Page 329 of 471 FirstFirst ... 229279319325326327328329330331332333339379429 ... LastLast
Results 3,281 to 3,290 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #3281
    Member QuanTran's Avatar
    Join Date
    21-03-2011
    Posts
    222

    Đức tính ân cần của người miền Nam trước đây (Tuấn Khanh)


    Buổi sáng nọ, nơi góc đổ rác chung của cả khu nhà tự dưng xuất hiện một đôi giày cũ c̣n khá tốt. Giày được đặt trong một cái hộp với tờ giấy ghi chú, nét chữ nắn nót “đồ c̣n tốt, ai cần xin cứ tự nhiên”.

    Ở mấy nước tư bản giăy chết, việc đem bỏ đi đồ dùng c̣n xài tốt không lạ, nhưng cách nhường lại cho người khác sử dụng với tất cả sự ân cần là một cung cách đáng ngưỡng mộ. Đôi giày cũ khi đặt vào hộp, gửi tặng mơ hồ vào cơi nhân gian, được chủ nhân ân cần đi đánh xi lại, mới và đẹp, ai nh́n cũng thú vị. Vậy mà mấy ngày sau mới có anh Mễ làm nghề đổ rác đến lấy, rồi để lại chữ “cám ơn”. Đôi giày nằm liên tục mấy ngày, v́ những người trong khu nhà không ai muốn giành lấy phần của người có thể khó khăn hơn ḿnh.

    Thỉnh thoảng thấy trong đời có sự ân cần làm lay động, lại chợt nhớ Sài G̣n với tất cả không gian từng rất ân cần của nó, một không gian mà giờ đây nhắc lại như một thứ của quư đang mất dần, phai dần, dư niệm của nhiều thế hệ.


    Sài G̣n ân cần trong trí nhớ đơn giản lạ. Đôi khi chỉ là chuyện người qua đường trú mưa được chủ nhà mời vào ngồi v́ sợ kẻ lạ bị ướt. Đôi khi v́ một thùng trà đá để trước cửa để giúp bá tánh lỡ đường giải khát trưa hè. Có đi đến tận những thành phố, hỏi đường đi bị tính tiền, mới biết Sài G̣n đă từng ân cần thế nào. Sài G̣n ân cần và vô tư đến mức từng thấy người say nắng ngất xỉu bên đường, không ai biết ai cứ xúm vô cạo gió, lấy thuốc cho uống để giúp khách qua đường có sức đi tiếp.

    Mới hôm rồi, may mắn đọc được một câu chuyện của người Sài G̣n mà ḷng mát dịu. Lại thấy thương người đất miền Nam không quen nói trôi chữ, chỉ có tấm ḷng. Một anh trên facebook kể rằng anh đi làm thêm kiếm tiền đi học, chạy bàn rửa chén cho một đôi vợ chồng ở Sài G̣n. Một hôm lỡ tay làm bể hết nguyên chồng tô dĩa, anh lính quưnh không biết làm sao th́ bất chợt bà chủ chạy vô nh́n thấy. Bà sững người, chưa kịp la đă dặn “Nếu chồng cô có xuống thấy th́ nói tại cô làm bể, chứ không ổng chửi chết!”. Vừa quay lưng th́ ông chủ chạy từ trên lầu xuống, nh́n đống tô dĩa nát bấy mà thất thần, rồi dặn “Nếu vợ chú vô hỏi, th́ nói chú làm bể nghe, chứ không bả chửi chết!”. Người làm công đó mang kỷ niệm ngọt ngào và xúc động đó kể lại trên nhật kư của ḿnh, làm không biết bao người đọc rưng rưng, tŕu mến.


    Sự ân cần là cách mà con người thấu hiểu đời sống, đối đăi bằng ḷng chân thành của ḿnh. Bước đi vài dặm trong một đất nước, có thể thấy sự ân cần cho con người đang ở mức nào. Việt Nam hôm nay có những thành phố lớn hơn, con người cao sang hơn, đại lộ đi bộ to rộng hơn… nhưng sự xua đuổi người nghèo khó cũng quyết liệt hơn. Sự ân cần như chỉ c̣n trú ngụ loanh quanh với giai cấp dưới, ở những thị dân ít học được thói cao sang. Nhiều cao ốc được dựng lên, nhưng không mấy cái có lối đi của người khuyết tật. Nhà vệ sinh công cộng phải xây đắt tiền như tượng đài, nhưng hầu như không có cái nào dành cho phụ nữ có thai hay cho người già yếu. Trong sự rực rỡ của đất nước này hôm nay, đă nhàn nhạt ân cần của người với người. Sự chói lọi chỉ số phát triển vẫn kèm theo khoảng tối đen mù ḷa sau lưng nó.

    Thường dân hay bọn con buôn lạnh nhạt ân cần trong đời th́ đă đành, đến phận Tỳ kheo cũng la liếm vuốt ve thế tục, mất cả ân cần với thế nhân th́ chúng sinh chỉ c̣n biết thở dài. Nghe lời ông Thích Thanh Quyết, đại biểu quốc hội, ngợi ca các mức oan khiên trong xă hội là “hợp lư” đă lắm chói tai, lại c̣n nghe ông nhấn mạnh sao không ca ngợi các cơ quan điều tra tố tụng đă kiểm soát giỏi mức oan sai “hợp lư” này.

    Uống một ly nước, Đức Phật c̣n dạy rằng đừng quên có đến 84.000 sinh linh trong ly nước đó đă phải hy sinh cho người đời thụ hưởng. Và dù những sinh linh đó nhỏ bé vô h́nh đến mức nào, lời Phật dạy cũng chưa bao giờ cho rằng “hợp lư”. Lẽ nào mũ ni của ông Quyết đă kéo quá sâu vào thế tục, che kín tai để không c̣n nghe được tiếng khóc ngất của cha mẹ già và của tử tù Hồ Duy Hải (1985), hay lời trăn trối của cả gia đ́nh tù nhân Nguyễn Văn Tràng (1988) xin được tự thiêu để ṭa án phải công tâm xét lại, minh oan. Sự ân cần với từng chúng sinh là tâm đức không thể thiếu với đệ tử của Phật, bằng không chỉ đáng gọi là kẻ giả danh, mua bán niềm tin.

    Sự ân cần hôm nay cũng có thể được nh́n thấy, nhưng là thứ chiêng trống mua vui lạ lẫm. Tỉnh Vĩnh Phúc hôm nay “ân cần” bỏ ra 300 tỉ đồng để xây một khu Văn miếu thờ và tôn vinh Khổng Tử bằng tiền thuế của nhân dân – như tiền nhà của lũ quan lại. Khổng tử chỉ có thể mang trái tim kẻ ác mới đành ḷng bệ vệ xưng danh nơi mà cả vùng có đến gần 12.000 gia đ́nh nghèo khốn khó. Thậm chí chỉ có 24% trong số 14.000 gia đ́nh thuộc loại chính sách của chế độ là có được nước sạch để dùng. Cả tỉnh cũng có gần 20.000 gia đ́nh không có nhà vệ sinh tiêu chuẩn và nước sạch để sinh hoạt. Vậy mà sự ân cần th́ được dâng cho tượng gỗ và bộ mặt trơ cứng của chính quyền. C̣n nhân dân th́ chỉ được quyền xao xác lặng im nghe diễn văn.


    Chợt nhớ Sài G̣n ghê. Nhớ Sài G̣n qua tiếng rao bán xôi giản dị của bà cụ đội khăn đi bộ từ quận 8 tới tận quận 5, với những gói xôi bán chỉ 5000 đồng, mắt lạc thần khi thấy bóng dân pḥng. Nhớ ánh mắt bà hấp háy cười, hỏi có muốn cho thêm đường không, có vừa miệng không. Trái tim ân cần đó, đáng để xây cả miếu đền để thương nhớ và tôn vinh những con người cần lao đất Việt, mà chẳng cần phải t́m kiếm, cống nạp xa xôi.

    Tuấn Khanh

  2. #3282
    Member Nguyễn Mạnh Quốc's Avatar
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4,374

    Saigon thuở ấy ; giáo đường in bóng..

    .. đọc được tin này trên mấy tờ báo điện tử ở VN... nhà thờ Đức Bà Saigon sau 130 năm.. nay hư hỏng.. cần phải trùng tu cho tín đồ có chỗ thờ phụng Chúa..
    Hội đông Giám mục và nhà nước đă nhất trí và lên phương án sửa chữa, tân trang.... trang mạng Lao động.com cũng dă có lời thông báo và chụp h́nh nhà thờ dưới nhiều góc cạnh...để mai này làm chứng ( lo xa mà !!).
    .. Có lẽ cũng sợ cảnh " lợn lành chữa thành lợn què !!!!!!!!... để sau khi trùng tu xong có bằng chứng đối chiếu...
    Cầu xin ơn trên phù hộ cho công tác trùng tu được tốt đẹp như lời tuyên bố.....
    Bà Tigon đạo ṛng mà đi vắng.. mau về coi xem người ta sửa chữa.. làm ăn ra sao ?? chứ đừng làm mất chỗ đến đễ " xưng tội... chịu Lễ !!"

    Việt Nam có mấy ngôi nhà Thờ uy nghi đẹp như Phát Diệm, Hàm Long, Nhà thờ Lớn Hà nội.. nhà thờ Đức Bà- Saigon, nhà thờ Vĩnh Long, nhà thờ Đá -Nha Trang.. nhà thờ núi Băi Cháy... một thoáng ưu tư../.

  3. #3283
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Miền Tây Nam Bộ
    Sông Nước - Phù Sa
    Vài ḍng Lịch Sữ
    Vùng đất trù phú Miền Tây Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Đồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam (Phnom).Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên h́nh thành tại Đông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
    Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Đến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ và những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer.
    Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền nam, người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp.
    Lịch sữ sang trang khởi đầu là một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Đại Việt đă làm thay đổi t́nh thế lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng . Chính sách Nam Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to tát cho hai lân quốc Champa và Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đă bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Không dừng lại ở Champa, chúa Nguyễn bắt đầu ḍm ngó đến Chân Lạp.
    Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang ḷng không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Đàng Trong, lúc đó là Săi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635).
    Không bỏ lở cơ hội, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên đă quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Người con thứ hai là Hoàng nữ Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê .
    Hai cuộc hôn nhân vương giả nầy đă mở đường thuận lợi cho công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam.
    Đi theo hộ tống đám cưới bà Hoàng Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Săi Vương trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng lẫy h́nh chim phượng mạ vàng. Bà Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.


    Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài
    Ngh́n xưa Trưng Triệu đă từng oai
    Noi gương Khoa, Vạn, hai công chúa
    Một sớm ra đi mở đất đai

    Mối t́nh hữu nghị Việt Chiêm Miên
    Thần xỉ mong sao được vững bền;
    Chúa Săi bao năm nhờ diệu kế,
    Giữ miền Nam Á đặng b́nh yên.

    Đời vốn quen dùng sức lửa binh,
    Gây nhiều thảm họa khổ sinh linh.
    Riêng đây ngọc lụa thay gươm giáo,
    Trăm họ âu ca hưởng thái b́nh.

    Cũng v́ hạnh phúc của muôn nhân
    V́ nước, v́ nhà, xá quản thân.
    Lá ngọc cành vàng coi nhẹ bổng,
    Hiếu trung cho trọn đủ mười phân.

    Những tiếc riêng cho phận nữ hài,
    Đem thân giúp há nhường trai.
    Vắng trang lịch sử, nào ai biết?
    Người đă hy sinh vị giống ṇi


    (tríchCảm vịnh hai bà Ngọc Vạn, Ngọc Khoa)

    Ngọc Vạn, Ngọc Khoa giữ một niềm
    V́ ai, tô điểm nuớc non tiên?
    Chị lo giữ vẹn t́nh Miên-Việt,
    Em nhớ làm tṛn nghĩa Việt-Chiêm
    Bà rịa, Biên Ḥa thêm vạn dặm,
    Phan Rang,Phan Rímở hai miền
    Non sông gấp mấy lần Ô, Lư
    Nam tiến, công người chẳng dám quên.

    (chép trongBiên Ḥa sử lược toàn thư, quyển 2)
    Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả này, bà Hoàng Ngọc Vạn đă xin với Hoàng phu cho nhiều người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đ́nh Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Đàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp (Miền Tây Nam Bộ ngày nay).. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Săi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
    Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Ḥa), Prey Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế. Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con ḿnh là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mă Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân. Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận G̣ Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh Quảng B́nh. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea (1658-1672). Vào thời điểm này triều đ́nh Chân Lạp hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Đồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát chết. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Đài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Đồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đ́nh chúa Nguyễn lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Đài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Đài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp. Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Đồng Nai –Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài G̣n tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài G̣n đến khi chết năm 1691 th́ toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.

    (C̣n Tiếp)

  4. #3284
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Vài ḍng Lịch Sữ (Tiếp Theo)
    Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Đại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu v́ không cự lại quân Thanh triều đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần nhà Minh gồm có Tổng binh Long MônDương Ngạn Địch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An B́nh mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Đà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm chức tước rồi truyền cho vuaCao Miêncho phép người Minh vào định cư xứ Đồng Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ. Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đ́nh nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lănh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Đại Định con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Định, Biên Ḥa, Thủ Đức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất vô cùng. Triều đ́nh nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu nhập.
    HiềnVương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm,NghĩaVương Nguyễn Phúc Thái(c̣n gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng làDương Ngạn Địch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Định Tường. Hoàng Tiến thả quân quaCao Miêncướp của giết người. VuaCao Miênlà Nặc Ông Thu bất b́nh v́ việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ư của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đ́nh nhà Nguyễn.
    Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lăo tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân quaCao Miênđánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). VuaCao Miêncả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin ḥa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.
    Năm 1698 chúaMinhVương Nguyễn Phúc Chu(1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánhCao Miênvà kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đ́nh (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành quả này đạt được trong ṿng 70 năm. Sự trù phú của miền nam nhờ một phần vào sự tiếp sức của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền núi về làm nô lệ. Theo lời kể của người phương Tây th́ việc buôn bán nô lệ để giúp người Việt canh tác có cả thuế nông nô của triều đ́nh.

    Năm 1671 có người Minh tên làMạc Cửuquê ở Lôi Châu, Quảng Đông mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mặc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở ṣng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xă là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Ngoài ra c̣n có người Ấn Độ, người Nam Đảo, người Kinh, người Thái, ngườiCao Miênđến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cử đặt tên vùng đất của ḿnh là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lănh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
    Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đ́nh Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ ḿnh c̣n không xong nên từ chối không thể giúp ǵ cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng làTrương Cầu, Lư Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúaMinhVương Nguyễn Phúc Chu(1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đ́nh. Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Định xin triều đ́nh Huế cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thànhHà TiênTrấnvới mục đích lưu lại dấu ấn của triều đ́nh họ Nguyễn.
    Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi.NinhVương Nguyễn Phúc Thụ(có sử ghi làTrú:1725-1739) phongông làmKhai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu.Đến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu làThọ Công Thuận Mỹ Trung Đẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho ḍng họ Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời vinh hiển là: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ lên nối quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con của Du là Mạc Hầu Lâm, con của Lâm là Mạc Bá B́nh, con của B́nh là Mạc Tử Khâm, con của Khâm là Mạc Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tṛn bảy chữ vua ban.
    Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về vơ công Tứ cũng lẫy lừng không kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vuaCao Miên. Năm1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên. Năm 1753 vuaCao MiênlàNặc Ông Nguyên(Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam quaCao Miênđồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đ̣i lại đất đai đă mất.VơVương Nguyễn Phúc Khoát(1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánhCao Miênmùa hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ th́ quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000 người và hộ tống họ đi về Đồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vuaCao Miênùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người. Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai Đội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Đen, Châu Đốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quânCao Miên. Quân triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vuaCao Miênbỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. VuaCao Miênnhờ Tứ xin với Vơ Vương cho dâng hai phủ Tầm Bôn (G̣ Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội. Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Định Viễn. VơVương Nguyễn Phúc Khoát cho vuaCao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. VuaCao Miênlà Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758. Ḍng họ vua Cao Miêntranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp choNặc Ông Tônlàm vua nên được tặng Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Đốc và Sa Đéc. Nội chiến ởCao Miênvẫn không dứt. Các vuaCao Miênlại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế làNặc Ông Thuận(Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu.Nặc Ông Tôn(Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Đéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
    Từ đây chấm dứt cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam.

  5. #3285
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Sông Nước ĐBSCL
    Nguồn nước trong vùng được lấy từ 2 nguồn chính là sông Mê Kông và nước mưa. Sông Mê Kông chảy qua ĐBSCL th́ chia làm hai nhánh là Tiền Ging và Hậu Giang, hàng năm đem lại lượng nước b́nh quân khoảng 460 tỷ m3 và vận chuyển khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Việc ĐBSCL hàng năm bị ngập lũ gần 50% diện tích từ 3 - 4 tháng tạo nên một đặc điểm nổi bật của vùng, một mặt là hạn chế lớn đối với canh tác, trồng trọt và gây nhiều khó khăn cho đời sống của dân cư, nhưng mặt khác cũng tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và bổ sung độ ph́ nhiêu cho đất trồng trọt.
    Nhưng những năm gần đây,mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị thiệt hại hàng tỷ USD chỉ tính tổn thất từ nguồn cá trắng do tác động của việc xây dựng các đập thủy điện trên ḍng chính sông Mekong. Điều đáng nói là, tổn thất từ nguồn cá trắng sẽ vĩnh viễn, không phục hồi được và chỉ riêng tổn thất này đă có thể lớn hơn lợi ích về năng lượng do các đập này mang lại.
    Một vấn đề đáng quan tâm nữa là nguồn nước ở ĐBSCL đang bị ô nhiễm do sự điều hành ngu dốt của chính quyền. Chất lượng nguồn nước ngày càng xấu đi một cách nghiêm trọng. Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm như: sử dụng bừa băi thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, nuôi thủy sản thiếu quy hoạch hợp lư. Nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp trong vùng phần lớn thải trực tiếp ra sông một cách ngu xuẩn.....Việc ô nhiễm nước đă dẫn đến t́nh trạng ngày càng có nhiều vùng bị “khát nước” vào những tháng mùa khô. Không chỉ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp thiếu mà nước sinh hoạt cũng thiếu. T́nh trạng này đă và đang xảy ra từ vài năm gần đây ở ĐBSCL và xem ra ngày càng trầm trọng.
    Đây là một trong những cảnh báo vừa được các chuyên gia nghiên cứu khoa học đưa ra .Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở vùng hạ lưu sông Mekong - nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các dự án thủy điện, nên hàng năm sẽ có khoảng 220.000 đến 440.000 tấn cá trắng bị rủi ro, chưa tính đến lượng cá đen ăn cá trắng để tồn tại.




    Sông Tiền Giang


    Chợ Ninh Kiều nh́n từ sông Hậu Giang


    Các Kinh Rạch
    Nam bộ là một vùng sông nước có hệ thống sông ng̣i chằng chịt, cho nên từ lâu h́nh ảnh chiếc ghe, con đ̣, ḍng sông, chiếc cầu… là h́nh ảnh hết sức quen thuộc với người dân nơi đây. Ngay từ thuở lọt ḷng, họ đă được tắm ḿnh giữa trời nước bao la rồi khi lớn lên họ phải đi qua những chiếc cầu tre nối nhịp đôi bờ, những khi buông câu, thả lưới, những lúc chở hàng bông ra chợ… họ cũng gắn chặt cuộc đời ḿnh với ḍng nước bao la.
    V́ vậy, trong cuộc sống hàng ngày, cũng như trong những câu ca dao, ḥ, vè dù thể hiện chủ đề nào, tâm trạng nào th́ ít nhiều h́nh ảnh ḍng sông, chiếc ghe, con đ̣ cũng hiển hiện trong đó. Người Nam bộ thường có thói quen dùng lối nói ví von, mượn các h́nh ảnh quen thuộc của đời thường gần gũi để thông qua đó nêu lên chủ đề ḿnh định nói. Và các h́nh ảnh quen thuộc đó, được lặp đi lặp lại trong cách nói của họ cho đến khi thành tiềm thức, để khi có dịp th́ tự động bật ra.
    Ví dụ như : khi có khách ở xa đến thăm ḿnh th́ người Nam bộ nói: từ xa lặn lội tới đây. Mặc dù có thể người đó đi bằng xe hay máy bay.
    Hay từ “quá giang” vốn dùng cho việc đi nhờ ghe cộ lại dùng cho việc đi nhờ xe hay đi cùng đường. Tất cả đó phải chăng là dấu ấn của vùng sông nước đă ăn sâu vào tiềm thức của họ.

  6. #3286
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Hệ Sinh Học ĐBSCL
    Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và sông, từ lâu ở ĐBSCL đă h́nh thành và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên rất độc đáo. Đó là hệ sinh thái rừng ngập nước ngọt , hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển , hệ sinh thái nông nghiệp. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre... có vai tṛ cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xă hội, giữ cân bằng môi trường sinh thái toàn khu vực.
    Hệ sinh thái đất ngập nước có đến 36 loài thú, 182 loài chim, 34 loài ḅ sát và 6 loài lưỡng cư; vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá và thủy sản. Những số liệu trên cho thấy tính đa dạng sinh học ở ĐBSCL
    Từ buổi đầu khai phá vùng đất Nam Bộ, những cư dân nơi đây không chỉ đối mặt với rừng rậm hoang vu mà c̣n đối mặt với thú dữ tràn đầy. Đánh cọp, đuổi sấu là những hoạt động diễn ra thường xuyên nơi miền đất mới này, nó đă để lại một dấu ấn sâu đậm trong tâm thức của người dân nơi đây.
    Cư dân miền sông nước này giết sấu để trừ mối họa, đồng thời cũng khai thác nguồn lợi từ đó. Sự đối đầu đó đă để lại dấu ấn rơ nét trong tín ngưỡng, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, địa danh…của một thời khẩn hoang, lập ấp, những câu chuyện tưởng như hoang đường mà rất giàu tính hiện thực.
    Muỗi tràn vào nhà khi trời sụp tối khiến nhiềugia đ́nhởmiền Tâyphải chui vào mùng ăn cơm để tránh muỗi.



    “Trên trời muỗi kêu như sáo thổi
    Dưới nước đĩa lội như bánh canh”



    Công cuộc chinh phục vùng đất mới, lớp cư dân Tây Nam Bộ buộc phải đối đầu với những thế lực tự nhiên, trong đó có loài sấu dữ, luôn luôn ŕnh rập làm hại người. Nhất là trong ca dao, được phản ánh rất rơ nét, đậm đặc cái tâm thức của những người đi mở cơi trước một vùng đất trù phú, hết sức hoang sơ và không kém phần khắc nghiệt:

    Chèo ghe sợ sấu cắn chưn.
    Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma”
    U Minh khốn khổ quá chừng
    Xuống sông sấu bắt, lên rừng cọp tha
    U Minh nước mặn phèn chua
    Trăm ngàn cá sấu thi đua vẫy vùng
    U Minh, Rạch Giá, Thị Quá, Sơn Trường
    Dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um





    Trong công cuộc chinh phục vùng đất mới Tây Nam Bộ nói riêng và Nam Bộ nói chung, bằng trí tuệ và ḷng quả cảm, những lớp cư dân nơi đây đă đương đầu với những sức mạnh tự nhiên, những loài thú dữ như cọp beo, sấu, rắn… Vươn lên chế ngự nó, nhằm tạo ra những điều kiện để khai thác, canh tác, bảo đảm cuộc sống an lành là công việc đ̣i hỏi sự bền bĩ, lâu dài.Chiến đấu với thú dữ, độc hại trên hết chỉ xuất phát từ việc làm điều thiện, điều nghĩa, phản ảnh cái tinh thần khí khái của người dân Nam Bộ trong việc diệt trừ thú dữ.Thông qua h́nh ảnh con cá sấu, ta dường như hiểu rơ hơn bức tranh hiện thực về văn hóa dân gian của vùng đất này với những sắc thái hết sức đặc trưng của miền sông nước.

  7. #3287
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Ghe xuồng miền Tây Nam Bộ
    Có thể nói miền Tây Nam Bộ là nơi hội tụ của những kênh rạch, sông ng̣i. Gắn bó với cảnh sông nước ấy chính là những chiếc ghe, chiếc xuồng đă trở thành một h́nh ảnh không thể thiếu trong đời sống của người dân nơi đây. Trải qua hàng bao thế kỷ, cái h́nh ảnh thân thương ấy không bị mất đi mà dường như ngày càng được tôn vinh và ǵn giữ. Bởi đó chính là một nét đẹp văn hóa độc đáo mà nơi đây có được. Ghe xuồng miền Tây Nam Bộ phát triển theo nhiều kiểu, đa dạng, phong phú. Từ những chiếc ghe, xuồng chèo chống, luồn lách qua các kênh rạch đủ cỡ, đủ h́nh dạng, đủ độ nông sâu cho đến những loại ghe thuyền cỡ lớn, vận tải nặng, chuyên chở được nhiều người. Ngày nay, việc di chuyển trên sông nước c̣n có ghe máy, xuồng máy chạy với vận tốc nhanh dùng song song với các loại ghe, xuồng cổ điển. Chính v́ sự tiến bộ trong khoa học, kỹ thuật mà nghề đóng ghe cũng đă có sự thay đổi ít nhiều về h́nh dáng và kỹ thuật lắp ráp. Ở miền Tây Nam Bộ, người ta phân biệt hai loại ghe và xuồng rất khác biệt.

    Xuồng có mấy loại: xuồng ba lá, xuồng máy, xuồng năm lá... Xuồng ba lá dài trung b́nh 4m, rộng 1,5m, có sức chở từ 4- 6 người, vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo. Sở dĩ gọi là xuồng ba lá v́ có 3 ván, một ván giữa và 2 ván hai bên hông, ở giữa có kê sạp nhưng thấp hơn ở đầu mũi và đầu lái để giữ thăng bằng. Xuồng 5 lá h́nh dáng không khác mấy loại ba lá, chỉ có khác là gồm 5 mảnh ván ghép lại nên mức độ tṛng trành ít hơn và hai đầu xuồng có khác chút ít. Xuồng 5 lá chính là xuồng ba lá cải tiến. Xuồng máy có gắn động cơ để có vận tốc nhanh hơn. Xuồng có đôi be gió chắn trên hai bên mép xuồng và chạy suốt chiều dài thân xuồng. Xuồng máy có đầu lái giống h́nh thang vuông.


    Xuồng Ba Lá
    Ghe có nhiều loại: ghe tam bản, ghe bầu, ghe chài, ghe lườn... Ghe tam bản mui ngắn, có đến 9 mảnh ván ghép hoặc nhiều hơn. Ghe có đôi be gió giống như xuồng máy, boong ghe chiếm nửa chiều dài bụng ghe, nơi này để làm chỗ nghỉ ngơi, c̣n phần trước để chất hàng hóa. Ghe có bánh lái nằm dưới lườn sau đầu lái và có cần để điều khiển. Trước mũi ghe có vẽ con mắt mà theo dân gian, th́ đây là biểu tượng để trừ ác thú hay thuồng luồng tiến công. Ngoài ra, c̣n có thêm loại ghe tam bản mui dài chiếm gần hết chiều dài của ghe. Loại này trông như một cái nhà di chuyển trên mặt nước. Ghe bầu là loại ghe lớn có trang trí đẹp, dùng cho gia đ́nh giàu sang. Ghe lườn thon nhẹ, bụng nhỏ và dài, c̣n gọi là ghe độc mộc v́ được làm từ một thân cây gỗ, đẽo gọt và khoét ở ruột để thành ghe. Ghe trông đơn giản, không cong ở hai đầu mũi và lái, trong thân ghe chẳng kê sạp như các loại ghe khác. Ghe chài gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng, bên trong thân ghe chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau cho người đi ghe. Ghe chài c̣n có phần mui rời phía sau pḥng lái dùng để tắm rửa, nấu cơm, dùng cho người đi buôn bán xa, lâu ngày và sống trên sông nước. Bên cạnh các loại ghe vừa kể trên c̣n có nhiều loại phương tiện đi lại như tắc ráng, phà, chẹt, bè...




    Di chuyển nhanh, chở nhẹ th́ có ghe lưới, chở hàng th́ có ghe bè, ghe lồng, dùng chở cá th́ có ghe cá, ghe rổi, dùng để bắt tôm cá th́ có ghe cào tôm... Nghề đi ghe, đi xuồng từ lâu trở nên quen thuộc với cư dân miền Tây Nam bộ, tồn tại song song với nghề làm ruộng, làm vườn.

    Hiện nay, tại một số địa phương ở miền Tây, việc đi lại bằng đường bộ vẫn c̣n gặp nhiều khó khăn, trở ngại cho nên sông ng̣i vẫn là thủy đạo quan trọng trong công tác vận tải, thương mại và đi lại. Hơn nữa, ghe xuồng cũng là phương tiện để truyền tải văn hóa dân gian đi khắp nơi. Chính h́nh ảnh những chiếc ghe, chiếc xuồng trên sông rạch gắn bó suốt đời với cư dân miền Tây Nam bộ, cho nên đă xuất hiện những điệu ḥ, câu hát như ḥ chèo ghe, ḥ mái dài, mái cụt, ḥ sông Hậu, ḥ Đồng Tháp... và đă tạo nên sắc thái văn hóa riêng của văn minh miệt vườn.

  8. #3288
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Ghe Thuyền ĐBSCL : Nét đẹp văn hoá độc đáo
    Đi liền với h́nh ảnh sông nước là các h́nh ảnh: chiếc ghe, con đ̣, con cá, con cua, cần câu, đăng, đó, ṇ… Đây là h́nh ảnh mà ta thường gặp trong ca dao dân ca Nam bộ. Ngay cả việc trông ngóng người yêu, người Nam bộ cũng mượn h́nh ảnh chiếc ghe để nói lên nỗi ḷng của ḿnh, nói lên sự trông ngóng, khấp khởi chờ mong người yêu đến thăm ḿnh:
    Ghe ai đỏ mũi xanh lườn,
    Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
    Ở đây người con gái nhận dạng chiếc ghe của người yêu ḿnh. Chiếc ghe của người yêu cô có đặc điểm: “đỏ mũi, xanh lườn” nên khi thấy chiếc ghe có đặc điểm này th́ cô gái mừng thầm, đinh ninh là ghe của người yêu xuống thăm ḿnh. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn trọng, không hấp tấp vội vă. V́ cả vùng sông nước này có biết bao chiếc ghe có cùng đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ. Nên cô gái mới đặt lời ướm hỏi. Từ “phải” là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi tu từ. Không cần người đáp. Hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có phải th́ hăy đến nơi hẹn, hăy thẳng nơi mà đến. C̣n không phải th́
    chỉ việc đi ngang qua. Câu ca dao này c̣n có một dị bản khác:
    Ghe ai nhỏ mũi trảng lườn,
    Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
    Chiếc ghe cũng là h́nh ảnh của cuộc sống thương hồ, trên đó có chức năng như một ngôi nhà di động. Phía sau là cuộc sống sinh hoạt của cả gia đ́nh. Phía trước là dùng để chất hàng hóa bán. Cứ thế, chiếc ghe vào từng con kinh, con rạch, hết nơi này đến nơi khác. Hết hàng th́ quay ra chợ bổ hàng rồi đi bán tiếp. Con người cũng sống trôi nổi cùng chiếc ghe. Nhưng đôi khi chiếc ghe chở hàng chỉ có người chồng đảm nhận. Vợ con ở nhà, người chồng đi buôn bán xa, vài ba ngày mới về một lần. Cho nên trông chồng cũng là h́nh ảnh chiếc ghe và nhớ chiếc ghe cũng là nhớ chồng:
    Ghe lui khỏi vịnh, em thọ bịnh liền,
    Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi.

    V́ cuộc sống mưu sinh mà vợ chồng phải xa cách, vắng nhau bao ngày là bao nỗi ḷng nhung nhớ. Về nhà chưa được bao lâu, lửa nồng chưa ấm anh đă vội ra đi. Nhưng v́ cuộc sống không thể khác được nên ghe người chồng vừa đi th́ người vợ cũng vừa “thọ bịnh”. Quả là một tấm t́nh son sắt, thủy chung.

    Hay giữa một đêm trăng thanh gió mát, một chiếc xuồng câu đang lờ lững giữa ḍng, bắt gặp chiếc xuồng của cô gái chở hàng bông ra chợ đang chèo tới ở phía sau anh ta liền buông mấy lời chọc ghẹo:

    Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi,
    Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.

    Cách chọc ghẹo của chàng trai ở đây rất có lư, đồng thời thể hiện được sự quan tâm lo lắng của ḿnh. Giữa trời nước bao la mà chỉ có một ḿnh cô gái chèo ghe chở hàng ra chợ. Anh lo lắng cho cô gái bảo cô chèo mau lên, anh đợi, nếu không giông đến thổi tắt đèn mà cô th́ có môt ḿnh biết phải làm sao. Cô gái cũng cảm thấy ấm ḷng khi giữa đêm khuya thanh vắng mà lại có người quan tâm đến ḿnh, nên cô cũng ḥ đáp lại:

    Nhứt nhựt tiểu thân chứ nhà của anh đâu mà em không biết,
    Chứ gặp anh giữa đường, cái quyết chí mà thương anh.

    Có khi họ nên duyên cũng từ đó.
    Nhưng đôi khi cũng có vài anh chàng miệt vườn v́ bản chất quá thật thà, nghỉ sao nói vậy :
    Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú
    Thấy em chèo cặp vú muốn hun

    Chiếc ghe, chiếc xuồng, ḍng sông cũng là những h́nh ảnh được người dân Nam bộ gởi gắm vào đó những nỗi niềm tâm sự, những cảm nhận của cuộc đời, than thân trách phận, nói lên cuộc sống nghèo khó của ḿnh:

    Không xuồng nên phải lội sông,
    Đói ḷng nên phải ăn ṛng bè môn.
    Như đă nói, Nam bộ có hê thống sông ng̣i chằng chịt cho nên phương tiện đi lại của cư dân nơi đây trước kia chủ yếu là ghe, xuồng. Ghe, xuồng là chân đi là phương tiện vận chuyển chủ yếu, nên dù nghèo thiếu đến đâu người ta cũng cố dành dụm sắm cho ḿnh một chiếc xuồng để làm phương tiện đi lại. Tác giả của câu ca dao này có lẽ do quá nghèo túng, nghèo đến nỗi không có chiếc xuồng để đi, mọi việc di chuyển chỉ bằng cách lội sông. Mà không có xuồng cũng có nghĩa là thiếu phương tiện đánh bắt, mà thiếu phương tiện đánh bắt th́ làm sao có nhiều cá, tôm cho được. Mà không có nhiều cá, tôm có nghĩa là không có tiền nên phải ăn ” ṛng bè môn”.

    B́m bịp kêu nước lớn anh ơi !
    Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
    Đây cũng là lời than, than cho việc buôn bán ế ẩm. Không có người mua nên phải chèo măi, chèo đến mỏi mêt mà vẫn không bán được hàng. B́m bịp là loài chim rất quen thuộc ở Nam bộ, hễ nó kêu là nước lớn, cho nên tiếng b́m bịp kêu cũng là lời dự báo cho con nước sắp lên. Ngoài ra tiếng b́m bịp cũng là dùng để chỉ thời gian, thời gian của con nước lớn, nước ṛng, cũng là thời gian trong ngày. Lời than của cô gái ở đây phải chăng ngụ ư trong từng tiếng kêu của con b́m bịp. B́m bịp kêu nước lớn rồi nước ṛng, rồi b́m bịp kêu : nước lớn… cứ thế hết ngày mà bán buôn chẳng được ǵ. Sự ngao ngán của cô gái phải chăng là thế.
    Dời chưn bước xuống ghe buôn,
    Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.
    Lại một tâm trạng buồn cho những kiếp thương hồ. Bước xuống ghe buồn cũng đồng nghĩa với việc xa nhà, phải đối mặt với cuộc sống cô đơn, một ḿnh ḿnh đối diện với sông nước đêm đen. Ngoài ra trong chuyến đi này, không biết buôn bán ra sao, lời lăi thế nào. Nhưng trên hết là nỗi nhớ nhà da diết, nhớ vợ, nhớ con… c̣n buồn nào hơn nỗi buồn chia ly. Ở đây tác giả so sánh nỗi ḷng của ḿnh với sóng nước. Sóng có bao nhiêu gợn th́ ḷng ḿnh cũng buồn bấy nhiêu, nhưng gợn sóng là vô vàn, không sao đếm được. Cho nên tấm ḷng của họ nhớ nhà, đau đáu chờ mong, buồn man mác cũng bấy nhiêu, không sao nói hết được.
    Bên cạnh đó h́nh ảnh của cầu ván, cầu tre, các phương tiện đánh bắt cũng được người dân ở đây mượn làm phương tiện để nói lên nỗi ḷng của ḿnh:


    Ví dầu cầu ván đóng đinh,
    Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi.
    Cầu tre, cầu ván là hai h́nh ảnh rất quen thuộc đối với người dân Nam bộ. Nó thường được bắc qua những con kinh, con rạch, sông nhỏ. Ở đây, người phụ nữ mở đầu bằng một h́nh ảnh rất quen thuộc này như là một lời tâm sự của ḿnh đối với con về t́nh mẫu tử thiêng liêng. Có thể người phụ nữ này đă bị chồng phụ bạc nên cô rất đau buồn, coi như là mất tất cả, cô chẳng c̣n thiết sống nữa. nhưng may c̣n được đứa con, nó là nguồn an ủi vô giá đối với cô, níu chân cô lại trên cơi đời này. V́ vậy, mọi t́nh yêu cô đều dành cho nó, xem như là nguồn an ủi duy nhất trong cuôc đời ḿnh.

    Ví dầu mẹ chẳng có chi,
    Chỉ con với mẹ chẳng khi nào ṃn.
    Không chỉ là lời than thân trách phận, không chỉ là t́nh mẫu tử bao la, lời tỏ t́nh dễ thương, sông nước Nam bộ c̣n phản ánh những nếp sinh hoạt, những buổi lao động hết sức đời thường của họ. Thể hiện được một cuộc sống đơn sơ, giản dị nhưng đầm ấm t́nh người, t́nh mẹ con, vợ chồng:

    Cha chài mẹ lưới con câu,
    Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi ṇ.
    Đây là một bức tranh sinh hoạt đời thường, đầm ấm không khí gia đ́nh ở Nam bộ gắn chặt cuộc sống của ḿnh với sông nước bao la. Không ai nạnh ai, mỗi người một việc, từ cha, mẹ đến rể dâu ai cũng phải lao động, lao động với một tinh thần hăng say, yêu thích, thể hiện được sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa các thành viên trong một gia đ́nh.
    Hay:

    Chiều chiều ông Lữ đi câu,
    Bà Lữ đi xúc con dâu đi ṃ.

    Cảnh mẹ chồng nàng dâu từ xưa đến nay thiên hạ đă nói nhiều. Nhưng ở đây, ta thấy: mẹ chồng nàng dâu hết sức “ăn ư”, mặc dù không nói ra, nhưng qua cảnh sinh hoạt ta vẫn thấy được nàng dâu và mẹ chồng rất hợp ư với nhau, ngay cả cha chồng cũng thế. Cả nhà cùng lao động, không khí gia đ́nh thật đầm ấm vui tươi.
    Sông nước là một đặc trưng không thể thiếu của Nam bộ, mà gắn liền với sông nước là ghe, xuồng, lưới, câu, ḥ, cầu tre, cầu ván… tất cả đă trở thành rất quen thuôc với người dân Nam bộ. Cho nên trong ca dao dân ca Nam bộ, để bộc lộ tâm trạng của ḿnh th́ người dân nơi đây thường mượn các h́nh ảnh quen thuộc này để ví von, nhằm bộc lộ những ǵ ḿnh muốn nói, bởi tất cả đó đă trở thành thị hiếu của người dân nơi đây.
    Cùng nằm trong cái nôi văn hóa của quê hương, đất nước, ca dao dân ca Nam bộ đă mang đến cho kho tàng văn học dân gian những vần ca dao ngọt ngào, t́nh tứ. Ca dao dân ca Nam bộ là sản phẩm của sự suy tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của người Việt Nam, đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ, góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc.
    Last edited by Pleiku; 29-06-2015 at 01:40 AM.

  9. #3289
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Đồng Lúa Miền Tây Nam Bộ
    Các phân lưu của sông Mê Kông chảy trên lănh thổ của Việt Nam được gọi là Sông Cửu Long, mỗi phân lưu dài chừng 220-250 km. Lưu lượng nước các phân lưu rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến 120.000 m³/s vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp tạo nên đồng bằng châu thổ rộng lớn rất phi nhiêu ở Nam Bộ Việt Nam lư tưởng cho ngành Nông nghiệp.
    * Sông Hậu chảy qua Châu Đốc, Long Xuyên (An Giang), Thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng (Sóc Trăng) và đổ ra biển trước kia bằng ba cửa: Định An, Ba Thắc, và Tranh Đề. Cửa Ba Thắc khoảng thập niên 1970 đă bị bồi lấp nên sông Hậu chỉ c̣n hai cửa biển ngày nay.
    * Sông Tiền có ḷng sông rộng với nhiều cù lao ở giữa ḍng, chảy qua Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự và Cao Lănh (Đồng Tháp) đến Cai Lậy (Tiền Giang) th́ chia làm bốn sông đổ ra biển bằng sáu cửa:
    * Sông Mỹ Tho, chảy qua tỉnh lỵ tỉnh Tiền Giang là thành phố Mỹ Tho và phía nam G̣ Công, ra biển bằng cửa Đại và cửa Tiểu qua đường sông Cửa Tiểu
    * Sông Hàm Luông, chảy qua phía nam tỉnh Bến Tre, ra cửa Hàm Luông
    *Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Bến Tre-Trà Vinh (tên cũ Vĩnh B́nh), đổ ra biển bằng cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
    * Sông Ba Lai chảy qua phía bắc tỉnh Bến Tre (tên cũ Kiến Ḥa), ra cửa Ba Lai.
    Đồng bằng sông Cửu Long là kiến tạo tương đối mới trên một vùng châu thổ với cảnh quan điển h́nh của một vùng sinh thái sông nước. Lịch sử nền văn minh sông nước ở đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu từ rất sớm. Văn minh Đồng bằng sông Cửu Long được mênh danh là văn minh sông nước với ‎ nghĩa đầy đủ và đa dạng của nó: Văn minh Nông nghiệp thể hiện qua lúa nổi – lúa trời, văn minh kênh rạch, văn minh chợ nổi, văn mịnh cảng thị và văn minh miệt vườn.
    Từ thời xa xưa, ở vùng châu thổ có các đồng lúa nổi. Người ta gọi ḍng lúa nổi là lúa trời v́ cư dân lúc bấy giờ không phải gieo cấy. Cây lúa lớn mạnh theo từng con lũ trong khi các cây cỏ khác bị chết ngộp không theo kịp nước, và về cuối mỗi mùa lụt th́ chúng đơm bông, kết hạt cứng chắc, nặng trĩu, sẵn sàng cho vụ thu hoạch.

    Giống lúa mùa nổi được người dân canh tác hàng trăm năm qua, có thể đạt đến độ cao 7m theo con nước lũ. Đặc biệt, gạo lúa mùa nổi rất thơm ngon. Giống lúa nầy rất thích hợp cho vủng An Giang, nằm ở thương lưu ĐBSCL v́ vùng nầy hay bị ngập lụt nhiều tháng trong năm.

    Đây là một cánh đồng lúa nổi đang mùa thu hoạch. Trung b́nh 1ha lúa mùa nổi chỉ đạt năng suất từ 1 -1,2 tấn/ha nhưng bù lại gạo lúa nổi rất ngon nên giá bán cao hơn. Khi trồng th́ lại rất đơn giản chỉ cần rải lúa giống lấp lại cho chim, chuột khỏi ăn thế là xong.
    Khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu lúa sẽ nảy mầm và phát triển. Đến mùa nước tràn đồng, cây lúa lênh đênh theo con nước…cho đến thu hoạch là 6 tháng.
    Khi thu hoạch xong lúa mùa nổi, nông dân tận dụng phần rơm rạ dùng làm phân để trồng hoa màu, tăng thêm thu nhập.

    Và đây là những đồng lúa bát ngàn ở những vùng ít bị ngập nước của Miền Tây mà sự rộng lớn của nó được người dân diển tă như : “ Chó chạy cong đuôi, C̣ bay mỏi cánh “.






  10. #3290
    Member Pleiku's Avatar
    Join Date
    03-07-2011
    Posts
    1,432
    Vườn Trái Cây ĐBSCL
    Ở những vùng đất cao ráo hơn tại ĐBSCL là những vườn trái cây rất đa dạng với các loại trái cây. Trái câyNam bộcó quanh năm, đơn giản v́ trái cây ở đây không có mùa. Lúc nào bạn đến vùng châu thổ này cũng có sản vật thết đăi. Tùy theo mùa mà miệt vườn có những loại khác nhau, nhưng vào mùa hè trái chín nhiều và ngon nhất.
    Cái Bènằm dọc theo bờ Bắc của sông Tiền, được xem là vựa trái cây lớn bậc nhất của vùng châu thổ. Cái Bè sở hữu giống trái cây ngon nổi tiếng như xoài cát Ḥa Lộc, bưởi, nhăn long, cam sành, cam mật… Dạo bước trong vườn, ngoài việc tự do thưởng thức “cây nhà lá vườn, hái tận cây ăn tận gốc” là cảm nhận khó tả đối với những ai muốn ḥa ḿnh vào thiên nhiên.
    Miền Tâynhiều hoa quả, ai cũng biết rồi, toàn là quả nổi tiếng không hà, nhưbưởi Năm Roiở Vĩnh Long, Hậu Giang, vú sữa Ḷ Rèn (Tiền Giang),dừa sáp Cầu Kè(Trà Vinh),xoài cát Ḥa Lộc(Tiền Giang),mít ruột đỏ(Cần Thơ)… Ngoài ramiền Tây c̣n nổi tiếng với các loại trái cây khácnhăn, măng cụt, ḅn bon, cam sành, dừa, quưt…Quư kháchdu lịch đến miền Tâylà du lịch đến với “dinh cơ”, xứ sở củatrái cây miền Nam
    Dạo qua vườn cây trái để tâm hồn lăng đăng trong nắng chiều vàng cùng vị ngọt ngon lành, đậm đà khó tả của Chôm Chôm Vĩnh Long . Hay có thể đi vào vườn Sầu Riêng ở Cái Mân -– “đặc sản số 1” của nhóm cácđặc sản miền Tây Nam Bộ (nhưng nhớ đội mũ an toàn v́ trái sầu riêng hay rụng bất tử….hihi).
    “Riêng tư ôm một mối sầu,
    Yêu thương gắn bó thề câu chung t́nh,
    Quả ngon ta gửi đến ḿnh,
    T́nh này hăy giữ, quả này… cứ xơi.”.





    CAM SÀNH TAM B̀NH


    VÚ SỮA L̉ RÈN (VĨNH KIM – TIỀN GIANG)


Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 11 users browsing this thread. (0 members and 11 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •