Page 408 of 471 FirstFirst ... 308358398404405406407408409410411412418458 ... LastLast
Results 4,071 to 4,080 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #4071
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Trong khi đó, Nam đi ṿng sang phía tôi ngồi, rồi nghiêm trang hỏi:

    - Dung, cháu cho chú biết chồng cháu có thắc mắc ǵ về cháu sang bên này không?

    - Anh ấy rất buồn v́ cuộc chia tay của ba má cháu. - Câu trả lời trật đường rầy, v́ tôi không muốn nói láo.

    - Vậy chồng cháu có hỏi cháu đă gặp những ai trong phái đoàn của Mặt trận không?

    - Anh ấy hỏi cháu có đưa ba má cháu đi ăn tiệm không? Má cháu và cháu ở đâu? Anh ấy cũng hỏi ba cháu có hỏi ǵ về cuộc sống của vợ chồng cháu không?

    - Chồng cháu nghĩ sao về cuộc giải phóng?

    - Lần trước, anh ấy nhờ cháu chuyển lời nói với ba cháu là anh ấy thành thật hy vọng dân tộc Việt Nam sớm hưởng hoà b́nh thật sự.

    - Hai vợ chồng cháu không nói ǵ về chánh trị sao? Cháu nghĩ ǵ về xă hội chủ nghĩa?

    - Tụi cháu nói nhiều đến chiến tranh và hoà b́nh ở Việt Nam. Anh ấy hiểu được những đau buồn của cháu. Anh ấy cũng biết cháu khao khát hoà b́nh cho Việt Nam lắm. Anh kính trọng ba cháu và rất quư má cháu.

    Nghe tôi nói vậy, Nam liền hỏi:

    - Cháu có nghĩ rằng chồng cháu sẵn sàng giúp các chú khi cần không?

    - Chú muốn anh ấy giúp các chú việc ǵ?
    Nam giải thích:

    - Chuyên môn của chồng cháu rất cần cho Việt Nam. Ngành hải sản cần các khoa học gia như anh ấy. Anh ấy có thể giúp chúng ta lập một đoàn nghiên cứu để khám phá những tài nguyên thiên nhiên. Anh ấy cũng có thể giúp chúng ta thiết lập một hệ thống pḥng thủ trên bờ biển để ngăn chặn kẻ thù, chống lại tầu ngầm của kẻ địch …

    Tin này rất đáng cho CIA biết. Phan Thanh Nam đang t́m cách thâu lượm tin tức cho chánh phủ Hà Nội , kể cả về tin chống tầu ngầm. Tôi nghĩ, họ trao đổi bí mật với Liên Xô. Câu chuyện của chúng tôi ngưng lại ở đó, nhưng Nam tỏ ra nôn nóng muốn tôi kiếm cách nói cho chồng tôi biết là ông “cần những tin tức mà các nhà khảo cứu mới phát minh cho các công ty Mỹ” biết cách ḍ và khai thác dầu mỏ ở bờ biển Việt Nam. Điều thứ hai ông muốn biết, là một bản đồ của Hải quân Mỹ và cơ quan hải dương học về bờ biển và tài nguyên thiên nhiên. Cuộc nghiên cứu bao gồm cả kỹ thuật đánh cá và những thói quen của bầy cá trong vùng.

    Nam huênh hoang kết luận:

    - Nếu chúng ta có tất cả những tin tức đó, là chúng ta có cả một mỏ vàng.

    Tôi tưởng vậy là hết rồi, nhưng không, ông lại nói thêm:

    - C̣n một chuyện này nữa, Mỹ Dung à. V́ chồng cháu đang ở trong vùng Washington D.C, có thể anh ấy giúp chú t́m hiểu một số tin tức. Chỉ cho cá nhân chú mà thôi, v́ từ lâu chú muốn biết, làm cách nào và thế nào Hải quân Mỹ có thể đối địch được với Hải quân Liên Xô.

    Tôi ngạc nhiên tự hỏi, không biết Nam đang nghĩ ǵ về tôi, mà dám đề nghị tôi đi ăn cắp tài liệu mật của quốc pḥng Mỹ cho ông? Có thể ông cho rằng, v́ tôi yêu thương ba tôi quá, nên tôi sẵn sàng làm bất cứ cái ǵ ông muốn; hay là trong quá khứ, ai đă gặp ông, kể cả người Mỹ phản chiến, đều sẵn sàng hăng hái làm những điều ông sai bảo. Tôi chỉ trả lời rằng, tôi sẽ nói chuyện với chồng tôi khi tôi về Mỹ.

    Sau khi trao cho tôi một bản “liệt kê công tác”, Nam tỏ vẻ muốn giữ độc quyền con cờ mới tuyển dụng này. Khi tôi cho ông biết Thái đă đưa tôi đến gặp ông chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước Huỳnh Trung Đồng, th́ ông khuyên tôi không nên giao lưu với những hội viên của hội Việt kiều yêu nước ở Paris, hay bất cứ ở đâu, để “bảo vệ ba cháu cũng như sự liên lạc giữa chú với cháu”. Ông c̣n nhấn mạnh, là tôi không giúp ích ǵ cho quê hương trong giai đoạn này nếu tôi gia nhập vào nhóm Việt kiều yêu nước, bởi v́ vai tṛ của họ sẽ thay đổi, tôi sẽ mất nhiều thời giờ quư báu để hội họp, tuyên truyền, kết nạp đoàn viên để phục vụ cho đường hướng, mà tôi sẽ bỏ phí tài nguyên tôi đang có.

    Ông kết luận:

    - Hăy dành những thời giờ đó để làm việc với chú. Cháu nhớ rằng có nhiều người Việt yêu nước ở Âu châu, ở Mỹ và nhiều nước khác nữa, không tham gia một hội đoàn nào, nhưng lại là những người đóng góp rất nhiệt t́nh. Bây giờ người ta không biết quan điểm chánh trị của cháu. Họ cũng không biết gốc gác cháu ra sao. Tốt hơn hết, bên ngoài cháu cứ để họ nghĩ cháu chống cộng, chỉ có chú và những người quan trọng trong ngành của chú biết lập trường của cháu mà thôi.

    Tôi hiểu rằng Nam và Thái khác nhau, khi muốn tôi cộng tác với họ. Thái có ư định đưa tôi vô bộ máy ngoại vận. C̣n Nam tuyển mộ tôi làm gián điệp cho Hà Nội . Một th́ muốn tôi công khai “thân Cộng”, một th́ buộc tôi làm ngược lại, phải “chống cộng”. Dĩ nhiên, trước sau tôi vẫn là tôi, người Việt quốc gia ngạo nghễ muôn đời.

    Khi báo cáo cho Rob về buổi gặp gỡ giữa tôi với Nam, tôi yêu cầu là vấn đề này chúng tôi phải ngồi xuống nói cho chồng tôi biết, v́ nó liên quan đến anh. Tất cả những hoạt động, sinh hoạt với FBI và CIA, tôi không đem về nhà nói với chồng tôi và các em tôi. Má tôi tin là tôi làm thông dịch cho cơ quan an ninh của Mỹ, vậy thôi. Hai lư do mà tôi không chia sẻ được: luật lệ của hai cơ quan này; hai là tôi cố tránh cho má biết việc làm của tôi. Dĩ nhiên, nếu má tôi biết nhiều, má sẽ ngăn cản, mà làm sao má tôi ngăn cản việc này được, th́ sẽ lo đêm lo ngày, bất cứ lúc nào tôi bước ra khỏi nhà. Cấm không được, th́ má sẽ giận rồi bỏ đi ở với một trong hai chị tôi.

    ***

    Vừa mở cửa pḥng khách sạn, tôi đứng khựng lại sững sờ v́ căn pḥng của tôi trống trơn. Tôi nh́n cái ch́a khoá, trở ra nh́n lại số pḥng, rồi bước trở vô. Đồ đạc, va-li của tôi biến mất, cái pḥng đă dọn sạch. Cầu tiêu, bồn tắm sạch sẽ, láng bóng như đang chờ khách mới.

    Tôi đi thẳng xuống gặp người làm việc tại quầy khách sạn. Ông ta làm bộ không nói được tiếng Anh để khỏi tiếp tôi dù biết những người làm trong khách sạn lớn này đều nói được tiếng Anh. Tôi hỏi ông:

    - Tôi muốn biết chuyện ǵ xảy ra trong pḥng tôi, và đồ đạc của tôi đâu mất hết rồi?

    Ông ta không nói ǵ hết, nhưng có một viên thơ kư khác từ trong chạy ra, vừa cười gượng vừa hỏi:

    - Có chuyện ǵ vậy thưa bà?

    - Tôi muốn biết các anh làm ǵ trong pḥng tôi, mà đồ đạc của tôi biến mất?

    - Thưa bà, đây có thể là một sự lầm lẫn. - Hắn đáp với vẻ mặt như tôi là người đi lộn pḥng.

    Tôi đ̣i gặp viên quản lư, nếu hắn không giúp ǵ được tôi. Nhưng hắn cho biết viên quản lư hiện không có mặt ở khách sạn, và hắn nói sẽ đi hỏi lại nhân viên.

    Tôi cho ông ta biết tôi đi cả ngày, tôi mệt, tôi cần nghỉ ngơi. Tôi vào quán café của khách sạn ngồi chờ. Lúc đó tôi quá bực ḿnh, tự hỏi không biết nên uống một ly sữa hay một ly rượu mạnh để lấy lại b́nh tĩnh. Tôi không biết đây là một sự lầm lẫn của bồi pḥng, hay là mấy thằng Tây của t́nh báo Pháp lục lạo va-li của tôi bằng cách thông đồng với nhân viên của khách sạn, khiêng va-li của tôi đi một nơi khác để lục, thay v́ lục trong pḥng của tôi, pḥng hờ tôi về pḥng th́nh ĺnh?

    Nửa giờ sau, tôi trở lại quầy. Viên thơ kư liền nói với vẻ mặt buồn bă một cách giả tạo, rằng có một người khách ở đó đă lâu mà không chịu trả tiền hay không có tiền ǵ đó, nên họ dọn đồ của người khách đó; không ngờ bồi pḥng dọn lộn pḥng của tôi.

    Tôi nghe th́ nghe, nhưng vẫn không tin lời hắn, nên nói:

    - Tôi vẫn muốn gặp ông quản lư.

    - Thưa bà, ông Charrière chiều mai mới có mặt ở đây, giờ th́ đồ đạc của bà đă được đem về cho bà. Chúng tôi thành thật xin lỗi bà về sự lầm lẫn đáng tiếc này.
    Tôi vẫn bực ḿnh nói:

    - Ngày mai, khi nào ông Charrière của ông tới, biểu ông gọi tôi ngay.

    Nói xong, tôi hấp tấp đi về pḥng. Tôi đoán, lúc đó có người đang ŕnh ngó tôi.

    Tôi khoá chặt của pḥng, c̣n chặn thêm một cái ghế cho chắc chắn. Tôi kiểm soát xem các cửa sổ đă đóng kỹ chưa, kéo màn kín mít, rồi mở va-li ra kiểm soát. Nhưng tôi ngừng lại thấy ḿnh làm chuyện vô ích. Người nào lục va-li của tôi không phải là để ăn trộm, mà là người muốn biết tôi là ai, và tôi làm ǵ ?

    Điều quan trọng là họ không thấy những bản nháp của các bản báo cáo tôi gởi cho CIA, v́ mỗi lần viết xong, tôi thưởng đốt, bỏ tro vào cầu tiêu.

    Tôi chỉ có một sơ suất nhỏ, là c̣n để trong va-li lá thơ của cha tôi, viết năm 1972 tại Milan , Ý . Đó là lá thơ mà cho đến 1974 tôi mới nhận được, và tôi c̣n ấp ủ nó cho tới giờ phút đó.

    Tối hôm đó, tôi sợ đến nỗi không dám đi tắm. Khi Rob tới, tôi cho ông biết chuyện ǵ xảy ra, mắt ông tái xanh, làm cho tôi càng lo sợ hơn. Ông hỏi tôi có muốn đổi khách sạn khác không, th́ tôi lại giấu, nói là tôi không sợ, mà cũng không muốn khách sạn khác. Tôi nghĩ ḿnh đă ở trên cái đất của thằng Tây rồi, chạy đâu cũng không khỏi.
    Hồi đó ḿnh xuống hầm núp rồi mà nó c̣n ráng bỏ bom cho chết, th́ bây giờ ngủ trên xứ của nó , nó muốn kiếm, làm sao mà trốn. Chỉ có cái khác hơn thờ́ Tây đô hộ Việt Nam: bây giờ tôi là công dân Mỹ, và ba tôi cùng mấy ông Việt Minh đă đánh bại thằng Tây rồi. Nghĩ vậy, cho qua th́ giờ cho đỡ sợ, chớ quốc tịch ǵ, công dân của nước nào, làm gián điệp trên đất của người ta cũng đều bất hợp pháp. Thằng Tây nó bắt nó nhốt, rồi Bộ ngoại giao Pháp mới làm mầu làm mè liên lạc với toà đại sứ Mỹ, hai bên trao đổi gián điệp tép riu, rồi đâu cũng vô đó. Những ít nhứt cũng ngồi tù Tây, ăn cơm tù Tây một thời gian mới được tha trở về Mỹ. Tôi rùng ḿnh khi nghĩ tới đó.

    Sau khi Rob ra về, tim tôi đập muốn văng ra khỏi lồng ngực, vừa hồi hộp, vừa giận thằng Tây. Tôi nằm nghĩ đến việc làm của ḿnh, nghĩ đến má, đến Lance và chồng tôi, mà thấy ngao ngán, cô đơn quá. Tôi trở cái gối không biết bao nhiêu lần đêm đó. Sáng ra, tôi quá mệt mỏi sau một đêm mất ngủ.

    Tôi phải ráng hết sức lấy lại b́nh tĩnh, đi ăn một bụng điểm tâm, uống một tách café cho tỉnh táo, v́ hôm đó tôi sẽ gặp kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu. Cậu Châu là con trai của ông bà ngoại Huỳnh Ngọc Nhuận, người đă cho gia đ́nh tôi tá túc, hồi ở Gia Định. Cậu Châu sang Pháp chữa bịnh ung thư do chính ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Chánh phủ Lâm thời miền Nam đích thân can thiệp, cho phép cậu xuất ngoại.
    Cuộc thăm viếng của tôi có hai mục đích: cá nhân và công tác. Tôi muốn t́m hiểu thêm về t́nh h́nh Việt Nam và những người lưu vong bên Pháp. Má tôi cũng muốn biết tin tức của bà ngoại Nhuận c̣n kẹt lại ở Việt Nam, và thăm sức khoẻ của cậu. Má tôi quư mến cậu Châu lắm, biểu tôi bận rộn cách mấy cũng ghé thăm và chăm sóc cậu Châu một hai ngày giùm má.

    Hồi xưa, cậu Châu được coi như một vị hoàng tử của gián điệp. Cậu là một kỹ sư về dầu khí, làm việc cho hăng dầu Esso. Đối với một cô bé 12 tuổi, việc cậu Châu làm ǵ ngoài đời là việc người lớn, nhưng tôi biết cậu là một người quan trọng ở Sài g̣n; cậu đi học bên Pháp. Biệt thự của cậu ở Sài g̣n nhỏ hơn biệt thự của ông bà ngoại Nhuận, nhưng tối tân, đầy đủ tiện nghi. Đó là cậu Châu mà tôi nhớ hồi tôi mười hai tuổi, cho tới lúc 29 tuổi.

    Sau khi ăn điểm tâm ở một quán ăn xinh xắn ngang cửa khách sạn, tôi mua mấy tờ tạp chí và báo hàng ngày để làm quà cậu Hai Châu, rồi đi taxi đến đường Savoie, nơi cậu đang nằm dưỡng bịnh tại nhà của nhạc phụ, ông Cao Minh Chiếm. Đường Savoie là một con đường nhỏ, nhiều chó và mèo hơn xe cộ. Nhờ sự vắng vẻ của con đường, tôi dễ dàng nhận biết tôi đang bị theo dơi. Mỗi lần tôi quẹo ở một góc đường, tôi thấy một người đàn ông theo tôi vội quẹo sang một con hẻm, rồi chỉ mấy phút lại thấy anh ta lẽo đẽo phía sau.


    Còn tiếp ...

  2. #4072
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Tôi không muốn thằng Tây biết tôi tới nhà ông Cao Minh Chiếm. Ông không phải là một ông già vợ thuần tuư như trăm ngàn ông già vợ Việt Nam khác, ông là một người thiên Cộng. Ông từng có liên lạc với Hồ Chí Minh từ khi có cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Nhưng khi đất nước chia đôi năm 1954, ông ở lại miền Nam và thành lập Phong trào nhân dân tự quyết chống lại chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Khí giới của ông là cây viết, với bút hiệu Phi Bằng.

    Hậu quả của những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” là việc đầu tháng 3 năm 1965, thủ tướng Chánh phủ Việt Nam Cộng hoà, ông Phan Huy Quát đă cách chức gần 50 công chức. Cao Minh Chiếm là một trong hơn 30 người bị bắt giam

    Thủ tướng Phan Huy Quát quyết định tống cổ ông và vài nhân vật “thờ ma Cộng sản” ra Hà Nội để làm gương cho những người “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Vài tháng sau đó, ông Cao Minh Chiếm, bác sĩ thư y Phạm Văn Huyến và ông Tôn Thất Dương Kỵ được đưa tới cầu Hiền Lương; các bà vợ của mấy ông này c̣n được chánh phủ cho bay ra để chia tay chồng, trước khi họ đi qua thế giới bên kia cầu.

    Sau đó ông Cao Minh Chiếm sang Paris. Sau khi miền Nam sụp đổ, ông rất đau ḷng v́ cách đối xử tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với dân miền Nam và vợ con ông tại Sài g̣n. Tôi không biết rơ mục đích của ông Cao Minh Chiếm sống để làm ǵ ? đời ông và đời người ? Nên tôi không nói nữa về ông, chỉ biết là ông có liên hệ mật thiết với nhóm Việt Nam thân Cộng ở Paris và ông đi lại với những người trong hai toà đại sứ của cộng sản tại Paris.
    Bây giờ, đào sâu để t́m sự thật về ông Cao Minh Chiếm là việc tôi không nên làm, bởi v́ ông đă qua đời, và biết đâu ông và ba tôi thỉnh thoảng từng ngồi với nhau mà tiếc thương đất nước , dân tộc.

    Muốn giữ an ninh cho ông, tôi không vô nhà ông ngay, mà đi qua luôn để tới một tiệm bán thức ăn ở góc đường gần đó.

    Tôi biết tôi không thể cà kê trong tiệm này lâu được, v́ thế tôi cũng vô đây để mua đồ ăn rồi đi ra ngay. Tôi giả bộ kiếm món ăn muốn mua, nhưng mắt vẫn liếc ra ngoài. Khi thấy người theo dơi đă đi qua, tôi mua vội hai hũ kem chua, rồi ra khỏi tiệm. Nh́n trước ngó sau không thấy bị theo dơi nữa, tôi an tâm gơ cửa nhà số 15.

    Một người đàn ông trạc tuổi ba tôi, đẹp trai, cao lớn, lịch sự mở của mời tôi vô. Ông vừa cười vừa nói bằng một giọng dịu dàng:

    - Cháu tới chơi, cứ coi như một cuộc viếng thăm b́nh thường. Xin đừng nói chuyện chánh trị với bác, v́ bác đă nói nhiều với người bịnh này suốt buổi sáng hôm nay rồi nhen.

    Dù ông tỏ vẻ rất thân mật, tôi vẫn nghe giọng nói của ông đầy chua chát.
    Cậu Châu nằm trên giường, trong cái pḥng nhỏ bé đó, đắp một cái mền cũ, cái mền rằn ri của quân đội Hoa Kỳ bán ở chợ Sài g̣n hồi xưa . Tôi cúi xuống, nhẹ nắm bàn tay cậu ở ngoài mền.
    Cậu giới thiệu tôi với ông Chiếm:

    - Thưa ba, đây là Mỹ Dung, con gái anh Minh.
    Ông Chiếm bỗng cười lớn một cách khác thường, rồi nói:

    - Chắc ba c̣n chút hy vọng đây. Không lẽ con gái của một ông cộng sản lại đi nói xấu cộng sản trước mặt một người bạn cũ của ba nó, đúng không ?

    Tôi bối rối, v́ không biết trước đó hai cha con của ông đă nói ǵ với nhau, và chuyện ǵ đă xảy ra?
    Tôi nghĩ ông chỉ nói chơi với con rể, nên tôi giữ im lặng. Sau cậu Châu cho biết hai cha con đă tranh luận với nhau kịch liệt về cộng sản và cuộc “Cách mạng” ở Sài g̣n. Một lát sau, ông Chiếm khoác thêm áo ấm, đội nón, và cho biết ông cần ra tiệm mua đồ, ông hỏi con rể có cần ǵ không? Cậu Châu liền đáp:

    - Nếu con cần ǵ. Mỹ Dung sẽ có thể giúp con được, thưa ba.

    Sau khi ông Chiếm ra đi, tôi khoá cửa rồi quay lại với người bịnh đang nằm trên giường. Trên đường đi tới đây, trong ḷng tôi mong cho mau tới nơi, để gặp lại người mà tôi mến phục từ lâu. Gia đ́nh cậu Châu đă giúp đỡ gia đ́nh tôi rất nhiều trong thời gian ba tôi xa nhà. Nhưng bây giờ, nh́n người bịnh nằm liệt trên giường, tôi bàng hoàng tê tái .
    Căn pḥng nhỏ xíu, ngổn ngang một vài cái nồi, một ḷ điện nhỏ để nấu nướng, một chai dầu ăn cũ, một ống đũa và một cái chảo. Ngoại trừ một bàn bếp và bốn cái ghế cùng cái giường của cậu Châu, không c̣n đồ đạc ǵ khác nữa. Vậy mà cũng chật cứng rồi. Tôi nhớ tới biệt thự rộng lớn của ba má cậu, với nhiều pḥng, mà không c̣n nghĩ được ǵ cho cuộc đổi đời này.

    Tôi quá xúc động, nhớ mới hồi nào cậu trẻ trung, đầy sức sống, vui vẻ thân thiện với má tôi. Mỗi lần cậu tới thăm ba má cậu, cậu đều ghé qua thăm hỏi má tôi. Nhưng bây giờ cậu già quá, già cả trăm tuổi, so với lần cuối cùng tôi gặp cậu. Tôi chợt nhớ lời ông ngoại Nhuận, ba của cậu, cũng bị ung thư ruột già rồi qua đời, không lâu sau khi giải phẫu. Bây giờ cậu cũng bị ung thư như ba cậu, và cũng đă được giải phẫu trước đó vài tháng. Nhưng ông c̣n sống, và tôi được thăm viếng là diễm phúc của chúng tôi rồi.

    Căn pḥng yên tĩnh, trừ tiếng nước bắt đầu sôi , tôi vừa nấu để pha trà. Tôi lên tiếng để phá tan sự im lặng:

    - Có phải bác Chiếm muốn tránh mặt cháu không cậu? Chắc cháu tới không đúng lúc?
    Cậu Châu đáp:

    - Cậu cũng vừa nghĩ tới ổng. Đúng, ông tránh mặt cháu cũng như tránh mặt tất cả những người sống sót sau giải phóng và có can đảm nói lên sự thật ở Việt Nam.
    Cậu tiếp tục:

    - Ba cháu với cháu cũng gặp khó khăn đó khi gặp nhau không? Nhắc tới ba cháu, cậu lại nhớ những ngày cậu ở bịnh viện Sài g̣n về. Cậu biết ba cháu không hợp với chế độ mới. Theo cậu, đảng cộng sản Việt Nam thay đổi quá nhiều. Bọn cộng sản Hà Nội ức hiếp dân miền Nam. Những người trong Mặt trận giải phóng miền Nam không c̣n được trọng dụng. Chúng phản bội Mặt Trận v́ chúng tuân lệnh bọn Nga.

    Nói một hơi dài, ông có vẻ mệt, nên phải lấy gối kê lên đầu và chêm gối sau lưng.

    - Ba cháu không bao giờ nói thiệt ư nghĩ của ông.
    Cậu tiếp tục:

    - Vậy mà cậu có may mắn được biết rơ ổng. Cậu đồng ư với cháu, là ba cháu sẽ giữ im lặng. Trong chế độ đó, nếu ḿnh tỏ vẻ bất măn, sẽ bị kết tội “phản bội” liền. Ba cháu sẽ không thể từ bỏ được giấc mơ đem hạnh phúc lại cho toàn dân. Ông sẽ cố gắng thực hiện điều đó cho đến ngày ông chết.

    - Cháu rất kính phục ba cháu, nhưng cháu không tin ba cháu sẽ thành công. Một đàng có can đảm giữ vững lư tưởng của ḿnh, một đàng người ta sẽ loại trừ những ai không theo đường lối của đảng và nhà nước. Ba cháu biết rất rơ, rằng chánh phủ Hà Nội sẽ lừa dối, cướp bóc và hăm hiếp dân miền Nam , sau khi họ ngưng tiếng hát ca tụng cách mạng. Bây giờ ông vẫn cố gắng tranh đấu cho nhân dân. Thiệt là cô đơn và vô ích.

    Cậu Châu vừa chỉ vô cái thân héo ṃn bịnh hoạn vừa nói:

    - Cháu nh́n cậu nè. Hoàn cảnh chánh trị của ba cháu cũng giống như bịnh ung thư thời kỳ cuối cùng của cậu. Chắc chắn cậu sẽ chết. Cậu có thể tự tử cho chết luôn đi, nhưng cậu cũng cứ sống để vui với những người thân yêu. Ngày nào cũng là ngày tốt đẹp đáng quư hết. Cậu đă tốn rất nhiều tiền cho thuốc men để vẫn được nh́n thấy vợ con, mẹ già , dù đau đớn. Đôi khi cuộc đời không c̣n ư nghĩa ǵ hết , nếu cậu không ăn được những món cậu thích, cậu không thể vô pḥng tắm một ḿnh như mọi người, kể cả những người đui , điếc. Nhưng cậu vẫn muốn sống, th́ ba cháu cũng vậy thôi .

    Nghỉ một một chút rồi cậu Châu nói tiếp:

    - C̣n đối với ba cháu, nếu ông công khai tỏ vẻ bất măn với đảng, tức là ông tự tử. Họ sẽ giam ông trong nhà thương điên, như vậy, ba cháu c̣n làm được ǵ cho những người dân mà ông tranh đấu cho họ? Bây giờ ông c̣n uy tín, vẫn có thể làm những điều tốt cho dân miền Nam. Ông có được sự b́nh thản mà hiểu rơ những nhu cầu của nhân dân Việt Nam và quyết tâm làm những điều đó. Cháu không thể đ̣i hỏi nhiều hơn ở một người đàn ông.

    Chúng tôi ngồi im lặng một lát, nhấm nháp chén trà tôi vừa pha. Rồi ông cho biết , ba tôi đă giúp ông sang Pháp để chữa bịnh, nhưng sự giúp đỡ lớn nhứt là ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Ông Thọ c̣n thúc đẩy các thủ tục tiến hành thật lẹ để vợ con của cậu Châu sớm sang Paris đoàn tụ với cậu. Cậu Châu hy vọng mẹ cậu được đi một lượt với con dâu và cháu nội. Cậu được ưu tiên đi sớm , để chữa bịnh.

    Cậu cho biết tất cả mọi người trong gia đ́nh cậu đă sống trong kinh hoàng sau chiến tranh. Khi ba cậu qua đời cách đó mấy năm, gia đ́nh cậu đă dọn về ở chung với mẹ cậu trong biệt thự của ba ở 38 đường Chi Lăng, và sống những ngày ấm cúng. Nhưng thời kỳ “trăng mật với cộng sản” chấm dứt vào mùa thu năm 1976.


    Còn tiếp ...

  3. #4073
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Một đoàn cán bộ cộng sản Bắc kỳ, tự mệnh danh là “quân giải phóng” của thành phố mới đổi tên “Hồ Chí Minh” bất ngờ đột nhập vô nhà. Tất cả mọi người trong nhà, kể cả mấy chị giúp việc, bị đưa hết vô pḥng ăn có mấy tên mang súng AK-47 canh chừng. Mấy tên cán bộ khác lục lạo khắp nhà. Khi chúng không kiếm thấy những ǵ chúng muốn, tên đứng đầu hỏi bà ngoại Nhuận giấu vàng và tiền bạc ở đâu. Khi bà cho biết không có tiền ǵ ráo, th́ chúng đẩy bà già bảy chục tuổi té khỏi ghế ngồi, rồi bắt đầu hạch hỏi vợ chồng cậu Châu.

    Cuộc xét nhà, lục lạo kéo dài tới tối mà không moi ra được cái ǵ hết, nên cả đám phát giận, quay lại nạt nộ mọi người rồi kéo bà ngoại Nhuận ra khỏi nhà dẫn đi. Những người c̣n lại bị đuổi khỏi biệt thự, dọn vô một căn nhà ngang dành cho những người giúp việc ở. Bọn cán bộ nói với cậu Châu rằng biệt thự sẽ bị niêm phong để điều tra thêm, cấm mọi người không được vô nhà, trừ các cán bộ “giải phóng”. Tới nửa đêm, đứa nhỏ nhứt của cậu Châu khóc đ̣i sữa, ông Châu năn nỉ cán bộ gác cửa cho phép vô nhà lấy sữa, bị người lính từ chối dù đứa nhỏ đói khóc v́ khát sữa.

    Suốt một tuần, cậu Châu không biết tin tức ǵ của mẹ, nên rất nóng ḷng. Trong khi đó, đồ cổ và mọi thứ khác trong biệt thự bị bọn cán bộ cộng sản khuân đi hết. Khi nhà đă trống trơn, mọi người mới được phép vô biệt thự trở lại. Nhưng chỉ mấy bữa sau “quân giải phóng” gởi cho cậu Châu một là thơ rất quan trọng “đề nghị” cậu “hiến” căn biệt thự cho chánh phủ cách mạng. Tất nhiên, ông không thể từ chối.

    Vậy mà ông cũng vẫn không biết tin tức ǵ của mẹ. Ông cầu cứu chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, từng là bạn cũ của cha ông. Chủ tịch Thọ phải cho người kiếm măi mới biết bà ngoại Nhuận bị giam ở Cần Thơ. Như vậy sau một tháng trời, ông mới được tin mẹ. Ông chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đích thân xuống Cần Thơ xin cho bà ra khỏi tù, rồi đưa bà về Sài g̣n. Khi được gặp mẹ, ông Châu mới biết “Giải phóng” đă ép bà hiến hết tài sản cho họ, gồm có ruộng đất trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhà cho mướn ở Bạc Liêu, nhà máy xay gạo ở Cần Thơ … Bây giờ tài sản của bà đă thuộc về của “nhân dân”.

    Cậu Châu nói với giọng tức giận:

    - Mất hết tài sản, cậu cũng chịu được, v́ dù sao bà ngoại cũng đă phải kư để “dâng hiến” cho Chánh phủ. Nhưng cậu không thể nào quên được sự tủi nhục khi bọn cán bộ hành hạ bà ngoại trước mặt các con của cậu. Tụi nó la ó với bà ngoại. Tụi nó vô lễ với mợ̣ Hai, không cho vô nhà lấy sữa cho đứa nhỏ. Mấy đứa con cậ̣u sẽ không bao giờ quên được h́nh ảnh đó.

    Mắt tôi cay, miệng tôi đắng, ngồi nghe cậu Châu kể lại chuyện nước nhà sau ngày cộng sản vô Nam. Tôi lau nước mắt bằng hai ḷng bàn tay, mà không dám nh́n cậu. Không hiểu tôi mắc cỡ v́ ba tôi là một trong những người cộng sản đó, hay tôi cảm thấy thấy tội lỗi v́ gia đ́nh tôi chạy thoát nạn trước gia đ́nh cậu Hai.

    Lúc đó, cậu mới thú thật với tôi về một chuyện cũ, vào tháng 4 năm 1975, khi đă sẵn sàng rời khỏi Sài g̣n, má tôi đến gặp cậu và bà ngoại để hỏi xem gia đ́nh có muốn ra đi không. Cậu nói với gia đ́nh cậu rằng:

    - Bà để cho con lấy kẻ thù, nên bây giờ phải bỏ chạy là đúng rồi, ḿnh phải ở lại với dân tộc và đất nước chớ.

    Bây giờ th́ cậu đă hiểu thể nào là “giải phóng”. Nhưng ông nói rằng việc ở lại cũng có ích, v́ các con ông sẽ không bị cộng sản lừa gạt nữa.


    Đến đây chúng tôi tạm bỏ qua những buồn phiền đau khổ của riêng ông, mà nói tới cuộc sống mới ở Việt Nam; tiền đổi không kịp trở tay; giá vàng, giá gạo, giá thịt, giá vật dụng, v.v… Tất cả mọi thứ đều tăng giá vùn vụt chỉ trong có mấy tháng trời. Tôi hỏi ông, tôi có thể ghi lại những ǵ ông vừa nói với tôi không? Ông không những không ngăn cản mà còn khuyến khích tôi nên cho Chánh phủ Mỹ hoặc báo chí rơ mọi điều.
    Đă đến lúc phải cho người Tây phương biết họ ngu ngốc và ngây thơ đến mức nào trong cuộc chiến ở Việt Nam. Henry Kissinger nên mắc cỡ v́ đă bị bọn cộng sản qua mặt và lợi dụng hội nghị đ́nh chiến ở Paris. Hà Nội đă điều khiển 85% trong thời gian hội nghị.

    Sắp đến giờ ăn trưa, tôi đề nghị tôi chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm, những cậu Châu khoát tay, vừa cười vừa nói:

    - Cậu gần chết rồi, nên cậu muốn đến một tiệm ăn ở St. Michel mà cậu vẫn thích để được ngồi cùng với người của cậu.

    Nói xong, ông ra khỏi giường, kéo tấm màn che lại để thay đồ bên trong. Tôi phải buộc dây giầy cho cậu v́ bụng cậu vừa mới rút chỉ c̣n đau, cậu không thể cúi xuống được. Tôi giúp cậu mặc cái áo choàng ngoài khá nặng. Sau đó, chúng tôi đi bộ tới một tiệm ăn nhỏ ấm cúng. Cậu phải vịn chặt cánh tay tôi để đi cho vững.

    Cậu Châu kêu một chai Côte du Rhône. Chúng tôi nhâm nhi ly rượu mà không muốn thời gian đi qua. Tiệm ăn này ở gần khu Sorbonne, khiến cậu nhớ lại quá khứ. Cậu cho biết, nơi đây ngày xưa cậu bắt đầu làm quen với chủ nghĩa cộng sản, mà ba má cậu cũng đă là cảm t́nh viên rồi. Sau đó cậu Châu cưới một người vợ cũng có cùng một chí hướng với cậu. Mợ Châu cũng đă bị công an thời ông Thiệu bắt bỏ tù, v́ bà ủng hộ Mặt trận giải phóng miền Nam

    Với một tâm hồn đau khổ trong một thể xác bịnh hoạn. Cậu Châu lết gót bên cạnh tôi đi trở về đường Savoie , về lại căn pḥng ẩm nhỏ cậu đang tá túc. Trên đường , chúng tôi ghé qua một tiệm sách, một tiệm bán đĩa hát và một tiệm bán tranh vẽ. Trời âm u nhiều mây ảm đạm, khiến tôi nghĩ đến nỗi đau khổ mà đồng bào tôi đang chịu đựng trong nước. Tôi muốn về khách sạn, đóng kín cửa để cách biệt với thế giới bên ngoài , quên đi nỗi buồn xót xa trong ḷng.

    Với sự giúp đỡ tận tình của ông Nguyễn Hữu Thọ, mẹ và vợ con cậu Châu được phép rời khỏi nước sang đoàn tụ với cậu. Gần một năm sau, cậu Châu từ trần.

    ***

    Tôi mở tung cửa pḥng khách sạn, làm nó đập vô tường, dội trở ra, gây nên một tiếng động lớn. Tôi làm như vậy với mục đích doạ kẻ nào đang ở trong pḥng tôi. Nhưng mọi sự đều b́nh thường, va-li của tôi vẫn ở vị thế khi tôi ra đi. Tuy vậy, tôi vẫn cẩn thận bước vô pḥng.

    Một b́nh bông thật lớn, thật đẹp để trên bàn nước ở pḥng khách. Ủa! Hôm nay đâu có phải là sinh nhứt tôi! Sinh nhựt Hồ Chí Minh c̣n những ba tháng nữa mà. Bên cạnh b́nh bông bằng pha lê, có một tấm thiệp của ông quản lư khách sạn Andre Francois Charriére, viết cho tôi bằng chữ Pháp như sau: “Avec compliments, nous souhaitons de continuer tres agreablement wire séjour au Paris Hilton”.

    Đó không phải là cử chỉ xin lỗi chân thành. Hay ông quản lư đă cộng tác với kẻ lục xét đồ đạc của tôi? Tôi không biết nó là cái ǵ?

    Trong khi tôi đang suy nghĩ vẩn vơ, th́ Rob bỗng ghé qua. Sau khi tôi chỉ cho Rob b́nh bông, anh ra dấu cho tôi giữ im lặng,. Rồi anh xem xét kỹ các bông hoa, từ cánh xuống cành. Khi xem hết hoa, ông đổ nước trong b́nh vô bồn rửa tay để coi b́nh. Lúc đầu tôi nín thở, chờ xem ông kiếm thấy vật ǵ trong b́nh bông. Nhưng đến bông thứ tư th́ tôi cười ḅ ra, v́ tôi thấy hài hước quá. Nếu thằng Tây nó có muốn gài máy nghe, th́ trong pḥng này có cả ngàn chỗ cho nó gài, chớ làm ǵ mà phải tặng hoa mới có phương tiện gài máy nghe lén? Khi ông đă xem xét xong xuôi, tôi hỏi:

    - Anh kiếm cái ǵ vậy?
    Ông đáp nhỏ:

    - Tôi nghĩ có thể người ta gài máy nghe lén.

    Tôi lắc đầu mà cười ông trùm CIA. Tôi đổ nước vô b́nh ,cắm bông trở lại. Tôi hy vọng không có ǵ thay đổi, để người ŕnh rập không biết. Vừa lúc đó, lại có tiếng gơ cửa. Th́ ra ông Rob v́ mải kiếm máy nghe lén nên không cho tôi biết ông xếp của ông ở Paris muốn gặp tôi. Mấy tháng nay ở toà đại sứ Mỹ, trong một góc pḥng của CIA, người ta hay nhắc tới “ngôi sao” của gián điệp, nên hôm nay ông xếp của ông tới gặp “ngôi sao”.

    Cuộc gặp gỡ của chúng tôi ngắn ngủi, ông Andrew muốn biết thêm về Phan Thanh Nam. Mấy ngày trước, Rob đem cho tôi một bản liệt kê nhiều câu hỏi về Phan Thanh Nam, gồm những đặc điểm về thể chất, cá tánh, thói quen, những hoạt động, sinh hoạt hàng ngày. Cái ǵ có thể làm ông ta sa ngă. Cái ǵ làm cho ông phản đảng.


    Còn tiếp ...

  4. #4074
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Tôi suy nghĩ nhiều đến câu nhắn nhủ của đại sứ Đinh Bá Thi đến Trương Đ́nh Hùng: gởi “những thứ đồ” lên New York. Đến lúc này th́ chúng tôi biết, Trương Đ́nh Hùng chuyển tài liệu của Mỹ cho cộng sản Hà Nội bằng hai con đường ngoại giao. Một là qua tay của Phan Thanh Nam ở Paris; bây giờ qua tay phái đoàn Việt Nam ở Liên hợp quốc.

    Tôi phải biết rơ Trương Đ́nh Hùng hơn, mới dám khẳng định anh ta là gián điệp. V́ vậy, tôi phải tích cực hơn, khi anh cần đến tôi trong công tác của anh. Tôi cũng nhớ lại lời đề nghị của Huỳnh Trung Đồng ở Paris. Anh khuyên tôi nên thành lập Chị hội Washington, D.C, của Hội Việt kiều yêu nước ở Mỹ. Muốn lập, tôi cần t́m hiểu cơ cấu và nội quy của Hội Việt kiều yêu nước đang hoạt động ở Mỹ, mà chủ tịch toàn quốc là Nguyễn Văn Luỹ. Như vậy, tôi phải gia nhập Chi Hội Việt kiều yêu nước Washington. D.C; sau đó Huỳnh Trung Đồng sẽ cử tôi làm chủ tịch Chi hội. Dĩ nhiên đó là chuyện hoang đường. Làm ǵ mà tôi có đủ kiên nhẫn lập hội. Cũng không có cái mặt nạ nào mà tôi mang được, để đứng ra đóng vai ḿnh là “Việt kiều yêu nước".

    Khi tôi cho Hùng biết ư kiến của Huỳnh Trung Đồng để ḍ phản ứng của anh, th́ anh không đồng ư ngay. Với tư cách của một cán bộ có nhiều kinh nghiệm, Hùng nói:

    - Nếu chị muốn tiến thân trên con đường này, chị đừng dính líu với những hội viên của Hội Việt kiều yêu nước. Họ chỉ là những người cơ hội chủ nghĩa và gây rối thôi.

    Hùng không hoạt động với hội. Anh c̣n cho biết anh bất hoà với ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ, nhưng anh không quan tâm chuyện “nhỏ nhặt” này, v́ anh giao thiệp thẳng những người cấp trên. Tuy nhiên, anh vẫn giữ một số bạn là hội viên, những người này sẽ cho anh biết chuyện bên trong của hội. Nhiều lần Hùng khuyên tôi không nên dính líu với hội, chỉ nên làm những việc mà Nam giao phó. Tôi nghĩ, Hùng tưởng tôi là mật vụ của Nam đang ḍ xét và kiểm soát những hoạt động của anh ta.

    Tôi cứ trà trộn với các hội viên của chi hội trong vùng Washington. Tôi gặp họ trong những ngày cuối tuần và cả những buổi hội họp ngày thường của họ nữa. Ông chủ tịch Nguyễn Văn Luỹ bên San Francisco lại bắt đầu tỏ vẻ bực ḿnh, v́ ông không kiểm soát được tôi. Nhiều lần ông Nguyễn Văn Luỹ gởi cho tôi đơn gia nhập hội, nhưng lần nào tôi cũng từ chối. Tôi viết thơ nói rơ tôi ủng hộ ông, và sẽ tham dự buổi họp của ông khi nào thuận tiện. Như vậy sẽ an toàn cho hội cũng như cho tôi, hơn là tôi trở thành một hội viên chánh thức, v́ tôi tiếp xúc thẳng với những nhân vật của Chánh phủ Hà Nội và những cán bộ ngoại vận.

    Huỳnh Trung Đồng khéo léo khuyên ông Luỹ không nên thắc mắc nhiều về tính cách độc lập của tôi. Sau đó ông Luỹ mới tha cho tôi , bây giờ ông đă hiểu địa vị của tôi với “đất nước”. Không những thế, ông c̣n viết thêm: “Sự liên lạc của chị với chúng tôi rất quan trọng. Xin cứ tiếp tục liên lạc với chúng tôi và chúng tôi hy vọng được gặp chị ở bờ biển phía Tây.

    Ông Luỹ tưởng rằng nhiệm vụ của tôi là báo cáo cho chủ tịch Huỳnh Trung Đồng biết mọi hoạt động của Việt kiều yên nước ở Mỹ, nên được ông đón tiếp gần như một thượng khách khi tôi bay qua San Francisco gặp ông. Ngay cả khi tham dự buổi họp của địa phương, tôi cũng được mọi người trọng vọng và các hội viên đều nghĩ rằng tôi là người được Paris cử tới thanh tra và ḍ xét hội đoàn.

    Mùa thu năm 1976, tôi tới San Francisco, ông Luỹ mời tôi dự buổi họp tại nhà ông với Ban chấp hành của Hội Việt kiều yêu nước. Họ cố gắng kéo tôi vô cuộc tranh chấp giữa họ với chi hội vùng Washington. Tôi phải nói mấy lời nhận xét vô thưởng vô phạt chẳng hạn như:

    - Họ đang chờ đợi sự chỉ dẫn của quư vị. Lính tráng cần cấp chỉ huy.

    Hội Việt kiều yêu nước tại Mỹ là cây cầu cho hội viên gia nhập các hội ái hữu của Mỹ. Họ là những cán bộ yểm trợ cho ban ngoại vận của chính quyền Hà Nội. Lúc đó họ đă bắt đầu tuyển mộ các khoa học gia Mỹ và những chuyên viên khác rất có ích cho nền kỹ thuật tồi tệ của Việt Nam, cùng một số lợi ích khác nữa. Ông Luỹ tin rằng tôi nhận chỉ thị của đại sứ Vơ Văn Sung và chủ tịch Huỳnh Trung Đồng ở Paris, nên ông cố gắng tŕnh bày và báo cáo mọi chuyện mỗi khi gặp tôi, hay nói chuyện trên điện thoại với tôi. Ông cho tôi biết tên của những người tham gia tổ chức chống chiến tranh trước đó, và hiện tại họ liên hệ với nhiều chương tŕnh khác nhau, có sự yểm trợ của một số kỹ sư Mỹ, nhằm ăn cắp kỹ thuật của Mỹ cho Việt Nam.

    Trong một chuyến đi San Francisco, có Bill Fleshman của FBI và Rob Hall của CIA cũng đi, tôi có dịp được thấy một kết quả của hội Việt kiều yêu nước này. Ông Luỹ tổ chức một buổi họp tại gia để chào mừng Tiến sĩ Edward Cooperman, một nhà vật lư học ở đại học Fullerton, tiểu bang California. Ông cùng Việt kiều yêu nước đứng ra tổ chức một “Uỷ ban khoa học kỹ thuật Việt-Mỹ” gồm bảy mươi người, nhằm bảo trợ những ai muốn đi Việt Nam làm việc trong ngành nghiên cứu y khoa và các cơ quan giáo dục.

    Cooperman vừa đi Việt Nam về. Trong buổi họp, ông loan báo sẽ mời mọi người xem h́nh ảnh cuộc viễn du ấy tại một địa điểm không được tiết lộ. Tôi muốn báo cho ông Bill Fleshman, nhân viên FBI, biết ngay cuộc họp bí mật này. Tôi đang nghĩ cách để có thể tiếp xúc với ông ta , th́ từ trong nhà, một thanh niên người Việt Nam đi ra. Anh ta loay hoay mở cửa một chiếc xe classic, mui trần, mầu đỏ, hiệu Thunderbird. Tôi trầm trồ khen chiếc xe của anh ta đẹp, tỏ ư muốn lên xe đi một ṿng. Chuyện thấy người ta có chiếc xe đẹp, xin đi một ṿng, là chuyện trẻ con.

    H́nh như đứa bé nghịch ngợm có trong tôi không chịu rời tôi dù lúc đó tôi đă ba mươi tuổi rồi. Anh ta vui vẻ nhận lời ngay. Khi anh lái xe dọc theo bờ biển, tôi nhờ anh ghé vô một nhà thuốc tây để mua kem đánh răng. V́ xe mui trần, chỗ lạ̣ , nên tôi biết thể nào anh ta cũng muốn ngồi chờ tôi để giữ chiếc xe quư. Đúng như vậy. Tôi vô tiệm một ḿnh, mua cây kem đánh răng, trả thêm một đồng cho người bán hàng để được xài điện thoại của tiệm. Tôi cho Bill biết chuyện đang xảy ra, nhưng chưa biết địa điểm chiếu film ở đâu. Tôi đề nghị FBI nên theo dơi bằng trực thăng. Bill trả lời gọn khô:

    - Đừng lo !

    Anh cho biết hiện đă có người đang theo dơi buổi họp. Họ ngồi trong một xe “van” đậu bên kia đường nhà ông Luỹ. Do đó, họ cũng có thể biết mọi người đi đâu.

    Tôi trở ra với cây kem đánh răng, rồi chúng tôi chạy trở lại nhà của ông Luỹ.

    Chín giờ rưỡi, ông Luỹ bảo mọi người lên mấy chiếc xe “van” và xe hơi được chỉ định để đến địa điểm xem h́nh chiếu về Việt Nam. Không ai được đi xe riêng. Tôi leo lên phía trước xe “van”, thấy tiến sĩ Cooperman đă ngồi sẵn ở đó với người Việt Nam trẻ, có lẽ là đồng chí, v́ hai người nói chuyện có vẻ vô cùng thân mật. Tôi liếc thấy xe “van” của FBI chạy theo, nhưng một lát sau , tôi không thấy xe đó đâu nữa. Rồi tôi thấy trên trời một trực thăng bay theo đoàn xe của chúng tôi. Đoàn xe tới một trường học. Chúng tôi vô pḥng hội lớn của trường để xem phim.

    Từ hồi sớm tới buổi chiếu film, những sinh hoạt có vẻ hứng thú cho điệp viên, nhưng buổi tối bắt đầu chán ngắt. Tối hôm đó tôi phải ngồi “chịu trận” cố gắng coi cho hết những h́nh ảnh Cooperman chụp ở Việt Nam. Tôi đoán, ông chỉ được phép đến những nơi nào có lợi cho giải phóng mà thôi. Tôi được xem nước Việt Nam toàn một mầu xanh mướt với những nụ cười của mọi người được “giải phóng”. Cờ đỏ đầy đường, h́nh ảnh Hồ Chí Minh chen chúc trong thành phố, cổng làng, trong nhà người dân. Có một em sinh viên trong nhóm, chắc là cảm t́nh viên của Việt kiều yêu nước, khều người bạn trai, nói nhỏ:

    - Có h́nh bác Hồ trong nhà vào thời điểm này như có bùa hộ mạng hả anh?

    Tôi thầm nghĩ, con bé nhỏ mà khôn ghê.

    Tiến sĩ Cooperman nói sơ qua về các buổi họp với các khoa học gia ở Hà Nội, và hứa sẽ cố gắng giúp đỡ Việt Nam bằng sự yểm trợ của những thân hữu quen biết .

    Khi mọi người ra khỏi pḥng hội, tôi ngạc nhiên thấy sáu “đồng chí” người Ba Tư đứng gác ở bên ngoài cửa. Ông Luỹ giải thích rằng, nếu không có người canh cửa, buổi họp thường bị “bọn phản động” phá rối, có khi gây ẩu đả. Bọn phản động là các sinh viên miền Nam Việt Nam và những người tỵ nạn.


    Còn tiếp ...

  5. #4075
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Về chuyện ẩu đả này, tôi đã chứng kiến một lần. Hôm đó chúng tôi ở pḥng hội của một trường đại học ở San Jose xem phim tuyên truyền của cộng sản Hà Nội. Đó là phim “Đại thắng mùa Xuân” do chính tôi đem từ Paris về, theo đề nghị của chủ tịch Huỳnh Trung Đồng. Một người tỵ nạn cộng sản Việt Nam ném một trái lựu đạn khói vô pḥng họp. Khi mọi người hốt hoảng bỏ chạy, một người Ba Tư cao lớn được ông Luỹ chỉ định hộ vệ tôi đă nắm lấy tôi đưa tôi chạy ra phía sau trường. Nơi đây, tôi trông thấy cả một nhóm người Ba Tư. Sau đó, tôi được biết sự kết hợp chặt chẽ giữa những người Việt thân Cộng với người Ba Tư ở Mỹ. Người hộ vệ tôi hôm đó nói với tôi:

    - Các bạn giúp chúng tôi về vấn đề di trú, th́ chúng tôi bảo vệ các bạn khỏi bị bọn vô lại tấn công.

    Nói chung. Luỹ thù ghét “đế quốc Mỹ”, không ưa người Mỹ, dấn thân và hy sinh cuộc đời, phục vụ cộng sản. Tôi nghĩ hồi c̣n nhỏ ông cũng đă được cha mẹ yêu thương. T́nh yêu đó vẫn nằm trong một góc của trái tim ông. Để tưởng nhớ người mẹ đă già mà ông tin vẫn c̣n sống ở Hà Nội, ông mở nhà dưỡng lăo ở Montana, California. Ông chăm sóc cho các ông bà già như họ là cha mẹ ruột của ông. Các bữa ăn đều được ông nghiên cứu và nấu nướng cẩn thận cho hợp với người già. Ông c̣n quan tâm đến cả những khó khăn , để t́m mọi cách cố gắng giải quyết giùm họ.

    Ông Luỹ rất ghét và không tin Trương Đ́nh Hùng, đến cái độ ông chụp mũ Trương Đ́nh Hùng đang hoạt động t́nh báo cho Mỹ; nên ông phải đề pḥng để khỏi bị lôi thôi v́ Hùng. Tôi cười thầm:

    - Đúng là Hùng đang hoạt động t́nh báo, nhưng cho Chánh phủ cộng sản ở Hà Nội, chớ đâu phải bên kia. Tôi mới là người hoạt động cho “bên kia”, ông ơi !

    Sau khi bị loại ra khỏi cấp chỉ huy mới của phe Giải phóng, Nguyễn Thị Ngọc Thoa dọn về Santa Monica ở với chồng. Trương Đ́nh Hùng và tôi bắt đầu gặp nhau thường xuyên. Anh ṭ ṃ về việc xuất nhập cảng của tôi, một việc làm để che giấu hoạt động t́nh báo. Rồi có một lần Hùng đ̣i tôi phải cho hắn biết tôi buôn bán ǵ, và lấy vốn ở đâu? Tôi cho anh ta biết việc mua bán của tôi cần rất nhiều vốn, v́ đồ sứ và pha lê rất mắc tiền. Bà nội của chồng tôi đă để lại cho đứa cháu duy nhứt rất nhiều tiền khi bà mất. Nhờ vậy, chúng tôi có đủ khả năng tài chánh để buôn bán.

    Sau khi nói cho Hùng biết như vậy, tôi cười thầm và ước ǵ bà nội chồng của tôi giầu thiệt ! Không biết Hùng có nghi ngờ ǵ tôi, hay đó chỉ là tánh ṭ ṃ của anh ta, nhưng Hùng hay hỏi đời tư và những hoạt động của tôi. Đó cũng là một điểm lợi cho tôi, v́ tôi có thể hỏi ngược lại Hùng những điều như anh muốn biết về tôi. Một hôm, tôi thử ḍ anh để biết anh muốn ǵ trong tương lai. Nếu hai chánh phủ Hà Nội và Mỹ thiết lập bang giao, anh có muốn trở thành trưởng ban t́nh báo của toà đại sứ không? Tôi biết, anh đang cố gắng t́m một địa vị quan trọng trong chính quyền mới.
    Hùng sốt sắng trả lời:

    - Về hoạt động t́nh báo ở nước này, tôi là người xứng đáng nhất.

    Hùng c̣n tử tế nhắc nhở tôi:

    - Đó là lư do mà chị và tôi không nên dính líu với Việt kiều yêu nước nữa.

    Vào mùa Xuân năm 1976, tôi giữ liên lạc chặt chẽ với Trương Đ́nh Hùng hơn. Anh c̣n có cái tên là David Trường. Năm ngoái, sau khi chuyển một số sách lớn và tài liệu của Hùng cho Huỳnh Trung Đồng, rồi lại chuyển thơ của Đồng cho Hùng, tôi thành một cán bộ giao liên tin cẩn của cả hai người.

    Vào giữa tháng Ba năm 1976, Huỳnh Trung Đồng viết cho tôi một lá thơ với nhiều tin vui. Anh vừa mới từ “thành phố Hồ Chí Minh” trở lại Paris. Anh có đến thăm ba tôi. Anh cho biết anh được thẻ đảng viên của đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thơ, tôi nghe được niềm vui, sự phấn khỏi và hănh diện của ông chủ tịch .

    “Trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay, tôi là cán bộ đầu tiên và duy nhất đang lănh đạo hội Ái hữu người Việt ở hải ngoại được cái vinh hạnh này."

    Tin Đồng trở thành một đảng viên cộng sản Việt Nam sẽ khiến các nhân viên CIA ở Paris và các chuyên viên phân tích ở Langley quan tâm đặc biệt. Nó không phải là một sự kiện đơn giản , chỉ có ư nghĩa tầm thường , Huỳnh Trung Đồng đă được mang thẻ đảng viên. Mà địa vị và nhiệm vụ của anh phải quan trọng đến thế nào đối với nhà nước Việt Nam trước và sau năm 1975.

    Cũng trong thơ này, Đồng yêu cầu tôi ráng hết sức bay qua Paris vào tháng Năm để gặp đại biểu của các tổ chức Việt kiều hải ngoại khắp nơi, gồm có: London, Rome, West Germany và Mỹ. C̣n một điều hấp dẫn nữa, theo ông, th́ thủ tướng Phạm Văn Đồng có thể sẽ nói chuyện với các đại biểu trong hội nghị này. Lạ̣ một điểm, là anh biểu tôi cho Trương Đ́nh Hùng biết, nếu tôi có thể đi được.

    Tôi không phải nói tới lần thứ hai, cả Rob lần Bill đều nghĩ rằng tôi nên đi Paris, v́ có lợi cho cả CIA và FBI. Thế là tôi phải sửa soạn đi Paris ngày 22 tháng Tư.

    Cũng ngày hôm đó, tôi cho hai ông biết tôi đă gặp David Trường để báo cho hắn biết tin tức qua lá thơ của Đồng. Tôi chăm chú nh́n Hùng để ḍ xét phản ứng của anh ta, những dường như Hùng đă biết tin đó trước tôi rồi. Anh cũng biết cả tin thủ tướng Phạm Văn Đồng sẽ sang Paris. Nhưng điều quan trọng hơn hết, là Hùng cho tôi biết sắp có buổi họp giữa một phái đoàn ngoại giao Hoa Kỳ với một nhóm từ Hà Nội qua. Tôi không tỏ vẻ tự nhiên, nhưng sự thật tôi chưa biết tin này; mà tôi chưa biết th́ CIA cũng chưa biết.

    Trong bữa ăn trưa hôm đó. Hùng nói với tôi, anh sẽ nhờ tôi mang một số tài liệu sang Pháp. Kỳ này anh nhắc đi nhắc lại cẩn thận dặn tôi là trao tài liệu cho Huỳnh Trung Đồng, đừng trao cho Phan Thanh Nam. Hùng còn khoe với tôi là ở Washington, gián điệp , t́nh báo rất dễ dàng, nếu ḿnh biết tiếp xúc đúng người. Hùng có biết một người Mỹ “có thể lên lầu bảy của Bộ ngoại giao và muốn lấy ǵ cũng được”.

    Đây là cái tin có thể làm cho ông Giám đốc FBI Clarence Kelley và ông thứ trưởng ngoại giao Warren Christopher chạy vắt gị lên cổ trong những tháng sắp tới. Cái tin này cũng đưa nghề phản gián của tôi đi qua một khúc quanh thật chông gai.

    Hai ngày trước khi tôi bay qua Paris, tôi lái chiếc Bronco ra ngoài Washington để lấy “đồ” mà Hùng nhờ tôi đem qua Paris. Tôi ghé ngay trước cửa sổ của anh ở đường K; ba chiếc xe chạy sau tôi là xe của FBI theo dơi. Hùng đưa cho tôi một bao thơ lớn mầu vàng, thật nặng; bao thơ này Hùng dặn đưa cho Huỳnh Trung Đồng; và một bao thơ nhỏ dài, đưa cho Phan Thanh Nam. Bữa sau, Hùng lại gọi tôi, muốn tôi trở ra gặp anh “cùng chỗ, cùng giờ” để lấy thêm một món nữa. Hùng nói lư do làm tôi đi lại nhiều lần, v́ anh thận trọng, không muốn tôi giữ trong xe nhiều tài liệu trong một chuyến; trong bao thơ kỳ này, Hùng không muốn tôi giữ quá lâu trước ngày tôi lên đường .

    Th́ thôi. 12 giờ 15 ngày 21 tháng 4 tôi trở lại đường K, kỳ này tôi đi bằng chiếc xe khác. Tới phiên tôi cẩn thận, v́ tôi nghe có lần Hùng nói, anh có gặp một thằng Liên Xô trên bậc thang đi lên quốc hội, và “mấy thằng Liên Xô đ̣i hỏi quá nhiều”. Tôi nghĩ, trong kiếp làm gián điệp Hùng có đổi chác với một thằng gián điệp Liên Xô: c̣n trong những bao thơ Hùng trao cho tôi những tài liệu mật của an ninh quốc gia Hoa Kỳ.

    Tôi vừa đưa cho Bill Fleshman những bao thơ của Hùng, nói:

    - Anh đừng hỏi tại sao tôi biết nó là tài liệu mật; giác quan thứ sáu của tôi hay lắm.

    Bill bắt đầu xúc tiến mọi thủ tục để xin Bộ tư pháp cho FBI mở thơ của Trương Đ́nh Hùng chuyển cho cộng sản ở Paris. Sáng 22 tháng 4, tôi thất vọng vô cùng khi Bill Flesh đem tất cả bao thơ trả lại cho tôi, vẫn c̣n dán kỹ như hồi Hùng đưa cho tôi. Anh cho biết bánh xe hành chánh chạy chậm , không kịp trước khi tôi lên đường đi Paris.

    - Th́ tôi hồi chuyến đi này. Có ai nói tôi phải đi tối nay đâu?

    Không biết FBI nghĩ sao, mà Bill khuyên tôi nên đi theo lộ tŕnh. Hai giờ chiều đó, tôi có mặt tại phi trường Dulles, trong khi ngồi chờ máy bay, tôi nghe máy phóng thanh kêu tôi, yêu cầu tôi đến quầy bàn giấy của Pan Am. Tôi đi lại th́ thấy Rob đứng sắp hàng, tay không có xách va-li nhưng cầm tờ báo. Tôi bước vô đứng xếp hàng sau lưng anh. Anh đưa xem đồng hồ và lẩm nhẩm nói: “Bỏ chuyến bay này. Đi về nhà nhanh lên!”

    Về tới nhà, th́ mấy phút sau Rob và Bill ghé qua, lấy cả ba bao thơ, rồi dặn tôi ở nhà chờ lịnh . 4 giờ 45, Rob cho biết anh và Bill sẽ đem “đồ” trả lại cho tôi. Anh kêu tôi gọi về máy bay Pan Am để đi TWA vào 6 giờ 20 tối đó.

    Sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi học được nhiều bài học của má tôi và của người tỵ nạn. Một trong những bài học quư giá đó, là học được tánh thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Tôi trả lời Rob “Đi th́ đi”, trong khi Rob xin lỗi luôn miệng, v́ suốt ngày đó họ đă quay tôi như cái chong chóng.

    Tôi đến Paris, trời sáng c̣n lạnh thấu xương. Đây là lần thứ hai trong đời, tôi có mặc cảm như người phạm pháp, khi đứng chờ hải quan xét va-li. Lần thứ nhứt, là từ Sài g̣n về Mỹ năm 1974, tôi lén đem qua Mỹ cây Lá Cẩm; kỳ đó qua lọt, nhờ vậy mà sau này nhiều người Việt Nam ở Hawaii trồng Lá Cẩm, xôi Cẩm bắt đầu xuất hiện trong bếp của những chị bạn khéo tay tôi ở Hawaii.
    Hôm đó tại phi trường Orly, hầu như tất cả mọi người, trừ mấy ông bà già, đều phải mở hành lư cho nhân viên quan thuế kiểm soát. Trong khi loay hoay mở cái va-li lớn và nặng trĩu trước mặt nhân viên quan thuế, tôi suy nghĩ lung tung , kiếm một lư do giải thích về hai bao thơ đầy những bí mật quốc gia. Tôi sẽ khai, tôi là sinh viên về khoa học chánh trị, nghiên cứu về nhân chủng học và Việt Nam là môn chánh của tôi. Nếu không tin, họ có thể làm khó dễ tôi. Lúc đó, tôi phải kêu điện thoại khẩn cấp cho CIA; chúng tôi chưa bao giờ đề cập tới chuyện khẩn cấp này.

    Bao nhiêu lo lắng từ năy giờ uổng sức, v́ nhân viên hải quan chỉ hỏi biên lai của cây thuốc lá Black Russian tôi mua cho đại sứ Vơ Văn Sung; tôi nghe anh Thái nói ông thích thuốc lá hiệu đặc biệt này.


    Còn tiếp ...

  6. #4076
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Một tiếng đồng hồ sau, taxi đậu ngay trước cửa khách sạn Intercontinental. Người gác cửa mau mắn mở cửa taxi cho tôi , rồi ra sau lấy va-li của tôi từ tay người tài xế. Tôi mệt lả người, nhưng phải ghé qua quầy để ghi tên, lấy pḥng. Mùi thơm từ pḥng ăn bay ra làm tôi đói bụng. Ăn th́ tôi chờ được, nhưng bây giờ tôi cần đi ngủ, v́ suốt 24 tiếng đồng hồ tôi làm việc không ngừng.

    Gián điệp cần ngủ kỹ mới tỉnh táo để chuẩn bị tinh thần. Trước mặt những cán bộ cộng sản, tôi là “phe ta” của họ, tôi phải suy nghĩ như họ để nói bằng ngôn ngữ của họ. Như con cắc ké, tôi chuyển từ một người con gái Việt Nam da vàng ngạo nghễ , qua một người đầy tớ của đảng và nhà nước.
    Một giờ trưa, Rob gọi điện thoại. Anh hỏi:

    - Tôi có đánh thức bà không vậy?

    - Có chớ sao không!

    Tôi trả lời quạu đeo. Hồi con ở nhà, má và chị em, ai cũng biết cái tánh xấu của tôi, nên một lần tôi nhờ bất cứ ai trong nhà đánh thức giùm, không ai thèm nhận việc đó. Má tôi hay nói “đứa nào dại lắm mới đánh thức cọp”.

    Nhưng rồi tôi thức dậy, sửa soạn để bắt đầu công tác. Theo quy tắc, Rob luôn luôn gặp tôi xem có ǵ thay đổi bất thường trong chương tŕnh của tôi không. Hai mươi phút sau , tôi gặp anh độ chừng ba phút , rồi tôi bắt đầu chuyến đi Paris bằng bữa ăn trưa trong một quán café xinh xắn ở Rue de Rivoli; sau đó taxi đưa thẳng tới gặp Phan Thanh Nam.

    Trước khi ra khỏi pḥng, tôi đă t́m nơi an toàn để giấu ba cái bao thơ. Cái duyên, là nhờ khách sạn đang sửa chữa, nơi máng quần áo có một lỗ trống nhỏ , đủ để người thợ điện ḅ vào mở miếng ván tạm đậy lỗ trống trong bức tường, th́ phía trong tối như đêm, dây điện chẳng chịt. Tôi nghĩ, hôm nay là ngày Chúa Nhựt không có thợ̣ nào làm việc. Tôi để ba cái bao thư trong đó, đậy lỗ trống lại, rồi đem quần áo trong va-li máng đầy lên.

    Tôi cố ư chớ không phải vô t́nh mà không báo cho Phan Thanh Nam biết giờ nào tôi đến gặp ông. Ông chỉ được báo khoảng thời gian từ 20 tới 25 tháng Tư tôi sẽ tới Paris. Tôi muốn Nam làm ǵ trong một buổi chiều Chúa Nhựt. Nếu ông vẫn ở nhà, th́ tôi có thể gặp bất cứ ai trong cơ quan đó. Bây giờ, ai sống trong cơ quan này cũng đă biết tôi rồi; may ra ghé vô đó để nghe chuyện thâm cung bí sử trong lúc đợi ông về. Nhưng cái duyên chưa tới, nên tôi chỉ làm Nam giựt ḿnh khi tôi nhấn chuông, ông ra mở cửa khi thấy tôi. Trên tay ông c̣n quyển “Cộng sản học”.

    Chắc ông cũng như tôi, bỏ qua những lịch sự trong cách giao thiệp hàng ngày: tôi không gọi ông trước khi tôi tới, th́ ông cũng không hỏi qua loa về sức khoẻ gia đ́nh tôi, mà ông rối rít hỏi tôi có làm những công tác ông giao phó không?

    Tối hôm đó, tôi gọi Huỳnh Trung Đồng, cho anh biết tôi đă tới Paris. Không như Phan Thanh Nam, Huỳnh Trung Đồng luôn luôn lịch sự, hoà nhă. Anh hỏi thăm sức khoẻ má tôi, gia đ́nh tôi. Anh hỏi tôi đi đường xa có mệt lắm không. Sau đó anh mới hỏi chừng nào tôi đến gặp anh. Tôi cho biết, sáng hôm sau tôi sẽ ghé qua hội quán gặp anh. Anh ngập ngừng hỏi tôi:

    - Cô tới sớm. V́ … v́ chúng tôi cần tài liệu đó lắm.

    Tôi hẹn gặp anh 10 giờ sáng.
    Sáng hôm sau tôi sửa soạn xong, chui vô cái cửa sau lưng tủ áo, lấy gói tài liệu bỏ vô bóp có máy ghi âm.

    Nhiều lần vợ chồng tôi đi săn, anh John dậy tôi bí quyết săn nai. Trước hết là phải ăn điểm tâm, phải kiên nhẫn, chú ư tới những thói quen của bầy nai như: nó ra ăn giờ nào, uống nước chỗ nào. Phải ngồi trên cây chờ đợi có khi cả năm, sáu tiếng đồng hồ mà không được nhúc nhích. Hôm nay, tôi không có săn nai, mà săn cán bộ Cộng sản, xem “chúng tôi” của Huỳnh Trung Đồng là những ai.
    Tôi chờ họ ngồi đâu vào đó, rung đùi chờ tôi, chừng đó tôi mới thấy được hết mặt mấy ông quan cách mạng. V́ thế, tôi chần chờ một lát, ghé qua mua tờ báo, t́m một tiệm cafe, ăn điểm tâm, chuẩn bị tinh thần.

    Tôi tự dặn ḿnh , tôi đang làm một công tác cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, một việc làm nguy hiểm, chứ không phải tôi là du khách ghé qua Paris để tận hưởng mùa Xuân Paris. Việt Cộng, KGB, phản gián Tây có thể theo dơi tôi từng giờ từng phút. Họ có thể chụp h́nh, họ có thể giả dạng ăn cắp, ăn mày, mà giựt bóp tôi. Dù vậy, tôi luôn luôn đi đứng tự nhiên, không để bị chú ư. Uống cafe xong, tôi thong thả gọi taxi tới hội quán của hội Việt kiều yêu nước.

    Sáng nay, trước cửa trụ sở hội Việt kiều yêu nước vắng hơn mọi khi; không có sinh viên và mấy ông bà già Việt kiều yêu nước, dù trong trụ sở có nhiều người hơn mọi lần . Con chó vàng thường nằm ngủ trước cửa hội quán, hôm nay có vẻ ngồi đứng không yên. Nó đứng chặn cửa nên tôi không dám bước vào, người quản gia phải đá bên hông nó, nó mới tránh đường cho tôi vô.

    Huỳnh Trung Đồng dẫn tôi vô pḥng học tập, có ba người đàn ông trạc 40, 50 và một người đàn bà cũng trạc tuổi đó. Tất cả mặc đồng phục mầu xám xẫm , nh́n vào là biết mầu xă hội chủ nghĩa Hà Nội liền. Tất cả đều đeo h́nh Hồ Chí Minh trên người. Anh Đồng giới thiệu mọi người, cuối cùng là “chị Vân”. Được biết trước kia chị là phụ tá của bà Nguyễn Thị B́nh trong thời gian hội đàm Paris. Th́ ra, chị này đă phục vụ bà B́nh, đă làm việc và sống trong cái villa mà ba má tôi đă đến đó ở một lần. Chị đón bắt tay tôi, và nói:

    - Tôi kính trọng bác Năm, ba cô lắm. Bác dậy tôi rất nhiều.

    Trên vẻ mặt hân hoan của mọi người, tôi biết tất cả đang chờ một điều ǵ, một cái ǵ, mà bây giờ nó đă đến. Tôi nghĩ họ chờ tôi; đúng hơn, họ chờ tài liệu của Trương Đ́nh Hùng do tôi mang tới. Tôi trao cho anh Đồng bao plastic đựng ba cái thơ.

    - Em có đem quà cho anh đây!

    Vừa nói tôi vừa bấm cái nút “ghi” của máy ghi âm trong bóp của tôi. Anh Đồng nhanh nhẹn nhận lấy bọc plastic. Anh nói: “Cô đến thật đúng lúc”. Anh liền đưa một trong những cán bộ cái bao thơ dầy nhứt. Ông ta như một đứa trẻ mở quà Giáng Sinh, trong khi ba người kia hăm hở chờ . Anh Đồng dẫn tôi qua pḥng khác để họ làm việc. Tôi thấy chị Vân trợn mắt rồi kêu lên:

    - Trời ơi, chắc chúng ta phải mất ít nhứt năm tiếng đồng hồ để chuyển ngữ đống tài liệu này!
    Tôi vừa nh́n anh Đồng vừa nghĩ thầm:

    - Chị có muốn lần sau thông dịch viên của FBI dịch cho chị trước khi tôi đem qua không?

    Anh Đồng không ngớt cảm ơn tôi. Anh c̣n cho biết là anh sẽ báo cáo với “những người có trách nhiệm bên nhà” về những đóng góp “to lớn” của tôi.

    - Chừng nào phái đoàn ḿnh gặp phái đoàn của Mỹ? - Tôi hỏi.

    - Sắp sửa. Khi nào thuận lợi cho bên ta thôi. Chúng ta sẽ được báo trước. Cô tới quá kịp thời, đúng lúc .
    Vừa nói anh vừa quay lưng lại chỉ vào bốn người cán bộ đang chia nhau tài liệu của Trương Đ́nh Hùng gởi qua cho họ. Tôi chưa bao giờ thấy anh Đồng cười; vậy mà hôm nay anh vui ra mặt.

    - Vậy th́ bên ḿnh sẽ nói cái ǵ với họ hả anh Đồng?. - Tôi ngây thơ hỏi anh.

    - Chung quanh vấn đề Mỹ phải giữ lời hứa của tổng thống Nixon. - Huỳnh Trung Đồng nhắc lại việc bồi thường chiến tranh ba tỷ rưỡi dollars sau khi chiến tranh chấm dứt, anh tiếp tục - để hàn gắn vết thương của chiến tranh gây nên !

    Tôi nhủ thầm: Vết thương chiến tranh trên xứ ḿnh gẩy tổn thất gấp trăm ngàn lần ba tỷ rưỡi dollars mà cộng sản gây ra, chớ Nixon nào gây ra mà đi đ̣i tiền Mỹ?

    Mỗi lần Cộng sản và những người phản chiến nhắc đến những đổ vỡ, những thiệt hại do chiến tranh gây nên, họ đều có lập luận giống nhau. Tất cả đều đổ lỗi cho “đế quốc Mỹ”. Đă một lần tôi nói với ba tôi, là suốt thời gian chiến tranh, miền Nam ở trong thế thủ để bảo vệ mảnh đất tự do, trong khi Hà Nội ở thế tấn công. Liên Xô và Trung Cộng viện trợ, giúp cho Hà Nội nhuộm đỏ miền Nam. Vậy th́ ai là người gây thiệt hại trong cuộc chiến này? Ba tôi chỉ nói:

    - Con không hiểu.
    Tôi trả lời ba tôi:

    - Con là con nhà họ Đặng, nhưng được họ Trần nuôi dậy, chớ đâu phải cháu ngoan của bác Hồ, nên con hiểu nhiều lắm, ba à !

    Tôi biết ba tôi thương tôi lắm, và tôi là người làm rắc rối cho ông hơn cả “đế quốc Mỹ”.

    Phan Thanh Nam muốn xài tôi như người ta xài trái chanh, trong khi Huỳnh Trung Đồng th́ cư xử với tôi như người ta vun vén cây chanh. Ở anh Đồng, cái thiệ̣n nó có trong tâm anh, những cái lễ nó ở trong hành động của anh. Mà tôi biết, sau khi trở về Việt Nam nhận thẻ đảng viên của đảng Cộng sản, anh trở lại Paris hai vai mang nặng nợ nước , nhiều hơn thời kỳ “chống Mỹ cứu nước“. Huỳnh Trung Đồng chưa sống dưới chế độ Cộng sản một ngày giờ nào trước 75. Suốt thời gian chiến tranh, anh phục vụ Mặt trận giải phóng tại Paris; về Việt Nam một tháng, khi trở qua Paris, anh như người bị mất hồn.


    Còn tiếp ...

  7. #4077
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Anh kể cho tôi nghe, anh xuất thân từ một gia đ́nh khá giả miền Nam, nên anh được du học. Chị của anh là một quả phụ, tháng 4-1975, chị phải “dâng hiến” tài sản cho nhà nước, không c̣n nơi nương tựa, nên dọn về ở với ba của chị. Cũng là dịp ông đau nặng không c̣n tiền, không đủ “tiêu chuẩn” đi nằm nhà thương. Khi về nhà, thấy t́nh cảnh gia đ́nh thê thảm quá, anh tới gặp ba tôi, nhờ ông giới thiệu với chính quyền thành phố, nâng cao tiêu chuẩn của ba anh lên bậc “có công với cách mạng” (có công v́ ông là ba của Huỳnh Trung Đồng) . Ngay sau đó, ba của anh Đồng được đưa vào nhà thương chữa trị. Anh không ngớt nhắc đến sự giúp đỡ của ba tôi.

    Trong khi tôi chỉ trích nhà nước, anh Đồng khéo léo: “Rồi đâu sẽ vào đó!”.

    Hôm đó, anh Đồng cho tôi cái giấy mời để được đi xe cùng với Việt kiều ra phi trường đón thủ tướng Phạm Văn Đồng. Chuyến công du này, trước tiên là thiết lập t́nh hữu nghị với nước Pháp. Ông cũng sẽ gặp các đại biểu của tất cả hội Việt kiều yêu nước mọi nơi, để mở đầu cho chiến dịch ngoại vận. Những hội viên, những đại biểu nào mà trước đó không được về Việt Nam một lượt với Huỳnh Trung Đồng, v́ lư do chưa có đủ giấy tờ để du lịch - trường hợp những người tỵ nạn mới, chưa có thẻ xanh, trong đó có những sinh viên du học, được gặp thủ tướng trong chuyến công du này.

    Tôi nhận cái giấy của anh Đồng, nhưng tôi không có leo lên xe bus ra phi trường phất cờ đỏ sao vàng đón ông, mà tôi cần thấy sắc thái của ông thủ tướng già để báo cáo với CIA thôi.
    Có giấy mời đó, tôi được đi vào toà đại sứ để dự buổi tiếp tân, nhưng tôi lại đứng sắp hàng với mấy trăm người trước toà đại sứ. Ông Phạm Văn Đồng ra trước cửa nói mấy câu chào mừng Việt kiều, hai tay nắm vào nhau đưa lên , mặt không thần sắc , nặng như ch́, không nhếch mép cười với những tiếng vỗ tay của đám người sắp hàng hơn một tiếng đồng hồ, trong đó có tôi, có Việt kiều đă sinh sống trên đất Pháp suốt đời, có lính Lê dương, có mấy người Corsican với mấy bà vợ Việt Nam...

    Phạm Văn Đồng nói t́nh bạn giữa hai quốc gia rất quan trọng cho hai dân tộc Việt-Pháp, v́ vậy chuyện cũ bỏ qua, lỗi lầm tha thứ hết. Tôi thầm trong bụng “Tây nó bắn, nó giết, nó đâm nó dầm dân tộc Việt Nam, nó không hề hấn ǵ, ông bớt bỏ lịch sử đó để đi ăn mày , chớ Việt Minh của tôi không tha thứ, cũng không quên tội lỗi của thực dân này đâu!”. Phạm Văn Đồng xuất hiện có mấy phút rồi trở vào trong toà đại sứ.

    Chuyến công tác này, tôi ở Paris 18 ngày. Mười tám ngày Xuân đẹp hơn trong những tác phẩm đă ca ngợi mùa xuân ở Paris, nhưng tôi chỉ được hưởng khi tôi biết cách làm cho ngày dài hơn 24 tiếng đồng hồ, v́ tôi làm việc từ 10 giờ sáng tới 12 giờ khuya. Tôi t́m gặp người tỵ nạn, tâm t́nh với người Sài g̣n vừa chạy qua Paris. Tôi gặp Cộng sản Hà Nội, tôi thăm ḍ t́nh ư người của Mặt trận giải phóng miền Nam. Tôi được tới nhà những người Việt Nam đă sinh sống ở Paris, đă nhiệt t́nh ủng hộ Mặt trận giải phóng qua nhiều giai đoạn, nhưng sau 1975 họ mới thấy rơ bộ mặt thật của cộng sản Hà Nội. Những anh chị em này lập thành một nhóm để cùng nhau tẩy chay chế độ mới. Trong khi đó, hàng ngày tôi phải liên lạc, báo cáo với CIA. Nhưng không v́ vậy mà Paris không có mùa xuân.

    ***

    Trong thời gian tôi công tác ở Paris, ở nhà, FBI điều tra rối rít để t́m ra danh tánh người bạn Mỹ của Trương Đ́nh Hùng, người mà anh đă một lần khoe với tôi là ông ấy có thể lên lầu 7 Bộ ngoại giao lấy tài liệu mật cho anh ta.

    Thời điểm đó Bộ tư pháp không được phép mở thơ, không được nghe lén, không được đặt máy ghi âm người bị điều tra, nếu người đó là công dân Mỹ hay thường trú nhân. Chỉ khi nào cơ quan điều tra có đủ bằng cớ, th́ cuộc điều tra mới được tiến hành đến giai đoạn này.

    Trường hợp của Trương Đ́nh Hùng, FBI và Bộ tư pháp đă ra toà xin phép điều tra anh bằng cách nghe lén điện thoại của anh, những toà không cho. Sau đó, ông bộ trưởng Bộ tư pháp là ông Griffin Bell tŕnh lên tổng thống Jimmy Carter. Hai ông cùng là người xuất thân từ tiểu bang Georgia. Ông Griffin Bell lớn tuổi hơn tổng thống Carter, là một vị luật sư nổi tiếng thế giới, giầu kinh nghiệm.
    Ông từng phục vụ nhiều tổng thống nước Mỹ trong thời gian ông Carter c̣n là sĩ quan hải quân. Tổng thống Carter đă mời ông Griffin Bell giữ chức bộ trưởng Bộ tư pháp khi ông đắc cử tổng thống. Ông Griffin Bell đích thân đến Toà Bạch ốc gặp tổng thống Carter để tŕnh bày một vấn đề có liên quan đến an ninh quốc gia. Tổng thống Carter lắng nghe và cho phép Bộ tư pháp mở cuộc điều tra Trương Đ́nh Hùng với những kỹ thuật của ngành phản gián. Đây là lần đầu tiên Toà Bạch ốc cho phép ban phản gián dùng máy móc và nhân lực để điều tra thường trú nhân và người có quốc tịch Mỹ.

    Bill Fleshman cho biết Trương Đ́nh Hùng xài điện thoại liên miên, cho nên người thông dịch viên của FBI phải làm việc ngày đêm. Chỉ có mấy ngày nghe điện thoại của Trương Đ́nh Hùng, FBI lấy được tên của người bạn Mỹ của Hùng. Ông ta tên là Ron. Một hôm, Hùng biểu Ron tới gặp anh ở chung cư anh đang ở. Tên Mỹ là tên Ron cũng như người Việt Nam tên Hồng, tên Hùng, tên Dũng … Bây giờ FBI phải biết Ron họ ǵ mới tiếp tục điều tra xem người bạn của Hùng là ai?

    Tối 13 tháng Năm, nhân viên FBI ngồi trong xe “van” ngang cửa chung cư Hùng ở, thấy có một người Mỹ đi vô. Một lát sau ông đi ra và đi bộ. Những chiếc xe của FBI bổ xua ra một cách kín đáo, bám gót ... ông ta đi thẳng vô Bộ ngoại giao. Nhân viên ra vào Bộ ngoại giao phải kư tên vào sổ ngoài cổng chỗ lính gác. Khi ông Mỹ kư tên vào, th́ một chiếc xe khác trờ tới, cũng đưa thẻ, cũng kư tên vào sổ, nhưng thẻ đó là thẻ của nhân viên FBI. Người này yêu cầu người gác cho xem tên của người vừa kư vô cửa. Đó là Ronald Louis Humphrey, nhân viên của U.S. Information Agency, ghi là ông lên văn pḥng trên lầu 7. Bingo!

    Sau đó, Bộ tư pháp cho phép ban phản gián của FBI gắn máy chụp h́nh trong văn pḥng làm việc của ông. Gắn máy ghi âm luôn trong apartment của Trương Đ́nh Hùng.

    Cuộc điều tra bắt đầu diễn ra trong khi tôi vắng mặt. Tôi chỉ biết được sau ngày tôi trở về Mỹ. Họ c̣n cho tôi biết người bạn của Trương Đ́nh Hùng là một nhân viên cao cấp Bộ ngoại giao, cấp bực GS-14, ông có “top secret clerance”.

    Trước khi tôi rời Paris, Phan Thanh Nam đưa cho tôi một b́ thơ dán kín. Ông bộ trưởng Bộ tư pháp được tổng thống Carter cho phép mở thơ đó. Phan Thanh Nam viết: “Tôi hoan nghinh cách anh sắp đặt công việc làm ăn … Đôi khi chúng ta cũng phải dùng tới sự lừa đảo và dối trá nhau”. Chúng tôi không hiểu Nam khuyến khích Hùng lừa đảo ai, dối trá với ai, nhưng khi Hùng mở thư, anh vừa đọc vừa mỉm cười.

    Hùng cười tươi hơn, khi tôi cho anh biết là sự đóng góp của anh tối quan trọng; anh đưa tài liệu cho tôi đem qua Paris, vừa kịp thời, vừa giúp ích cho cuộc hội nghị giữa Mỹ và Hà Nội. Tôi nói lại cho anh biết, anh Huỳnh Trung Đồng nhắn với anh, là anh nên tiếp tục công tác hăng say. Anh Đồng cũng dặn anh “phải giữ sức khoẻ”.

    Khi tôi nhắc đến “giữ ǵn sức khoẻ”. Hùng liền hỏi tôi có luật sư không? Khi tôi trả lời là không, th́ anh khuyên tôi nên có sẵn một luật sư giỏi. Anh c̣n nói là trong “nghề nghiệp” của tôi và anh, nên có một luật sư pḥng khi hữu sự.

    Một hôm, anh mời tôi đến nhà anh vào ngày Chúa Nhựt uống trà. Chúa nhựt đó là Father's Day, John dẫn Lance đi câu cá, nên rỗi rảnh. Nhà của Hùng ở đường F ngoại ô Washington, D.C, pḥng anh ở sạch sẽ, yên tĩnh. Trong pḥng không có cây, không có h́nh, không bông hoa, mà chỉ có sách và báo chí. Thế giới của anh ở không có mầu, không có sự sống, không có tiếng động, chỉ trừ một lát sau ... tiếng nước sôi trên cái ấm nước anh nấu để pha trà là tiếng kêu quen thuộc.

    Tôi nh́n quanh căn pḥng của một người sống đời trong bóng tối, chờ đợi sống hào quang, đời sống của một điệp viên cộng sản.
    Tôi nghĩ đến Hải Vân em tôi, và cuộc sống đầy ư nghĩa của em trước khi em tử nạn. Trong giây phút đó, cái thiện của con người tôi muốn bước ra nắm tay Hùng, biểu anh hăy bỏ tất cả. Hăy rước ba má của anh ra khỏi Việt Nam. Tôi muốn nói, anh nên ra khỏi cái thư pḥng, đi t́m việc làm xứng hơn với học vấn của anh. Cha mẹ anh đă nuôi anh khôn lớn, cho anh du học, tổn hao biết bao nhiêu tiền, nuôi biết bao là hy vọng. Tỉnh dậy đi Hùng, không thôi anh sẽ thức với cơn ác mộng!

    Chúng tôi ngồi uống trà. Tôi cố không khơi chuyện về việc làm của anh, bởi v́ tôi biết pḥng anh đang ở bây giờ đă có gắn máy ghi âm. Nhiều đêm tôi nằm nghĩ, làm gián điệp không phải là nghề của tôi, mà là cái nghiệp, bởi v́ tôi cứ bị cái thiện và cái ác vật lộn với nhau hoài, làm cho tôi mất trí quá.

    Tôi báo cho Hùng biết là chồng tôi vừa được sự vụ lịnh đi qua London. Tôi không đọc được ư nghĩ trên mặt Hùng về việc tôi sẽ rời Washington, mà anh lại dặn tôi trước khi rời Washington, anh nhờ tôi lấy thêm tài liệu đem qua Paris giùm anh.

    Hùng gặp tôi vào buổi tối sau giờ làm việc để đưa cho tôi tài liệu. Ban đêm một ḿnh ra Washington rất nguy hiểm, nên anh vô Virginia gặp tôi. Chúng tôi gặp nhau tại băi đậu xe trước cửa The Hetch Cơmpany trong Landmark Shopping Center. Hùng bưng ra một bọc loại bọc giấy ở chợ, đầy giấy tờ trong đó.

    Sau khi nhận gói hồ sơ rồi, tôi định chia tay Hùng, th́ anh đề nghị ghé vô một quán nước uống café trước khi chia tay. Khi chia tay, Hùng bắt tay tôi và chúc tôi b́nh an. Gịng máu Con Rồng Cháu Tiên trong cơ thể làm cho tôi trắc ẩn trong ḷng. Hùng là người Việt Nam dù anh làm gián điệp cho cộng sản, anh cũng mang giống máu da vàng. Tôi thương hại Trương Đ́nh Hùng vô cùng, vội choàng tay lên với Hùng, rồi nghẹn ngào:

    - Hùng giữ ǵn sức khoẻ nhen. Hết giặc rồi, hứa với tôi là Hùng nghỉ ngơi. Lên Boston thăm anh Ngô Vĩnh Long như Hùng mơ ước hoài mà chưa đi được đó.

    Tôi chạy ra xe của tôi trong khi Hùng đứng nh́n theo.

    Tôi cảm thấy tội lỗi với một người vừa chia tay tôi, người đứng nh́n cho tôi lên xe an toàn, rồi anh mới lên xe anh. Trong khi đó, tôi liếc thấy có vài ba chiếc xe của toán FBI gần đó. Tôi cố t́nh chạy hết tốc độ để không phải suy nghĩ hoàn cảnh éo le, để lương tâm không cắn rứt, để ... thương hại Hùng.

    Như đă hẹn trước với FBI, tôi chạy về Springfield, Virginia, đậu sau lưng khách sạn Holiday Inn. Bill Fleshman và toán nhân viên FBI mở cửa bốn chiếc xe, đi đến gặp tôi. Tôi đưa gói đồ cho Bill rồi nói:

    - Mấy anh làm ǵ th́ làm với mấy hồ sơ này! Tôi không muốn thấy mặt nó nữa.

    Lái xe về nhà. Trời không mưa, nhưng mắt tôi ướt.


    Còn tiếp ...

  8. #4078
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Hải quân và CIA đă hợp tác với nhau, với sự đồng ư của chồng tôi, đổi anh qua Luân Đôn làm việc, v́ những hoạt động giữa tôi và CIA tại nước Mỹ trái nguyên tắc. Trong thời gian qua, cứ ba tháng CIA phải xin gia hạn với Bộ tư pháp, cho phép CIA và tôi hoạt động trong nước Mỹ. Gửi tôi ra nước ngoài để hoạt động là thượng sách.

    Tháng 7 năm 1977, má tôi và Minh Tâm về Atlanta, Georgia với chị tôi. Xe tải tới dọn nhà, đóng thùng bàn ghế, 90% đồ trong nhà đem gởi trong kho; khi nào chúng tôi đổi về Mỹ sẽ lấy ra. Khi qua Luân Đôn, Hải quân sẽ cho chúng tôi mướn bàn ghế xài trong thời gian ở đó. Con chó Moon Joe của Lance tạm thời gởi cho vợ chồng của một người bạn nuôi giùm trong thời gian chúng tôi đi vắng. Tội nghiệp con tôi, khóc một trận lúc chia tay con chó. Nhưng rồi Lance cũng tạm quên con chó, khi nó biết ở Luân Đôn có tiệm bán đồ chơi Hamleys lớn nhứt thế giới; vậy là từ ngày đó , Lance cứ theo hỏi “chừng nào ḿnh đi Luân Đôn?”.

    Hải quân đă đưa chúng tôi đi nhiều nơi, sống nhiều chỗ, nơi nào cũng là nhà, nơi nào cũng sống gần gũi với những gia đ́nh hải quân những người đặt tổ quốc trên hết, sống với nhau trong tinh thần phục vụ và bảo vệ đất nước. Nhưng chuyến công du ở Luân Đôn lần này để lại nhiều kỷ niệm cho gia đ́nh tôi, mà tới chết cũng không quên được. Đây cũng là nơi một lần nữa thử thách ḷng yêu nước, yêu tự do và chung thuỷ của gia đ́nh tôi. Nơi đây, tôi đă trưởng thành qua những chông gai, thử thách, ngoài sức tưởng tượng của một người con gái lớn lên trong vùng giải phóng.

    Một tuần sau khi chúng tôi dọn vào căn nhà xinh đẹp ở số 8 Regal Lane vùng Regent Park, nhà của một sĩ quan không quân người Anh đang làm việc tại toà đại sứ Anh ở Washington, chồng tôi dẫn Lance ghi tên học lớp ba ở American School of London. Một đêm, tôi chiêm bao thấy Rob và Bill tới nhà hỏi tôi có chịu ra toà làm chứng khi Bộ tư pháp truy tố Trương Đ́nh Hùng không? Sáng thức dậy, tôi kể cho John nghe; anh cười tôi, v́ tôi làm gián điệp từ ban ngày cho đến giấc ngủ.

    Đúng tuần sau. Bill Fleshman và Rob Hall đến gơ cửa nhà . Vừa thấy Bill, tôi nói:

    - Anh đừng có nói với tôi là người ta muốn bắt David Trường” (tên Mỹ của Trương Đ́nh Hùng).

    Tôi mở cửa, không chào hai người. Cả hai cùng sửng sốt.

    - Trời ơi, tôi thức hết nửa đêm để lựa lời tới đây nói chuyện với bà. Bà làm cho công việc của tôi dễ dàng quá! Tôi tới đây chính là với sứ mạng đó.

    Chúng tôi mời Rob và Bill vào nhà. Tôi chưa muốn nghe hung tin này, nên chần chờ làm cafe. Khi mọi người ai nấy đă có ly café của ḿnh rồi, th́ Bill tằng hắng, cho biết là Bộ tư pháp gởi hai anh cùng hai luật sư của CIA và Bộ tư pháp tới gặp tôi, nói rơ cho biết họ cần tôi hợp tác trong việc truy tố Trương Đ́nh Hùng và Ronald Louis Humphrey, nhân viên cơ quan USIA.

    Cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài không hơn 20 phút. Rob và Bill hẹn sẽ gặp lại chiều hôm đó ở nhà bí mật của CIA; khi đó tôi sẽ gặp hai người luật sư của CIA và FBI. Tôi muốn có th́ giờ để suy nghĩ và chuẩn bị tinh thần, nên tôi dời lại đến sáng hôm sau. Bill đồng ư.

    Đêm đó tôi thao thức đến 2 giờ sáng. Sự lựa chọn khó khăn hơn tôi tưởng. Nó không giản dị như đứng giữa thiện và ác, giữa tự do và cộng sản, hay giữa thuỷ chung và phản bội. Tôi biết, nếu tôi hợp tác với Bộ tư pháp th́ từ đây bí mật về tôi sẽ bật mí.
    Nhưng điều tôi lo nhứt, là an ninh của bà con ruột thịt của tôi ở bên nhà. Ba tôi và anh Khôi ở trong tay của Cộng sản. Rồi chuyện ǵ sẽ xảy ra cho họ? Trằn trọc hoài cái gối nóng hổi, tôi trở nó không biết bao nhiêu lần nhưng không ngủ được. Sợ ngày mai không đủ sức đi họp, tôi uống thuốc , nằm chờ giấc ngủ, mà cũng không biết nên làm cái ǵ đây.

    Sáng hôm sau, chúng tôi tới căn nhà bí mật của CIA có tên là Reeve House, như những villa xinh xắn có tên. Chúng tôi được giới thiệu với luật sư Tony Lapham, cố vấn luật pháp cho CIA, ông John Martin, luật sư của Bộ tư pháp. Tới giờ này tôi mới biết giới luật sư thường hay nhiều lời. Hai ông nói ṿng vo, chung quy cho tôi biết là Bộ tư pháp cần sự hợp tác của tôi. Ông Tony Lapham nói câu tḥng để tôi hiểu ư của CIA, là mọi quốc gia ở trong tay tôi; họ không bắt buộc tôi. Nhưng ông John Martin của Bộ tư pháp lại cho tôi biết rằng, không có tôi làm chứng th́ họ không thể đưa hai tên phạm tội này ra toà được.

    Làm sao mà tôi quyết định tại chỗ được dù tôi biết bốn người này nóng ḷng chờ tôi quyết định. Hai người luật sư cho biết, họ chỉ ở Luân Đôn hai ngày nữa thôi. Tôi nghĩ đây là mánh lới của hai người, muốn dồn tôi vào ngơ bí, để vội trả lời mà không kịp suy nghĩ. Họ nóng như lửa, nhưng tôi nguội như tro tàn. Chuyện họ công tác ở Luân Đôn hai ngày nữa hay một tháng nữa, không phải là vấn đề của tôi. Tôi cáo từ và hẹn hôm sau gặp lại.

    Hồi nhỏ, mỗi lần gặp khó khăn, tôi thường hỏi ư kiến của ông ngoại. Ông tôi hay trả lời:

    - Làm sao mà lương tâm cho phép th́ làm.

    Sau khi rời Reeve House. John đưa tôi đi ăn trưa trong toà đại sứ Mỹ. Đó cũng là nơi anh làm việc. Tôi hỏi John tôi nên làm ǵ, nên hay không nên ra toà làm chứng cho Bộ tư pháp. John cố làm cho tôi vui với giọng nói nửa đùa nửa nghiêm nghị:

    - Cô ơi, cô phải sống với sự quyết định của cô cho tới già. V́ vậy, nếu để anh quyết định giùm th́ không công bằng. Những hăy nhớ, em đi đến quyết định nào th́ chồng của em cũng ủng hộ em 100%.

    Tôi nh́n John mà không cười nổi.
    Nhớ có một lần hồi c̣n ở Mỹ, Bill Fleshman có hỏi, nếu phải đưa Trương Đ́nh Hùng ra toà, tôi có dám đứng ra làm chứng không?

    Tôi trả lời gọn lỏn:

    - Không, nhất định là không.

    Phải chi bây giờ tôi cũng có thể trả lời bốn người này như vậy th́ dễ quá. Nếu tôi không hợp tác để đưa Trương Đ́nh Hùng ra toà, tôi c̣n triển vọng gặp lại ba tôi sau này, và có thể một ngày không xa , má tôi sẽ được gặp lại anh Khôi; hơn nữa, thằng Cộng sản gian ác cũng không biết ǵ đến việc tôi muốn tiêu diệt chế độ cộng sản.

    Lại một đêm trằn trọc, tôi trở cái gối không biết mấy chục lần. Sợ đánh thức John nên tôi lén qua nằm chung giường với Lance. Nếu ngày mai tôi trả lời với họ là “Không, nhứt định không”, th́ hai người gián điệp này , có thể tiếp tục làm nguy hại cho nền an ninh quốc gia Mỹ. Những người hoạt động cho CIA ở hải ngoại sẽ bị lộ diện. Riêng những điệp viên của CIA ở Việt Nam trong thời chiến c̣n bị kẹt lại Việt Nam sau 1975, họ sẽ bị bắt, bị tra khảo, đánh đập tàn nhẫn. Tôi rùng ḿnh khi nghĩ điều này. Ronald Humphrey đă cung cấp cho Cộng sản Hà Nội danh sách của những người này qua tài liệu mà Trương Đ́nh Hùng đă đưa cho tôi và đă được FBI chặn lại.
    Luật sư của Bộ tư pháp đă lặp đi lặp lại cho tôi biết, chỉ có tôi làm chứng. Trương Đ́nh Hùng là người trao cho tôi những hồ sơ tối mật th́ hai người gián điệp mới bị kết án; c̣n nếu tôi từ chối th́ hai người không có tội vạ ǵ hết.

    Biết được trách nhiệm của ḿnh nặng nề như vậy, liệu tôi có thể trốn tránh bổn phận được không? Lớn lên trong một gia đ́nh mà người lớn ai cũng biết làm người, ai cũng có trách nhiệm, ai cũng làm tṛn bổn phận: bổn phận với đất nước, với dân tộc, với gia đ́nh, với người chung quanh; tôi không biết hành động ǵ khác hơn những tấm gương sáng đó. Đến khi đi lấy chồng, lại gặp người đàn ông có trách nhiệm; anh làm tṛn bổn phận công dân, bổn phận làm chồng, làm con, làm cha.

    Tôi quyết định sẽ hợp tác với Bộ tư pháp cho tới cùng, nhưng nhứt thời, tôi không cho chồng tôi, FBI, và CIA biết quyết định này. Tôi cần thêm th́ giờ, chớ không thể nào trả lời dứt khoát với Bộ tư pháp bây giờ được.
    Không phải cần th́ giờ để suy nghĩ, mà cần th́ giờ để hoạt động. Tôi cần gặp ba tôi một lần nữa để hỏi ba tôi, có khi nào ông nghĩ tới việc hưu trí, rời Việt Nam, t́m một nơi dưỡng già với má tôi? Tôi muốn tranh luận lần nữa, t́m cách cho gia đ́nh tôi đoàn tụ. Con anh Khôi, tôi phải biết anh Khôi có được an toàn không, một khi cả thế giới biết em của anh là gián điệp của CIA. Nếu anh sẽ bị liên luỵ, th́ tôi phải t́m cách đưa anh ra khỏi Việt Nam trước đó.

    Tôi gặp ông John Martin hôm sau, tha thiết nói cho ông biết nguyện vọng của tôi là gặp ba tôi một lần nữa; hay ít ra cũng cho anh Khôi trốn qua Mỹ đă, sau đó tôi sẽ sẵn sàng ra làm chứng. Tôi nghĩ, dù sao ba tôi cũng sẽ không gặp khó khăn, v́ ông được sự tin tưởng từ cấp trên xuống cấp dưới; ông c̣n là người hữu dụng của đảng: có thể ông không bị liên luỵ v́ tôi. Phần anh Khôi, tôi phải bảo vệ anh tôi tới cùng.


    Còn tiếp ...

  9. #4079
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Cuối cùng, tôi quyết định cho FBI và CIA biết nguyện vọng của tôi: cứu ba tôi và anh tôi trước khi bắt Trương Đ́nh Hùng và Ronald Humphrey. Họ gởi điện văn về Washington báo tin mừng này, nhưng họ cho đó là “điều kiện” chớ không phải là sự hợp tác. Riêng đối với tôi, họ muốn dùng danh từ ǵ cũng được; tôi không quan tâm và cũng không giận họ.
    Tôi là người đă đ̣i hỏi họ phải có bổn phận “quét dọn sạch sẽ sân sau nhà”. Bây giờ họ lại than phiền là tôi đặt điều kiện để gây khó khăn cho họ. Tôi nhớ câu danh ngôn ông ngoại bắt chúng tôi thuộc ḷng: “Đường đi khó, không phải khó v́ ngăn sông cách núi, mà khó v́ ḷng người ngại núi e sông”. Để giữ cho ba tôi và anh tôi an toàn, giờ phút này không có núi nào mà tôi không dám trèo, cũng không có một sông nào mà tôi không dám qua.

    Tôi không ra điều kiện nào với FBI, nhưng tôi cần sự yểm trợ của họ, để ba và anh tôi được an toàn thôi. Tôi yêu cầu CIA hăy t́m cách gởi tiền về Việt Nam cho anh Khôi t́m đường vượt biên. Khi FBI đồng ư, th́ CIA giành phần đó, bởi v́ khi anh Khôi đào thoát được, họ sẽ khai thác anh Khôi. Một sĩ quan tên lửa, một người cựu sinh viên du học ở Liên Xô; khó khăn bao nhiêu giúp anh đào thoát, CIA cũng hỗ trợ, để sau này khai thác nguồn tin đó. Bây giờ tới phiên tôi bối rối, v́ không biết gởi tiền cho anh Khôi bằng cách nào đây? CIA cho biết, v́ Sài g̣n mới mất, đường đây liên lạc với Việt Nam bị gián đoạn hết, người của họ bị kẹt mà họ c̣n không t́m được, th́ vấn đề này họ chi trông cậy vào tôi thôi.

    FBI và CIA gởi điện văn cho Bộ trưởng Bộ tư pháp, ông Martin Bell, và ông giám đốc của CIA là ông Stanfield Turner về diễn tiến này.

    Tuần trước, anh Huỳnh Trung Đồng có nói là anh sẽ đi công tác Sài g̣n trong ṿng một hai tuần. V́ thế, anh cứ gọi hối thúc tôi đem gói đồ của Trương Đ́nh Hùng nhờ tôi đem qua chỗ anh, để lâu sẽ “mất thời gian tính”.

    Gói tài liệu c̣n giữ lại tại Bộ tư pháp, sau khi họ được phép mở tất cả những bao thơ của Hùng đưa cho tôi. Tôi không biết và cũng không muốn biết trong đó có những tài liệu ǵ, chỉ biết đó là những tài liệu tối mật của Chánh phủ Mỹ mà thôi.

    FBI ở Washington chuyển gói tài liệu của Hùng cho tôi, trừ những tài liệu có tên tuổi những gián điệp của CIA c̣n kẹt lại Việt Nam, và gián điệp của CIA hoạt động ở hải ngoại.

    Rob yêu cầu chồng con tôi tháp tùng với tôi đi Paris kỳ này để che giấu hoạt động t́nh báo, làm như chúng tôi là một gia đ́nh làm ăn b́nh thường, chồng con rảnh rang đi xem viện bảo tàng của Paris.

    Sau khi John, tôi và Lance ăn điểm tâm, chúng tôi chia tay hẹn nhau trưa đó hai cha con đi xem Louvre, c̣n tôi th́ vào đại sứ Hà Nội để gặp đại sứ Vơ Văn Sung, nhờ ông thuyết phục chánh phủ của ông cho ba tôi qua Luân Đôn thăm má tôi, v́ bà đau nặng. Đại sứ Vơ Văn Sung hứa sẽ chuyển tin về cho người cao nhứt trong chính quyền Hà Nội. Tôi rời toà đại sứ với hy vọng tràn trề.

    Trở về khách sạn, người concierge đưa cho tôi cái note. Th́ ra Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp. Lên pḥng th́ John và Lance đi chơi chưa về, tôi vội viết giấy để lại cho hai cha con biết, tôi phải đi gặp Phan Thanh Nam.

    Phan Thanh Nam cần gặp tôi gấp, là muốn nhờ tôi đưa thơ về cho Trương Đ́nh Hùng. Ngoài bao thơ, Nam chỉ ghi một chữ “Tâm”, một tên giả khác, như những lần ông đã ghi trên bao thơ trao cho Hùng. Sau khi tôi cho Nam biết tôi sề về Luân Đôn trước khi về Mỹ, th́ Nam lấy thơ lại, xe bỏ bao thơ, đề địa chỉ của một người đàn bà Mỹ ở đường S tại Washington. Tôi nh́n qua địa chỉ , rồi cho Nam biết , tôi rành vùng đó, tôi có thể đem thơ đưa cho người đàn bà đó, nhưng Nam giựt ḿnh và nói rằng:

    - Cháu dán con tem Mỹ rồi bỏ vô thùng thơ giùm chú là xong.

    - Bà ta có biết sẽ làm ǵ khi nhận được thơ này không?
    Ông gật đầu. Tôi lại nói:

    - Cháu đoán thơ này lá thơ quan trọng.

    - Thơ nào của chú cũng quan trọng hết.
    Tôi nói để ḍ xét ông:

    - Nếu vậy để cháu trao tận tay bà ấy cho chú?

    - Không, không! Đừng làm vậy!
    Ông nói mà nh́n tôi như muốn lấy lại cái bao thơ:

    - Theo chú, cháu không cần trao tận tay bà, chỉ cần dán tem rồi bỏ vô thùng thơ là được rồi.
    Mấy giây sau như đă qua cơn khích động, Phan Thanh Nam giải thích:

    - Cháu không nên gặp cô này. Cháu đừng hỏi tại sao, nhưng chú có lư do của chú.

    Vừa nói ông vừa nh́n cái bóp mà tôi vừa mới cất lá thơ vô, như có ư muốn lấy lại.
    Một sự im lặng khó thở trong căn pḥng rộng, trong đó chỉ có tôi và Phan Thanh Nam. Trên vách tường, “Bác Hồ” nh́n tôi.

    - Chiến tranh trên đất nước ḿnh là chiến tranh ǵ hả chú Nam? - Tôi hỏi.

    - Chiến tranh đă chấm dứt rồi Mỹ Dung à. Bây giờ là đến giai đoạn xây dựng lại đất nước. Những người như cháu là tài sản của tổ quốc.

    - Cháu sẽ cố gắng hết ḷng.

    Tôi nói mà sợ con thằn lằn trên vách nó nghe, nó xấu hổ. Nam tiễn tôi ra cửa, chúng tôi bắt tay từ giă. Khi cánh cổng gỗ khép lại, tôi vội bước nhanh ra cửa.

    ***

    Thời gian ở Paris, tôi luôn luôn nghĩ đến cách nào gởi tiền cho anh Khôi vượt biên. Lúc đầu, khi CIA hỏi cần bao nhiêu để vượt biên, tôi nói nhiều lắm là 3.000 dollars, đó là trường hợp có vài ba chuyến vượt biên bị bể. CIA th́ nói họ nghĩ anh Khôi cần nhiều tiền hơn để hối lộ chính quyền; họ ra lịnh gởi 10.000 dollars. Tôi căi lại: nếu được nhiều tiền quá, anh Khôi mua hết công an tại Việt Nam, chớ anh không đi nữa v́ anh thương ba tôi lắm.

    Nhưng CIA thắng, và họ cho biết họ sẽ đưa 10.000 dollars. Bổn phận của tôi là t́m cách gởi về cho anh. Vậy mà hồi còn ở Việt Nam, từ Việt Cộng tới Quốc gia, nhiều người cho rằng CIA đi trên nước, bước trên mây; từ trên máy bay phi công Air America của CIA nh́n xuống biết được con rắn đực hay rắn cái nữa mà! Mà thôi, Việt Nam của tôi có biết bao nhiêu chuyện hoang đường. Biết vậy cho nên khi lớn lên tôi không tin những ǵ qua “nghe nói”. Trong thực tế, đây là Paris, đây là vấn đề sanh tử của anh tôi, th́ nó là bổn phận của tôi, chớ không phải của CIA.

    Khi Rob tới khách sạn tối đó để gặp chúng tôi, tôi ngồi xuống vẽ ra một khuôn h́nh 8x10, dầy 1 inch. Tôi tŕnh bày với Rob và John là khuôn h́nh làm bằng gỗ đẹp, cưa làm đôi theo bề dọc; cưa xong , khoét để vừa đúng 100 tờ giấy 100 dollars, trong giấy nylon, sau đó dán kín lại, mà không thấy đường nào trên bốn bề của khuôn h́nh.
    Sau đó dán một bên h́nh của ba, bên nọ h́nh của má. Xong đâu đó, phết lên chừng mười lớp vernis, vừa bóng, vừa chắc khuôn h́nh. Khi anh Khôi nhận được khuôn h́nh, thể nào anh cũng rủa con em vô duyên: tại sao khuôn h́nh như vậy, v́ chưng lên, thấy h́nh ba th́ không thấy h́nh má. Rồi lậ̣y trời cho anh lanh trí như con em của anh, biết cái khuôn h́nh này ngụ ư ǵ. Tôi sẽ nói với anh Huỳnh Trung Đồng: đây cũng là ngụ ư sự ngăn cách của ba má.

    Trước khi gởi h́nh đi đóng khung và giấu tiền bên trong, CIA yêu cầu tôi viết cho anh Khôi một câu ngắn: “Hăy trốn khỏi Việt Nam ngay ".

    Trước khi vợ chồng tôi rời Paris về Luân Đôn, tôi ghé qua trụ sở Hội Việt kiều yêu nước giao cho anh Đồng khuôn h́nh của má tôi gởi tặng anh Khôi, một bộ pyjama má tôi may và 4 chai thuốc bổ cho ba tôi.

    Đó là lần cuối cùng CIA và tôi liên lạc với anh Khôi. Ba năm sau đó chúng tôi cũng không biết anh Khôi có lanh trí mà t́m ra số tiền trong cái khuôn h́nh đó không? Nhưng một hôm, má tôi được thơ từ Paris gởi qua, tên người gởi là Xuân Mai. Xuân Mai là người con gái yêu anh hồi hai người trên dưới 16 tuổi. Khôi giả dạng là chị Xuân Mai. Chị viết: “Cảm ơn em đă gở́ chị khuôn h́nh đẹp, nhưng lỡ tay, chị đă làm nó bể làm đôi ".

    Tôi mừng không thể tả, những tức ḿnh là, tại sao có một số tiền khổng lồ trong thời buổi đó mà không trốn! Cho tới 11 năm sau, năm 1986, gia đ́nh tôi mới được gặp lại anh Khôi sau 32 năm xa cách.


    Còn tiếp ...

  10. #4080
    Tran Truong
    Khách

    A Thousand Tears Falling !!!

    Mùa thu đã tới, nhưng chúng tôi vẫn chưa được tin tức ǵ về việc ba tôi được phép qua Luân Đôn thăm má tôi. May mắn là tôi c̣n bận dẫn Lance ghi tên nhập học vào ngày 8 tháng 9. Chỉ hai ngày sau, th́ FBI và CIA gọi tôi về Washington. D.C, để họp với Bộ tư pháp, chuẩn bị cho cuộc ra toà sau khi FBI bắt Trương Đ́nh Hùng và Ronald Humphrey. John phải thay đổi giờ làm việc để đưa rước Lance từ nhà tới trường, tội nghiệp thằng con tôi, ngày tựu trường lo sợ, hồi hộp chưa dứt, th́ mẹ vắng nhà; hai tuần lễ, hai cha con đi ăn nhà hàng đủ hai tuần.
    Nhưng cũng nhờ dịp này mà Lance học cách thức cầm nĩa, cầm dao cho lịch sự. Khi tôi về, Lance kể , là Lance nợ ba nó 2 dollars, v́ cứ mới lần làm rớt khăn ăn xuống đất th́ bị phạt 10 cents. Cuối cùng thằng nhỏ biết khôn, nên ngồi lên nửa cái khăn suốt bữa ăn, th́ khăn không rớt xuống đất nữa.

    Trong những cuộc hội họp, bàn thảo với CIA và FBI, chúng tôi đi đến quyết định phải cho má tôi biết sự thật, là khi tôi làm cho FBI, tôi làm nhiều việc khác, ngoài việc thông dịch thơ từ cho họ. Tôi đă nghĩ đến vấn đề này từ lâu, bởi v́ má tôi đẻ tôi ra, má tôi nuôi tôi, má tôi đùm bọc, che chở tôi, từ mới lọt ḷng, làm sao mà má tôi không nghi ngờ việc làm của tôi. Những bà không hỏi, th́ tôi không nói.

    Từ Washington. D.C, bay xuống Atlanta chỉ mất khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, nhưng cầm giấy đứng chờ lên máy bay mà ngao ngán không muốn đi, v́ ngại núi e sông. Ngại núi, v́ phải gan dạ lắm để nói hết sự thật với má tôi. E sông, v́ e rằng sự việc làm cho má tôi buồn, má tôi lo sợ cho sự an toàn của ba tôi. Éo le thay, một bà già tỵ nạn Cộng sản lại lo lắng cho an ninh của người chồng là đảng viên cao cấp của cộng sản.

    Nhưng chúng tôi biết, má tôi không có lo sợ vẩn vơ. Mối lo sợ của má tôi có tên, có tuổi, có lịch sử, có bằng chứng trong sách vở của đảng cộng sản Việt Nam: một khi họ không tin tưởng người của họ, th́ họ thủ tiêu.

    Khi tôi và má tôi vừa tới nhà ở Luân Đôn, chưa kịp mở va-li, th́ nhận được điện thoại của đại sứ Vơ Văn Sung. Ông ân cần cho biết, Hà Nội đă trả lời là họ cho ba tôi tới Paris, rồi má bay qua thăm ba tôi, chớ họ không cho ba tôi sang Luân Đôn.
    Ông hỏi chúng tôi có khả năng đưa má qua Paris không? Ông chỉ là người đưa tin, nên tôi không trách móc ông, nhưng tôi giận điếng người : “Chỉ có Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam mới có việc người đau đi gặp người mạnh để được thăm hỏi”.

    Nhưng tôi cắn răng không dám nặng lời, chỉ nói cho biết là tôi phải hỏi bác sĩ của má tôi, xem bà có đủ sức đi xa vậy không? Trước khi dứt cuộc điện đàm, đại sứ Vơ Văn Sung rất tử tế với tôi, khi ông nảy ra một ư kiến rất hay: ông khuyên tôi nên viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội, kèm theo cái thơ của bác sĩ cho biết má tôi không thể bay qua Paris.

    Tôi trân quư lời chỉ dẫn của đại sứ Vơ Văn Sung, nhưng viết thơ cho Bộ ngoại giao Hà Nội là chuyện đại sự. Rồi đây, mười tám cái tai, 200 con mắt sẽ biết, sẽ nghe chuyện của đồng chí Đặng Văn Quang rồi đồng chí này phê b́nh, đồng chí kia soi mói, th́ phiền cho ba tôi lắm. Lại tới phiên tôi bảo vệ ba tôi. Thay v́, viết cho Bộ ngoại giao, sao tôi không viết thơ cho bạn chí thân, cho đồng chí của ba tôi, lại là người lớn nhứt nước Cộng Hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam lúc bấy giờ.

    Đêm đó, chờ cho mọi người an giấc, nhón gót trở xuống nhà dưới, tôi viết thơ. Thơ viết bằng viết mực trên giấy pelure.

    “Kính gởi bác Lê Duẩn, bác Nguyễn Cơ Thạch và ba kính yêu,

    Sức khoẻ của má cháu càng ngày càng tệ v́ thận bị nhiễm trùng như cháu đă cho ba cháu hay trong thơ trước. Cháu đă thức nhiều đêm suy nghĩ và rất lo rằng , rủi ba cháu qua gặp má cháu quá trễ th́ làm sao đây?

    Cháu mong rằng những ngày cuối đời của má cháu phải là những ngày đẹp nhứt trong đoạn đời của bà, có nghĩa là má cháu được ở cạnh ba của cháu. Cháu mong hai bác tạo cơ hội cho ba cháu gặp má cháu càng sớm càng tốt.

    Thưa ba, kể từ ngày ba cưới má con , cho đến ngày ba tập kết ra Hà Nội năm 1954, chắc ba cũng nhớ là má con không bao giờ hỏi một điều ǵ ngoài khả năng của ba. Nhưng lần này, để thấy mặt má con, con xin cấp trên của ba một đặc ân. Trong thâm tâm, con tin tưởng rằng má con xứng đáng được gần ba và anh Khôi.

    Ba với bác Ba Duẩn đă cùng nhau có những hy vọng lẫn thất vọng, cùng ước mơ cho đất nước thanh b́nh, cùng đau buồn v́ những giấc mộng lớn cho dân tộc không thành: cũng như hai vị đă sát cánh nhau trong những tháng năm đen tôi nhứt của đất nước, rồi cũng cùng nhau vui mừng trong thắng lợi vẻ vang. Từ đáy ḷng cháu, cháu tin rằng bác Ba sẽ không từ chối người bạn chí thân về gia đ́nh của một đồng chí, đồng tâm ; một khi bác biết được t́nh cảnh của gia đ́nh này , v́ vậy mà cháu viết thơ này cho bác.

    Thưa ba,

    Con gởi thơ này cho hai bác và cho ba mỗi người một bản. Con mong sẽ được gặp ba thật sớm. Chúng con đă chuẩn bị tiền vé máy bay khứ hồi cho ba. Xin cho con biết con gởi tiền mua vé máy bay về đâu.

    Con gái của ba.

    Đặng Mỹ Dung”


    Tôi suy nghĩ rất kỹ, không nhờ anh Đồng chuyển thơ này vô Hà Nội, v́ anh Đồng không dám “làm phiền” các ông lớn. Tôi không nhờ đại sứ Vơ Văn Sung, v́ đại sứ đă khuyên tôi viết thơ cho Bộ ngoại giao; tôi không nghĩ đó là thượng sách. Tôi không dám nhờ ông chuyển thơ, v́ tôi làm trái với nghi thức của Bộ ngoại giao. Mà nghĩ cho cùng, tôi đã làm trái nghi thức của cả cái đảng và cái nhóm Cộng hoà xă hội chủ nghĩa rồi.

    Tôi quyết định gởi thơ đó qua New York, kèm theo một cái thư ngắn mà tôi viết cho đại sứ Thi, cảm ơn ông và nhờ ông chuyển thơ về Hà Nội hộ chúng tôi, với nguyện vọ̣ng của má, là được thấy mặt anh Khôi.

    Sau đó, ngày 13 tháng 11, tôi được thư của anh Huỳnh Trung Đồng báo cho biết anh vừa công tác Sài g̣n vê. Anh có đến thăm ba tôi, nhưng ông không có tin tức ǵ từ Hà Nội về chuyến đi thăm má tôi ở Luân Đôn. Anh nhỏ nhẹ khuyên tôi : nên nhớ là trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có ai đi ra ngoại quốc thăm vợ con. Anh viết:

    “Thơ của má cô đă tới tay người tối cao trong đảng rồi. Dĩ nhiên, sự quyết định là do chủ tịch nhà nước và ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Theo tôi hiểu th́ nhà nước cho phép má cô về Việt Nam và bác có thể ở đó bao lâu cũng được”.

    Đọc xong thơ anh Đồng, má tôi hứ một cái rồi nói:

    - Tao không bước chân về Việt Nam, một khi Cộng sản c̣n. Đừng có nghĩ tới chuyệ̣n chôn tao bên bà bay như tụi con tính, hồi đó tới giờ. - Má tôi giận hậm hực.

    Thơ anh Đồng tiếp:

    “ … bây giờ th́ những người có trách nhiệm đang bàn tính về chuyến đi của ba cô. Trong thơ, tôi được nói có bấy nhiêu thôi, mong cô hiểu cho tôi. Ba của cô lo lắng về bịnh t́nh của má cô lắm. Cô cũng nên biết rằng, nếu ba cô thăm má cô được, th́ bác chỉ đi một ḿnh mà không có anh Khôi cùng đi. Nhứt định là đảng và nhà nước không cho phép rồi. Tôi phải nói trước với cô, ba cô biết luật lệ của đảng, chỉ ngại là cô và má cô không hiểu luật, rồi buồn ba cô; bác lo ngại về vấn đề này lắm cô Dung à … ”

    ***

    Đời sống Luân Đôn của những gia đ́nh người Mỹ làm trong toà đại sứ Mỹ như một cuộc du lịch nước Anh dài hạn. Gia đ́nh tôi th́ cứ bị hai cái bóng ma FBI và CIA đi tới đi lui làm bất an. Giữa tháng 11 th́ Rob và Bill trở lại Luân Đôn gặp chúng tôi. Kỳ này họ không có mục đích rơ ràng, nên khi hai người bất ngờ tới gơ cửa, mở cửa ra, không chào hỏi, tôi cười chua chát nói:

    - Tôi không có chỗ nào trốn hết, bởi v́ một là Liên Xô hai là Mỹ quốc.

    Bill cười gượng như anh bị tôi nói trúng tim đen.
    Trong chuyến đi này, hai ông không có việc ǵ làm, v́ tất cả đứng khựng lại để chờ tin từ Hà Nội. Họ đi chơi, đi ăn, đi nhậu, đi xem thắng cảnh, mua sắm quà Giáng Sinh cho vợ con, cho ngày giờ qua mau. Chúng tôi cùng đi ăn vài lần, rồi hai người trở về Washington tay không.

    Rồi việc ǵ tới phải tới. Một buổi sáng, tôi được cú điện thoại của đại sứ Vơ Văn Sung, gọi từ Paris, kêu tôi liên lạc với toà đại sứ Cộng sản Việt Nam tại Luân Đôn.

    Đă nhiều lần Rob dặn tôi, khi nào bắt liên lạc với một đảng viên mới của Cộng sản Hà Nội, tôi phải báo trước cho anh biết. Nhưng sáng đó, tôi chỉ có số điện thoại để gọi Rob khi khẩn cấp; mà gọi điện thoại cho toà đại sứ cộng sản Việt Nam đâu phải là trường hợp khẩn cấp, nên tôi không báo tin cho Rob hay trước, tự tiện gọi thẳng tới toà đại sứ Việt Nam ở đường Victoria.

    Chắc nhân viên trong toà đại sứ này nhàn nhă lắm. Vừa mới nghe tên Mỹ Dung th́ người đàn ông trả lời điện thoại biết ngay tôi là ai và tôi gọi có việc ǵ. Ông mời tôi đến văn pḥng của ông để nói đến “vấn đề khá quan trọng này”.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •