa vùng này xuất hiện vào giữa năm 1972, và Hiệp định Paris về lập lại ḥa b́nh ở Việt Nam chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam. Các lănh đạo châu Á đột nhiên nhận thấy tranh chấp Biển Đông không chỉ là một vấn đề chính trị và hành chính, mà c̣n là vấn đề phát triển kinh tế. Nhóm thân cận với Mao tính toán rằng những phần thưởng về kinh tế lớn hơn những rủi ro xảy ra xung đột quân sự. Vả lại, những rủi ro đang giảm xuống.
    Mao nhận thấy một chính phủ Mỹ đang rút chân khỏi Nam Việt Nam sẽ thiếu ư chí dấn vào một cuộc xung đột khác, lại đang mong được Trung Quốc hỗ trợ chống lại một Liên Xô đang ngày càng thách thức hơn. Nguyên thủ Trung Quốc kết luận rằng chế độ Sài G̣n khó có khả năng được Mỹ hỗ trợ, và sự tồn tại của nó cũng đang được tính bằng ngày. Nhóm thân cận với Mao cũng hiểu rằng Bắc Việt Nam vẫn c̣n cần viện trợ của Trung Quốc trong nỗ lực chiến thắng Nam Việt Nam, đồng thời đồng minh khác của Hà Nội là Liên Xô không có lực lượng trên địa bàn này để cản trở Trung Quốc hành động đối với các đảo (trên Biển Đông). Mao ra lệnh tiến hành một loạt những bước đi nhằm ép Nam Việt Nam từ bỏ Hoàng Sa.
    Không biết các ư định của Bắc Kinh, Chính Phủ Sài G̣n tuyên bố quyền kiểm soát về hành chính tại nhóm đảo Lưỡi liềm vào tháng 8/1973 và một tháng sau cho phép thực thi các hợp đồng thăm ḍ dầu khí tại các vùng nước quanh nhóm đảo này. Cuộc đột nhập đầu tiên của đội tàu đánh cá của Trung Quốc xảy ra vào cuối tháng 7. Một số “ngư dân” có vũ trang, và ít nhất một tàu trong số này là loại bọc thép, nhưng chúng rút ngay mỗi khi các đơn vị Hải quân Nam Việt Nam tới. Sài G̣n triển khai các đơn vị đồn trú có quân số khoảng một trung đội trên ba ḥn đảo thuộc nhóm đảo này.
    Tháng 10/1974, các tàu đánh cá lưới rà số 402 và 407 của Trung Quốc đưa thủy thủ đoàn đổ bộ lên đảo Quang Ḥa, thiết lập một trạm cung cấp, hầm hào, và cắm cờ Trung Quốc khắp trên đảo. Nam Việt Nam bắt giữ một số tàu đánh cá Trung Quốc vào tháng 11 cùng thủy thủ đoàn của chúng. Các thủy thủ Trung Cộng bị đưa về Đà Nẵng nơi họ phải thú tội trên truyền h́nh về các hành động phạm pháp và các tội ác đối với nhân dân Việt Nam trước khi được thả. Nhưng những vụ tàu đánh cá Trung Quốc tấn công dân chài Việt Nam tiếp tục diễn ra. Cùng kỳ, Mao ra lệnh cho Hải quân Trung Quốc chuẩn bị hành động quân sự để hỗ trợ các ngư dân Trung Quốc.

    Ngày 10/01/1974
    , một nhóm ngư dân Trung Quốc tiến hành đánh bắt cá tại đảo Hữu Nhật thuộc nhóm đảo Lưỡi liềm. Nhóm này đă bị các dân chài Việt Nam phát hiện 3 ngày trước, nhưng họ không thông tin được cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cho tới khi về tới Đà Nẵng hôm 11/01/1974. Cùng ngày, Bắc Kinh ra tuyên bố nhắc lại chủ quyền không thể tranh căi của nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như băi ngầm Macclesfield, một đảo san hô ṿng cách quần đảo Hoàng Sa 70 hải lư về phía Đông.
    Nhận thấy những ư đồ của Bắc Kinh, Sài G̣n cử các tàu khu trục HQ-16, HQ-4, HQ-5, và tàu quét thủy lôi HQ-10 chở đội đặc nhiệm SEAL đến đảo Hữu Nhật. Hai trong số các tàu khu trục trên là thủy phi cơ đời Thế chiến II được cải tiến, tháo bỏ các thiết bị hỗ trợ thủy phi cơ, c̣n chiếc thứ ba là tàu khu trục hộ tống được cải tiến. Tất cả chúng ở trong t́nh trạng kém, thường xuyên xảy ra các vấn đề về kỹ thuật và vũ khí, khiến tốc độ và hỏa lực đều bị hạn chế.
    Đến nơi vào ngày 16/1, các tàu chiến của Nam Việt Nam đă nhanh chóng đuổi các ngư dân Trung Quốc đi. Tàu đánh cá (TQ) số 407 báo cáo sự việc HQ-16 tới lên Bộ chỉ huy dân quân biển tại Du Lâm trên đảo Hải Nam ngay sáng 16. Điện báo này về tới Bắc Kinh vài giờ sau.
    . . .

  2. #2
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484
    . . .


    Trưa ngày 19/1/1974 Đại tá HQVNCH hạm trưởng chiến hạm Trần B́nh Trọng HQ-5 Hà Văn Ngạc nói qua truyền tin cho Chuẩn tướng Hồ Văn Kỳ Thoại Phó Đề Đốc Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải, Quân khu I:
    “Đă bắt đầu khai hoả !” với câu trả lời tức khắc từ bên kia: “Tôi nghe tiếng súng rồi anh Ngạc”,

    Vào sáng sớm 19/1, hạm trưởng chia tàu của Trung Quốc thành hai nhóm: tốp đầu gồm 4 chiếc do các tàu săn ngầm Kronstadt dẫn đầu, và tốp sau gồm các tàu săn ngầm lớp Hải Nam vừa tới. Hạm trưởng được lệnh đáp trả mọi thách thức đối với các tàu đánh cá của dân quân biển và hỗ trợ các ngư dân trên các đảo nếu cần.
    Hải quân Nam Việt Nam cũng chia thành hai tốp. Tốp đầu bao gồm các tàu khu trục HQ-4 và HQ-5. Tốp này chạy ṿng quanh các đảo Quang Ảnh (Money) và Hải Sâm (Antelope) từ phía nam và tiếp cận đảo Quang Ḥa. Tốp thứ hai gồm các tàu quét ḿn HQ-10 và tàu khu trục HQ – 16, băng qua vùng đầm phá tại Nhóm đảo Lưỡi liềm từ phía tây bắc.
    Hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt của Trung Quốc chiếm vị trí để theo dơi các tàu HQ-4 và HQ-5, trong khi các tàu quét ḿn loại Type 10 bám theo các tàu HQ-10 và HQ-16. Hạm trưởng HQ – 16 dự cảm trận đánh sắp xảy ra – đă tăng tốc vượt lên các tàu quét ḿn Trung Quốc, và 14 lính đặc nhiệm của Nam Việt Nam được đưa lên hai thuyền cao su để giành lại đảo Quang Ḥa và Quang Ḥa Tây. HQ-16 đâm mạnh và làm hỏng nặng tàu quét ḿn 389; thủy thủ trên chiếc 389 bắn vào cầu tàu và ụ súng phía trước của HQ-16, giết hoặc làm bị thương hầu hết thủy thủ Nam Việt Nam trên đó. Cuộc giao chiến sau đó đă diễn ra theo như ư đồ của Trung Quốc.
    Các lính đặc nhiệm, từng dự kiến có hải quân yểm hộ, nay phải một ḿnh đối đầu với các tàu Trung Quốc. Họ lên bờ giữa ban ngày, đối địch với một lực lượng kẻ thù đông, cố thủ trong chiến hào trên cả hai đảo Quang Ḥa và Quang Ḥa Tây, nên nhanh chóng bị đẩy lùi. Họ cố trở lại các thuyền cao su dưới làn đạn kẻ thù, trong khi các tàu hải quân Nam Việt Nam dàn hàng ngang tiến thẳng vào đội h́nh địch, bắn vào buồng hoa tiêu của địch và t́m cách xoay chuyển thế trận thành một cuộc chiến của pháo tầm xa. Không may cho lực lượng Nam Việt Nam, họ không có được tốc độ, do đó các tàu cơ động hơn của Trung Quốc có thể quyết định khoảng cách giao tranh. Hạm trưởng Trung Quốc ra lệnh: “Tăng tốc tiến lên, đánh cận chiến, thọc mạnh”. Biết rằng các tàu của ḿnh trang bị kém và sẽ bị áp đảo trong một cuộc đấu súng tầm xa, hạm trưởng Trung Quốc quyết định dùng chiến thuật “giáp lá cà”. Sau 10 phút giao tranh, chiến trường đă thu hẹp từ phạm vi 2, 3 hải lư xuống c̣n vài trăm mét.


    Chiến hạm HQVNCH HQ-4 Trần Khánh Dư và HQ-10 Nhật Tảo

    Các tàu săn ngầm lớp Kronstadt bắn cấp tập vào HQ-4, trong khi các tàu quét ḿn Type 10 tập trung hỏa lực pháo 37mm vào chiếc HQ-16, nhằm vào buồng hoa tiêu, trung tâm thông tin và các radar. Bị bắn hỏng nặng, chiếc HQ-16 phải thoái lui. Các tàu quét ḿn chuyển sang bắn vào HQ-10, nhằm vào kho đạn ở đuôi tàu, gây một tiếng nổ khiến phần động cơ phía trước con tàu này tê liệt.
    Các tàu quét ḿn chỉ cách HQ-10 có khoảng mười thước, khiến các ṇng pháo c̣n lại của chiếc tàu Nam Việt Nam này không thể bắn vào những con tàu thấp và nhỏ hơn của đối phương đang tiếp cận sát thân tàu. Súng bộ binh của thủy thủ Trung Cộng quét dọc ngang sàn tàu và buồng hoa tiêu, sát hại thuyền trưởng và hầu hết thủy thủ điều khiển tàu.
    Chiếc HQ-16 bị hư hại cố tiếp ứng cho HQ-10 nhưng bị đẩy ra xa bởi hỏa lực của quân Trung Quốc. Nó phải rút về phía đông nam, trong khi HQ-4 và HQ-5 rút về phía nam. Hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam của Trung Quốc tới nơi khoảng trưa 19/1, bắn tiếp vào chiếc HQ-10 khiến nó ch́m vào lúc 1h chiều.



    Cùng lúc, Bắc Kinh lo ngại Sài G̣n sẽ tăng cường quân cho các đồn c̣n lại trên các đảo, gồm khoảng 2 đại đội bộ binh trên các đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa (Pattle), và Quang Ảnh, và các lính đặc nhiệm c̣n sống sót. Hạm đội Nam Hải pha trộn một đội h́nh chắp vá gồm tất cả những đơn vị nào c̣n có thể lên đường: một tàu khu trục, năm tàu phóng lôi, và tám tàu tuần tra loại nhỏ. Được tổ chức thành ba đội tàu đổ bộ và vận tải, các tàu này chở 500 lính thuộc 3 đại đội bộ binh, một đại đội dân quân và một nhóm trinh sát vũ trang.
    Đội tàu này triển khai thành đội h́nh thuận cho xuất phát. Tốp đầu gồm bốn chiếc tàu tuần tra và các tàu lưới rà của dân quân biển mang số hiệu 402 và 407, mang theo một đại đội bộ binh 100 lính. Tốp hai gồm một đại đội bộ binh và đội trinh sát thủy – bộ được rải ra trên bốn chiếc tàu tuần tra và chiếc tàu quét ḿn 389. Chiếc tàu khu trục Nam Ninh, vốn là một tàu hộ tống của Nhật trước đây, trở thành thê đội ba, chở một đại đội bộ binh và được bổ nhiệm làm soái hạm của chiến dịch này.

    2 chiến hạm Kronstadt 271 và 274 của hải quân Trung cộng ngay trước cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 bắt đầu 1 giờ (T) và trục lôi hạm 389 cuảTC bị trúng đạn hư hại nặng từ pháo của HQ-16 Lư Thường Kiệt

    Tốp đi đầu tiến công đảo Hữu Nhật, bắn pháo vào những người giữ đảo để đẩy họ khỏi bờ biển, rồi đổ bộ lính bộ binh bằng các thuyền cao su và xuống ba lá. Hữu Nhật thất thủ sau 10 phút. Thê đội 2 tiến đánh đảo Hoàng Sa (Pattle), đẩy 30 lính giữ đảo về phía giữa đảo nơi họ đầu hàng sau một giờ giao tranh. Trong trận đánh trên đảo này, Trung Quốc bắt được viên thiếu tá Nam Việt Nam chỉ huy lực lượng đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và viên cố vấn được phái tới từ Đại sứ quán Mỹ. Các lính đặc nhiệm trên đảo Quang Ảnh bỏ vị trí trước khi Hải quân Trung Quốc tiến công, trốn thoát được vài ngày trước khi bị bắt.
    Cho đến cuối chiều 20/1, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đă rơi vào tay Trung Quốc. Hơn 100 quân nhân VNCH bị giết hoặc bị thương, và 48 quân nhân Nam Việt Nam và một sĩ quan liên lạc người Mỹ bị bắt, so với 18 lính Trung Quốc bị chết, 67 người khác bị thương.
    Đây là một thắng lợi lớn của Hải quân Trung Quốc: một tàu phá thủy lôi của Nam Việt Nam bị ch́m, ba tàu khu trục bị hư hỏng nặng, so với hai tàu săn ngầm, một tàu quét thủy lôi và một tàu đánh cá của Trung Quốc bị hư hỏng nặng.

    Trung Quốc dành 2 tuần tiếp theo
    để gia tăng sự hiện diện hải quân xung quanh các đảo và củng cố pḥng ngự, bao gồm cả việc triển khai một tàu ngầm lớp Romeo và ba tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường lớp Thành Đô, mang theo các tên lửa hành tŕnh chống hạm loại Styx.
    Về chiến thuật, các đơn vị hải quân Nam Việt Nam có hỏa lực mạnh hơn đối phương, nhưng họ không có một hệ thống radar điều khiển hỏa lực, do đó phải bắn qua lỗ ngắm, làm giảm đáng kể khả năng bắn trúng các mục tiêu cơ động nhanh như các tàu tuần tiễu của Trung Quốc. Mặc dù t́nh trạng kỹ thuật của tàu chiến cả hai bên ngăn cản họ hành động ở tốc độ cao nhất, các tàu của Trung Quốc vẫn đạt được tốc độ tới 7-10 hải lư/giờ, một ưu thế khiến họ có thể quyết định cự ly giao tranh.
    Một khi đă đạt được cự ly cách các tàu của Nam Việt Nam nửa dặm, các vũ khí nhẹ, tác xạ nhanh của tàu Trung Quốc và sự linh hoạt tạo cho họ một ưu thế rơ ràng. Chiến trường được quyết định trong một khoảng cách chỉ 200 thước. Không gian chỉ huy, hoa tiêu và liên lạc của các tàu Nam Việt Nam đối mặt với hỏa lực tầm gần chính xác, và các pháo lớn của họ bị vô hiệu ở tầm bắn gần. Các tàu của Nam Việt Nam đành rút lui, để các đơn vị đồn trú trên các đảo không được hỏa lực hải quân hỗ trợ.

    Nam Việt Nam đe
    dọa sẽ trả đũa nhưng nhận thấy cán cân lực lượng hải quân nghiêng về phía Trung Quốc. Hơn nữa, Sài G̣n có nhiều mối lo đè nặng. Cơ quan t́nh báo Sài G̣n đang dơi theo các đường vận tải và chuyển quân của Bắc Việt đổ theo hướng qua Lào và đông Campuchia. Việc dồn quân dọc biên giới Nam Việt Nam là một dấu hiệu gây lo ngại về ư định của Hà Nội. (*)



    Cùng lúc, Hà Nội phản đối động thái này của Bắc Kinh nhưng không hành động ǵ. Bắc Việt vẫn cần sự ủng hộ của Trung Quốc để tổ chức, động viên lực lượng của ḿnh cho trận đánh cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát Nam Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước vào tháng 4/1975, Hà Nội nhanh chóng giành quyền kiểm soát các đảo do Nam Việt Nam nắm giữ trên quần đảo Trường Sa. Những năm sau chiến tranh, Việt Nam tiếp tục phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và duy tŕ tuyên bố khẳng định chủ quyền của ḿnh đối với quần đảo này, cũng như với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam tuy vậy chưa bao giờ t́m cách chiếm lại Hoàng Sa. Nước này c̣n bị thua trong một cuộc hải chiến vào những năm 1980 khi Trung Quốc tấn công ba đảo đá san hô do Việt Nam kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa.
    Trong các cuộc giao tranh kể trên và trong các hành động gần đây, Bắc Kinh đă lặp lại các chiến thuật nó đă sử dụng vào năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa. Thứ nhất, cho các tàu đánh cá thâm nhập vùng tranh chấp, trong đó có cả các tàu đánh cá của lực lượng dân quân biển, để xua đuổi lực lượng bên kia. Các tàu của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được triển khai gần đó nhằm hỗ trợ các tàu đánh cá nếu cần, c̣n xa hơn là các nhóm tàu hải quân để hỗ trợ các tàu Hải cảnh. Cả lực lượng hải cảnh lẫn các đơn vị hải quân đều không bắn trước, nhưng nếu chiến sự xảy ra, họ sẽ phải chiến thắng. Trung Quốc cũng thiết lập một sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm và đồn trú quân trên một số đảo san hô mà họ chiếm được gần đây tại Trường Sa.
    Việt Nam cũng đáp lại bằng cách vũ trang cho các tàu đánh cá của ḿnh và thiết lập quan hệ đối tác quân sự với Ấn Độ và Nhật Bản, đồng thời t́m cách hợp tác quân sự với cựu thù Hoa Kỳ. Với 5 bên cùng tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc, Biển Đông đă trở thành một “điểm nóng” và kích thích một cuộc chạy đua vũ trang khu vực mà có người lo ngại sẽ châm ng̣i cho một cuộc chiến tranh mới.

    Nguồn: Carl O. Schuster, “Battle for Paracel Islands”, Historynet, 06/2017.
    Biên dịch: Lê Đỗ Huy và Lê Hồng Hiệp





    (*) Đây là một sử liêu khách quan và trung thực cho chúng ta thấy khi VNCH đang đối đầu dầu sôi lửa bỏng với ngoại xâm Trung Cộng th́ VNDCH lại tăng cường QS vào miền Nam, một câu hỏi tự nó đă có trả lời tác động ngay vào suy nghĩ của người đọc thế hệ sau : Hà Nội đang "cơng rắn cắn gà nhà" tiếp tay Bắc Kinh cho việc xâm chiếm Hoàng Sa?!
    Last edited by BlackHole; 19-01-2020 at 07:56 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484
    Can trường trong chiến bại



    Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt (HQ-16) tham gia đấu pháo 30 phút tại phía Bắc đảo Quang Ḥa thuộc quần đảo Hoàng Sa trở về vịnh Tiên Sa,
    cập cầu căn cứ hải quân VNCH, Đà Nẵng lúc 7h ngày 20 tháng 01 năm 1974.


    (Tài liệu lịch sử sau đây trích một phần từ chương 16, từ ngày 18/1/1974 tức một ngày trước khi xảy ra cuộc hải chiến Hoàng Sa, trong sách “CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI” của tác giả Hồ Văn Kỳ-Thoại xuất bản năm 2007. Ông nguyên là Phó Đề Đốc Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải, Quân khu I, Việt Nam Cộng Hoà, từ năm 1970 đến năm 1975.)
    Mười giờ sáng ngày 18 tháng 1, trung tá San, hạm trưởng khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) cho toán đổ bộ lên bờ gồm một trung úy và mười ba đoàn viên để thám sát đảo Cam Tuyền v́ thấy có chiến hạm Trung Cộng thả trôi gần đó.Toán này cắm cờ Việt Nam khi lên tới đảo.
    Khi hải đội của đại tá Ngạc đến Hoàng Sa th́ tôi được biết là có ít nhứt bốn chiến hạm của Trung Cộng đă có mặt tại vùng đảo. Các chiến hạm của Trung Cộng và Việt Nam hải hành rất gần nhau. Chiến hạm Việt Nam ra dấu hiệu đuổi chiến hạm Trung Cộng ra ngoài lănh hải. Trên chiến hạm Trung Cộng th́ các thủy thủ của họ cũng ra dấu yêu cầu chiến hạm Việt Nam phải ra xa các đảo.
    Chiều ngày hôm đó, t́nh h́nh tại Hoàng Sa càng thêm căng thẳng. Các chiến hạm hai bên chạy kế bên nhau và chĩa súng vào nhau. Ngày hôm sau, tôi liên lạc điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàig̣n để hỏi vị trí các đơn vị của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Đại tá Kiểm, giám đốc Trung tâm hành quân Hải Quân, theo dơi và thông báo cho tôi kịp thời mọi tin tức về phía Hoa Kỳ và xác nhân rằng các chiến hạm Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam. Ông nói với tôi: “Cứ yên trí.” Tôi nói với đại tá Kiểm rằng tôi không biết việc ǵ sắp xảy ra, có lẽ chỉ yêu cầu chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội cứu vớt thủy thủ Việt Nam nếu có tổn thất. Tôi không nghĩ rằng họ sẽ can thiệp vào chiến trận.


    Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trên đảo Pattle thuộc Quần đảo Hoàng Sa)

    Đại tá Ngạc báo cáo tiếp theo là các chiến hạm Trung Cộng đến quá gần chiến hạm Việt Nam, có ư khiêu khích và đôi khi làm cho các chiến hạm Việt Nam vận chuyển khó khăn v́ chung quanh các đảo lại có rất nhiều đá san hô. Tôi gọi máy về Sàig̣n th́ đô đốc Chơn đang trên phi cơ trên đường ra Đà Nẵng, nhưng không biết lúc nào ông sẽ đến Đà Nẵng. Tôi nói chuyện âm thoại với đại tá Ngạc và ông nói rằng việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi. Tôi và đại tá Ngạc rất khó xử. Nếu Trung Cộng nổ súng trước th́ chúng tôi không có ǵ phải tính toán và phải nổ súng tự vệ. Nhưng lúc ấy tổn thất sẽ rất nặng nề về phía Hải Quân Việt Nam. Không c̣n ai có thể giúp tôi quyết định. Tôi nghĩ là nếu Hải Quân Việt Nam nổ súng trước th́ rất có lợi v́ địch bị bất ngờ và ta làm chủ được t́nh h́nh. Trong đêm đại tá Ngạc và tôi nói chuyện với nhau rất nhiều v́ cả hai đều lo âu, dù không nói ra, cả hai đều đoán là Trung Cộng sẽ không nhượng bộ như mấy lần trước khi chiến hạm ta đuổi tàu đánh cá của họ.


    Khu trục hạm HQVNCH Trần Khánh Dư HQ-4

    Sáng ngày 19, tôi và đại tá Ngạc ở thường xuyên trên hệ thống âm thoại. Đến khoảng 10 giờ sáng, các chiến hạm Trung Cộng vẫn không thay đổi vị trí và bám sát chiến hạm Việt Nam. Tôi nhắc đại tá Ngạc chỉ thị là nếu dùng tín hiệu mà chiến hạm Trung Cộng không thi hành th́ nhớ bắn trước mũi tàu họ trước chớ đừng bắn trúng họ. Đại tá Ngạc trả lời với tôi là không thể bắn dọa được v́ các chiến hạm đôi bên đang ở vị trí quá gần nhau và ở thế “cài răng lược” tức là bạn địch ở vị trí xen kẻ với nhau, nếu tác xạ có thể trúng bạn.
    Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lịnh trở ra chiến hạm. Nhân viên xuống xuồng cao su, nhưng xử dụng được có một chiếc cho nên nhân viên bơi giỏi, hy sinh và níu vào bè mà bơi theo.
    Tôi cảm thấy là không c̣n giải pháp nào khác, hoặc tấn công trước hoặc rời khỏi lănh hải của ḿnh để tránh đụng chạm. Lúc ấy tôi lại nghĩ ngay đến thủ bút của Tổng Thống. Nếu rời lănh hải quốc gia bỏ đi là lịnh Tổng Thống sẽ không được thi hành. Rồi tôi sẽ trả lời ra sao với thượng cấp?
    Tôi với đại tá Ngạc bàn đi bàn lại nhưng không biết phải làm thế nào và rồi tôi chỉ nói với đại tá Ngạc là khi t́nh h́nh quá căng thẳng th́ ḿnh phải khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại. Đại tá Ngạc đồng ư với tôi là chiến hạm Việt Nam phải khai hỏa trước. Tôi nhắc thêm đại tá Ngạc: “Anh nhớ hăy chỉ thị cho tất cả chiến hạm khai hoả cùng một lúc khi anh bắt đầu khai hoả!” với mục đích phân tán sự phản pháo của địch. Đại tá Ngạc trả lời:
    “Nhận rơ 5 trên 5.” Tâm trạng bồi hồi, một cảm giác mà tôi không bao giờ quên, nhưng v́ không rơ vị trí của từng chiến hạm, qua máy âm thoại, tôi nói tiếp: “Tùy nghi khai hỏa khi nào anh sẵn sàng!”
    Vài phút sau, tiếng nổ chát chúa của các hải pháo vang dội trong máy truyền tin, dường như đại tá Ngạc hoặc nhân viên truyền tin cố t́nh bấm nút “on” để tôi có thể nghe, làm tôi vừa hănh diện cho Hải Quân Việt Nam vừa lo sợ cho Hải Đội của đại tá Ngạc. Giọng đại tá Ngạc rất là b́nh tĩnh và nhà binh: “Báo cáo đă bắt đầu khai hoả!” Tôi trả lời ngay: “Tôi nghe tiếng súng rồi anh Ngạc”, và sau đó là một sự yên lặng trong khoảng năm mười phút, nhưng đối với tôi nó kéo dài như hằng giờ.

    Toán đổ bộ của HQ 16 trên xuồng cao su đang chèo ra khơi th́ trận hải chiến bắt đầu, th́nh ĺnh một tiếng nổ lớn vang rền, nh́n kỹ th́ họ thấy đó là một tàu Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Cả toán reo lên và vị trung úy chỉ huy kêu gọi cả toán cùng hát bài: “Việt Nam, Việt Nam!”
    Tôi không kể lại chi tiết trận hải chiến v́ có những nhân chứng tại chỗ như trung tá Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự, Ủy Ban Hải Sử cùng chiến sĩ Hải Quân khác đă kể chi tiết trong những tài liệu khác.
    Sau một thời gian mất liên lạc vô tuyến, đại tá Ngạc bắt đầu báo cáo tổn thất cả đôi bên. Về phía tàu Trung Cộng th́ một chiến hạm bị bốc cháy và khi bỏ chạy bị rướn lên đá san hô. Về phần Hải Quân Việt Nam th́ chiếc hộ tống hạm Nhựt Tảo bị trúng đạn ngay đài chỉ huy. Hạm trưởng bị tử thương và chiến hạm đang bốc cháy. Chiếc Lư Thường Kiệt cũng bị trúng đạn hải pháo bắt đầu nghiêng một bên. Đại tá Ngạc cho biết t́nh trạng chiếc Nhựt Tảo rất nguy ngập. Tôi chỉ thị nếu có thể được th́ cho chiếc nầy chạy thẳng và ủi vào bờ để ít nhứt xác tàu là một chứng cớ chúng ta bảo vệ hải đảo. Tại chỗ chiếc Nhựt Tảo ch́m th́ một số thủy thủ đang lềnh bềnh trên mặt nước, người th́ đeo phao, người th́ bám vào tất cả những ǵ đang nổi trên mặt nước. Dă man nhứt là khi một số thủy thủ thuộc chiến hạm Nhựt Tảo đa số bị thương, bị tàu Trung Công bất chấp quy lệ về hải chiến tiếp tục bắn xối xả vào các chiếc bè, rất may chỉ có một nhân viên bị thương nhờ tất cả nằm sát xuống bè để tránh đạn. Tôi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàig̣n để xin cố vấn Hoa Kỳ can thiệp với Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ đến nơi để cứu vớt các thủy thủ Việt Nam đang bị nạn. Măi đến mấy ngày sau, chiến hạm Mỹ vẫn không đến mặc dù các thủy thủ đang trôi trên biển trong hải phận quốc tế. Điều đó cho thấy là họ không muốn tham dự vào vụ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng và hơn thế nữa họ cũng không có một hành động ǵ dù là một hành động nhân đạo.
    Tôi thấy t́nh h́nh sau đó trở nên bi đát ví như châu chấu đá voi, tới không được mà lùi cũng chết. Giải pháp duy nhứt mà một cấp chỉ huy tối thiểu phải làm là xin tăng viện. Bộ Tư Linh tăng phái thêm cho vùng I Duyên Hải hai chiến hạm nữa là tuần dương hạm Trần Quốc Toản (HQ 6) và hộ tống hạm Chí Linh (HQ 11).
    Sau khi nghe trận hải chiến bắt đầu, trung tướng Trưởng đáp trực thăng đến trung tâm hành quân của Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và gặp tôi tại đó để nghe tôi tŕnh bày t́nh h́nh. Lúc đó cố vấn Mỹ tại Sài g̣n cho tôi biết, qua cố vấn của Hải Quân Vùng I Duyên Hải, có khoảng 17 chiến hạm Trung Cộng trong đó có 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa từ phía Bắc. Sau này theo tài liệu hải sử th́ không có ghi là có tàu ngầm.
    Được tin trên, tôi có cảm giác ngay là nếu không khéo quyết định th́ sẽ có một sự đụng độ lớn lao mà lần nầy sẽ là một thảm kịch cho lực lượng Hải Quân Việt Nam v́ sự hiện diện của tàu ngầm. Ngay lúc đó, cố vấn trưởng Hoa Kỳ của Hải Quân Vùng I Duyên Hải bước vào Trung Tâm Hành Quân cho tôi biết phản lực cơ chiến đấu của Trung Cộng sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công hai chiến hạm vừa được tôi chỉ định hướng về Hoàng Sa để gia nhập Hải Đội của đại tá Ngạc. Tôi rất lo ngại v́ nếu 5 chiến hạm Việt Nam c̣n lại bị hạm đội và phi cơ Trung Cộng đánh ch́m và thêm 5 thủy thủ đoàn nữa bỏ ḿnh theo chiến hạm th́ phần trách nhiệm của tôi quá nặng nề để tôi có thể lấy quyết định một ḿnh, trong khi đó đô đốc Chơn vẫn chưa thấy đến Đà Nẵng. Rồi tự nhiên tôi chợt nghĩ tới một người, không ai khác hơn là Tướng Nguyễn Đức Khánh. Từ Trung Tâm Hành Quân Hải Quân tại Tiên Sa, trước sự hiện diện của Trung Tướng Trưởng tôi gọi điện thoại cho Chuẩn Kướng Khánh, tư lịnh Sư Đoàn I Không Quân. Tướng Khánh xuất thân là phi công khu trục. Khánh và tôi là bạn thân và chúng tôi không ngần ngại mà giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự. Khánh đă chở tôi theo phản lực cơ oanh tạc A-37 trong các phi vụ tập dượt của ông. Khi được điện thoại của tôi, ông nói để ông bàn lại với đơn vị khu trục của ông rồi sẽ gọi lại.
    Khi Chuẩn Tướng Khánh gọi lại th́ Trung Tướng Trưởng c̣n ngồi trong trung tâm hành quân. Ông Khánh bằng một giọng nói buồn cho tôi biết rằng ông có nói chuyện với vị chỉ huy Không Đoàn Khu Trục và được biết khu trục cơ F-5 của ông nếu ra Hoàng Sa chỉ chiến đấu được 15 phút v́ sẽ không đủ xăng ở lâu hơn nữa. Tôi xoay qua hỏi Trung Tướng Trưởng nghĩ sao th́ ông chỉ trả lời ngắn: “Tùy ông Thoại.” Tôi c̣n sợ một việc nữa là cuộc không chiến rất bất lợi về phía ta v́ phi cơ Trung Cộng cất cánh từ Hải Nam gần hơn phi cơ của Không Quân Việt Nam cất cánh từ Đà Nẵng và cuộc chiến sẽ leo thang với mức độ mà chúng ta không lường trước được.



    Trận hải chiến thật sự chỉ kéo dài hơn ba mươi phút. Khi phi cơ của Đô đốc Chơn và sĩ quan tùy viên của ông chạm đất tại phi trường Đà Nẳng th́ trận hải chiến đă coi như kết thúc. Chiến hạm Việt Nam không đuổi theo tàu địch mà chiến hạm Trung Cộng cũng không đuổi theo chiến hạm Việt Nam.
    Tôi gọi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ được chỉ thị nên không một chiến hạm Mỹ nào đến gần nơi xảy ra cuộc hải chiến.
    Với những đe dọa từ phía Trung Cộng, sự không tham dự của quốc gia mà chúng ta gọi là “đồng minh”, sự từ chối của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ trong việc cứu người trôi trên biển, tôi cảm thấy ê chề, đau đớn cho các thủy thủ đang trôi trên biển với những vết thương mà máu ra là dấu hiệu cho cá mập. Và trong sự chán nản tột cùng, tôi chỉ thị các chiến hạm bị thiệt hại rời chiến trường để đưa các thủy thủ tử thương và thương binh lên bờ tại Đà Nẵng.
    Trớ trêu nhứt là 23 thủy thủ Việt Nam trôi dạt trên biển được tàu Skopionella của hăng Shell mang quốc kỳ Ḥa Lan vớt, ngay sau trận hải chiến. Thương thuyền này đang trên đường từ Hong Kong đi Singapore. Trên tàu, các phu nhân của thuyền trưởng và thuyền phó chăm sóc các thủy thủ lâm nạn hết sức tận t́nh và tặng một số quà cho mỗi thủy thủ khi họ được giao lại cho đơn vị của Hải Đội I Duyên Pḥng thuộc Vùng I Duyên Hải. Lúc ấy các nhân viên Hải Quân tham chiến đặt câu hỏi ai là “đồng minh” của ai?

    Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt (HQ 16) bị trúng đạn nghiêng một bên sau trận hải chiến nên rút ra ngoài và được lịnh về Đà Nẵng, nên mất liên lac với toán đổ bộ. Mười ngày sau, 15 thủy thủ trên xuồng cao su sống lây lất trên bè, thiếu thức ăn nước uống, trôi dạt về đến Qui Nhơn và được một thuyền đánh cá cứu vớt mà chỉ có một thủy thủ chết v́ kiệt sức, làm như nhờ một phép lạ mà các bác sĩ lúc đó không giải thích được.
    Về phần trên đảo th́ người nhái Hải Quân Việt Nam cũng chạm súng với toán đổ bộ của Trung Cộng bằng súng nhỏ. Trung úy Đơn, sĩ quan người nhái bị tử thương ngay lúc đầu khi xuồng cao su vừa đến bờ. V́ lực lượng người nhái Việt Nam quá ít nên sau cùng phải đầu hàng và bị bắt làm tù binh.
    Sáng sớm ngày 20 tháng 1, một hải đội tiếp viện hùng hậu của Trung Cộng trên mười chiến hạm bắt đầu đổ quân lên bờ tràn ngập hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa. Toán đổ bộ của khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) trên đảo Cam Tuyền cũng như nhân viên Đài khí tượng, địa phương quân và biệt hải trên đảo Hoàng Sa bị bắt làm tù binh, tổng cộng 43 người được đưa về tỉnh Quảng Châu, Trung Cộng. Viên cố vấn Hoa Kỳ đi theo chiến hạm cũng được đưa đi Trung Hoa Lục Địa. Tất cả được trao trả lại cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà, qua Hồng Thập Tự Quốc Tế, sau 27 ngày bị giam giữ nhưng họ được đối xử tương đối nhân đạo. Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh được cử sang Hong Kong để tiếp nhận. Sự hiện diện của người Mỹ nói trên là một sự bối rối cho chánh phủ Hoa Kỳ kể cả chánh phủ Trung Cộng.
    Tại tân cảng Tiên Sa (hải cảng sâu), trong khi chờ chiến hạm Lư Thường Kiệt cập bến đưa thương bịnh binh về Đà Nẵng, tôi nói với đô đốc Chơn: “Tư Lịnh, sao tôi có linh tính là Mỹ sẽ bỏ Việt Nam, nếu không tại sao họ biết Hoàng Sa là của Việt Nam mà đài khí tượng tại đó đă được quốc tế công nhận từ mấy chục năm nay, mà ngày giờ nầy họ tuyệt đối yên lặng để Trung Cộng cưỡng chiếm. Phải chăng là trước khi bỏ miền Nam, họ không muốn Hoàng Sa lọt vào tay Nga Sô?” Đô Đốc Chơn, một tướng lănh hết sức hiểu biết nhưng dè dặt trong mọi việc, khi nghe tôi nói ông lặng thinh một hồi rồi trả lời: “Tôi không nghĩ như vậy.” Rồi ông xoay qua đề tài khác.
    Khi chiến hạm Lư Thường Kiệt cập vào cầu tàu của tân cảng tại Tiên Sa, th́ một cảnh tượng hết sức đau buồn diễn ra khi các băng ca đưa các nhân viên bị tử thương cũng như bị thương được đưa lên các xe cứu thương.

    Tôi đích thân ra tận phi trường Đà Nẵng để tiển đưa một số thương binh bị thương nặng lên máy bay về các bịnh viện ở Sàig̣n.
    Vài ngày sau, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, thủ tướng chánh phủ hướng dẫn một phái đoàn đến ủy lạo các thương binh c̣n lại tại bịnh xá Hải Quân Sơn Chà.
    Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cũng đề cử một phái đoàn dưới sự hướng dẫn của Đại tá Trần Văn Triết, tham mưu phó chiến tranh chính trị của Bộ Tư Lịnh Hải Quân, ra Đà Nẵng phỏng vấn và quay phim, được tôi và đại tá Ngạc tiếp đón, thuyết tŕnh diễn tiến trận hải chiến, trên sân thượng của tuần dương hạm Trần B́nh Trọng.
    Thế là kết thúc một sự xâm lăng bằng vơ lực của một cường quốc đối với một quốc gia nhỏ bé.
    . . .

  4. #4
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484
    . . .



    Sự tổn thất của đôi bên


    Hải Quân Trung Cộng:


    Hộ tống hạm Kronstad 274 bị ch́m, chiến hạm này do hạm trưởng đại tá Quan Đức chỉ huy, tử trận. V́ chiến hạm này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm:
    Đô đốc Phương Quang Kính, tư lịnh phó của Hạm Đội Nam Hải của Hải Quân Trung Cộng, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá, 7 sĩ quan cấp uư và một số đoàn viên.
    Hộ tống hạm Kronstad 271 hư hại nặng, ủi băi sau đó phải phá hủy, hạm trưởng đại tá Vương Kỳ Uy tử trận.
    Trục lôi hạm 389 bị hư hại nặng, hạm trưởng trung tá Triệu Quát tử trận.
    Trục lôi hạm 396 bị hư hại nặng do đại tá Diệp Mạnh Hải tử trận, chỉ huy.

    Hải quân Việt Nam Cộng Hoà:

    Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ 10) bị ch́m do Thiếu tá (truy thăng cấp trung tá) Ngụy Văn Thà chỉ huy, tử thương với 24 chiến sĩ khác hy sinh và 26 chiến sĩ mất tích. Hạm phó Đại uư Nguyền Thành Trí tử thương trên xuồng cao su sau khi chiến hạm ch́m.
    Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) bị hư hại với 2 chiến sĩ tử thương.
    Tuần dương hạm Trần B́nh Trọng (HQ 5) bị hư hại với 2 chiến sĩ hy sinh.
    Tuần dương hạm Lư Thường Kiệt (HQ 16) có một chiến sĩ hy sinh và 14 chiến sĩ khác trôi dạt trên xuồng cao su về Qui Nhơn.
    2 nhân viên người nhái tử thương trên hải đảo.
    28 quân nhân Hải Quân, Lục Quân và Địa Phương Quân Việt Nam bị bắt làm tù binh và đưa về Trung Hoa Lục Địa.
    Vào tháng 2 năm 1999, sau 25 năm mất liên lạc với nhau từ trận chiến Hoàng Sa, tôi có dịp sắp đi công tác tại Dallas thuộc tiểu bang Texas, tôi sực nhớ nghe nói đại tá Ngạc đang cư ngụ tại Dallas. Tôi hỏi thăm số điện thoại và liên lạc nói chuyện với đại tá Ngạc.
    Qua điện thoại tôi nói nguyên văn như sau: “Tôi rất mừng t́m được anh sau bao nhiêu năm chúng ta xa cách. Mỗi người nh́n sự việc xảy ra tại Hoàng Sa khác nhau, chỉ tôi và anh thấu rơ hoàn cảnh lúc bấy giờ, sự khó khăn của cấp chỉ huy trực tiếp chịu trách nhiêm trên mặt pháp lư cũng như quân sự. Tôi cám ơn anh giúp tôi thi hành trách nhiệm của tôi lúc bấy giờ trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Anh là một anh hùng trong lịch sử hải chiến.” Đại tá Ngạc bằng một giọng b́nh thản trả lời tôi qua điện thoại từ Dallas: “Đă là ở trong quân ngũ, đô đốc là cấp chỉ huy chiến thuật mà tôi thấy đô đốc lúc đó cần tôi và tin tôi, đó mới là điều quan trọng, tôi cố gắng làm tối đa cái ǵ tôi làm được nhưng hậu quả nhiều khi ḿnh không biết trước được.”
    Cuộc điện đàm rất là thân mật và cảm động, tôi cho Đại tá Ngạc biết là ngày 27/2 tôi sẽ đi công tác tại Dallas và sẽ gặp ông ngày hôm đó. Đại tá Ngạc rất mừng và nói: “May quá, v́ cuối tháng này chúng tôi sẽ dọn đi California.” Tôi không dè đại tá Ngạc qua đời một cách đột ngột vài ngày sau khi nói điện thoại với tôi và đúng 15 ngày trước ngày hẹn gặp tôi. Có lẽ tôi là người hải quân cuối cùng mà đại tá Ngạc nói chuyện trước khi rời gia đ́nh và chiến hữu để ra đi vĩnh viễn.
    Niềm an ủi của tôi là được nói những ǵ tôi muốn nói với đại tá Ngạc từ Tết năm 1974, hai mươi lăm năm về trước.
    Sự hy sinh của các thủy thủ can trường vẫn c̣n là một bằng chứng bằng xương bằng máu để con cháu chúng ta tranh đấu trước toà án quốc tế, để đ̣i hỏi Trung Cộng phải giao trả các đảo này cho Việt Nam.
    Ai là người Việt Nam có quyền hănh diện là trận hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến duy nhất của Việt Nam và của thế kỷ, chống ngoại xâm, và bảy thế kỷ sau khi Tướng Trần Hưng Đạo đánh bại quân Mông Cổ từ phương Bắc, trên mặt nước.
    C̣n những ai nghĩ là Việt Nam Cộng Hoà c̣n lệ thuộc Mỹ phần nào th́ đây là bằng chứng rơ rệt là việc tấn công lực lượng Trung Cộng là hoàn toàn do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lịnh, không có sự đồng ư của Hoa Kỳ và không có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ dù là nhân đạo tối thiểu như vớt người trôi trên biển cả.
    Sau này, rất nhiều báo chí sách vở b́nh luận về hải đảo Hoàng Sa và trận hải chiến và phê phán nhiều, kẻ kể công người buộc tội, riêng tôi th́ chúng ta không nên quên là dù chúng ta có bốn thủy thủ đoàn can trường tham gia cuộc hải chiến nhưng các chiến hạm của ta vừa cũ kỷ (từ Đệ Nhị Thế Chiến) không có đầy đủ vũ khí tối tân, kể cả đầy đủ phương tiện cấp cứu và cũng không có một lực lượng trừ bị để tăng cường khi cần. Việc súng bất khiển dụng bất thần hoặc đạn bạn bắn trúng bạn là chuyện không sao tránh khỏi trong mọi chiến trận dù là trên đất liền, trên không trung hay trên mặt biển trong lúc chạm địch.
    Đại tá Hà Văn Ngạc, vị hải đội trưởng trầm lặng, các hạm trưởng Nguỵ Văn Thà, Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự cùng thủy thủ đoàn cũng như các người nhái và biệt hải tham dự trận Hoàng Sa xứng đáng là những anh hùng của Quân Lực Việt Nam.
    Hải Đội Việt Nam Cộng Ḥa nổ súng chỉ là một hành động “tượng trưng nhưng cứng rắn” để chứng tỏ sự bảo vệ chủ quyền các đảo Hoàng Sa chớ không có mục tiêu hủy diệt hải đội của Trung Cộng.
    Tổng thống Thiệu bị ở trong thế “chẳng đặng đừng.” Không phản ứng ǵ hết th́ lịch sử sẽ kết tội hèn nhát, mà đụng độ với hải quân của một cường quốc như Trung Cộng thời bấy giờ là một quyết định táo bạo và can trường.
    Tinh thần yêu nước không cần được biểu lộ bằng những lời tuyên bố mát tai của những chính trị gia, mà được biểu lộ một cách cảm động và hùng hồn nhất, bởi những thủy thủ của toán đổ bộ của tuần dương hạm Lư Thường Kiệt vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 19 tháng giêng năm 1974 tại Hoàng Sa trên xuồng cao su, khi 15 chiến sĩ hải quân can trường đồng ca bài “Việt Nam, Việt Nam” khi thấy chiến hạm Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Bài hát này cũng là bài hát cuối cùng của hạ sĩ Nguyễn văn Duyên, v́ sau mười ngày trên biển cả, ngày th́ nóng cháy da, đêm th́ lạnh thấu xương, hết lương thực, hết nước uống, đuối sức, anh Duyên đă trút hơi thở cuối cùng khi trôi dạt về tới Qui Nhơn…

    Trích trong tập Hồi Kư "CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI" của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải, Quân khu I



  5. #5
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484


    Thừa lệnh Tổng thống VNCH, người ra lệnh khai hỏa vào các chiến hạm Trung Cộng mở đầu trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa 1974
    Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc, Hải Đội Trưởng Hải Đội III Tuần Dương HQVNCH

    Đôi lời trước khi viết
    Đă 25 năm kể từ ngày tôi tham-dự trận hải-chiến Hoàng-Sa, tôi chưa từng tŕnh bầy hay viết mô-tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đă thất hứa với các bậc tiên-sinh yêu-cầu tôi thuật lại chi-tiết của cuộc đụng-độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối căi được là các chiến-hữu các cấp của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa trong trận hải-chiến đă anh-dũng chiến-đấu bằng phương-tiện và kinh-nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm-lăng truyền-kiếp của dân-tộc hầu bảo-vệ lănh-thổ của Tổ-quốc. Trước một thù-địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc-chiến có hạn-chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường-tập của đối-phương để t́m-kiếm một cơ-hội thuận-tiện khác hầu khôi-phục lại phần đất đă bị cưỡng-chiếm.
    Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ-Măo, tôi viết những gịng này để tưởng-niệm anh-linh các liệt-sĩ đă hy-sinh khi cùng tôi chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc-Tổ, một số đă vĩnh-viễn nằm lại trong ḷng biển Hoàng-Sa như để thêm một chứng-tích lịch-sử của chủ-quyền quốc-gia, một số khác đă bỏ ḿnh trên biển cả khi t́m đường thoát khỏi sự tàn-bạo của người phương bắc.
    Có nhiều chiến-hữu Hải-quân đă từng hăng-say viết lại một trang-sử oai-hùng của Hải-quân và toàn Quân-lực Việt-Nam của nền Đệ-Nhị Cộng-Ḥa, nhưng đă thiếu-xót nhiều chi-tiết chính-xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ-biến, và cũng v́ phải lưu-lạc khắp thế-giới tự-do nên các chiến-hữu đó đă không thể liên-lạc để tham-khảo cùng tôi.
    Nhiều chi-tiết về giờ-giấc và về vị-trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên-hệ tới biến cố, v́ không có tài-liệu truy-lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường-thuật trung-thực những chi-tiết theo khía-cạnh của một người chỉ-huy chiến-thuật được biết và cũng mong-mỏi các chiến-hữu nào c̣n có thể nhớ chắc-chắn các chi-tiết quan-trọng khác, tôi sẽ sẵn-sàng tiếp-nhận qua ṭa-soạn này, để sửa lại tài-liệu này cho đúng.
    Hà-Văn-Ngạc


    Soái hạm HQ-5 Trần B́nh Trọng




    "Tân xuân Giáp-Dần Hoàng-Sa-chiến
    Nam-ngư hải-ngoại huyết lưu hồng"

    Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng-Tŕnh đă được truyền-khẩu rất nhanh khi Hải-đội Đặc-nhiệm Hoàng-Sa trở về tới Đà-nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải-quân Đại-Tá Nguyễn-Viết-Tân (thủ-khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức-vự Chỉ-huy-trưởng Sở Pḥng-Vệ Duyên-hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đă đúng 25 năm, và do sự khuyến-khích của các bậc thượng-trưởng của Hải-quân Việt-Nam, những chi-tiết về diễn-tiến chưa tùng tiết-lộ của trận hải-chiến cần được ghi lại để làm chứng-liệu lịch-sử.
    Sau trận hải-chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến-thuật và chiến-lược của Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa đến nay nếu nêu ra th́ sẽ không c̣n một giá-trị thực-tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến-cố kế-tiếp. V́ vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây th́ chỉ để ghi lại t́nh-trạng và khả-năng khi Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa khi đă phải đương đàu với Trung-cộng, là một quốc-gia vào thời-điểm đó, đă sẵn có một lực-lượng hùng-hậu về hải-lục-không-quân gấp bội của Việt-Nam Cộng-Ḥa.
    Một điểm hănh-diện cho Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa lúc bấy giờ là đă không những phải sát-cánh với lực-lượng bạn chống lại kẻ nội-thù là cộng-sản miền bắc trong nội-địa, lại vừa phải bảo-vệ những hải-đảo xa-xôi, mà lại c̣n phải chiến-đấu chống kẻ xâm-lăng, đă từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch-sử lập-quốc và dành quyền độc-lập của xứ sở.
    So-sánh với các cuộc hành-quân ngoại-biên vào các năm 1970-71 của Quân-lực VNCH sang đất Kampuchia va Hạ-Lào, th́ quân-lực ta chỉ chiến đẵu ngang ngửa vơi cộng-sản Việt-Nam ẩn náu trên đất nước láng-giềng mà thôi. Phải thành-khẩn mà nhận rằng Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa ngoài nội-thù c̣n phải chống ngoại-xâm mà đă rất khó tiên-liệu để chuẩn-bị một cuộc chiến chống lại một lực-lượng hải-quân Trung-cộng tương-đối dồi-đào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. Hải-quân Việt-Nam ta đă có những gánh nặng về hành-quân để yểm-trợ lực-lượng bạn và hành-quân ngăn-chận các vụ chuyển-quân lén-lút của Việt-cộng qua biên-giới Miên-Việt trong vùng sông ng̣i cũng như các vụ tiếp-tế quân-dụng của chúng vào vùng duyên-hải.
    Trước khi đi vào chi-tiết của trận hải-chiến lịch-sử này, chúng ta thử nhắc sơ-lược lại cấu-trúc nhân-sự
    của thượng-tầng chỉ-huy và của các đơn-vị tham-chiến của Hải-quân vào lúc biến-cố:
    - Tư-lệnh Hải-quân: Đề-Đốc Trần-văn-Chơn
    - Tư-lệnh-phó Hải-quân: Phó Đề-Đốc Lâm-ngươn-Tánh
    - Tham-mưu-Trưởng Hải-quân: Phó Đề-Đốc Diệp-quang-Thủy
    - Tư-lệnh Hạm-đội: HQ Đại-tá Nguyễn-xuân-Sơn
    - Tư-lệnh HQ Vùng 1 Duyên-hải: Phó Đề-Đốc Hồ-văn Kỳ-Thoại
    - Chỉ-huy-trưởng Hải-đội tuần-dương: HQ Đại-tá Hà-văn-Ngạc, (Hải-đội 3) và là Sĩ-quan chỉ-huy chiến-thuật trận hải-chiến.
    - Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4: HQ Trung-Tá Vũ-hữu-San
    - Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5: HQ Trung-Tá Phạm -trọng- Quỳnh
    - Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16: HQ Trung-Tá Lê-văn-Thự
    - Hạm-trưởng Hộ-tống-hạm HQ10: HQ Thiếu-Tá Ngụy-văn-Thà (truy-thăng HQ Trung-Tá)
    - Trưởng toán Hải-kích đổ-bộ: HQ Đại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh.


    Lư-do tôi đă có mặt tại Hoàng-Sa


    Rất nhiều chiến-hữu trong Hải-quân đă không rơ nguyên-cớ nào mà tôi đă có mặt để đích-thân chỉ-huy tại chỗ trận hải-chiến Hoàng-Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội-đồng Đô-đốc chỉ-định tôi tăng-phái cho Vùng I duyên-hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lư do tăng-phái của tôi đến Vùng I duyên-hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân-Khu 1, tôi mới được biết nhiệm-vụ chính của tôi là chuẩn-bị một trận thư-hùng giữa Hải-quân VNCH và hải-quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin t́nh-báo xác-nhận là cộng-sản đă được viện-trợ các cao-tốc-đĩnh loại Komar của Nga-sô trang-bị hỏa-tiễn hải-hải (surface to surface). Vào thời-gian đó Hải-quân VNCH chỉ có khả-năng chống-đỡ thụ-động loại vũ-khí này. Cuộc hải-chiến tiên-liệu có thể xẩy ra khi lực-lượng hải-quân cộng-sản tràn xuống để hỗ-trợ cho quân-bộ của chúng khi chúng muốn tái-diễn cuộc cường-tập xuất-phát từ phía bắc sông Bến-Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn-công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.

    Tôi lưu lại Vùng I duyên-hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên-cứu để thiết-kế. Kế-hoạch chính của cuộc hải-chiến này là xử-dụng nhiều chiến-hạm và chiến-đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt-hại bằng cách trải nhiều mục-tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song-song với việc này là các chiến-hạm và chiến-đĩnh phải xử-dụng đạn chiếu-sáng và hỏa-pháo cầm-tay như là một cách chống hỏa-tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải-quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo-binh của Quân-đoàn I để tác-xạ ngăn-chặn và tiêu-diệt lực-lượng hải-quân cộng-sản tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa-tiễn.

    Sau khi đă thuyết-tŕnh tại Bộ-Tư-Lệnh Hải-quân Vùng I duyên-hải cùng các Chỉ-huy-trưởng các đơn-vị duyên-pḥng và duyên-đoàn, Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải chấp-thuận kế-hoạch và đưa kế-hoạch lên thuyết-tŕnh tai Bộ-Tư-Lệnh Quân-đoàn I và Quân-Khu I. Buổi thuyết-tŕnh tại BTL/Quân-đoàn I do đích-thân Trung-Tướng Ngô-quang-Trưởng chủ-tọa, ngoài Tư-lệnh HQ Vùng I duyên-hải c̣n có Đại-Tá Hà-mai-Việt Trưởng Pḥng 3 Quân-đoàn, Đại-tá Khiêu-hữu-Diêu, Đại-Tá Nguyễn-văn-Chung Chỉ-huy-trưởng pháo-binh Quân-đoàn và một số rất ít các sĩ-quan phụ-tá. Nhu-cầu yểm-trợ pháo-binh cho cuộc hải-chiến được chấp-thuận ngay và Chỉ-huy-trưởng pháo-binh quân-đoàn hứa sẽ phối-trí pháo-binh, đặc-biệt là pháo-binh 175 ly để thỏa-măn kế-hoạch của Hải-quân, khi được yêu-cầu.
    Kể từ khi được chỉ-định tăng-phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên-hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công-việc của tôi tại Hải-đội, nhưng chưa lần nào Bộ-Tư-lệnh HQ, Bộ-Tư-lệnh Hạm-đội hoặc Vùng I Duyên-hải chỉ-thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường t́m-hiểu t́nh-h́nh tổng-quát tại Quân-Khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải thăm-viếng các đơn-vị lục-quân bạn cấp sư-đoàn, lữ-đoàn hay trung-đoàn.

    Trở lại trận hải-chiến Hoàng-Sa, vào khoảng ngày 11 tháng giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại-trưởng Hoa-Kỳ Kissinger rời Trung-cộng, th́ đột-nhiên Ngoại-trưởng Trung-cộng lại một lần nữa tuyên-bố về chủ-quyền của họ trên các quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi rất lưu-ư tin này v́ tôi đă chỉ-huy công-cuộc đặt quân trú-pḥng đầu tiên trên đảo Nam-Yết vùng Trường-Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, v́ Ngoại-trưởng VNCH Vương-văn-Bắc c̣n bận công-cán ngoại-quốc, th́ phát-ngôn-viên Bộ Ngoại-giao VNCH bác-bỏ luận-cứ của Trung-cộng và tái xác-nhận một lần nữa chủ-quyền của VNCH trên các quần-đảo đó.

    Ngày 16 tháng giêng năm 1974, tôi từ Sàig̣n đi Vũng-Tầu để chủ-tọa lễ trao-quyền chỉ-huy Tuần-dương-hạm HQ5 Trần-b́nh-Trọng đang neo tại chỗ, cho tân-hạm-trưởng là Hải-quân Trung-tá Phạm-trong-Quỳnh (tôi không c̣n nhớ tên cựu hạm-trưởng). Khi trở về Sàig̣n, lúc theo dơi bản tin-tức hàng ngày của đài truyền-h́nh th́ thấy Ngoại-trưởng Vương-văn-Bắc hùng-hồn và nghiêm-trọng khi tuyên-bố chủ-quyền của VNCH trên 2 quần-đảo Hoàng và Trường-Sa. Tôi thấy có chuyện bất-ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên-hải nhất là Việt-cộng có lẽ được Trung-cộng hỗ-trợ tạo ra t́nh-thế rắc-rối ngoài hải-đảo để thu-hút lực-lượng của Hải-quân Việt-Nam, và đương nhiên cộng-sản sẽ lợi-dụng để tràn-xuống dưới vĩ-tuyến 17 như đă dự-liệu.
    Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông-báo đến Tư-lệnh Hạm-đội; tôi lên phi-trưởng Tân-sơn-Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng-không quân-sự. Tôi gặp ngay một vị Thượng-sĩ không-quân trưởng-trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Đà-nẵng. Vị Thượng-sĩ tŕnh với tôi là danh-sách hành-khách đă đầy-đủ cho chuyến bay và giới-thiệu tôi gặp vị Trung-úy phi-công-trưởng phi-cơ C130. Sau khi tŕnh-bầy lư-do khẩn-cấp đi Đà-nẵng của tôi, vị phi-công-trưởng trang-trọng mời tôi lên phi-cơ ngồi vào ghế phụ trong pḥng phi-công.

    Đến Đà-nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện-thoại cho HQ Đại-tá Nguyễn-hữu-Xuân, Tư-lệnh-phó Vùng cho xe đón tôi tại phi-trường. Đến BTL/HQ Vùng I duyên-hải tôi mới được biết chi-tiết những ǵ đang xẩy ra tại Hoàng-Sa, và được biết thêm là chiếc tuần-dương-hạm HQ5, mà tôi vừa chủ-tọa trao quyền chỉ-huy ngày hôm qua tại Vũng-Tàu sẽ có mặt tại quân-cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt-đội hải-kích.

    Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ-bút của Tổng-thống vừa tới thăm bản-doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi-tiết cũng như xin xem thủ-bút v́ tôi nghĩ đó là chỉ-thị riêng tư giữa Tổng-Thống và một vị Tướng-lănh. Vị Tư-lệnh này c̣n cho tôi hai chọn-lựa: một là chỉ-huy các chiến-hạm ngay tại Bộ-Tư-lệnh Vùng, hai là đích-thân trên chiến-hạm. Tôi đáp tŕnh ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn-vị của tôi. Từ ngày được thuyên-chuyển về Hạm-đội, không như các vị tiền-nhiệm, tôi thường xa Bộ-chỉ-huy để đi theo các chiến-hạm trong công-tác tuần-dương. Mỗi chuyến công-tác, sự hiện-diện của tôi đă mang lại cho nhân-viên chiến-hạm niềm phấn-khởi sau nhiều ngày phải xa căn-cứ. Tôi thường lưu ư các vị hạm-trưởng đến việc huấn-huyện nội-bộ hoặc thao-dượt chiến-thuật với chiến-hạm khác khi được phép.
    Đến khoảng buổi chiều th́ Tư-lệnh vùng I duyên-hải c̣n hỏi tôi có cần thêm ǵ, tôi tŕnh xin thêm một chiến-hạm nữa v́ cần hai chiếc khi di-chuyển trong trường-hợp bị tấn-công trên hải-tŕnh, chứ không phải v́ số lượng chiến-hạm Trung-cộng đang có mặt tại Hoàng-Sa. Chiếc Hộ-tống-hạm (PCE) HQ10 Nhựt-Tảo đựơc chỉ-định xung vào Hải-đoản đặc-nhiệm, với lư-do chính là chiếc Hộ-tống-hạm này đang tuần-dương ngay khu-vực cửa khẩu Đà-nẵng nên giảm bớt thời-gian di-chuyển, chiến-hạm chỉ có một máy chánh khiển-dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư-lệnh HQ vùng c̣n tăng-phái cho tôi HQ Thiếu-Tá Toàn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ Thiếu Tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả-năng nên trong suốt thời-gian tăng-phái tôi chỉ trao nhiệm-vụ giữ liên-lạc với các Bộ Tư-lệnh cho vị sĩ-quan này. Tôi dùng cơm chiều gia-đ́nh cùng Tư-lệnh HQ Vùng tại tư-thất trong khi chờ đợi Tuần-dương-hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư-lệnh HQ Vùng đích-thân đi bộ tiễn-chân tôi ra cầu quân-cảng. Sau trận-chiến, vị Đô-đốc này có thổ-lộ cùng tôi là ông đă tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải-chiến đă dự-liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Đô-đốc đă mật-tŕnh về Tư-lệnh Hải-quân thường có mặt tại Bộ-Tư-lệnh.
    Tuần-dương-hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm-vụ đi tới Hoàng-Sa cho Hạm-trưởng HQ5 là vị hạm-trưởng thâm-niên hơn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm Trưởng HQ5 là Trung Tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm Trưởng HQ5 là Thiếu Tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện-diện của tôi trên chiến-hạm này đă làm tân-hạm-trưởng, vừa nhậm-chức 2 ngày trước, được vững-tâm hơn v́ chắc tân-hạm-trưởng chưa nắm vững được t́nh-trạng chiến-hạm cũng như nhân-viên thuộc-hạ. Các chiến-hạm đều giữ im-lặng vô-tuyến ngoại trừ các báo-cáo định-kỳ về vị-trí.

    . . .


  6. #6
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484



    Hộ tống hạm HQ-10 Nhật Tảo, Hạm trưởng: Ngụy Văn Thà (T), Hạm Phó: Nguyễn Thành Trí (P)


    Những diễn-tiến ngày hôm trước trận hải-chiến


    Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến-hạm HQ5 và HQ10 đă đến gần Hoàng-Sa, và trong tầm âm-thoại bằng máy VRC46 (hậu-thân của máy PRC25 nhưng với công-xuất mạnh hơn) để liên-lạc bằng bạch-văn, v́ tầm hữu-hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng-Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm-trưởng HQ4 HQ Trung-tá Vũ-hữu-San, lúc đó đang là sĩ-quan thâm-niên hiện-diện, để được am-tường thêm t́nh-h́nh cũng như thông-báo về sự hiện-diện của tôi, vừa là Chỉ-huy-trưởng Hải-đội vừa là để thay-thế quyền chỉ-huy mọi hoạt-dộng, theo đúng thủ-tục ghi trong Hải-quy. Sau khi được tŕnh bầy chi-tiết các diễn-tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm-trưởng này và chia sẻ những khó-khăn mà vị này đă trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.

    Vào khoảng xế trưa, th́ cả 4 chiến-hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập-trung trong vùng ḷng chảo của quần-đảo Hoàng-Sa và Hải-đoàn đặc-nhiệm được thành h́nh. Nhóm chiến-binh thuộc Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đă đổ-bộ và trương quốc-kỳ VNCH trên các đảo Cam-Tuyền (Robert), Vĩnh-Lạc (Money) và Duy-mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vi-trí pḥng-thủ để giữ đảo. Sau khi quan-sát các chiến-hạm Trung-cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang-Ḥa (Duncan), tôi quyết-định ngay là hải-đoàn sẽ phô-trương lực-lượng bằng một cuộc thao-diễn chiến-thuật tập-đội để tiến về phía đảo Quang-Ḥa với hy-vọng là có thể đổ-bộ hải-kích như các chiến-hạm ta đă làm trước đây. Lúc này trời quang-đăng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến-hạm đều phải vào nhiệm-sở tác-chiến, nhưng các dàn hải-pháo và vủ-khí đại-liên phải ở trong thế thao-diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Ḥa, 4 chiến-hạm vào đội-h́nh hàng dọc, dẫn đầu là Khu-trục-hạm HQ4, theo sau là tuần-dương-hạm HQ5 làm chuẩn-hạm đă có trương hiệu-kỳ hải-đội, thứ ba là tuần-dương-hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc-độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến-hạm là hai lần khoảng cách tiêu-chuẩn (tức 1000 yard), phương-tiện truyền-tin là kỳ-hiệu và quang-hiệu, và âm-thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử-dụng để tránh hiểu-lầm ám-hiệu vận-chuyển chiến-thuật mà thôi.

    Chừng nửa giờ sau khi hải-đoàn vận-chuyển vào đội-h́nh hướng về phía đảo Quang-Ḥa th́ hai chiến-hạm Trung-cộng loại Kronstad mang số-hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận-chuyển chặn trước hướng đi của hải-đoàn, nhưng hải-đoàn vẫn giữ nguyên tốc-độ, trong khi đó th́ hai chiếc chiến-hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt ḿn loại T43) cùng 2 chiếc ngư-thuyền ngụy-trang 402 và 407 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị-trí sát bờ bắc đảo Quang-Ḥa. Tôi đă không chú-tâm đến 2 chiếc chiến-hạm nhỏ của địch v́ cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ Thiếu-Tá Trần-Đỗ-Cẩm truy ra theo số-hiệu là loại trục-lôi-hạm và chắc trang-bị vũ-khí nhẹ hơn) c̣n hai chiếc tầu tiếp-tế ngụy-trang như ngư-thuyền th́ không đáng kể. Hành-động chận đường tiến của chiến-hạm ta đă từng được họ xử-dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến-hạm ta đổ quân lên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng để xua quân của Trung-cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên-lạc bằng quang-hiệu để xin liên-lạc, Tuần-dương-hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công-điện bằng Anh-ngữ: "These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny" (Phần này tôi nhớ rất kỹ v́ tôi có phụ nhận quang-hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: "Please leave our territorial water immediately"

    Công-điện của chiến-hạm Trung-cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công-điện của Hải-đoàn đăc-nhiệm VNCH, và chiến-hạm ta cũng tiếp-tục chuyển lại công-điện yêu-cầu họ rời khỏi lănh-hải của VNCH.
    V́ 2 chiến-hạm Kronstad Trung-cộng cố-t́nh chặn đường tiến của Hải-đoàn đặc-chiệm với tốc-độ khá cao, nếu Hải-đoàn tiếp-tục tiến thêm th́ rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải-đoàn trở về phía nam đảo Hoàng-Sa và vẫn giữ t́nh-trạng ứng-trực cũng như theo dơi các chiến-hạm Trung-cộng, họ cũng lại tiếp-tục giữ vị-trí như cũ tại phía bắc và tây-bắc đảo Quang-Ḥa. Sự xuất-hiện thêm 2 chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam vào trong vùng chắc-chắn đă được chiếc Kronstad 271 của Trung-cộng, được coi như chiến-hạm chỉ-huy, báo cáo về Tổng-hành-dinh của họ, và việc tăng-viện có thể được coi như đă được chuẩn-bị.
    Với hành-động quyết-liệt ngăn-chặn ta không tiến được đến đảo Quang-Ḥa, tôi cho rằng họ muốn cố-thủ đảo này. Việc đổ-bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy-vọng, chỉ có thể phải thực-hiện bất-thần để tránh hành-động ngăn-chặn của họ và có lực-lượng hải-kích với trang-phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng-bộ, như Tuần-dương-hạm HQ16 và Khu-trục-hạm HQ4 đă thành-công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn-công thay v́ nhượng-bộ, Hải-đoàn đặc-nhiệm buộc phải sẵn-sàng chống-trả.

    Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ16 chuyển phái-đoàn công-binh của Quân-đoàn I sang Tuần-dương-hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I do Thiếu-tá Hồng hướng-dẫn đă vào gặp tôi tại pḥng ăn Sĩ-quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ-quan DAO Hoa-Kỳ tại Đà-nẵng. Tôi cho cả hai hay là t́nh-h́nh sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng-độ nên tôi không muốn các nhân-viên không Hải-quân có mặt trên chiến-hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần-dương-hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lưong-khô. Riêng ông Kosh th́ tôi yêu-cầu Hạm-trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái-đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng-Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu-cầu ông cho trả lại Tuần-dương-hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan v́ thuốc lá này thuộc quân-tiếp-vụ của chiến-hạm xuất ra ứng trước. Riêng Thiếu-tá Hồng th́ tôi đă có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông th́ ông đă viết xong vào trước năm 1975, một cuốn kư-sự về thời-gian bị bắt làm tù-binh trong lục-dịa Trung-Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến-tranh Chính-trị cho xuất bản v́ chưa phải lúc thuận-tiện.
    Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực-tiếp nói chuyện bằng vô-tuyến với tất cả hạm-trưởng để cho hay là t́nh-h́nh sẽ khó tránh được một cuộc đụng-độ, và yêu-cầu các vị này chuẩn-bị các chiến-hạm và huy-động tinh-thần nhân-viên để sẵn-sàng chiến-đấu. Tôi biết rơ cuộc chiến nếu xẩy ra th́ tất cả nhân-viên đều không đủ kinh-nghiệm cho các cuộc hải-chiến, v́ từ lâu các chiến-hạm chỉ chú-tâm và đă thuần-thuộc trong công-tác tuần-dương ngăn-chặn hoặc yểm-trợ hải-pháo mà thôi, nếu có những nhân-viên đă phục-vụ trong các giang-đoàn tại các vùng sông ng̣i th́ họ chỉ có những kinh-nghiệm về chiến-đấu chống các mục-tiêu trên bờ và với vũ-khí tương-đối nhẹ hơn và dễ-dàng trấn-áp đối-phương bằng hỏa-lực hùng-hậu.

    Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành-quân, tôi không c̣n nhớ được xuất-xứ, có thể là của Vùng I duyên-hải, được chuyển mă-hóa trên băng-tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1) . Lệnh hành-quân vừa được nhận vừa mă-dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rơ quan-niệm hành-quân như sau: tái-chiếm một cách ḥa-b́nh đảo Quang-Ḥa. Lệnh hành-quân cũng không ghi t́nh-h́nh địch và lực-lượng trừ-bị nhưng những kinh-nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm-nhận trách-vụ Tham-mưu-phó hành-quân tại BTL/HQ, tôi dự-đoán Trung-cộng, v́ đă thiết-lập một căn-cứ tiền-phưong tại đảo Phú-lâm thuộc nhóm Tuyên-đức nằm về phía đông-bắc đảo Hoàng-Sa sát vĩ-tuyến 17, nên họ đă có thể đă phối-trí tại đây lực-lượng trừ-bị, và hơn nữa trên đảo Hải-Nam c̣n có một căn-cứ Hải-quân rất lớn và một không-lực hùng-hậu với các phi-cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Đà-nẵng ra. Việc Trung-cộng lấn-chiếm những đảo không có quân trú-pḥng của ta trong vùng Hoàng-Sa, đă phải được họ chuẩn-bị và thiết-kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên-bố chủ-quyền. Trong khi đó việc Hải-quân VNCH phát-hiện sự hiện-diện của họ chỉ có từ khi Tuần-dương-hạm HQ16 được lệnh đến thăm-viếng định-kỳ và chở theo phái-đoàn công-binh Quân-đoàn I ra thám-sát đảo để dự-kiến việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.

    Ngay sau khi hoàn-tất nhận lệnh hành-quân, tôi chia Hải-đoàn thành hai phân-đoàn đặc-nhiệm: Phân-đoàn I là nỗ-lực chính gồm Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 do Hạm-trưởng Khu-trục-hạm HQ4 chỉ-huy; Phân-đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 do Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 chỉ-huy. Nhiệm-vụ là phân-đoàn II giữ nguyên vị-trí trong ḷng chảo Hoàng-Sa để tiến về đảo Quang-Ḥa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang-Ḥa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ-bộ biệt-đội hải-kích. Phân-đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần-đảo thay v́ đi thẩng từ đảo Hoàng-Sa xuống đảo Quang-Ḥa là để tránh việc các chiến-hạm Trung-cộng có thể lại vận-chuyển ngăn-chặn đường tiến của chiến-hạm như họ đă làm vào buổi chiều, vả lại việc hải-hành tập-đội về đêm trong vùng có băi cạn và đá ngầm có thể gây trở-ngại cho các chiến-hạm, nhất là Khu-trục-hạm c̣n có bồn SONAR (máy ḍ tiềm-thủy-đĩnh), hy-vọng hải-tŕnh như vậy sẽ tạo được yếu-tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông-bắc, việc đổ-bộ vào phía tây-nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng-bè. Nên ghi-nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố-vấn HQ Hoa-kỳ tại Hạm-đội mà trưởng toán là HQ Đại-tá Hamn (tên họ) đă nhiều lần yêu-cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu-trục-hạm. Phó Đề-đốc Nguyễn-thành-Châu (lúc đó c̣n mang cấp HQ Đại-tá) Tư-lệnh Hạm-đội đă trao nhiệm-vụ cho tôi thuyết-phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn-luyện. Măi đến khi HQ Đại-tá Nguyễn-xuân-Sơn nhận chức Tư-lệnh Hạm-đội một thời-gian, tôi vẫn tiếp-tục liên-lạc với toán cố-vấn, và sau cùng họ mới bằng ḷng giữ máy lại với tính-cách để huấn-luyện. Thực ra một khu-trục-hạm mà thiếu máy thám-xuất tiềm-thủy-đĩnh th́ khả-năng tuần-thám và tấn-công sẽ giảm đi nhiều.

    Diễn-tiến trận hải-chiến ngày 19 tháng giêng năm 1974


    Đúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân-đoàn I đă có mặt tại tây-nam đảo Quang-Ḥa, thủy-triều lớn, tầm quan-sát trong ṿng 1.50 đến non 2.00 hải-lư, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông-bắc thổi nhẹ, biển tương-đối êm tuy có sóng ngầm. Phân-đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải-lư, Tuần dương-hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận-tiện đổ-bộ hải-kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rơ-rệt nên thấy họ đă vận-chuyển lúng-túng và không thực-hiện được hành-động ngăn-cản như họ đă từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất-ngờ là hai chiếc chủ-lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵng-sàng đối đầu mà tôi không phải t́m-kiếm họ, như tôi đă coi họ như là muc-tiêu chính. Họ đă phải luồn ra khỏi khu ḷng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dơi được đuờng tiến-quân của Phân-đoàn I hay không. Vào giờ này th́ họ đă phải biết rơ là Tuần-dương-hạm HQ5 là chiến-hạm chỉ-huy của ta và cũng đă phải biết được hỏa-lực của chiếc khu-trục-hạm. Biệt-đội hải-kích do HQ Đại-úy Nguyễn-minh-Cảnh chỉ-huy đă được tôi chỉ-thị là không được nổ súng và lên bờ yên-cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt-đội này có một chiến-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long và luôn cả HQ Đại-Úy Nguyễn-minh-Cảnh là những chiến-sĩ đă tham-dự cuộc hành-quân đầu-tiên Trần-hưng-Đạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ-huy để xây-cất doanh-trại và đặt quân trú-pḥng đầu-tiên trên đảo Nam-Yết thuộc quần-đảo Trường-Sa vào cuối mùa hè năm 1973.

    Một lần nữa, khi biệt-đội hải-kích xuồng xuồng cao-su, tôi đích-thân ra cầu thang căn-dặn và nhấn mạnh về việc đổ-bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên-lạc được với họ th́ yêu-cầu họ rời khỏi đảo.
    Tôi không chắc là cuộc đổ-bộ sẽ thành-công v́ quân Trung-cộng trên đảo đă phải tổ-chức bố-pḥng cẩn-mật tiếp theo sự thất-bại của họ trên các đảo khác đă nói ở trên, trong khi đó biệt-đội hải-kích lại không có được hỏa-lực chuẩn-bị băi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ-thị cho các hạm-trưởng chuẩn-bị để chiến-đấu. Nếu cuộc đổ-bộ thất-bại th́ với hỏa-lực của 2 khẩu 76 ly tự-động trên Khu-trục-hạm HQ4, một chiến-hạm chủ-lực của Hải-đoàn đăc-nhiệm, sẽ có đủ khả-năng loại ít nhất là hai chiến-hạm chủ-lực Trung-cộng ra khỏi ṿng chiến không mấy khó-khăn, c̣n quân-bộ của Trung-cộng trên-đảo th́ tôi tin chỉ là một mục-tiêu thanh-toán sau cùng. Tôi c̣n có ư-định là sẽ điều-động chiếc khu-trục-hạm vượt vùng hơi cạn trực-chỉ hướng bắc vào thẳng vùng ḷng chảo để tăng-cường cho Phân-đoàn II nếu cần sau khi đă loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn-luôn cho là mục-tiên chính. Tôi rất vững ḷng vào hỏa-lực của chiến-hạm chủ-lực v́ tôi đă được tường-tŕnh đầy-đủ về khả-năng của hải-pháo 76 ly tự-động khi Khu-trục-hạm này yểm-trợ hải-pháo tại vùng Sa-hùynh trong nhiệm-kỳ hạm-trưởng của HQ Trung-Tá Nguyễn-quang-Tộ.

    Biệt-đội hải-kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao-su, từ chiến-hạm ta, việc quan-sát sự bố-pḥng của Trung-cộng trên đảo không được rơ ràng. Các chiến-hạm Trung-cộng cũng không có phản-ứng ǵ đối với xuồng của hải-kích. Theo báo-cáo của Biệt-đội-trưởng hải-kích th́ chiến-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long là người đầu-tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đă bị hỏa-lực trong bờ bắn tử-thương ngay tại băi-biển. HQ Trung-Úy Lê-văn-Đơn (xuất-thân từ bộ-binh) tiến vào để thâu-hồi tử-thi của liệt-sĩ Long cũng lại bị tử-thương ngay gần xuồng nên tử-thi vị sĩ-quan này được thâu-hồi ngay. Việc thất-bại đổ-bộ được báo-cáo ngay về Bộ-Tư-lệnh HQ vùng I duyên-hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) th́ đích thân Tư-lệnh HQ VNCH hay Tư-lệnh Vùng I duyên-hải ra lệnh vắn-tắt có hai chữ: "khai-hỏa" bằng bạch-văn cho Hải-đoàn đặc-nhiệm và không có chi-tiết ǵ khác hơn. Tôi nhận biết được khẩu-lệnh trên băng siêu-tần-số SSB (single side band) không phải là của nhân-viên vô-tuyến mà phải là của cấp Đô-đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư-lệnh Hải-quân mà tôi đă quen-thuộc giọng nói, nên tôi đă không kiểm-chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên-tâm hơn v́ khẩu-lệnh khai hỏa đă giải-tỏa trách-nhiệm của tôi ghi trong phần quan-niệm của lệnh hành-quân là tái-chiếm một cách ḥa-b́nh. Tôi đích-thân vào máy siêu-tần-số tŕnh ngay là chưa có thể khai-hỏa được v́ phải chờ triệt-thối Biệt-đội hải-kích về chiến-hạm, họ c̣n trên mặt biển và ở vào vị-thế rất nguy-hiểm. Riêng tử-thi của liệt-sĩ hải-kích Đỗ-văn-Long tôi lệnh không cho vào lấy v́ có thể gây thêm thương-vong. Tôi tin rằng tử-thi của Liệt-sĩ Long sẽ không khó-khăn để thâu-hồi khi toán quân-bộ Trung-cộng được tiêu-diệt sau đợt các chiến-hạm của họ bị loại hoàn-toàn khỏi ṿng chiến.
    Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt-đội hải-kích được hoàn-tất thu-hồi về Tuần-dương-hạm HQ5 với HQ Trung-Úy Lê-văn-Đơn tử-thương. Trong khi đó th́ tôi chỉ-thị cho các chiến-hạm chuẩn-bị tấn-công, mỗi chiến-hạm tấn-công một chiến-hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải-pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), v́ loại hải-pháo này có nhịp tác-xạ cao, dễ điều-chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin-tưởng nhiều vào hải-pháo 127 ly và khả-năng điều-khiển chính-xác của nhân-viên v́ hải-pháo chỉ có thể tác-xạ từng phát một, nạp đạn nặng-nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực-xạ.

    Tất cả các chiến-hạm phải cùng khai-hỏa một lúc theo lệnh khai-hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt-hại trước cho các chiến-hạm Trung-cộng. V́ tầm quan-sát c̣n rất hạn-chế, nên từ Tuần-dương-hạm HQ5 không quan-sát được Tuần-dương-hạm HQ16 và Hộ-tống-hạm HQ10 cũng như hai chiến-hạm khác và hai ngư-thuyền ngụy-trang của Trung-cộng nên tôi không rơ các chiến-hạm này bám-sát các chiến-hạm Trung-cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đă tin rằng Phân-đoàn II không có bận tâm về việc đổ-bộ nên có nhiều th́-giờ hơn để thi-hành kế-hoạch tấn-công và sẽ dễ-dàng chế-ngự được hai chiến-hạm phụ của địch cùng hai ngư-thuyền. Riêng Tuần-dương-hạm HQ5 và Khu-trục-hạm HQ4 đă nghiêm-chỉnh thi-hành lệnh. Trước khi ban-hành lệnh khai-hỏa tôi lần nữa hỏi các chiến-hạm đă sẵn-sàng chưa và nhấn-mạnh một lần nữa là phải khai-hỏa đồng-loạt để đạt yếu-tố bất-ngờ. Các hạm-trưởng đích-thân trên máy VRC46 lần-lượt báo-cáo sẵn-sàng. Tôi rất phấn-khởi v́ giờ tấn-công hoàn-toàn do tôi tự-do quyết-định, không phải lệ-thuộc vào lệnh của thượng-cấp và vào ư-đồ chiến-thuật của địch. Địch lúc này đă tỏ ra không có một ư-định ǵ cản-trở hay tấn-công chiến-hạm ta.


    . . .

  7. #7
    Member
    Join Date
    27-12-2017
    Posts
    1,484

    Khoảng 10 giờ 24 phút sáng 19-1-1974 lệnh tấn công được ban hành mở màn cuộc hải chiến lẫm liệt trong quân sử Việt Nam

    Hải-quân Đại-Tá Đỗ-Kiểm, Tham-mưu-phó hành-quân tại Bộ-Tư-lệnh Hải-quân c̣n đặc-biệt cho tôi hay là có chiến-hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu-biết của tôi, tôi không có một chút tin-tưởng ǵ vào đồng-ḿnh này v́ kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa-Kỳ và Trung-cộng đă chấm-dứt sự thù-nghịch nên Hải-quân của họ sẽ không một lư do ǵ lại tham-dự vào việc hỗ-trợ Hải-quân Việt-Nam trong vụ tranh-chấp về lănh-thổ. Họa chăng họ có thể cứu-vớt những người sống-sót nếu các chiến-hạm HQVN lâm-nạn. Nhưng thực-tế cho thấy trong suốt cuộc t́m-kiếm những nhân-viên từ Hộ-tống-hạm HQ10 và các toán đă đổ-bộ lên trấn giữ các đảo đă đào-thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành-động nhân-đạo nào từ phía đồng-minh kể cả của phi-cơ không-tuần.

    Khoảng 10:24 sáng th́ lệnh khai-hỏa tấn-công được ban-hành và tôi vào trung-tâm chiến-báo trực-tiếp báo cáo bằng máy siêu-tần-số SSB, tôi đă cố ư giữ ống nói sau khi tôi chấm-dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải-pháo cũng được truyền đi trên hệ-thống này. Cuộc khai-hỏa tấn-công đă đạt được yếu-tố bất ngờ cho các chiến-hạm địch v́ tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành-động của chiến-hạm cũng tương-tự như trong những vài ngày trước, khi Hải-quân Việt-Nam đổ-quân trên các đảo Cam-tuyền, Vĩnh-lạc và Duy-mộng và nhất là cuộc phô-diễn lực-lượng của hải-đoàn đặc-nhiệm ngày hôm trước Hải-quân Việt-Nam đă không có một hành-dộng khiêu-khích nào, mà c̣n chấp-thuận giữ liên-lạc bằng quang-hiệu.
    Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang-Ḥa, hướng mũi về phía tây là mục-tiêu của Tuần-dương-hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục-tiêu về phía tả-hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận-chuyển rất chậm-chạp nên đă là mục-tiêu rất tốt cho Tuần-dương-hạm HQ5. Hỏa-lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt-hại cho Tuần-dương-hạm HQ5, nhưng có thể đă gây thiệt-hại nặng cho Hộ-tống-hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu-trục-hạm HQ4 nằm về phía tây-nam của Tuần-dương-hạm HQ5 đặt mục-tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả-hạm của chiến-hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở-ngại tác-xạ ngay từ phút đầu-tiên và phải chờ sửa-chữa. Việc này đă làm đảo lộn các dự-tính của tôi và làm tôi bối-rối. Sau vài phút th́ chiến-hạm này xin bắn thử và kết-quả là vẫn bị trở-ngại và cần tiếp-tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn c̣n chút hy-vọng. Khu-trục-hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác-xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết-quả, tuy-nhiên chiến-hạm này vẫn phải tiếp-tục bám-sát mục-tiêu của ḿnh trong tầm các loại đại-liên nên đă bị thiệt-hại nhiều bởi hỏa-lực của chiếc Kronstad 274, và đại-liên đă không áp-đảo được hỏa-lực của địch.
    Trên Tuần-dương-hạm HQ5, tôi xử-dụng chiếc máy PRC 25 trước ghế hạm-trưởng bên hữu-hạm của đài chỉ-huy để liên-lạc với các chiến-hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan-sát hai phía th́ một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận Trung-tâm chiến-báo để dùng máy VRC46. Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ-huy bên tả-hạm với sĩ-quan hải-pháo để dễ quan-sát mục-tiêu được chỉ-định, nên tôi thường nói trực-tiếp với hạm-trưởng tại nơi này. Trung-tâm chiến-báo của chiến-hạm này chỉ quen-thuộc dùng radar vào việc hải-hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu-xạ nên tôi không được rơ về vị-trí của Phân-đoàn II và các chiến-hạm của địch c̣n nằm trong khu ḷng-chảo Hoàng-Sa.



    Sau chừng 15 phút th́ Tuần-dương-hạm HQ16 báo-cáo là bị trúng-đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả-năng vận-chuyển giảm-sút, buộc phải lui ra ngoài ṿng chiến để sửa-chữa và cũng không c̣n liên-lạc được với Hộ-tống-hạm HQ10, không biết rơ t́nh-trạng và chỉ thấy nhân-viên đang đào-thoát. Tôi nhận thấy một tuần-dương-hạm đă vận-chuyển nặng-nề mà chỉ c̣n một máy và bị nghiêng, nếu tiếp-tục chiến-đấu th́ sẽ là một mục-tiêu tốt cho địch, nên tôi đă không ra phản-lệnh. Ngoài ra, Hạm-trưởng Tuần-dương-hạm HQ16 là một vị sĩ-quan ít tích-cực hơn, nên tôi không mấy tin-tưởng là vị này có thể vượt qua được các khó-khăn kỹ-thuật để cố-gắng tiếp-tục tấn-công. Khu-trục-hạm HQ4 đă bị thiệt-hại nhiều sau khi phải bám-sát chiến-hạm địch trong tầm đại-liên, nên tôi ra lệnh cho Khu-trục-hạm HQ4 phải rút ra khỏi ṿng-chiến ngay và chỉ-thị cho Tuần-dương-hạm HQ5 yểm-trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, v́ tất-nhiên Hải-đội đặc-nhiệm không thể để bị thiệt-hại một khu-trục-hạm mà Hải-Quân VNCH chỉ có tổng-cộng 2 chiếc mà thôi.
    Khi khu-trục-hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy-kích hoặc tác-xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn-công Tuần-dương-hạm HQ5 vào phía hữu-hạm hầu giảm-bớt hỏa-lực của chiến-hạm ta như để cứu văn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này th́ tin-tức từ Bộ-Tư-lệnh Hải-quân tại Sàig̣n do chính Tham-mưu-phó hành-quân cho hay là một phi-đội khu-trục-cơ F5 đă cất-cánh để yểm-trợ cho Hải-đoàn đặc-nhiệm. Do sự liên-lạc từ trước với Bộ-Tư-lệnh Sư-đoàn I Không-quân tại Đà-nẵng, tôi hiểu là phi-cơ F5 chỉ có thể yểm-trợ trong ṿng 5 tới 15 phút mà thôi v́ khoảng-cách từ Đà-nẵng tới Hoàng-Sa quá xa so với nhiên-liệu dự-trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi-cơ cất-cánh, Bô-Tư-lệnh Hải-quân đă cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững-tâm chiến-đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao-dượt hỗn-hợp nào giữa Không-quân và Hải-quân nên tôi rất lo-âu về sự nhận-dạng của phi-công để phân-biệt giũa chiến-hạm của Hải-quân Việt-Nam và chiến-hạm Trung-cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi-cơ có thể gây tác-xạ nhầm mục-tiêu. Máy VRC 46 trong Trung-tâm chiến-báo phải chuyển sang tần-số không-hải và đích thân tôi dùng danh-hiệu để bắt liên-lạc với phi-cơ. Một viên đạn xuyên-nổ trúng ngay Trung-tâm chiến-báo từ hữu-hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung-tâm bị phát-hỏa. Các nhân-viên trong trung-tâm c̣n mải núp sau bàn hải-đồ th́ tôi nhanh tay với một b́nh cứu-hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa. Tôi bị té ngă v́ vấp chân vào bàn hải-đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp-tục liên-lạc với phi-cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp-ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần-số về liên-lạc với các chiến-hạm khác v́ cuộc giao-tranh đă đến độ khốc-liệt hơn. Sau phút này th́ Tuần-dương-hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ-quan trưởng-khẩu 127 ly tử-thương và hải-pháo bị bất-khiển-dụng v́ phần điện điều-khiển pháo-tháp tê-liệt, và máy siêu-tần-sớ SSB không c̣n liên-lạc được v́ giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu-kỳ hải-dội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan-sát phía tả-hạm và được nghe báo cáo là hầm-đạm phát-hỏa. Tôi nói ngay với hạm-trưởng là cằn phải làm ngập hầm-đạn. Khẩu hải-pháo 40 ly đơn tả-hạm bị bất khiển-dụng v́ bị trúng đạn vào khối nạp-đạn và khẩu 40 ly hữu-hạm bị hư-hại nhẹ. Tôi yêu-cầu hạm-trưởng là chỉ nên cho tác-xạ từng viên mà thôi, v́ nhu-cầu pḥng-không rất có thể xẩy ra trong một thời-gian ngắn.

    Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải-lư, xuất hiện một chiến-hạm của Trung-cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa-tiễn loại hải-hải (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao-tranh với một tốc-độ cao, quan-sát được bằng mắt viễn-kính và không một chiến-hạm nào báo-cáo khám-phá được bằng radar từ xa. Tôi dự-đoán loại chiến-hạm này ít khi được điều-động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với t́nh-trạng của Hải-đội đăc-nhiệm: một hộ-tống-hạm bị loại khỏi ṿng-chiến; một tuần-dương-hạm bị thương nơi hầm máy; một khu-trục-hạm và một tuần-dương-hạm chỉ c̣n hỏa-lực rất hạn-chế; cộng với nguy-cơ bị tấn-công bằng cả hỏa-tiễn hải-hải cũng như bằng phi-cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt-thoái phần c̣n lại của lực-lượng là Khu-trục-hạm HQ4 và Tuần-dương-hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng-Sa tiến hướng đông-nam về phía Subic Bay (Hải-quân công-xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi-luật-tân). Tôi cũng cầu-nguyện Đức Thánh Trần, Thánh-Tổ của Hải-quân VNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan-sát và khả-năng tấn-công của phi-cơ địch. Sau khi hai chiến-hạm c̣n lại rút ra khỏi vùng giao-tranh chừng 10 phút th́ một trận mưa nhẹ đă đổ xuống toàn vùng quần-đảo Hoàng-Sa. Các chiến-hạm ta đă không bị truy-kích và phi-cơ địch cũng chưa xuất-hiện. Mục-đích tôi hướng về phía đông-nam là để tránh bị phục-kích của tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng tại hải-tŕnh Hoàng-Sa Đà-nẵng, và khi ra ngoài xa lănh-hải th́ nếu c̣n bị tấn-công bằng phi-cơ hoặc tiềm-thủy-đĩnh th́ may ra đồng-minh Hải-quân Hoa-Kỳ có thể cấp-cứu chúng tôi dễ-dàng hơn theo tinh-thần cấp-cứu hàng-hải quốc-tế. Nếu chúng tôi không c̣n bị tấn-công th́ việc đến Subic Bay Phi-luật-tân để xin sửa-chữa trước khi hồi-hương là một điều khả-dĩ được thượng-cấp chấp-thuận.
    Tuần-dương-hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn-cấp để tái-lập sự liên-lạc bằng máy siêu-tần-số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến-hạm đă bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc-độ có bị thuyên-giảm. Chính trong thời-gian mất liên-lạc, Bộ Tư-lệnh tại Sàig̣n cũng như tại Đà-nẵng rất bối-rối cho sự an-toàn của hai chiến-hạm và bản-thân tôi. Chính Tư-lệnh Hạm-đội tại Sàig̣n cũng đă đưa tin mất liên-lạc đến với gia-đ́nh tôi.
    Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến-hạm HQ4 và HQ5 đă cách Hoàng-Sa chừng 10 hải-lư, trời nắng và quang-đăng. Tư-lệnh Hải-quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến-hạm phải trở lại Hoàng-Sa và đánh ch́m nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Đô-đốc. Lệnh đă được thi-hành nghiêm-chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên-lạc vô-tuyến siêu-tần-số được điều-ḥa trở-lại th́ mọi báo-cáo chi-tiết về tổn-thất và t́nh-trạng lúc bấy giờ của các hai chiến-hạm được chuyển đầy-đủ. Trên Tuần-dương-hạm HQ5 tôi cũng được thông-báo về Tuần-dương-hạm HQ16 sẽ được Tuần-dương-hạm HQ6 tới hộ-tống về Căn-cứ Hải-quân Đà-nẵng.

    Đến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến-hạm đang trở về Hoàng-Sa, quá ngang Ḥn Tri-Tôn, nghĩa là c̣n cách đảo Hoàng-Sa chừng 1 giờ rưỡi hải-hành nữa, th́ hai chiến-hạm được phản-lệnh trở về Đà-nẵng. Lúc này trời đă nắng, mây cao nên rất dễ-dàng cho việc hải-hành. Trong một cuộc đến thăm Tư-lệnh Hải-quân VNCH tại tư-dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, th́ vị Đô-Đốc này đă tiết-lộ rằng nếu biết được sớm t́nh-trạng của Hải-đoàn đặc-nhiệm th́ Tư-lệnh đă cho lệnh trở về căn-cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến-hạm giữ nguyên nhiệm-sở tác-chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm-sở pḥng máy phải túc-trực trên boong để tránh tổn-thất về nhân-mạng trong trường-hợp bị tiềm-thủy-đĩnh Trung-cộng phục-kích bằng ngư-lôi. Nhưng may-mắn là điều tôi dự-liệu đă không xẩy ra. Các chiến-hạm đă khởi-sự ngay thu-dọn các tổn-thất về vật-liệu và thu-hồi các dư-liệu tác-xạ. Tôi ṭ-ṃ mở đài phát-thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, th́ họ chỉ vỏn-vẹn loan tin một trận hải-chiến đă xẩy ra trong vùng quần-đảo Hoàng-Sa giữa Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa và Cộng-Ḥa Nhân-dân Trung-Hoa, mỗi bên thiệt-hại 1 chiến-hạm và không thêm một chi-tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm-phục đài nay về sự loan-tin nhanh chóng và xác đáng.

    Tôi đă không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh-thần bớt căng-thẳng sau gần 48 tiếng đồng-hồ liên-tục không được nghỉ-ngơi, tôi yêu cầu Hạm-trưởng dùng hệ-thống liên-hợp để loan-báo xem có nhân-viên nào c̣n thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân-viên tuần-tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu-phần C của đồng-minh và các loại thuốc trong thương-trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm-động về sự ưu-ái của các nhân-viên trên chiến-hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn-thoản một sơ-đồ hành-quân và các chi-tiết về tổn-thất để chuẩn-bị thuyết-tŕnh khi về tới căn-cứ.
    Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng giêng th́ hai chiến-hạm của Phân-đoàn I về tới căn-cứ an-toàn. Tuần-dương-hạm HQ16 cũng đă về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân-viên của các chiến-hạm và riêng tôi rất cảm-động là trên cầu Thương-cảng Đà-nẵng là nơi đă được chỉ-định cho các chiến-hạm cặp bến, đă có sự hiện-diện của các vị Đô-Đốc Tư-lệnh và Tư-lệnh-phó HQ VNCH, Đô-Đốc Tư-lệnh HQ Vùng I Duyên-hải, một số đông sĩ-quan cùng nhân-viên của các đơn-vị HQ vùng Đà-nẵng cùng các trại gia-binh đă túc-trực đón đoàn chiến-hạm trở về với rừng biểu-ngữ :
    "Hải-quânViệt-Nam quyết-tâm bảo-vệ lănh-thổ đến giọt máu cuối cùng".
    "Một ư-chí : chống cộng.Một lời thề : bảo-vệ quê-hương".
    "Hoan-hô tinh-thần chiến-đấu anh-dũng của các chiến-sĩ Hải-quân tham-dự Hải-chiến Hoàng-Sa".
    "Hoan-hô tinh-thần bất-khuất của các chiến-sĩ Hải-chiến Hoàng-Sa".

    Sau khi di-tản các chiến-sĩ thương-vong và tử-vong lên căn-cứ thí chỉ có 3 vị Đô-Đốc cùng HQ Đại-tá Nguyễn-viết-Tân Chỉ-Huy-Trưởng Sở Pḥng-vệ Duyên-hải lên Tuần-dương-hạm HQ5 và vào pḥng-khách của Hạm-trưởng để dự cuộc thuyết-tŕnh về trận đánh. Ba vị Hạm-trưởng đều có mặt để tŕnh bầy chi-tiết về chiến-hạm của ḿnh. Các vị Đô-đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu-tố đă đưa đến những quyết-định chiến-thuật của tôi, nhất là quyết-định triệt-thoái phần c̣n lại của Hải-đoàn đặc-nhiệm ra khỏi vùng Hoàng-Sa. Sau phần thuyết-tŕnh các vị Đô-Đốc đă đi quan-sát sự thiệt-hại của các chiến-hạm và úy-lạo nhân-viên các cấp. Tôi cũng được nghe Đô-đốc Tư-lệnh-phó đề-nghị với Tư-lệnh HQ là sẽ không có thuyết-tŕnh cho Tư-lệnh Quân-đoàn I.


    Sau chừng một giờ th́ Trung-tướng Tư-lệnh Quăn-đoàn I/Quân-Khu I cũng tới thăm-viếng và được hướng-dẫn quan-sát một ṿng các chiến-hạm để nhận-định sự thiệt-hại.



    . . .
    Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên-đán đến, dù vào tháng giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng-niệm dành cho các liệt-sĩ đă hy-sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến-sĩ đă anh-dũng cùng tôi chiến-đấu trong trận-hải-chiến Hoàng-Sa, mà số đông đang lưu-lạc trong vùng đất tự-do. Họ là những anh-hùng đă xả-thân để bảo-vệ lănh-thổ của tiền-nhân xây-dựng từ bao thế-kỷ. Mong rằng tài-liệu này sẽ mang lại niềm hănh-diện cho toàn-thể các chiến-sĩ Hải-quân đă tham-dự trận đánh mà tôi đă có vinh-dự chỉ-huy.
    Hà Văn Ngạc
    Dallas, Texas, mùa Xuân Kỷ Măo (1999)



Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 29-01-2014, 01:14 PM
  2. Trận hải chiến Hoàng Sa 1974
    By Lehuy in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 2
    Last Post: 23-12-2013, 04:03 AM
  3. Bí ẩn trận hải chiến Hoàng Sa 1974
    By anlocdia in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 1
    Last Post: 07-04-2012, 02:55 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 08-07-2011, 07:09 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 11-02-2011, 06:38 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •