Page 341 of 471 FirstFirst ... 241291331337338339340341342343344345351391441 ... LastLast
Results 3,401 to 3,410 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #3401
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ĐI BIỂN - 3

    Đại đa số các thủy thủ trên tàu đang trong lứa tuổi 18 - 20, nhiều người lần đầu tiên xa gia đ́nh. Thường thường cứ đến khoảng tuần lễ thứ ba sau khi tàu rời bến là bắt đầu có vấn đề, thủy thủ nhớ gia đ́nh, nhớ người yêu nhiều hơn, và bắt đầu xuống tinh thần. Họ xin gặp các tuyên úy để được an ủi, khuyên nhủ thường hơn, và v́ vậy các tuyên úy đă phải thêm phần bận rộn. Đôi khi ngay trong hàng ngũ hạ sĩ quan và sĩ quan cũng có người gặp khó khăn, thường là v́ lư do gia đ́nh.

    Cấp trên cũng hiểu tinh thần và tâm lư binh sĩ nên trung b́nh cứ khoảng từ 3 đến 6 tuần lễ là tàu lại ghé một bến nào đó để thủy thủ có dịp xả hơi. Một huynh trưởng của tôi, tuyên úy N.B.A., vừa được vinh thăng Hải Quân Trung Tá, trong chuyến đi biển 6 tháng ở vùng Địa Trung Hải (Mediterranean Deployment, gọi tắt là MedDep) cách đây vài năm, cũng trên chiếc HKMH này, đă có dịp ghé hải cảng Nice ở Pháp. Ông lên thăm một người bạn và được mời cùng đi xem phần tŕnh diễn của đoàn "Con Rối Nước" (Water Puppets) từ Hà Nội qua; sau đó, ông đă mời cả đoàn, khoảng 40 người, lên thăm tàu vào ngày hôm sau. Họ đă kinh ngạc đến sững sờ trước chiếc chiến hạm quá vĩ đại (dài và rộng bằng ba sân đá banh nhập lại.) Càng ngạc nhiên hơn khi tuyên úy N.B.A. đưa họ đi xem những nơi quan trọng như pḥng chỉ huy (Captain's bridge), pḥng radar, pḥng của sĩ quan điều khiển không lực (Air Boss)... Họ đă trầm trồ: "Sao anh dám đưa chúng em đến những chỗ này? Không sợ lộ bí mật à?" Hoặc là: "Trong thời chiến tranh, chúng em chả hiểu tại sao nước Mỹ ở xa thế mà cứ chốc chốc lại có cả đàn máy bay vào đánh bom ở miền Bắc! Thật, bây giờ chúng em mới biết!!" Tội nghiệp cho những con người đă phải sống trong một xă hội bị bưng bít đến tối đa.

    Trong một bữa ăn có món thịt gà chiên, tôi đă ngồi cạnh tuyên úy trưởng, B.N. May. Ông này không lấy món phụ theo đúng kiểu Mỹ là khoai tây chiên, nhưng lại là cơm. Tôi ṭ ṃ, hỏi trêu: "Bộ ông khoái ăn cơm lắm hả?" Tuyên úy May không trả lời nhưng hỏi lại tôi: "Năm 1975, anh (you) ở trại tị nạn nào?" Tôi đáp: "Fort Chaffee, Arkansas." Tuyên úy May nh́n vào khoảng không như đang hồi tưởng về một qúa khứ nào đó, rồi ông tâm sự: "Cha (Father) biết không, đầu tháng Năm, năm 1975, tôi đang là một trung úy phi công, lái trực thăng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến ở Camp Pendleton, California. Khi trại tị nạn cho người Việt được thành lập ở đó, tôi đă được lệnh làm việc với ban điều hành trại, đặc trách các nhà ăn ở những khu 1, 2 và 3. Một hôm, các thông dịch viên đă đến nói với tôi: "Hôm nay, chúng tôi không được ăn cơm!" Tôi nói: "Nhưng các ông mới ăn cơm hôm qua rồi mà!?" Họ đáp: "Đúng vậy, nhưng người Việt chúng tôi cần có cơm ngày ba bữa!" Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng vẫn ra lệnh cho nhà thầu phải mua thêm thật nhiều gạo để nấu cơm mỗi ngày cho dân chúng, thế rồi chính tôi cũng tập ăn cơm, lâu ngày thành quen, cho tới bây giờ."
    Vài năm sau kinh nghiệm có một không hai đó, trung úy May đă xin giải ngũ và theo học đại chủng viện. Sau khi được thụ phong chức mục sư, ông đă xin tái ngũ và trở thành tuyên úy trong binh chủng Hải Quân cho đến hiện tại. Tôi bắt tay tuyên úy May thật chặt và nói: "Cám ơn Tuyên Úy, ông đă là người ơn, là chứng nhân sống động của một trong những trang sử bi thảm nhất của dân tộc chúng tôi." Tuyên úy May cũng xiết chặt tay và nh́n tôi với cái nh́n hết sức cảm thông, hai người đă trở thành thân thiết kể từ hôm ấy.

    Pḥng tiếp khách của đại tá hạm trưởng (Navy Captain) cũng là nơi trưng bày những h́nh ảnh và di vật của cố tổng thống Kennedy mà tàu này đă lấy tên. Một buổi tối, tôi đă vào ngồi một ḿnh trong đó, nh́n vào tấm ảnh phóng lớn của người quá cố, tôi nói thầm trong đầu:


    "John Fitzgerald Kennedy, ông đă là tổng thống một quốc gia hùng mạnh hàng đầu trên thế giới, nhiệm kỳ của ông tuy ngắn ngủi nhưng hai lần ông đă gây hệ lụy không nhỏ đối với những quốc gia được kể là "thân hữu" của Hoa Kỳ. Lần đầu, ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ông đă phản bội những người bạn Cuba muốn đổ bộ trở về giải phóng quê hương của họ, đưa họ vào chỗ chết mà không hề tiếp cứu. Lần kế, quan trọng hơn, nghiệt ngă hơn nhiều, cuộc chiến tranh đă hủy hoại trọn một thế hệ và làm suy thoái cả dân tộc của họ! Khởi đi từ việc ông đồng ư cho lật đổ một chính phủ hợp hiến, hợp pháp, lần đầu tiên được người dân Việt Nam bầu lên theo thể chế dân chủ, rập khuôn với chính phủ của ông. Ông đă tỏ ra ngạc nghiên và bất b́nh khi biết thuộc cấp của ông (đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam) và nhóm tướng lănh phản phúc làm đảo chánh, đă toa rập để giết chết vị tổng thống và hai người em của ông ta. Những người này đă tệ hại đến nỗi vị kế nhiệm của ông, Tổng Thống Lyndon B. Johnson, đă phải thẳng thắn gọi họ là “bọn côn đồ khốn kiếp” (Goddamn bunch of thugs). Nhưng tội qui về người đứng đầu, (the buck must stop on your desk!) Ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu qủa đau thương đó. Thế rồi, người đời chưa kịp trách ông th́ chính ông đă ngă gục trước viên đạn của kẻ sát nhân. Tôi c̣n nhớ, tối hôm ấy trên đường về nhà, tôi đă được nghe tin về cái chết của ông qua những máy thu thanh vang vọng từ nhà cửa ở dọc đường. Năm đó tôi vừa vào lứa tuổi trung học, nhưng đă sớm nhận biết thế nào là t́nh nghĩa ở đời, nhất là ‘t́nh nghĩa’ trên chính trường quốc tế! Thế nào là thân phận kẻ đang sống trong một quốc gia nhược tiểu, ông xử ‘không đẹp’ đối với một người đă được coi là bạn của ông, là tổng thống của chúng tôi!

    "Nhưng hậu qủa dây chuyền của hành động đó c̣n khủng khiếp hơn, gần 60 ngàn quân nhân Hoa Kỳ và trên ba triệu người Việt Nam đă chết thảm v́ chính sách sai lầm của ông và những người nắm quyền kế tiếp. Cho đến nay, gần một phần tư thế kỷ đă qua kể từ ngày im tiếng súng, nhưng Việt Nam vẫn chưa ngóc đầu lên nổi, vẫn bị kể là một trong những nước nghèo đói nhất trên thế giới! Ông đă là một giáo dân Công giáo, tôi là một linh mục; giả sử ông có cơ hội trở về xưng tội với tôi th́ việc ‘đền tội’ tôi trao cho ông sẽ là: ‘Dùng tất cả những ơn Chúa ban riêng để làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia thực sự được độc lập, tự do, dân chủ, và phú cường,’ có như thế mới mong đáp lại phần nào lỗi lầm quá to lớn của ông."

    Tôi bước ra khỏi pḥng, ḷng buồn vui lẫn lộn như vừa ban phép ḥa giải cho một hối nhân đă bỏ xưng tội đến gần 40 năm trời!

    (C̣n tiếp)

  2. #3402
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ĐI BIỂN – 4

    Nguyên tắc thông thường của cái súng cao su mà trẻ con hay chơi, đă được Hải Quân Mỹ xử dụng để thêm sức, phóng các phi cơ đang rồ máy vọt tới, cho dễ cất cánh hơn. Có bốn dàn phóng (catapults, mà các thủy thủ gọi tắt là "cats") dùng sức ép bằng hơi nước; nhưng tối đa người ta chỉ có thể phóng hai phi cơ lên cùng một lúc, v́ các dàn phóng chéo góc với nhau. Mỗi phi vụ có từ 15 đến 20 phi cơ đủ loại, họ bay khoảng gần hai tiếng đồng hồ, và trước khi họ trở về đến tàu th́, nếu cần, một phi vụ khác lại được phóng lên. Cứ như thế, các phi cơ liên tục được xử dụng trong việc "Canh pḥng miền Nam" nước Iraq. Để có giờ nghỉ ngơi, các phi công Hải Quân (Aviators, thay v́ được gọi là Pilots như bên Không Quân, ư muốn nói đáp máy bay trên HKMH th́ khó hơn là đáp trên một phi đạo dài rất nhiều) chỉ làm việc sáu ngày một tuần, khi họ nghỉ th́ các phi đội của Không Quân đang trấn đóng ở Saudi Arabia sẽ đảm trách thay, ngược lại, họ cũng giúp bên Không Quân trong cùng một cách tương tự.

    Sau cuộc Chiến Tranh Lạnh (Cold War) cả Mỹ và Nga đều cắt giảm binh bị, nhưng nhiều nước khác lại gia tăng như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Iran... Mỹ đă giảm hơn một triệu quân và mấy trăm tàu chiến. Số HKMH đang từ 15, hiện chỉ c̣n lại 12 chiếc và hiện nay chỉ c̣n 10 chiếc, không kể 10 HKMH loại nhỏ (Amphibious Assault Ships), các LHAs và LHDs, mỗi chiếc chứa nhiều trực thăng và phản lực lên thẳng Harriers, cũng như máy bay hai cánh quạt xoay chiều để lên thẳng, V-22, (h́nh) với khoảng 2000 TQLC sẵn sàng đổ bộ bất cứ nơi nào cần. Tuy nhiên, khi cho những chiếc HKMH cũ về "hưu" (de-commissioned) th́ họ lại đóng thêm những chiếc khác tối tân hơn như Stennis CVN-74, Truman CVN-75, và Reagan CVN-76. Chiếc mới nhất và cũng là cuối cùng của “lớp” (class) Nimitz được đặt tên là George H.W. Bush (bố), mang số hiệu CVN-77.

    Hiện nay Hải Quân Mỹ đă cho đóng chiếc HKMH lớp mới mang tên Tổng Thống Gerald R. Ford, CVN-78, chiếc tàu này (chính thức hoạt động vào năm 2016), cùng với những chiến hạm vĩ đại khác sẽ tiếp tục phục vụ quân đội Mỹ suốt thế kỷ 21. Vài HKMH sau sẽ lần lượt mang tên John F. Kennedy, CVN-79 (đặt lại, thay cho chiếc CV-67 đă ‘về hưu’), và Enterprise (đặt lại), CVN-80, chúng chính thức được “biên chế” vào các hạm đội Mỹ trong các thập niên 10s và 20s. Sẽ có tổng cộng 10 HKMH loại này, tân tiến và mạnh hơn những chiếc cũ rất nhiều. Cần một bài viết đầy đủ mới tạm nói lên những thành phần mới trên các “tàu sân bay” siêu đẳng không nước nào b́ kịp nói trên.


    Một đêm, đến phiên tôi lên pḥng lái và cũng là đài chỉ huy để đọc lời nguyện và chúc b́nh an cho cả tàu trước khi đi ngủ (thời giờ đi ngủ chỉ là trên nguyên tắc.) Tôi đă lên sớm và ra ban công phía trước (weather deck) để có chút giờ tĩnh tâm. Bầu trời không trăng, dày đặc những v́ sao, dải Ngân Hà như sáng hơn, gần hơn, trải dài như đến vô tận. Tàu đang đi về hướng gió, lúc đó là hướng Đông, để chuẩn bị đón một phi vụ trở về. Tôi nghĩ thầm, chỉ cần bay về hướng này, mấy tiếng đồng hồ nữa là đến quê hương và tôi mường tượng đến những thành phố có thể sẽ bay qua như: Karachi (Pakistan), Calcutta (Ấn Độ), chếch xuống Rangoon (hay Yangon, Myanmar), Bangkok (Thái), rồi Sàig̣n, Huế, Hà Nội... Thật gần, nhưng cũng thật xa... quê hương ngút ngàn đó, đă một lần tôi hứa sẽ trở lại, nay vẫn dẫy đầy những bất công, đói khổ, thiếu hẳn tự do... Đă qúa lâu... qúa xa... ḷng người không khỏi mênh mang và trong một giây phút bi quan đă cảm thấy thấm thía nỗi xót xa đến u uất trong câu thơ của Đăng Dung: "Nợ nước chưa xong đầu đă bạc...”

    Trên tàu có một thiếu úy và 6 nam, nữ thủy thủ gốc Việt, nhưng hầu như họ c̣n qúa trẻ để có thể cảm thấy được hậu qủa sâu đậm của cuộc chiến, hay hoài băo về một quê hương xa vời vợi bên kia bờ đại dương. Làm thế nào để các bậc cha, anh có thể hướng dẫn, chỉ bảo thế hệ mới này, với hi vọng rằng một ngày nào đó họ sẽ tự t́m về đất Mẹ, quê Cha? Tôi giật ḿnh chợt nhớ rằng ḿnh đă sống ở Mỹ đến phân nửa cuộc đời! Bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu kỷ niệm đă đến với tôi trong suốt phần tư thế kỷ trên dải đất lớn bằng cả một lục địa mà tôi đă nhận làm nơi dung thân. Miệt mài trong công tác, đôi khi đă làm tôi lăng quên những cẩn trọng phải có, một lần tôi đă vô t́nh đi vào vùng t́nh cảm thế nhân, nhưng chưa kịp đặt chân xuống th́ đă vội thu về v́ biết rằng con đường đó không phải là lối ḿnh đang đi. Để rồi tôi đă phải trả giá bằng cơn đau ngất người kéo dài đến thật lâu! Tôi nhận thấy con người của ḿnh thật nhỏ bé, thật mỏng ḍn và yếu đuối, chính tôi mới là kẻ cần phải xin ơn tha thứ nhiều hơn cả!

    Gần hai chục phản lực cơ trở lại tàu sau khi đă hoàn tất phi vụ, đáp đêm nhưng nhiều phi công vẫn móc đúng giây cáp thứ ba, chính xác và lư tưởng nhất! Các hỏa tiễn và bom đạn vẫn c̣n nguyên, những vũ khí giết người đó đă không phải phóng ra nơi vùng đất phía Nam vĩ tuyến 33 ở Iraq trong phi vụ này. Đêm nay đă không có máu đổ, không có tàn phá; bốn thang máy, thông thường, mỗi cái có thể đưa xuống "hầm chứa" (Hangar Bay) một lượt hai chiếc phi cơ xếp cánh. Công việc đó được nhanh chóng hoàn tất trong một thời gian ngắn nhất. Tiếng động cơ ồn ào đă sớm tắt, trả lại sự yên tĩnh tương đối trên tàu. Cơn gío nhẹ, một phần nhờ vận tốc của tàu, đưa mùi biển thoảng hơi muối mặn, cái mùi đặc biệt đă dính liền với cuộc đời của những người lính vượt đại dương.

    Những gợn sóng nhỏ trên mặt nước không đủ làm cḥng chành con tàu quá lớn đang lầm lũi lướt đi trong bóng đêm. Tôi nhớ đến bài hát về những người lính thủy Việt Nam năm nào: "Với biển cả, anh là thủy thủ... Với ḷng nàng, anh là hoàng tử... Nhớ chuyện ngàn đêm xứ Ba Tư..." (Thủy thủ và biển cả, nhạc của Y Vũ.) Xứ Ba Tư – Persia, (ngày nay là Iran), cái xứ có những truyện "Ngàn lẻ một đêm" ấy đang không xa trước mắt, nhưng với tôi và hơn năm ngàn thủy thủ trên tàu, nó đă không c̣n thần tiên chút nào cả. Từ vùng đất "không thân thiện" đó luôn luôn vẫn có sự ŕnh rập, vẫn đ̣i hỏi sự thận trọng và đề pḥng tuyệt đối, chỉ cần một sai lỗi nhỏ, chỉ cần hành động của một tên điên nào đó từ phía bên kia, là chiến tranh có thể sẽ xảy ra, là máu lại đổ, là nhà lại tan... Tôi thấy nền ḥa b́nh tạm bợ trong vùng cũng mong manh như thân phận con người và tôi quyết định không dùng lời nguyện đă dọn sẵn, nhưng sẽ cầu nguyện tự phát từ đáy ḷng mà chủ đề không ǵ khác hơn là H̉A B̀NH.

    C̣n tiếp ...
    Last edited by Tigon; 15-04-2016 at 12:51 PM.

  3. #3403
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CUỐN THEO MỆNH NƯỚC

    ĐI BIỂN

    . HÀNG KHÔNG MẪU HẠM MỚI NHẤT CỦA HẢI QUÂN HOA KỲ “ FORD-CLASS”

    (V́ có lời yêu cầu của một số thân hữu, khi có ǵ mới trong quân đội Mỹ, nhất là Hải Quân, th́ cho họ biết, nên tôi tạm ngưng những bài viết vài kỳ để giới thiệu HKMH lớp (class) mới nhất của Hải Quân Mỹ, cũng như các phi cơ và vũ khí của chiếc tàu vĩ đại này)

    Năm 1961, Hải Quân Hoa Kỳ có chiếc HKMH chạy bằng năng lượng nguyên tử đầu tiên trên thế giới, chiếc USS Enterprise, CVN-65. Tuy nhiên, v́ một lư do nào đó họ đă hủy bỏ chương tŕnh đóng thêm 5 chiếc khác thuộc “lớp” này. Măi đến năm 1975 họ mới có HKMH, chạy bằng năng lượng nguyên tử, hoàn toàn thuộc lớp mới, Nimitz-class. Trong suốt gần 40 năm kế tiếp, cả thảy 10 KHMH thuộc lớp này đă được đưa vào xử dụng trong Hải Quân Mỹ. Chiếc cuối cùng là USS George H.W. Bush (bố), CVN-77, đă được “biên chế” vào năm 2011.




    Khi con người bước vào thế kỷ 21 th́ Hải Quân Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi. HKMH mới nhất và cũng là một lớp mới mang tên cựu tổng thống Gerald R. Ford, CVN-78. Một cải tiến quan trọng so với các HKMH mà trước đây đă được thế giới ca tụng là “siêu” HKMH. Nếu liếc qua nhanh, người ta khó nhận ra vài thay đổi trên bề mặt của chiếc Ford, như đài chỉ huy ngắn và cao hơn, được đưa lùi về phía sau tàu 43 mét.

    Những thay đổi khác phần nhiều thuộc phạm vi kỹ thuật và vũ khí, như hệ thống phóng phi cơ lên (catapult) bằng sức ép của hơi nước, được thay bằng hệ thống điện từ (Electromagnetic Aircraft Launching System – EMALS). Điều này có mấy lợi ích chính là thêm chỗ trống bên dưới sàn bay, giảm 25% số thủy thủ cần có để vận hành hệ thống và việc phóng phi cơ lên cũng nhanh hơn 25%. Số tiền tiết kiệm được trong 50 năm phục vụ của tàu sẽ lên đến 4 tỷ đô la.

    Sau đây là những thay đổi khác:

    • Hệ thống cáp để giữ máy bay lại khi đáp được làm mới hoàn toàn.
    • Máy móc hóa và vi tính hóa các hoạt động của tàu khiến tổng số thủy thủ trên tàu có thể giảm được gần một ngàn người.
    • Tối tân hóa hệ thống hỏa tiễn pḥng thủ RIM-162 Evolved Sea Sparrow, để chống lại loại hỏa tiễn đối hạm mới và nhanh nhất của Nga và Tàu.
    • Hệ thống radar “lưỡng cực” (dual-band), AN/SPY-3, đă được xử dụng cho khu trục hạm tối tân nhất thế giới, Zumwalt-class.
    • Hai ḷ nguyên tử loại mới, A1B, tăng sức mạnh của tàu hơn lớp trước.
    • Có tính “tàng h́nh” (hiện lên rất nhỏ trên màn ảnh radar của địch).
    • Chở được khoảng 90 phi cơ đủ loại (sẽ được tŕnh bày ở bài sau)

    Thêm một cải tiến quan trọng nữa: HKMH Ford-class có thể phóng đến 160 phi vụ (khoảng từ 15 đến 20 máy bay một phi vụ) mỗi ngày (Nimitz-class chỉ có thể phóng 120 phi vụ/ngày) và trong suốt một tháng liên tục. Nếu cần, chiếc Ford có thể phóng đến 270 phi vụ một ngày.

    C̣n tiếp ...

  4. #3404
    Tran Truong
    Khách
    [QUOTE=Tigon;228449]ĐI BIỂN - 3
    ...
    "John Fitzgerald Kennedy, ông đă là tổng thống một quốc gia hùng mạnh hàng đầu trên thế giới, nhiệm kỳ của ông tuy ngắn ngủi nhưng hai lần ông đă gây hệ lụy không nhỏ đối với những quốc gia được kể là "thân hữu" của Hoa Kỳ. Lần đầu, ở Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) ông đă phản bội những người bạn Cuba muốn đổ bộ trở về giải phóng quê hương của họ, đưa họ vào chỗ chết mà không hề tiếp cứu. Lần kế, quan trọng hơn, nghiệt ngă hơn nhiều, cuộc chiến tranh đă hủy hoại trọn một thế hệ và làm suy thoái cả dân tộc của họ! Khởi đi từ việc ông đồng ư cho lật đổ một chính phủ hợp hiến, hợp pháp, lần đầu tiên được người dân Việt Nam bầu lên theo thể chế dân chủ, rập khuôn với chính phủ của ông. Ông đă tỏ ra ngạc nghiên và bất b́nh khi biết thuộc cấp của ông (đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam) và nhóm tướng lănh phản phúc làm đảo chánh, đă toa rập để giết chết vị tổng thống và hai người em của ông ta. Những người này đă tệ hại đến nỗi vị kế nhiệm của ông, Tổng Thống Lyndon B. Johnson, đă phải thẳng thắn gọi họ là “bọn côn đồ khốn kiếp” (Goddamn bunch of thugs). Nhưng tội qui về người đứng đầu, (the buck must stop on your desk!) Ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu qủa đau thương đó.
    ...


    Hoàn toàn đồng ý với tác giả , chỉ xin gợi thêm ý . Chúng ta ,các đảng phái quốc gia hay cs cũng phải gánh phần trách nhiệm trước những mất mát , tàn lụi của đất nước hiện nay . Phải nói rằng người mình nặng đầu óc bè phái ,phe đảng ,cố chấp ... KHÔNG ĐẶT ĐẤT NƯỚC LÊN TRÊN QUYỀN LỢI PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI . Đó là sự thật đau buồn,bài học đắt giá .
    Sự tan vỡ ,chết chóc của nền đệ nhất cộng hòa , đảng phái quốc gia không thể trốn tránh phần trách nhiệm ! Bấy lâu ,chỉ trách người nhiều hơn trách mình , gốc rễ ở cái TÔI mà ra : phe tôi,đảng tôi ... nhưng không thấy NƯỚC TÔI ! Vì tầm nhìn của người mình chưa qua khỏi CÁI TÔI .Nên còn dài lận đận,đau thương cho đất nước .

    Cuộc nội chiến Hoa kỳ ,kéo dài 4 năm 1861 - 1865 với tổn thất hai bên gần 1 triệu người . Xin trích lược :

    Lịch sử cho thấy, cách hành xử của người Mỹ khi chấm dứt chiến tranh đă mở đầu trang sử mới của đất nước Mỹ.

    Sau khi gặp Tướng Grant để đầu hàng, Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của Tướng Grant , ông nghiêng ḿnh chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi pḥng họp.

    Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đă đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị ḥa. Khi ngựa Tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau.

    Trên bao lơn xung quanh Tướng Grant và trong sân trước của căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội Liên Hiệp Miền Nam .
    Tướng Grant c̣n ra lệnh cho sĩ quan và binh sĩ miền Bắc không được phép reo mừng trên chiến bại của phe miền Nam .
    Điều quan trọng với Tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải ǵn giữ cho bằng được sự toàn vẹn t́nh cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ.

    Điều kiện đầu hàng được hai Tướng Lee và Grant kư kết tại Appamatox ngày 9 Tháng Tư năm 1865 . Ba ngày sau, ngày 12 Tháng Tư mới là ngày quân Liên Hiệp Miền Nam chính thức buông súng đầu hàng.
    Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phía Đông khu rừng Appamatox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là Tướng Chamberlain.
    Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ Liên hiệp Miền Nam là Tướng Gordon.

    Tướng Chamberlain đă ghi lại trong hồi kư của ḿnh : “Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một ḍng người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ.
    Đây là những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong được quyết tâm của họ.
    Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến thắng, họ là những h́nh ảnh sống , phản ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường.”

    Không hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, Tướng Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh cho quân đội miền Bắc, “Bồng súng chào!”.
    Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc bồng súng lên vai chào đoàn quân thua trận.
    Phía đối diện, Tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mă khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một giáng đ́ệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào.

    Họ chào những “anh hùng bại trận,” họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.

    Và phía hàng quân miền Bắc tiếp tục giữ đúng thế nghiêm. Không có thêm một tiếng kèn. Không có một tiếng trống. Không có một tiếng hô chiến thắng. Không có một tiếng nói. Không cả một tiếng thầm th́. Mà chỉ c̣n là một hàng quân im phăng phắc. Mọi nhịp thở như ngừng lại.

    Buổi lễ đầu hàng kéo dài 7 tiếng đồng hồ. Gần 28,000 người, trên 100,000 tấn vũ khí, đạn dược, quân kỳ, hiệu kỳ lần lượt bỏ xuống. Từng đơn vị tiến lên, gác súng, tháo bao đạn, và xếp súng xuống.
    Kế đến họ tŕu mến cuốn hay xếp quân kỳ, hiệu kỳ, lắm cái tơi tả và lắm cái nhuộm máu đă khô, sau cùng họ khẽ đặt những lá cờ kia xuống mặt đất.

    Cuộc Nội Chiến của Mỹ kết thúc như vậy đó. Không có trả thù, không có tắm máu, không có chính sách hạ nhục những người bại trận cùng vợ con họ.

    Hăy so sánh ngày 9 Tháng Tư năm 1865 & 30 /4 /1975 !!! . Một trăm mười năm cách xa , để nhận biết dân trí một nước tư bản vào năm 1865 đã cao hơn "dân trí " của csVN năm 1975 một trời một vực !!! Hoa Kỳ đã đặt Tổ quốc trên cái TÔI ,cái ĐẢNG .

  5. #3405
    Member Ba Búa's Avatar
    Join Date
    07-10-2010
    Posts
    1,828
    Đọc bài viết về lể đầu hàng của quân bại trận miền Nam với quân thắng trận miền Bắc của Mỹ cách nay cả 150 năm mà tôi thấy ...không biết dùng từ ngữ nào diễn tả cho đúng cái tâm trạng của ḿnh .
    Thật là cao cả của một dân tộc vĩ đại . Bởi vậy nên HOA KỲ mới là bậc nhất ngày hôm nay .
    Có lẽ dân chậm tiến ngu dại nên thường có đầu óc nhỏ nhen , thù hằn dai dẳn !
    Lại nữa, như Tây Đức đối xử với bọn Cộng Đông Đức ra sao ??
    C̣n nh́n lại nước ta khi xưa khi vua Gia Long thắng Tây Sơn th́ sao ?? Chẳng những quật mồ mả c̣n chưa đả nư ,mà phải lấy đầu lâu làm bồn tiểu mới hả cơn ...
    Chuyện vui có thật ,tôi xin kể : Khi vào trại Hốc Môn đi tù cải tạo , lúc mới đầu gia đ́nh bọn vc c̣n ở dảy nhà gần bên . Sáng ra ,đứa bé con của VC khóc lóc đ̣i cái ǵ đó mà không được nên càng khóc dữ.Mẹ của nó đánh nó môt phát và hét lên :mầy có câm họng nín không ? Bà cho mầy biết Đế quốc Mỹ, nguỵ kia tao đánh cho c̣n phải chạy ḱa ,chứ sá ǵ mầy ....
    Cả đám tù Nguỵ cách đó chừng 5 m nghe thế ai nấy cũng ngạc nhiên và nh́n nhau cười .....

  6. #3406
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CUỐN THEO MỆNH NƯỚC ( tiếp theo )

    GIA TĂNG VIỆC BẢO VỆ CÁC TÀU CHIẾN

    Đe dọa từ phía Nga

    Nước Nga hiện có hai loại hỏa tiễn chống hạm: P-270 Mokit với tầm hoạt động là 75 miles (120 km) và P-800 Oniks có tầm hoạt động lên tới 185 miles (300 km). Tuy nhiên, để có thể tiếp cận các hạm đội của Mỹ, luôn có một ṿng tṛn bảo vệ mà bán kính của nó được bung ra đến 500 km, trong khoảng cách của tầm hoạt động của những hỏa tiễn này là một vấn nạn nan giải cho họ.

    Đe dọa từ phía Trung Quốc

    Bộ máy tuyên truyền ồn ào của TQ gần đây đă loan tin rằng họ đang đưa vào xử dụng loại hỏa tiễn siêu âm chống hạm tầm xa mang tên Dong Feng 21D (DF-21D), có thể diệt một chiến hạm lớn như HKMH ở khoảng cách 3,000 km. Tuy nhiên, họ có thể nói bất cứ điều ǵ họ muốn tuyên truyền, trong thực tế, để có một loại hỏa tiễn như vậy, không dễ dàng.


    Một nhà phân tích chính trị-khoa học thâm niên của RAND Corporation, Roger Cliff, đă phát biểu rằng: “Để tấn công chiến hạm Mỹ bằng hỏa tiễn bắn ṿng cầu (ballistic misiles), trước hết họ phải t́m ra vị trí của tàu Mỹ, biết nó là loại tàu chiến nào, biết chính xác vị trí của tàu khi hỏa tiễn bay đến nơi để điều chỉnh cho chính xác và cuối cùng là đầu đạn phải “khóa” (lock) vào mục tiêu, mới hi vọng thành công.”


    “V́ bên tấn công phải đi qua những giai đoạn phức tạp như vậy nên bên tự vệ có nhiều cơ hội để vô hiệu hóa cuộc tấn công.”

    “Thí dụ, dàn ra-đa có tầm hoạt động vượt qua viền chân trời có thể bị làm rối loạn, lệch lạc hay hủy diệt; khói hay phương tiện làm mờ khác có thể dùng để “che mắt” phi thuyền (vệ tinh) ghi h́nh ảnh trên không trung, đang bay qua cả một hạm đội, trong khi nó phải đi theo một quỹ đạo đoán trước được, sự ghi nhận không chính xác đó có thể vô hiệu hóa sự chính xác của hỏa tiễn; ngay cả khi hỏa tiễn đă “khóa” mục tiêu, bộ phận điều khiển của nó vẫn có thể bị làm rối loạn, lệch lạc.”

    Một vài quốc gia có thể mua loại hỏa tiễn này (kể cả Trung Quốc) chỉ với mục đích hù dọa các nước láng giềng chứ hiệu quả tác chiến của nó thật là vô dụng, trừ khi họ có hệ thống khám phá mục tiêu, chuyển biến và thông tin hữu hiệu.”

    Để chống lại những sự hăm dọa này, Hải Quân Hoa Kỳ đă và đang xử dụng loại hỏa tiễn RIM-162 Evolved Sea Sparrow Misslie (ESSM) thay thế loại cũ RIM-7 Sea Sparrow Missile, để bảo vệ các tàu chiến từ các hỏa tiến chống hạm và phi cơ. ESSM được chế tạo để chống lại các hỏa tiễn chống hạm cơ động siêu âm (như Trung Quốc đang khoe). ESSM c̣n có khả năng “xếp bốn” trong dàn phóng MK 41 VLS, mỗi “hộp” có thể chứa đến bốn hỏa tiễn (như trong h́nh).


    Đó là chưa kể đến việc Mỹ đă thành công trong việc bắn hạ một vệ tinh (cũ của họ) đang bay bên ngoài bầu khí quyển của trái đất. Không có vệ tinh hướng dẫn, hỏa tiễn của TQ nói trên sẽ trở thành… mù và vô hiệu

    .C̣n tiếp...

  7. #3407
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CON MẮT CỦA HẠM ĐỘI

    "Máy bay thám thính do hăng Northrop Grumman chế tạo, E-2D Advanced Hawkeye, là một phi cơ được dùng cho các Hàng Không Mẫu Hạm có khả năng như một "mini-AWACS" (Hệ thống kiểm soát và cảnh báo trên không), được thiết kế để cung cấp mọi cảnh báo tầm xa về các mối đe dọa trên không. Vai tṛ phụ của E-2D bao gồm chỉ huy tấn công và kiểm soát, giám sát trên đất liền và hàng hải, t́m kiếm và cứu hộ, chuyển tiếp thông tin liên lạc, và ngày cả kiểm soát lưu lượng không lưu trong trường hợp khẩn cấp.”

    “Phiên bản mới nhất của các máy bay thám thính E-2 là chiếc E-2D Advanced Hawkeye, nó có một hệ thống điện tử hoàn toàn mớI, gồm loại radar tân tiến APY-9, đài phát thanh mật, máy tính của phi vụ, vệ tinh truyền thông liên hợp, quản lư hệ thống chuyến bay, các động cơ cải tiến T56-A-427A, thêm phần kính cho pḥng lái và thay đổi sau cùng là phi cơ có thể được tiếp nhiên liệu trên không.”

    “Các tính năng của radar APY-9 bao gồm điện tử quét mảng năng động, tức là thêm phần điện tử quét vào việc luân chuyển cơ khí của radar tại Radom (Radar đĩa ṿm bên trên máy bay). E-2D sẽ bao gồm các quy định cho phép phi công phụ hành động như một "người điều khiển chiến thuật thứ tư" (T4O), người có thể điều chỉnh lại pḥng lái chính của ḿnh để thấy được radar, IFF, và liên kết 16 (JTIDS) / CEC, và truy cập tất cả dữ liệu.”
    “Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của E-2D diễn ra ngày 3 tháng 8 năm 2009. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, một E-2D xử dụng hệ thống khả năng tác chiến hợp đồng của ḿnh để tiêu diệt một tên lửa hành tŕnh xa trong đất liền, bằng cách dùng hỏa tiễn tiêu chuẩn SM-6 bắn từ một tàu chiến, trong một thử nghiệm hệ thống kiểm soát hỏa lực liên hợp. Hai hệ thống (máy bay E-2D và tàu chiến) này sẽ tạo thành hỏa lực liên hợp căn bản của hải quân – chống lại các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn hay máy bay, viết tắt là NIFC-CA, khi được đưa vào xử dụng năm 2015; Hải quân Mỹ đang nghiên cứu thêm để đưa các hệ thống khác vào mạng NIFC-CA trong tương lai.”

    “Người ta nghi rằng radar APY-9 c̣n có khả năng phát hiện các máy bay tàng h́nh có kích thước to như máy bay chiến đấu, mà thường được tối ưu hóa đối với các tần số cao như Ka, Ku, X, C, và một phần của các băng tần S. Radar APY-9 có khả năng phát hiện máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm như Sukhoi PAK FA của Nga và Chengdu J-20 và Shenyang J-31 của TQ.”


    “APY-9 xử dụng chức năng quét điện tử tân tiến và tính năng kỹ thuật số cao, qua không gian/thời gian để thích ứng xử lư. Theo quan niệm NIFC-CA của Hải quân, E-2D có thể hướng dẫn vũ khí của hạm đội, chẳng hạn như hỏa tiễn AIM-120 AMRAAM và SM-6, đến các mục tiêu xa hơn khả năng phát hiện từ tàu chiến.”

    Một cách đơn giản, E-2D có khả năng phát hiện tất cả các máy bay chiến đấu tân tiến nhất của Nga và Trung Quốc, kể cả máy bay tàng h́nh mà mà TQ (theo các giới chức Mỹ th́ TQ đă “ăn cắp” các kỹ thuật cuả Hoa Kỳ, nhưng cũng chỉ làm được phần “vỏ” bên ngoài mà thôi) để chế ra và vừa đem khoe như một “bước tiến nhảy vọt vĩ đại” của họ. Điều này có nghĩa máy bay “tàng h́nh” mới nhất của TQ, dưới “con mắt” của E-2D, th́ chẳng có tàng h́nh tí nào và cũng bị bắn hạ như các phi cơ khác mà thôi. E-2D c̣n có khả năng hướng dẫn các hỏa tiễn phóng từ hạm đội tiến đến những mục tiêu xa hơn khả năng kiểm soát thông thường của các dàn phóng.

    C̣n tiếp ...

  8. #3408
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CUỐN THEO MỆNH NƯỚC


    NHẬP NGŨ – 1

    Tôi nghe như tiếng của ḿnh vẫn c̣n văng vẳng đâu đây, mặc dù đă gần mười hai năm xa rời trường huấn luyện; hôm ấy, tôi đă dơng dạc ra lệnh:

    - Company… Attend… Hut! (Đại đội, hay một toán quân lớn, Chuẩn bị... Nghiêm!)
    - Right… Face! (Phải... Quay!)
    - Forward… March! (Đàng trước... Bước!)
    - Left… left… left... right, left!

    Năm mươi tư (54) khóa sinh tuyên úy răm rắp nghe theo từng tiếng lệnh và bước đi nhịp nhàng, ăn khớp. Hôm đó là ngày đến phiên tôi phải trực, bao gồm cả trách nhiệm "dẫn" các khóa sinh từ khu cư xá sinh viên sĩ quan "King’s Hall" xuống băi đậu xe, khoảng hơn cây số, để dùng xe hơi di chuyển đến trường huấn luyện tuyên úy.

    Tôi lái xe chầm chậm dọc theo lối "tiến quân" đó để hồi tưởng những kỷ niệm êm đềm của thuở “tân binh” ấy. Khi đó, tôi chỉ mới nhập ngũ được mấy tuần và đang trong khóa học để bắt đầu “làm lính.” Trường huấn luyện Tuyên Úy, thuộc Trung Tâm Giáo Dục và Huấn Luyện Hải Quân (Naval Education and Training Center, NETC) được đặt ở Newport, tiểu bang Rhodes Island. Khóa 8-89 của chúng tôi có 54 khóa sinh gồm 8 linh mục Công giáo, phần c̣n lại là các mục sư thuộc nhiều giáo hội Tin Lành khác nhau, khóa này không có tư tế Do thái (Rabbi), nhưng có hai nữ mục sư.

    Trong một vài tuần đầu, chúng tôi đă phải học những thao diễn hết sức cơ bản như bao nhiêu quân trường khác: Ăn, mặc, đi đứng, chào kính... Cái đặc biệt ở đây là các khóa sinh tuyên úy đều được mang lon sĩ quan ngay từ hôm đầu nhập ngũ, điều này cũng đúng với các bác sĩ, luật sư mới gia nhập quân đội Hoa Kỳ. Một trong những điều kiện để được thu nhận (ngoài việc phải có quốc tịch Mỹ, ít nhất phải có bằng Master, đủ sức khỏe, được phép của “bề trên” trong giáo hội) là các khóa sinh tuyên úy bắt buộc phải có tối thiểu ba năm kinh nghiệm mục vụ. Nếu đă thụ phong linh mục hay mục sư quá tám năm th́ được "đồng hóa" với cấp bậc đại úy, trẻ hơn th́ mang lon trung úy, khoảng hai năm, trước khi được thăng cấp đại úy, tôi thuộc thành phần "già" v́ khi đó tôi đă làm linh mục trên mười năm rồi.

    Trong quân đội Mỹ, muốn được lên cấp thiếu tá rất khó, phải có trên 6 năm thâm niên trong cấp đại úy mới được ra hội đồng thăng thưởng, các cấp từ thiếu tá lên trung tá và đại tá cũng phải qua những khoảng thời gian tương tự như vậy; hơn nữa, càng ở cấp cao, càng ít người được hội đồng tuyển chọn. V́ vậy, các sĩ quan trẻ, ra trường với cấp bậc thiếu úy, trung b́nh phải phục vụ 22 năm mới lên đến cấp đại tá; đó là trường hợp của những người luôn được “thuận buồm, xuôi gió” không bị hội đồng “đánh rớt” lần nào. Nếu không được tuyển chọn để thăng cấp, các sĩ quan có một cơ hội nữa vào năm sau, nhưng cũng rất khó, thường th́ họ phải về hưu… non! (54 khóa sinh tuyên úy của khóa 8-89, hơn hai mươi năm sau, chỉ có 4 người lên đến cấp đại tá. Sau này có một người được thăng lên hang Đề Đốc – một sao.)

    Trung tâm NETC có nhiều trường huấn luyện khác nhau: Trẻ nhất là trường NAPS (Naval Academy Preparatory School) gồm các học sinh vừa xong trung học, vào thụ huấn ba tháng Hè để chuẩn bị, trước khi chính thức được tuyển vào trường Vơ Bị Quốc Gia Hải Quân (Naval Academy) ở Annapolis, Maryland. Là thành phần trẻ nhất, quan chưa ra quan, lính không ra lính, biết thân biết phận của ḿnh, nên ra đường họ thường chào tất cả cho… "chắc ăn." Cả trung tâm huấn luyện ai cũng biết đám này chào "bất cứ những ǵ di động được" (any moving thing!) Trong khi những khóa sinh tuyên úy toàn là các ông các bà đang mang lon quan hai, quan ba; được chào nhưng đồng thời cũng phải chào lại họ, nhiều vị lúng túng xoè cả năm ngón tay ra chào, trông đến buồn cười.


    Trường thứ hai là OCS (Officer Candidate School) dành cho các khóa sinh đă tốt nghiệp bốn năm đại học và có bằng cử nhân, họ sẽ ra trường với cấp bậc thiếu úy. Trong thời chiến tranh Quốc-Cộng, một số sinh viên sĩ quan của Hải Quân VNCH đă được gửi sang thụ huấn ở trường này, hiện tại trường OCS đă được dời về Pensacola, Florida. Kế đến là các trường OIS (Officer Indoctrinate Schools) huấn luyện các khóa sinh đă tốt nghiệp những ngành chuyên môn như bác sĩ, luật sư, tuyên úy… họ sẽ ra trường với các cấp bậc như đă nói ở trên.

    Cao nhất ở NETC là trường Đại Học Chiến Tranh hay Học Viện Hải Quân: Naval War College (NWC), dành cho tất cả những sĩ quan tác chiến (Line) và hành chánh (Staff) đă nhập ngũ khá lâu, cấp bậc từ đại úy lên đến hàng tướng hay đề đốc. Trường này c̣n nhận thêm nhiều sĩ quan cao cấp từ những quốc gia bạn, một vài vị thuộc Hải Quân VNCH năm xưa đă theo học ở đây. Tôi là một trong hai tuyên úy (ở thời điểm tôi học xong) đă có cơ hội học và tốt nghiệp ban Chỉ Huy và Tham Mưu (Command and Staff) của Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ. Lần này, tôi trở lại trường tuyên úy để dự khóa huấn luyện "Tuyên Úy Trưởng" (Supervisory Course.)

    Xe tôi từ từ đến một ngă tư, nơi khi xưa tôi đă hô to "Guards… Post!" được chỉ định trước, hai khóa sinh chạy đến trước hàng quân, chặn xe từ tứ phía cho toán quân đi qua. Tôi rẽ vào băi đậu, nơi tôi đă ra lệnh cho toán quân dừng lại: "Company... Hold!" Rồi "Left... Face!" tôi nói mấy câu cám ơn và khen ngợi mọi người đă đi đứng nghiêm chỉnh, đồng thời chúc họ một ngày tốt đẹp. Sau đó tôi ra lệnh: “Fall out!” (tan hàng.) Một khóa sinh bước theo tôi để đi nhờ xe anh, đă nịnh: "Này, ông làm nghiêm chỉnh, đâu vào đấy quá, trước kia có đi quân đội không đó?" Tôi ỡm ờ: "Yeah!" Và thầm nghĩ: "Nhằm nḥ ǵ ba cái lẻ tẻ này, năm 1968, tớ đă từng làm lính ‘Babilac’ (lính ‘sữa’ của chương tŕnh Quân Sự Học Đường dành cho học sinh các lớp 11 - 12, và sinh viên; sau tết Mậu Thân), bắn súng Carbine M1 cả mấy… băng đạn rồi cơ mà!"

    Tôi ra khỏi xe, lững thững đi về phía có một nhà nghỉ mát ngay cạnh bờ nước trong vịnh Narragansett, tiếp tục hồi tưởng những kỷ niệm xa xưa. Dường như cả quân lực Hoa Kỳ chỉ có các tuyên úy là được kể vào ngành hoàn toàn không tác chiến (non-combatant), các bác sĩ, luật sư c̣n được giữ sung; nhưng tuyên úy th́ tuyệt đối không và được Hiến Chương Genève, về tù binh chiến tranh, xếp vào loại bốn (Category 4.) Theo lư thuyết, khi trở thành tù binh, họ sẽ được đối xử tử tế hơn; nhưng trên thực tế, nếu chẳng may lọt vào tay quân thù, các tuyên úy vẫn bị đối xử ngang hàng với bao nhiêu người khác, có khi c̣n tệ hơn v́ địch quân luôn biết tuyên úy ảnh hưởng rất mạnh trên tinh thần quân đội Mỹ.

    (C̣n nữa)

  9. #3409
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    NHẬP NGŨ - 2

    Hầu hết các khóa sinh tuyên úy đều là "tân binh" nên không có đến một cái huy chương làm cảnh, ngay cả huy chương thông dụng nhất, "bảo vệ quốc gia" (National Defense Service Medal) ban cho tất cả mọi người từ ngày đầu nhập ngũ, cũng không có, v́ lúc này "nước nhà" không ở trong thời kỳ có chiến tranh. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa các quan "mới" và quan "cũ" trong quân trường.

    Tuy nhiên, tôi để ư thấy có vài khóa sinh đang đeo các huy chương "cuống" (ribbons,) họ là những người trước đây đă từng phục vụ trong quân đội; đặc biệt, tôi thấy một linh mục khóa sinh có đến ba hàng huy chương, trong đó có cả huy chương "Ngôi Sao Đồng" (Bronze Star, tương tự như Anh Dũng Bội Tinh), và "Chiến Thương Bội Tinh" (Purple Heart.) Tôi chăm chú nhất đến chiếc huy chương có h́nh lá cờ nước Việt Nam Cộng Ḥa, màu vàng với ba sọc đỏ, mà sau này tôi mới biết đó là huy chương "Phục Vụ ở Việt Nam" (Vietnam Service Medal.) Anh ta cũng có cả huy chương "Chiến Dịch VNCH" (Republic of Vietnam Campaign Medal,) cái lạ của chiếc huy chương này là trên đó chỉ ghi lại năm khởi đầu chiến dịch, 1961, mà không có năm kết thúc! Đáng ra, sau này người ta phải ghi thêm năm kết thúc là 1973, khi Mỹ rút hết quân ra khỏi Việtnam; hay 1975, năm trận chiến kết thúc, nhưng h́nh như chẳng ai c̣n muốn nhắc lại chuyện ấy!



    Ít hôm sau, tôi đến làm quen với Thomas H., người linh mục khóa sinh có chiến thương bội tinh, và được biết anh ta đă gia nhập bộ binh, tham chiến ở Việtnam trong vùng thuộc các tỉnh Quảng: Nam-Tín-Ngăi vào cuối thập niên 60’s. Anh đă bị thương trong một trận đụng độ với Bắc quân (North Vietnamese Army, NVA; hay Cộng Sản Bắc Việt, CSBV.) Trở lại Hoa Kỳ, Thomas đă xin giải ngũ và theo học đại chủng viện, rồi thụ phong linh mục đă được hơn 9 năm.

    Cứ hai ngày một lần, các khóa sinh tuyên úy phải tập thể dục, hít đất, sit-up (nhờ người khác giữ đôi chân, khoanh tay, ngả lưng xuống rồi lại bật người lên) và chạy bộ 1.5 mile (khoảng gần 2.5 Km.) Đó là ba bộ môn mà Hải Quân Mỹ dùng để thẩm định sức khỏe của các thủy thủ; tuy nhiên, càng lớn tuổi càng được phép chạy 1.5 mile trong một khoảng thời gian lâu hơn (15 phút cho tuổi của tôi) và làm những động tác khác cũng ít hơn, trong ṿng hai phút. Các thủy thủ cũng có thể chọn thi bơi 500 mét thay v́ chạy bộ.

    Một buổi chiều, sau khi tập thể dục, tôi và vài người nữa đă nằm dài trên sân cỏ của "vũ đ́nh trường" (parade deck) nghỉ ngơi. Nh́n những cụm mây lăng đăng trôi trên nền trời Đông Bắc Mỹ (New England) trong một chiều chớm Thu, tôi thấy nhớ quê hương vô hạn. Đă hơn 14 năm (1975-89,) chưa một lần tôi được gặp lại song thân, chắc hẳn các ngài đă hao sút nhiều trong cái "trại tập trung" khổng lồ ấy! Nỗi đáng thương nhất của người dân miền Nam là họ đă phải chịu tai ách chiến tranh quá lâu, ḥa b́nh đă trở thành nỗi khao khát chung của cả dân tộc, nỗi khao khát đó ngày càng chồng chất khiến nhiều người dường như đă đi đến chỗ bất chấp! Nhưng khi ḥa b́nh trở lại rồi, trong nỗi nhục thất trận, những người đó mới nhận ra rằng c̣n một thứ khác quí hơn: TỰ DO!

    "Nếu không có tự do th́ cuộc sống không c̣n ư nghĩa nữa, nếu cuộc sống không c̣n ư nghĩa th́ sự chết chẳng có ǵ để đáng sợ hăi."Một vị Cao Ủy Tị Nạn của Liên Hiệp Quốc đă nói như vậy, khi ông giải thích cho báo chí về lư do tại sao có đến hằng triệu người dân Việt đă liều chết vượt biên t́m tự do.

    Tôi cảm thấy mang ơn các chiến sĩ VN Cộng Ḥa vô vàn, không có họ cùng các chiến sĩ Đồng Minh xả thân ǵn giữ miền Nam, th́ làm ǵ tôi có cơ hội học xong trung học, nói chi đến đại học và cao hơn? Đă có những bài báo và một vài cuốn sách viết về những giam cầm, đày ải mà hàng trăm ngàn cựu sĩ quan và viên chức của miền Nam đang phải gánh chịu trong các nhà tù được mệnh danh là trại cải tạo, những khổ ải đó đă đi quá xa sự tưởng tượng của bất cứ con người nào đang sống trong một xă hội văn minh.

    Bất chợt tôi quay qua nói với người bạn gần bên:

    - Tom! (Thomas H.)
    - Yeah, Paul? Ǵ đấy, Phaolô? (Tên Thánh của tôi)
    - Thanks! Cám ơn nhá!
    - For what? Về chuyện ǵ?
    - Serving in ‘Nam.’ Đă chiến đấu cho miền Nam Việt Nam.
    - I'm glad I did. Tôi hân hạnh đă làm chuyện đó.
    - And welcome home! Và mừng bạn đă trở lại quê hương.
    - Thank you very much, Paul. Cám ơn anh nhiều lắm, Phaolô.

    Vào một buổi tối, cách chiều hôm ấy khoảng hơn một năm, tôi đang ngồi làm việc trong văn pḥng giáo xứ, chú học tṛ gác điện thoại đă gơ cửa cho biết có người muốn gặp, tôi cho mời vào. Thoáng nh́n người khách lạ, tôi đă đoán ngay anh ta là một "drifter" (kẻ sống lang thang), nhưng dáng người này có nét ǵ đặc biệt. Anh ta ghé vào để xin ít tiền mua bữa cơm tối! Nhân cơ hội, tôi đă hỏi thêm và đươc biết anh ta là một cựu quân nhân trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ, từng chiến đấu trong tỉnh Quảng Trị, vùng địa đầu giới tuyến của miền Nam, nơi có những cái tên Việt mà anh ta phát âm rành mạch như Gio Linh, Khe Sanh, Cồn Thiên... và những tên Mỹ như Camp Caroll, Rockpile… Tôi đă không c̣n lư do ǵ để có thể nghi ngờ con người này. Anh ta kể thêm rằng đă cố gắng hết sức để "tái hội nhập" với xă hội sau khi anh về nước, nhưng không thể nào được! Những ám ảnh kinh hoàng của cuộc chiến đă làm thay đổi con người anh hoàn toàn, anh chỉ muốn ở một ḿnh, nơi yên tĩnh trong một cuộc sống bồng bềnh vô định. Nhiều đêm anh vẫn bị cơn ám ảnh hành hạ gần như muốn lên cơn điên! Điều này đă đúng với những t́m hiểu mới của khoa tâm lư học, các tâm lư gia đă gọi trường hợp của anh cũng như của bao đồng đội khác là PTSD (Post Traumatic Stress Disorder - Sự mất thăng bằng bởi dồn ép sau cơn kinh hoàng (mà ngày nay ở bên nhà người ta gọi là “hội chứng” ǵ đó.)

    Tôi đă đưa cho anh ta ít tiền và nói: "Tôi không cần biết người đời nói ǵ về anh, về cuộc sống anh đang có. Nhưng đối với tôi, anh, cũng như hàng triệu chiến binh VNCH và Đồng Minh là những anh hùng, là những người đă chiến đấu để ǵn giữ tự do cho tôi và cho đồng bào tôi, cám ơn anh và “welcome home!” Anh ta đă ôm chầm lấy tôi, dàn dụa nước mắt và nói: "Cám ơn cha, kể từ khi về nước, tôi chưa từng nghe ai nói với tôi câu ấy!"
    Thực vậy, những người chiến binh Hoa Kỳ tham chiến ở Việtnam đă không được đồng bào của họ chào đón khi trở về như những thế hệ đàn anh, sau các trận thế chiến; họ đă phải trở về trong âm thầm, trong tủi hận, nhiều người c̣n bị ngược đăi, khinh khi, cộng thêm những cơn ác mộng hằng đêm đă khiến họ trở nên như những con người lạc loài, vô dụng. Từ đó, tôi quyết tâm sẽ nói câu "Welcome Home" với tất cả các cựu chiến binh cũng như những người c̣n đang tại ngũ để mong đem lại phần nào an ủi cho họ. Đó cũng là một trong những lư do khiến tôi đă gia nhập quân đội.

    - Paul! Thomas H. gọi tôi.
    - Yeah, Tom? Tôi đáp.
    - Thanks!
    - For what?
    - Joining the U.S. Naval Chaplain Corps. (V́ anh đă gia nhập ngành Tuyên Úy Hải Quân Hoa Kỳ.)
    - I'm glad I did. Tôi đă dùng những lời của Tom để đáp lại bạn.

    (C̣n nữa)

  10. #3410
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    NHẬP NGŨ – 3

    Phải biết bơi (lội) là điều bắt buộc cho mọi người lính thủy, tội nghiệp cho những khóa sinh chưa biết bơi, bốn giờ sáng đă phải thức dậy, ra hồ tắm b́ bơm, trong khi các bạn đồng khóa c̣n đang an giấc nồng. Một trong những môn học quan trọng khác là cách chữa cho tàu khỏi ch́m (Damage Control,) chúng tôi đă phải vào một khoang tàu giả mà mọi người gọi đùa là "Buttercup," ư nói tàu thật mà như vậy th́ chỉ như ly bơ, tan chảy và ch́m sớm!

    Mọi thủy thủ đều phải biết vị trí chiến đấu của ḿnh trên tàu (battle station) người th́ lo giữ đại bác pḥng không trên cao, kẻ khác phải chăm sóc buồng máy tận đáy tàu. Tóm lại, các thủy thủ được phân tán ra khắp tàu, ai ở khoang nào th́ trách nhiệm khoang nấy, cho đến khi có lệnh chấm dứt tác chiến; hay bỏ tàu (abandon ship) trường hợp tàu sắp ch́m. Các cửa và nắp khoang phải đóng kín mít, có khi bằng máy tự động; khoang nào bị vào nước th́ tất cả mọi người trong khoang phải t́m mọi cách để ngăn nước; nếu không, tất cả sẽ chết hết mà không mong được tiếp cứu. Cuộc thao luyện đă nằm trong tinh thần đó.

    Toán của chúng tôi có 15 người, được chỉ thị dùng tất cả những vật liệu sẵn có trong khoang đễ ngăn không cho nước tràn vào từ những lỗ thủng th́nh ĺnh. Chúng tôi sẽ phải chịu ba cuộc "tấn công" mà mực nước trong khoang không được cao hơn mức ấn định, nếu không th́… Amen!


    Những tiếng động, tiếng những tia nước lớn tràn vào thật mạnh, tiếng la hét gọi nhau chữa "lụt" trong khi mực nước càng ngày càng dâng cao, khiến tôi có cảm tưởng như "tàu" sắp ch́m thật. Sau hơn 10 phút "chiến đấu," các lỗ thủng đă được gắn kín bằng giẻ rách, bằng những miếng gỗ, ván vụn v.v..., chúng tôi được tạm nghỉ, lúc này mực nước trong khoang đă lên đến đầu gối của tôi. Đợt tấn công thứ hai, gây những vết nứt khó khăn hơn, như ở trong các chỗ chật hẹp của khoang tàu, tôi t́nh nguyện lặn ḍ những vết nứt dưới mực nước rồi báo cho các bạn. Khi đợt tấn công này tạm ngưng th́ mực nước đă đến ngang lưng của tôi! Chúng tôi chỉ c̣n không đầy một "foot" (bộ, khoảng trên 3 tấc) nước nữa để "sống sót" cho đợt tấn công thứ ba.

    Lần này, phần nhiều đến phiên các ống trong khoang bị nứt, muốn chữa, chúng tôi phải dùng những miếng thiếc úp quanh các ống nước, rồi dùng đinh bù-loong và ốc vặn chặt lại để làm ngưng những tia nước. Mực nước đă lên gần đến mức sinh tử mà cả toán vẫn chưa chữa được vết nứt cuối ở một ống gần sát với trần tàu. Tia nước lớn bắn ra thật mạnh, trong khi ống nước lại nằm ở chỗ cao hơn người với, nên mọi nỗ lực úp miếng thiếc vào chỗ nứt đều thất bại, kể cả việc hai người công kênh nhau! Khóa sinh trưởng toán đă tỏ nỗi thất vọng ra mặt, tôi cảm thấy cả toán như chỉ c̣n chờ… chết; thể rồi tôi bỗng nảy ra một ư tưởng và thực hành ngay: Tôi nhờ một người bạn nâng lên để có thể bám vào ống, nhờ chân và tay đều nhỏ so với người Mỹ nên tôi có thể đưa lọt qua được khoảng cách giữa ống nước và trần tàu. Tôi bám vào ống nước bằng cả tứ chi, như con vượn đi ngược dưới một cành cây nằm ngang; sau đó tôi bảo người bạn đưa cho miếng thiếc, đặt nó trên bụng, rồi tôi trườn ngược đến chỗ bị nứt. Sức nước bung ra thật mạnh như muốn đẩy tôi rớt trở lại xuống sàn tàu; tôi đă dùng cả chân, tay, bụng và ngực, trong khi cố nín thở v́ những tia nước có thể làm sặc, để cố ép miếng thiếc vào phần ống bị nứt. Cuối cùng, miếng thiếc đă được ép sát vào ống, lúc này sức nước bung ra có phần yếu đi v́ khoảng cách giữa miếng thiếc và ống nước không c̣n nữa. Tôi dùng một tay vặn các con ốc vào những chiếc đinh lớn rồi sau đó nhờ người bạn đưa cho chiếc ḱm để siết chặt thêm. Tia nước yếu dần rồi ngưng hẳn! Cả khoang vỗ tay reo mừng v́ tàu đă không "ch́m!"

    Đại tá giám đốc và các giảng viên trường tuyên úy, qua một khung cửa kính, đă theo dơi hành động của chúng tôi từ đầu đến cuối, sau đó ông vui vẻ tuyên bố: "Hôm nay, tuyên úy Nguyễn đă cứu được chiếc tàu Buttercup!” Tôi chỉ khiêm nhường đáp: "Đó là nỗ lực của cả toán, thưa Đại Tá.”
    (C̣n tiếp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 7 users browsing this thread. (0 members and 7 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •