Page 437 of 471 FirstFirst ... 337387427433434435436437438439440441447 ... LastLast
Results 4,361 to 4,370 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #4361
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Trong lúc chúng tôi đang chuẩn bị cơm nước th́ có hai vị khách đến, một nam một nữ. Cả hai đều tỏ ra rất thuộc đường rừng và quen cuộc sống ở rừng cho nên họ không cần hỏi chúng tôi một điều ǵ.


    Một người đàn ông trạc 40 tuổi, da đen sạm với chiếc nón nỉ cũ không c̣n ru-băng sụp đến tận mắt. Anh ta mặc bộ đồ bà ba đen, ống quần th́ túm lại cho nên nó phùng ra ở phía trên như y phục của một tay kiếm hiệp. Anh chàng mắc vơng xong rồi mới đến giúp cô nàng. Cô ta mắc vơng vào đúng hai cái cây của anh “bệnh tư tuởng” vừa mới ra đi. Hai người nói ǵ với nhau, tôi không nghe rơ, nhưng có vẻ bí ẩn lắm. Gương mặt cô gái không vui không buồn. Cô ta c̣n trẻ quá, thừa tiêu chuẩn về tuổi tác để làm con anh kia.

    Suốt từ khi họ đến, tôi không nghe họ gọi nhau bằng ngôi thứ mà chỉ nói trỏng trỏng suông suông. Có lẽ cô ta là y tá, c̣n anh kia là cán bộ cao nên cô ta đi theo để phục dịch thuốc men. Cán bộ cao th́ phải có gạc-đờ-co chứ! Các cha lớn đi ra th́ khác nào ông nghè bái tổ vinh qui. Hay cô kia là con gái ông ta, nhân trong một chuyến về thăm gia đ́nh, anh ta xúc nó theo đi làm cách mạng cho luôn tiện rau nào sâu ấy.

    Không hiểu sao từ lúc hai nhân vật nầy xuất hiện ở đây, tôi cứ nghĩ hết giả thuyết này đến giả thuyết khác, không biết vô lư hay có lư, nhưng tôi không dứt tôi ra được khỏi vấn đề.

    Tôi c̣n để ư thấy cô bé hơi bẻn lẻn. Cô không đến tṛ chuyện với Thu, cũng không ra khỏi tăng. Đến chiều khi được lệnh nấu cơm, th́ họ chỉ dọn cơm ra ăn thôi chứ không nấu. Hai người ngồi cả trong tăng cô gái. Anh đàn ông quay lưng hẳn lại phía tôi làm như cố ư che kín cả cô gái và che cả những ư nghĩ của y. Cái lưng to bản của y quả thật là tấm vách tường chắn ngang, thỉnh thoảng tôi mới trông thấy được bàn tay hoặc một mép tóc của cô nàng thôi.

    Cái áo của anh ta có lẽ đă mấy ngày không có dịp giặt cho nên mồ hôi đóng thành muối, in h́nh một tấm bản đồ rất rơ nét.

    Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại chú ư người ta kỹ như vậy. Chuyện của người ta mà, đâu có dính dấp tới tôi?

    Cơm nước xong, trời vừa tối. Đó là thời khắc thiêng liêng của những kẻ vượt Trường Sơn, đàn ông hay đàn bà kẻ khoẻ người yếu đều yên trí rằng ḿnh sắp được nghỉ ngơi trọn vẹn. Chỉ c̣n có máy bay hoặc biệt kích mới đáng sợ mà thôi.

    Tôi thấy anh chàng từ dưới suối đi lên, ngang qua vơng của tôi, tay cầm cái bàn chải gơ gơ vào ḷng bàn tay và quay mặt sang bên kia, không nh́n tôi. Anh chàng đă thay chiếc áo bà ba “có in bản đồ” và mặc cái áo thun trắng. Y làm dáng, tôi nghĩ vậy.

    Rồi y ta đi vào lều. Tôi ngoài cổ nh́n theo, nhưng cái cử chỉ không được lịch sự cho nên tôi ngồi dậy và lẳng lặng nằm quay đầu lại để được nh́n sang bên kia tự nhiên hơn.

    Bỗng Thu gọi:

    – Anh c̣n nước uống không?

    – C̣n! Bi-đông treo ở đầu vơng đây, có uống th́ sang.

    Tiếng chân Thu đi lào rào trên lá khô. Thu vào lều và rỉ tai tôi:

    – Anh có thấy ǵ không?

    – Không!

    – Anh th́ lúc nào cũng vờ. Đóng kịch tài lắm!

    – Lại kiếm chuyện! Kịch với chả kẹt!

    – Anh không thấy ǵ hết hở?

    – Không thấy ǵ cả, ngoài em!

    – Xùy! Ghét cái mặt anh quá!

    Tôi cười và bảo:

    – Thôi về an dưỡng đi.

    Thu biết tôi đối xử với nàng rất thân thiết nhưng cũng rất mực thước, cho nên nàng không ngần ngại đến với tôi bất cứ lúc nào. C̣n tôi th́ cứ ôm cây đàn ḷng, lắm lúc ở giữa núi rừng này cũng muốn trổi lên cái cung “mi-nưa” lắm, nhưng lại sợ tiếng đàn ngân lên mà không có tiếng vang, cho nên cứ lên dây, rồi lại so dây, ḿnh chỉ dạo lên cho ḿnh nghe mà thôi.


    Còn tiếp ...

  2. #4362
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Khi Thu bước ra khỏi lều, tôi mới thấy rằng nàng đă mang theo với nàng sinh khí trong lều. Tôi thấy tôi chơi vơi, chới với. Tôi gọi nàng như hốt hoảng:

    – Thu! Thu lại đây!

    – Thôi, em về thôi.

    – Bảo lại đây anh nói cái này..

    – Mai đă!

    – Rồi tối nay có chuyện ǵ gọi anh không sang lại đâu đấy nhé!

    – Anh trả thù em hở? . Nói vậy nhưng Thu đă trở lại đứng ở mép lều của tôi rồi.

    Tôi lại kỳ kèo:

    – Vào đây! Chuyện bí mật quân sự mà!

    – Anh chỉ tài bịa . Thu cũng ch́u ư tôi, bước vào đứng ở chân vơng.

    Tôi có chuyện ǵ đâu mà nói. Thu đứng im. Có lẽ Thu cũng biết tôi gọi Thu lại để có Thu trong chốc lát. Và Thu trở lại v́ nàng cũng thấy cần đến với tôi. Cả hai không nói lời nào, mà trong sự im lặng kia, có hàng ngàn tiếng nói, tiếng nhạc vang lên, tiếng to tiếng nhỏ., tiếng tơ tiếng đồng va chạm, hoà hợp nhau, đuổi bắt nhau, lẫn tránh nhau. Cả một vùng đầy âm thanh đó vây riết lấy hai đứa trong sự xao xuyến, náo nức, chờ mong, đau khổ và hy vọng. Nó như cái túi đă căng đến mức độ chỉ cần một mũi kim chích vào là vỡ toang ra ngập lụt.

    Tôi nói:

    – Này Thu ạ.

    Nhưng khi tiếng nói sắp nẩy lên trên môi tôi, th́ tôi lại mím lại và nén nó vào trong. Tôi lại nói sang chuyện khác ngay.

    – Ở đây, em ngủ phải coi chừng nhé!

    – Coi chừng ǵ anh?

    – Coi chừng người ta ăn cắp bi-đông và dép . Tôi tiếp :

    – Bi-đông th́ phải treo ở đầu vơng, buộc thật chặt, c̣n dép th́ phải giấu ở giữa nóc tăng.

    Thu nói:

    – Có thể mà cũng gọi. Anh thiệt !

    – C̣n nữa chứ !

    – Em bao giờ cũng bị anh gạt.

    – Không, anh bao giờ cũng bị em gạt.

    – Lừa gạt hay gạt qua một bên? Thu hỏi gặng.

    – Cả hai !

    – Bây giờ anh nói đi, em không gạt, cũng không gạt!

    – Thôi, để mai hăy nói.

    – Đấy, anh gạt em đấy!

    – Không, tại lúc năy em bảo để mai.

    – Em không có sang đây nữa đâu!

    Nói vậy nhưng Thu vẫn tần ngần đứng đấy. Rồi th́ đêm. Cái đêm muôn thuở của loài người, cái đêm mang đến cho chúng tôi cùng một lúc sự hăi hùng và sự yên tĩnh.

    Đến nửa đêm th́ tôi nghe tiếng rên rỉ. Theo thói quen của những người đi trên đường này, nghe chuyện ǵ th́ chuyện, cứ phớt tỉnh Ăng-Lê.

    Chuyện ǵ cũng không ăn thua, miễn nó đừng xảy ra cho ḿnh thời thôi. Nghe tiếng rên tôi tưởng Thu sốt, nhưng lắng nghe kỹ lại th́ không phải, v́ Thu nằm ở hướng khác. Tiếng rên kia là của một người con gái. À, tôi sực nhớ ra người con gái bẽn lẽn lúc ban chiều. Nét mặt và tất cả những việc làm của cô, tôi chú ư từ chiều, bây giờ sống dậy. Sự nghi ngờ của tôi rất có lư.


    Còn tiếp ...

  3. #4363
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Tôi nghĩ: cô sốt sao cái anh chàng chết tiệt kia nằm gần đó mà không lên tiếng?

    Tôi bèn bạo dạn kêu lên:

    – Ai sốt ai la đó hả?

    Hồi lâu tôi không thấy trả lời. Tôi kêu hai ba lần và sau cùng tôi gọi thằng người đàn ông mặc áo thun trắng.

    – Đồng chí ǵ ơi !… Cô bạn của đồng chí sốt kia ḱa.

    Nhưng tôi không thấy ai trả lời trả vốn chi hết. Tiếng kêu của nạn nhân to hơn và rơ hơn:

    – Ai cứu tôi với…Ai … ai … cứu tôi!

    Tôi ngồi bật dậy và ném sang gă đàn ông:

    – Đồng chí ơi! .. dậy mau… ngủ ǵ như chết vậy?

    Người kia vẫn không đáp lại.

    Tôi nghe tiếng rên rỉ bi thương quá nên buộc ḷng tôi bấm đèn pin lên, rọi kỹ dưới đất, xong tôi mới rút dép trên nóc tăng xuống xỏ chân vào cẩn thận rồi mới từ từ đi sang tăng cô gái. Trời đất ơi! Bây giờ tôi mới bạt vía kinh hồn. Một cảnh tượng bày ra trước mắt tôi mà tôi không hiểu ǵ cả.

    Cái vơng bằng ni-lông xanh đứt làm đôi, c̣n cô gái nằm quằn quại duới đất. Mặt cô gái xanh nhạt ra và đôi mắt trợn ngược lên toàn tṛng trắng.

    Tôi đứng tần ngần giây lâu. Cô ta gắng gượng nói:

    – Ông ta….!

    À ra thế. Nhưng nếu thế thôi th́ đâu có chuyện ǵ. Tôi bàng hoàng không biết làm ǵ nữa. Bất gíác tôi rọi sang lều của người đàn ông kia. Ở chỗ đó không c̣n tăng mà cũng không c̣n vơng. Vậy ra ông ta đă biến đi rồi, với tất cả đồ lề của ông ta.

    Bất thần tôi hỏi:

    – Sao vơng cô đứt mà cô không ngồi đậy? Ngồi dậy đi!

    Người con gái khẽ lắc đầu. Tôi mới để ư thấy rằng quần áo của cô không giữ đúng vai tṛ của chúng. Thế mà cô ta vẫn không biết điều đó, cho nên cô không sửa sang lại.

    Hồi lâu sau, cô mới nói, giọng run run, gắng gượng:

    – Ông ta… y..êu…tôi!

    Tôi đă hiểu ra rồi. V́ thế nên chiếc vơng nó mới đứt làm đôi ra. Dưới sức nặng của hai cây thịt nhún nhảy linh tinh… Tôi phát mọc ốc lên đầy ḿnh. Trước đây, lúc tôi hăy c̣n đi chung với Phương, nhiều đêm tôi và Phương đă từng dùng chiếc vơng làm tổ uyên ương nhưng cũng may là vơng của chúng tôi c̣n mới nên không xảy ra chuyện ǵ.

    Nhờ kinh nghiệm bản thân cho nên nghe cô gái nói th́ tôi hiểu vấn đề ngay. Măi đến lúc sau tôi mới phát giác ra rằng cô gái không ngồi dậy được và hai tay cô cũng không c̣n cử động b́nh thường. Th́ ra, dưới sức nặng của hai người mà hai người đang ngọ ngoạy th́ cái trọng tâm hoạt động dồn xuống theo sức hút của trái đất, cho nên khi cái vơng đứt làm đôi th́ cái lưng cô gái bị nện xuống đất với một lực to gấp nhiều lần so với sức nặng của chính cô. Và nguy hại nhất là dưới lưng của cô gái có những ḥn đá nhọn chĩa lên. Cho nên một trong những mắt xương sống bị dập đi.

    Tôi cũng không biết làm ǵ hơn là bế xốc cô gái lên rồi nh́n quanh quất, không thấy nơi nào có thể đặt cô gái xuống được. Tôi bế cô về lều đặt trên vơng của tôi rồi hoả tốc gọi Việt và Thu sang.
    Sau khi Thu hiểu ra câu chuyện, Thu cũng đứng chết như trời trồng, không biết làm ǵ hơn tôi.

    – Em chóng mặt quá…!
    Thu kêu lên rồi quay trở về. Tôi biết làm ǵ với một vết thưong như vậy? Thật oái oăm! Tôi cũng không c̣n đủ b́nh tĩnh để mà chửi rủa tên đàn ông kia.
    Tôi nói với Việt:

    – Tôi đă đoán ngay từ chiều mà!

    – Ghê thật! Vơng rơi xuống ḥn đá nhọn th́ c̣n ǵ!

    – Ai có ngờ!

    – Ông kia lại bỏ đi đâu?

    – Trốn chứ c̣n đi đâu!

    Tôi ngồi dựa góc lều cho tới sáng. Việt vào gọi anh trạm trưởng ra. Tôi thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Anh trạm trưởng chửi ỏm tỏi. Anh ta nói oang oang không kiêng nể ai hết:

    – Thằng cha này là huyện ủy huyện ẻo ǵ đó. Nó dắt con nhỏ này đi nhong nhong hết trạm này đến trạm khác, đồ dă man. Chơi cho sướng rồi bỏ con người ta vậy đó. Huyện ủy cái con c….! Dắt qua đây mấy lần rồi, nhưng tôi không biết. Nếu tôi gặp là tôi đuổi đi liền tay.

    Anh ta nói luôn một thôi dài:

    – C̣n cái con nhỏ này nữa. Đồ con gái nhí nhảnh, không biết thân cứ đeo theo cái thằng cha già ngắt như vậy kiếm cái ǵ? Đồ ngu! Rốt cuộc lại cũng tụi tôi chịu. Hừ!… Đây nè, bậy giờ tụi tôi vác, tụi tôi khiêng đây nè, chứ ai vô đây mà chia với tụi tôi?

    Tôi thấy khổ tâm quá, vừa xấu hổ, vừa xót xa. Càng đi càng thấy những chuyện kỳ cục càng nhiều ra. Thật là một tai nạn không ở đâu có.
    Anh trạm trưởng sang chỗ cô con gái bị đứt vơng rồi trở lại ngay. Anh lắc đầu:

    – Đá nhọn như chông mà. Cả trăm kí lô giằn lên, rơi xuống. Đá nhọn mà không găy xương sống sao được? Găy xương, tủy chảy ra dính đầy trên đá kia ḱa. Ai nấy sang coi dùm một chút! Cái chỗ đó có cô hồn mà không biết, cứ lủi vào!

    Cô gái cứ sống trong t́nh trạng hấp hối như vậy ba ngày không có thuốc men. Đến ngày thứ tư th́ tắt thở. Lại cũng anh trạm trưởng và cậu Chân chôn.


    Còn tiếp ...

  4. #4364
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....

    Trong mấy ngày đó tôi cứ sốt liên miên. Uống bao nhiêu kí-ninh và uống cách nào cũng không chận cử được.

    Cho nên cuối cùng tôi quyết định đi bệnh xá để nhờ ở đấy tiêm dùm mấy ống kí-nin 0,40 mà tôi mang đi theo từ Hà Nội. Tôi tạm biệt Thu và Việt vào một buổi sáng.
    Tôi lủi thủi đi trên đường một ḿnh với cái bóng của tôi. Phía trước là hai anh giao liên người thiểu số khiêng một người bệnh cấp cứu cũng đi bệnh xá. Anh trạm trưởng gửi tôi cho mấy người này.

    Nghe anh trạm trưởng nói đi non một ngày đường th́ tôi ngại, nhưng anh khuyên tôi nên đi sớm. Cái sốt của tôi là cái sốt cách nhật, khó cắt cử , nếu để giây dưa, lá lách sẽ tḥng tḥng khó trị lắm. Đi đường có khi ngă dập lá lách chết cũng nên. Anh trạm trưởng đă đổi cho tôi những viên ki-ninh xanh mà anh cho là rất thần hiệu, nhưng những viên thuốc ấy lại cũng vô hiệu đối với tôi.

    Hôm nay đúng ngày sốt nhưng cơn sốt đến vào lúc xế chiều. Tôi hy vọng sẽ đến bệnh xá trước khi cơn sốt đến.

    Hai người giao liên vẫn đi trước tôi. Lúc đầu tôi c̣n trông thấy họ, dần dần khoảng cách nhân lên và bây giờ th́ họ đă biến mất. Tôi hơi lo. V́ trong rừng không ai đi một ḿnh mà lại tay không bao giờ. Nhưng tôi không thể đuổi theo kịp họ. Tôi định là họ sẽ dừng lại gác đ̣n vơng trên hai cái nạng mà nghỉ tôi sẽ bắt kịp. Nhưng càng đi tôi càng thất vọng. Theo sự chỉ dẫn của anh trạm trưởng th́ cứ đi thẳng con đường lớn rồi đến con đường ṃn đầu tiên, rẽ vào đó cứ thế mà đi một tiếng đồng hồ sẽ tới bệnh xá.

    Giữa lúc tôi đang sợ hăi v́ đường vắng người th́ tôi lại gặp người, gặp cả một toán người.

    Họ đi lải rải không thành đội ngũ. Có nhiều người mặc áo cổ vuông để ḷi những cánh tay đầy ghẻ chóc. Có người vác cuốc, có người đi tay không, trông áo quần của họ , tôi đoán là bộ đội, nhưng không thấy ai mang súng. Họ đi chậm chạp, lê thê, vẻ mặt ngơ ngác và họ không buồn nh́n tôi.

    Tôi hỏi một anh vác cuốc:

    – Ở đây gần tới bệnh xá chưa… bạn?

    Tôi ngập ngừng không biết gọi bằng ǵ cho đúng: gọi bằng anh th́ nghe xa lạ quá, c̣n gọi “đồng chí” th́ quả t́nh tôi không thể gọi những người như vậy là đồng chí của ḿnh.
    Người đó gầm mặt xuống, vung tay lại phía sau và nói:

    – Đâu phía đó, chúng tôi cũng chẳng rơ !

    Tôi lại cắm cúi đi, bụng hoang mang không biết nên đi tới nữa không. Tôi vừa đi vừa sợ, không hiểu ḿnh đă vượt qua một đường ṃn nào chưa? V́ nếu là đường ṃn dẫn vào một căn cứ, một cơ quan nào đó th́ thường thường đường đó được ngụy trang rất kỹ. Người đi đường có để ư cũng không thể nhận ra. V́ thế nên tôi không dám bước nhanh.
    Tôi vừa đi vừa ngó chừng. Tôi đi rấn tới một quăng nữa th́ đụng ngã ba. Tôi không biết nên rẽ về phía nào. Bởi v́ theo lời anh trạm trưởng th́ một con đường ṃn sẽ dẫn tôi đến bệnh xá nhưng ở đây, ba nhánh đường đều bằng nhau. Hai nhánh trước mặt không có nhánh nào nhỏ hơn nhánh nào. Tôi ḍ dưới đất t́m dấu vết và mong cho những dấu vết ấy sẽ bảo cho tôi nên rẽ vào nhánh nào nhưng đất khô cứng, không thấy một dấu chân mới.

    Trời đă trưa. Tôi ngồi lại một gốc cây ngay ở ngã ba, mở nút bi-đông ra uống một ngụm nước. Khi đặt đít xuống đất người ta mới biết đôi chân mỏi đến thế nào.

    Tôi cởi một chiếc dép ra và rút lại quai dép. Cây rút dép làm bằng thau , Phương mua ở Hàng Thiếc cho tôi. Phương đưa cho tôi và nói: “Em chỉ mong anh giữ lại cái món này!”.

    Tôi giắt cây rút dép vào thắt lưng và mang lại dép, hy vọng sẽ có người qua lại. Tôi chợt thấy một cuộc diễn binh quanh tôi. Một đạo binh trùng điệp .. Tôi theo dơi một quăng xa xem đạo binh ấy khởi đầu từ đâu và sẽ dừng lại ở chỗ nào. Những chú lính to đầu, hai cái răng thật to , màu nâu như hai cái nanh. Chúng đi hàng dài, chú nọ nối chú kia, im lặng lầm lỳ có vẻ tự tin. Thỉnh thoảng lại có một anh to trội hơn, có lẽ là chỉ huy. Chúng gây thành những tiếng rào rào trên lá khô. Cái tiếng động làm cho tôi nghĩ tới bước chân chậm chạp của cái chết. Chúng ḅ sát chân tôi nhưng vẫn cứ thản nhiên như không hề trông thấy tôi. Và tôi cũng ngồi yên không muốn động đến những đối thủ nguy hiểm ấy. Ḿnh không đánh người ta th́ người ta không đánh ḿnh.

    Xem chúng nó lầm lỳ vậy chớ ghê gớm lắm. Ai sơ ư đặt ba-lô xuống đất ngủ một đêm sáng ngày thức dậy, cái ba-lô trở thành cái ổ mối. Một cái xác nằm giữa rừng, chỉ qua một đêm hôm sau chỉ c̣n bộ xương. Tôi rùng ḿnh không muốn nghĩ xa hơn nữa.

    Bỗng một cành khô rơi xuống đội h́nh diễn binh. Lập tức các đơn vị tản ra, nhanh nhẹn, ráo riết và từ những doanh trại ở đâu không rơ, đạo quân ấy tuôn ra càng lúc càng đông, tủa ra khắp nơi như đang chuẩn bị chiến đấu. Tôi nhảy nhổm lên. Một chú đă ngoặp vào bàn chân tôi rồi 2, 3 chú bám vào. Tôi đưa tay phủi lia, thân ḿnh chúng văng ra nhưng hai cái càng vẫn cặp dính cứng vào da tôi.


    Còn tiếp ...

  5. #4365
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....

    Tôi quơ ba-lô, nhảy vào một chỗ trống và thoát ngay ra khỏi cái trận địa nguy hiểm.

    Tôi vừa đi, vừa ngoái lại nh́n đội h́nh của đạo quân đang triển khai – và như có một thứ linh tính hướng dẫn, tôi rẽ luôn sang phải.

    Tôi thấy hơi nguy – Cơn sốt đă đến. Cái bàn tay vô h́nh kia bắt đầu vuốt vào những đốt xương sống của tôi. Tôi rùng ḿnh một cái,và tôi ngó quanh quất vào bên phải là nơi có nhiều cây cao để t́m chỗ mắc vơng. Tôi chỉ c̣n đủ thời giờ để làm cái việc quan trọng nhất đó v́ tôi thấy trước rằng ḿnh phải nằm lại giữa rừng đêm nay. Ư nghĩ đó làm cho tôi ân hận tràn ḷng. Sao ḿnh lại đi bệnh xá làm quái ǵ?

    Tôi t́m một cái cây có chạc ba. Tôi phải mắc vơng trên cây. Những người đi rừng bảo như vậy, v́ ở dưới đất một ḿnh sẽ có thể gặp đủ thứ nguy hiểm. Tôi không ngờ chuyện đời lại trở nên rắc rối như vậy. Cái ân huệ mà tôi mong được ơn trên ban bố cho là đêm nay trời đừng mưa.

    Tôi cố hết sức mới đem ba-lô lên được trên cái chạc ba , tôi đă ngắm sẵn. Tôi mắc vơng ngay trên đó. Tôi siết chặt những mối dây nhiều lần rồi mới lên nằm. Hăy tưởng tượng một con người như tôi, cầm ca cháo ăn c̣n run mà phải đeo trên từng nhánh cây và nhấc người lên. Tôi tḥ đầu nh́n xuống đất. Tôi có cảm giác là tôi vừa thoát được sự nổi giận của những chú mối càng hung dữ đang vây lùng tôi.

    Tôi thiếp lịm đi theo ánh mặt trời đang tắt dần. Tôi mơ màng nghĩ đến cái chết trong giấc ngủ là cái chết nhẹ nhất, nhưng tôi lại xua ngay cái ư nghĩ này. Tôi tỉnh dậy sau một cơn sốt. Tôi định đi tiểu. Tôi tḥ chân xuống để t́m dép. Chân tôi quờ nhằm khoảng không, tôi giật ḿnh, rút chân lại, cả người nổi da gà.

    Tôi đă nhớ ra ḿnh đang nằm ở giữa trời.

    Tối như mực nhưng không dám bấm đèn. Tôi đă chịu nhiều cơn sốt nên đă quen. Sau khi dứt cơn th́ đầu óc lại tỉnh táo như thường. Tay tôi nắm nhánh cây, hơi nhỏm người lên một tí… để nh́n.

    Tôi sợ người và sợ cả thú rừng biết tôi ở đây. Tôi lại nằm gọn trên vơng, tôi quờ t́m cái bi-đông nước treo ở đầu vơng. Tôi rút nút bi-đông rót vào mồm những giọt nước ngon lành.

    Một cái lá rơi đánh xạc, một cành cây găy đổ xuống đất cũng làm cho tôi lo âu. Những loại côn trùng rên rỉ dưới những gốc cây, những lá mục không bao giờ dứt như một bản nhạc được tŕnh tấu không dưới quyền điều khiển của một nhạc trưởng nào.

    Có phải tiếng côn trùng đêm nay làm dâng lên trong ḷng tôi một nỗi nhớ nhung khắc khoải, những giờ phút mà tôi đă tung cho Phương tất cả sức lực, đă bị rơi rớt đi nhiều ở dọc đường, để vượt lên đỉnh cao nhất của sự ham mê xác thịt mà kỷ niệm c̣n hằn măi trên da thịt tôi. Đó là lần cuối cùng. Tôi sống nhiều bằng bản năng. T́nh yêu là một thứ bản năng.

    Phương đă đi tới đâu rồi? Trong đêm nay nàng nghỉ lại nơi đâu? Nàng đau khổ nhớ tiếc những kỷ niệm vừa qua hay đă nằm gọn trong ḷng … đất?

    Tôi lặng người ra, khổ sở. Chưa bao giờ tôi thấy khổ sở khi phải xa một người con gái như Phương. Tôi vẫn biết rồi Phương chẳng yêu ḿnh được nữa, mà tôi vẫn khổ khi chia tay với nàng. Con gái, đứa nào cũng thế, sự chung đụng thường dẫn họ đến t́nh yêu hơn là một phút bất chợt loé lên bừng cháy. Họ dễ nhớ dễ quên.

    Tôi nghiêng đầu ra mép vơng.

    Không gian sầu thảm. Một con chim ǵ đang đậu ngay trên đỉnh đầu tôi, tự năy giờ cứ đứng ở đấy, chốc chốc lại kêu lên những tiếng ai oán. Tôi không thấy nó nhưng tôi chắc nó màu xanh sậm và có đôi mắt chan chứa u buồn. Ở đằng kia, có một một cô luôn luôn đáp lời, mỗi lần chú đằng này gióng lên tiếng gọi. Dường như chúng đang ḥ hẹn t́m kiếm nhau. Tôi có cảm giác đó là linh hồn của hai người chết v́ một mối t́nh nan giải, và đôi linh hồn ấy đêm đêm lại quờ quàng t́m nhau để nối lại cuộc t́nh ái dang dỡ trên dương trần. Tiếng kêu của chúng nghe năo nùng ai oán lạ. Nghe chim kêu, tôi thấy đau khổ tràn ḷng. Tôi nghe như gan ruột ḿnh chín từng đoạn một. Nỗi t́nh yêu, nỗi cuộc đời.

    Dội lên trong tâm tự tôi một nỗi ai hoài xót xa. Hiện lên trong đầu óc tôi một đôi nhân t́nh cùng là người Nam, cùng đi về Nam và cùng đi trên đường này.

    Họ yêu nhau. Họ bị cấm đoán trong lúc họ mang gạch tập dượt ở trường đi B. Nhưng rồi họ vẫn yêu nhau. Họ bị cảnh cáo. Và kết quả cuối cùng đến với họ là chàng th́ đi Ông Cụ c̣n nàng th́ rẽ xuống Bác Kế. Họ được cái hạnh phúc đi chung nhau trên một quăng đường và trên quăng đường này t́nh yêu cũng vẫn bất hợp pháp.

    Một buổi trưa họ đi tụt lại phía sau v́ họ đổi được một trái dưa gang. Họ lẫn vào rừng để tận hưởng cái quả dưa trời cho ấy. Ăn xong, chàng cứ ưỡn ẹo. Chàng kêu tức bụng và không chịu đi.

    Chàng cởi cúc áo ngực và trật vai ra bảo nàng xem có ve cắn không. Nàng hớt hăi kêu lên: “Ve cắn là bị sốt và làm ké không khỏi đó nghen!”

    T́m măi nhưng không thấy chú ve nào hết mà chỉ có dấu răng bầm tím in trên vai chàng, từng cái kẽ răng cũng lộ lên. Nàng hơi ngượng, nàng biết chàng đùa. Chính đó là vết răng của nàng để lại cho chàng hôm qua. Chàng hỏi:

    – Em có thấy ve không?

    – Có rồi! – Nàng đáp và áp mặt xuống vết thương trên vai chàng thủ thỉ:”Đây, ve đây! Con ve to tướng đây anh có thấy không?”

    Chàng không nói, bất thần vần ngửa nàng ra và rên rỉ:

    – Em! Em!

    Nàng cũng rên lên khe khẽ:

    – Anh anh! … Của em đây. Anh giữ cho em!

    Chàng ôm gọn nàng vào ḷng và lại đặt nàng trên một mớ lá khô ḍn. Nàng cố bật dậy, nhưng không thể. Nàng kêu lên và chặn tay chàng một cách dịu dàng:

    – Ấy chết, anh đừng làm thế!

    Chàng vẫn rúc đầu vào ngực nàng và đưa một tay nắn những ngón đàn quen thuộc mà mỗi phím như truyền sang chàng một thèm khát sôi bỏng. Nàng dẫy nẩy:

    – Anh không giữ cho em!

    – Anh đang giữ đây!

    – Mai đă mà!

    – Chưa chắc có ngày mai!

    Họ không căi nhau nữa. Nh́n vết bầm trên vai chàng, nàng nói:

    – Em là chó anh nhỉ!

    – Bao giờ?

    – Lúc nào em cũng cắn anh! Nhưng sao anh không báo thù?

    – Th́ làm ǵ?

    – Em thích anh làm cho em toé máu ra!

    – Thế à?

    – Em không thích những cử chỉ b́nh thường!

    – Đau đớn nhớ lâu phải không?

    – Ơ ḱa… anh không… ngoan… tí nào cả!

    Chàng không nói, và bằng một cử chỉ vô cùng quả quyết, chàng đă cho da thịt chàng và nàng cọ xát nẩy lửa vả chàng đă đi vào nàng một cách thần kỳ.

    Đôi mắt nàng không c̣n ánh sáng, đờ đẫn nh́n chàng và kêu rên gần như than thở:

    – Anh!… anh phí sức nhiều quá!

    Rồi nàng nghe tất cả những cảm giác của nàng dồn lại ở một trung tâm, một nơi, một cái rốn đại dương ào ào sóng dậy mà cây thiết bảng thần thông trấn giữ vừa cắm thẳng vào, đau đớn mà êm ái.


    Còn tiếp ...

  6. #4366
    Tran Truong
    Khách
    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Nàng nghe nàng trôi bập bềnh trên mặt của một biển nhạc mênh mông với một nhịp điệu đều đều với những trường canh chắc nịch. Nàng không thấy ngọn cây đang quay tít bên ngoài, không thấy đôi chim đang trố mắt nh́n nàng. Giây phút đó kéo dài. Đột nhiên nàng muốn rít lên, nàng thấy toàn thân nàng rắn lại thành một tảng băng và đồng một lúc nàng cũng nghe có một làn nước ấm đê mê chảy qua suốt khối băng ấy. Hai cánh tay nàng quơ lên ôm siết lấy, quấn chặt lấy, gh́ xuống miết một vật ǵ vừa nặng, vừa ấm làm cho khối băng kia tan vỡ, đầm đ́a.

    Ngọn gió hiếm hoi của rừng già thổi qua như một người khách lănh đạm. Lá lại rơi, đàn ve lại trổi điệu nhạc sầu muôn thuở.

    Nàng đă nghe lại tiếng vỡ của lá khô ḍn và nàng gọi:

    – Anh!

    Chàng như chợt tỉnh, nghe tiếng gọi của nàng như một tiếng gió mơ hồ âu yếm quá!

    Chàng vẫn lặng thinh. Chàng nghe mũi chàng lút vào một vật thể quá đổi mềm mại mà chàng hít thở hương thơm nguyên chất của da thịt nơn nà. Nàng lại nh́n vết thương rướm máu trên vai bên kia của chàng.

    – Anh! Anh có đau không?

    Chàng chầm chậm mở mắt ra. Chàng không muốn cắt ngang cuộc sống thần tiên. Chàng muốn nằm măi thế này, tận hưởng sự ră rời sau phút vượt dốc. Chàng thấy đau nhưng cái đau thích thú và sung sướng.

    Chàng c̣n thèm muốn. Sức chàng chưa kiệt.

    Khí rừng làm bằng hương lá khô và hoa dại , gây gây làm cho chàng như say nhẹ, dễ chịu.

    Bỗng chàng ngồi dậy bế xốc nàng vào ḷng như bế một đứa trẻ con. Chàng nh́n suốt từ đầu đến chân nàng. Một màu hoa huệ trắng nuốt , lốm đốm rắc những cánh hoa hồng, những nốt nhạc mà bàn tay của nhạc sĩ thần vừa để lại. Một ít tóc rơi trên ngực nàng như một áng mây in trên nền tuyết.

    Như một con thú dữ bị một sự thèm khát quất vào bản năng, chàng lại dằn nàng ra và lại cung hiến tất cả cho nàng: tâm hồn và thể xác. Chàng muốn tận hưởng đến giọt t́nh trong đáy cạn của tim nàng, muốn chiếm đoạt, muốn dày xéo nàng để không bao giờ, không bao giờ nữa…

    Chao ôi, tôi nằm một ḿnh ở đây, treo lủng lẳng trên cành cây mà nhớ mà tiếc cái kỷ niệm của chính tôi. Cái cảnh đó đối với tôi đáng lẽ ra là cuộc sống thực hằng ngày, thế mà nó đă trở thành kỷ niệm; đáng lẽ nó là tương lai, nó lại là dĩ văng; đáng lẽ là hạnh phúc, nó lại là khổ đau và tôi biết tôi với Phương từ đó chỉ c̣n sống với nhau bằng kỷ niệm.

    Tôi nằm đây mà tôi nhớ làn da của nàng từ trên vai chạy dài xuống, xuống nữa, những đồi dốc, suối sông của cả một địa dư mênh mộng đă trở thành băi chiến trường mà vó ngựa của sự thèm muốn điên dại đă xéo dày, đă dẫm nát một cách đau thương mà thoả thích. Và chàng hiệp sĩ chiến đấu đă ngă gục ở đây như ngă dưới chân đài vinh quang tuyệt đỉnh trong những phản ứng kỳ diệu của nàng đă quật ngă đồng thời đă đón nhận chàng vào trong nàng trọn vẹn.

    Tôi đau khổ, tôi thấy mất một cái ǵ rất cụ thể.


    Còn tiếp ...

  7. #4367
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....

    Ở dưới đất nghe tiếng cành cây khô găy răng rắc. Tôi nghe có mùi hôi thối phất qua. Tôi rụt đầu vào như một cái máy. Ở chỗ có tiếng cành cây găy như có ánh sáng kỳ lạ, như hai mũi chĩa bằng điện chọc thẳng về phía tôi. Tôi nhắm mắt lại nhưng hai tia sáng kia vẫn cứ soi mói vào người tôi. Tôi co rút người lại như con cuốn chiếu. Tôi không dám thở nữa. Tôi hơi ân hận sao hồi năy ḿnh không t́m một chỗ cao hơn mặc dù cái chạc ba này cũng đă cao rồi.

    Đôi chim ân t́nh đă lảng đi đâu không thấy kêu than nữa. Có lẽ chúng lẫn tránh một điều ǵ. Thay vào đó một tiếng chim khác, tiếng chim như bảo mọi người hăy mau mau “Tránh khỏi! Tránh khỏi”

    Đó là con chim tiền tiêu của Chúa Sơn Lâm. Tiếng chim vang lên trong tâm linh tôi, rung động đến từng sợi thần kinh nhỏ nhất trong đầu tôi. Tôi có cái cảm giác là hai tia điện khi năy đang từ gốc cây chọc thẳng vào lưng vơng của tôi nhoi nhói. Thôi rồi, tôi sẽ chết nơi đây, vào miệng cọp. Nó đă ngửi thấy con mồi đang treo trước miệng nó chỉ gang tấc. Tôi thấy đau đớn quá!

    Tôi đă đi khắp nước Việt Nam, từ Nam Quan đến mũi Cà Mau. Vâng, đi làm cách mạng! Tôi đă đạp lùi hàng vạn dậm sau chân ḿnh. Để làm ǵ, để cho ai? Không rơ! Cái chết là điều tất nhiên, nhưng, cũng như mọi điều khác, mỗi cái chết đ̣i hỏi một lư lẽ. Thôi đành nhắm mắt!

    Đột nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi vụt nhớ tới mẹ tôi ở một nơi xa xôi giờ này đinh ninh rằng tôi đang sống trên một thiên đựng.
    Bỗng… rốp! rột rột….! Véo…!

    Tôi nghe như một luồng gió vút qua những kẽ cây, tiếng những cành cây găy rôm rốp, những ngọn cây lớn lay động ào ào như một cơn trốt xoáy qua rồi im hẳn.
    Tôi không dám thở mạnh nữa. Tôi không biết những tiếng động vừa qua có thật hay không? Tôi lắng nghe xem con chim có c̣n kêu “tránh khỏi” nữa không. Im phắc. Không có một tiếng côn trùng. Tất cả đều đă tản đi hết.

    Lâu lắm, không rơ là bao lâu tôi nghe lại giọng ân t́nh lúc năy của đôi chim đối đáp với nhau, ở phía xa. Có lẽ giây phút kinh hăi đêm nay đă qua rồi chăng? Tôi vẫn nằm im – tôi nghe toàn thân mồ hôi ướt đẫm, lưng áo cũng ướt, dán hẳn vào da.

    Tiếng đôi chim ân ái vang lên càng lúc càng nhặt. Tôi nghe h́nh như chúng không c̣n xa nhau như trước nữa. Sau mỗi lần tiếng chim vang lên, lại thấy chúng nhích lại gần nhau thêm một quăng.

    Một thứ ǵ bàng bạc như ánh sáng từ trên cao đổ xuống chan hoà. Tôi ngước mặt nh́n lên, thầm cảm đội Ơn Trên. Đôi chim qườ quạng suốt đêm t́m nhau kia đă kêu lên những tiếng hoà hợp. Trời đă sáng!
    Tôi nghiêng đầu nh́n xuống rồi tôi ngồi dậy nh́n xuống, nh́n quanh, không có dấu vết ǵ đáng cho tôi sợ sệt. Áo tôi ướt đẫm như chiếc áo của những người giao liên thiểu số cơng một lúc tám quả ĐK trên lưng.

    Trí khôn của tôi trở lại. Tôi chợt nhớ ra rằng “Ông Lớn” chỉ “chụp” mồi khi nào “Ổng” trông thấy được cái cổ của con mồi. Không trông thấy được cái cổ, không bao giờ “Ổng” chụp.

    Tôi ném ba-lô xuống đất, rút dao găm trong lưng chặt một nhánh cây. Tôi cầm nhánh cây đập bốn phía như muốn xua đuổi những mảng bóng đen c̣n rơi rớt lại.

    Tôi đứng dậy tḥ đầu ra nh́n bốn phía. Tôi mong có một bóng người đi qua. Tôi suy nghĩ, đắn đo măi. Rồi tôi cuốn vơng. Nhưng ḱa, tôi không thấy chiếc bi-đông ở đâu. Tôi nhớ rơ là đêm qua tôi có uống nước. Mất cái bi-đông th́ cũng có nghĩa là xe hơi chạy đường trường không có b́nh xăng. Tôi đeo cái vơng vào lưng rồi tuột xuống.

    Nhưng nó đây rồi! Tôi reo lên khi chân vừa chấm đất. Chiếc bi-đông nằm trên gốc cây, nút vẫn nhét kín, móp một chỗ, nhưng bên trong vẫn c̣n nước. Tôi ôm chầm lấy chiếc bi-đông như bắt gặp một bửu bối.

    Tôi ngước nh́n lên chạc ba. Tôi nhớ lại sau khi uống nước xong tôi treo chiếc bi-đông trên đầu vơng, có lẽ tôi treo không cẩn thận, lúc Chúa Sơn Lâm ḷ ṃ tới gốc cây, nó đă khôn ngoan rơi xuống như một nhát búa, có thể trúng đầu Chúa Sơn Lâm, làm cho Chúa Sơn Lâm tưởng ḿnh bị trời đánh mà co gị phi như gió vào bụi rậm ?

    Tôi nh́n quanh gốc cây nhưng chẳng thấy một dấu vết nào của Chúa Sơn Lâm để lại. Rồi đứng tựa lưng vào một gốc cây, tôi cầm cái nhánh cây trong tay ch́a ra phía trước đề pḥng Chúa Sơn Lâm chụp. Tôi lấy cơm ra ăn, rồi uống mấy viên kí-ninh chận cữ. Xong, tôi quảy ba-lô đi tiếp. Tôi thấy bớt sợ các thứ hiểm nguy, cảm thấy như vừa được thử thách trước một thứ hiểm nguy ghê gớm và vui vẻ nhất!


    Còn tiếp ...

  8. #4368
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Tôi đi một quăng lại gặp một toán người, mặt mày cũng ngơ ngáo như toán người hôm qua. Họ đang đốn cây. Tôi thấy thiệt vui khi được nói chuyện với con người. Tôi hỏi một người:

    – Ở đây gần đến bệnh xá chưa các đồng chí?

    – Đi qua một con suối, rồi đi một rấn lên một quăng nữa, xong đụng một gốc cây thật to là rẽ sang bên phải.

    – Độ mấy tiếng nữa đồng chí?

    – Chậm th́ hai tiếng . Người ấy nói tiếp :

    – Nhưng sốt cái bụng sưng to, nước da vàng giống màu trái bứa chín như tôi đây, lá lách số 3 rồi, nó c̣n bảo tôi về lao động! Đồng chí c̣n tươi roi rói, nó không nhận đâu!

    Mặc, tôi cứ đi. Đi một chặp th́ tới một khoảng đất trống. Tôi nh́n vào. Không có dấu vết của sự sống. Chỉ có một mô đất… Tôi kêu lên. Chân tôi bị trồng chặt dưới đất. Mô đất kia cao quá mặt đất một ít, chỉ vừa đủ để gọi là một cái mô và nó dài như một nấm mồ.
    Tôi nghĩ như vậy. Và tôi không lầm, v́ dưới những ḥn đất lục cục tḥi ra hai cái bàn chân như hai cái bàn chân của một người nằm ngủ đắp chăn, đầu quay về rừng chân hướng ra đường như c̣n luyến tiếc con đường bỏ dở.
    Tôi nhìn một tí. Tôi không thấy ǵ ngoài hai bàn chân đă xanh đen. Chỉ trong giây lát nữa thôi, hai bàn chân đó sẽ được bọc bằng một đôi tất cườm óng ánh, mà mỗi hạt cườm là một chú nhặng xanh.

    Những ǵ lạ lùng nhất, kỳ quặc nhất, nếu anh chưa trông thấy ở đâu, hoặc anh chưa hề nghĩ rằng nó có thể xảy ra ở đâu, anh sẽ thấy trên con đường này , lần đầu tiên, cũng như hôm nay, lần đầu tiên, tôi trông thấy thi thể một con người được mai táng ở rừng theo nghi lễ … rừng.

    Một mảnh giấy gắn trên một cành cây sát lề đường ngay trước mặt tôi bị gió lay động, lắc lư nhưng không bay lên được, như mảnh linh hồn người xấu số chưa tan. Bất giác tôi nom vào. Trên tấm giấy có những ḍng chữ, rơ ràng từng nét. Lối chữ hơi ngoáy nhưng khá đẹp, câu trên câu dưới hẳn hoi:

    “Vào đây th́ ở lại đây,
    Bao giờ mộ mọc xanh cây th́ về!”

    Tôi như mờ cả mắt. Những chữ cứ như chạy trên mặt giấy lao xao như một đàn mối càng chạy loạn. Mỗi chữ như một mảnh oan hồn muốn cất cánh bay đi nhưng vẫn c̣n vấn vương cái xác nằm kia. Tôi lại nh́n đôi bàn chân, rồi quay lưng đi.

    Anh ta tên ǵ? Kẻ bất hạnh đă mang theo những ư nghĩ ǵ xuống đáy mồ? Câu hỏi đó sẽ làm đau khổ hằng triệu người có con em tập kết ra Bắc, có con em vào Nam chiến đấu. Nhưng sẽ chẳng có ai có thể trả lời nổi, dù khi đă kết thúc chiến tranh, ngoài một người mà người đó th́ không bao giờ trả lời nữa.
    Tôi vừa đi vừa chạy như sợ người kia vùng dậy đuổi theo. Tôi chạy như vừa thoát nạn.

    Tôi chạy một mạch, thấy mỏi chân, bèn đứng lại. Nhưng dù không mỏi tôi cũng không chạy được nữa bởi v́ đă tới núi. Đường ṃn nhẵn chứng tỏ người ta đi lối này rất nhiều. Tôi đi chậm lại, vừa đi vừa thở, hai lỗ tai lùng bùng chập lâu mới hết.

    Tôi đang đi bỗng dừng lại như chạm vào một cái ǵ trước mặt. Tôi thấy ngờ ngợ, rờn rợn. Tôi ngó quanh quất. Không thấy ǵ cả.


    Còn tiếp ...

  9. #4369
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Đường vắng tanh. Tử khí trùm cây cỏ. Tôi thấy chùng bước . Nhưng nếu tôi không tiêm được mấy ống thuốc này th́ không cắt cữ được, nằm đây mà sốt th́ một là chết, hai là quay về Bắc. Cả hai điều đó tôi xem như tai hoạ ngang nhau. Bỗng nhiên tôi thấy như có ma lực đẩy phía sau lưng tôi.

    Tôi rẽ vào và rấn lên ít bước th́ đụng vào … trời ơi, đụng vào một bộ xương. Rơ ràng một bộ xương trong một cái hốc đá. Nó trắng một cách ghê rợn. Tôi thấy không sợ hăi nhưng chỉ giật ḿnh khi vừa trông thấy. Tôi bước một bước đến gần bộ xương. Bên cạnh đó là một khẩu AK mà cái báng súng đă bị mối mọt gậm hết chỉ c̣n trơ lại cái cốt sắt. Cái ṇng súng cũng đă mục đi. Sét kết khối và vỡ ra từng mảng. Tôi quay trở ra ngay và đi tiếp vô phía bệnh xá.

    Có lẽ người này cũng đi bệnh xá như tôi. Đi đến đây anh ta kiệt sức. Anh ta định nghỉ chân một chốc rồi đứng dậy đi tiếp. Nhưng anh đă không gượng sức được cho nên anh ngồi xuống và không bao giờ đứng dậy nữa. Ai biết anh ta tên ǵ, quê quán ở đâu? Cũng như anh bạn nằm dưới đất ló hai bàn chân ra lúc năy, anh bạn này đă đi và không đến.

    Tôi đi miết cho đến đứng trưa th́ lọt vào khu vực mà thỉnh thoảng lại thấy rơi rớt một vỏ ống thuốc hoặc một mẩu bông g̣n nhuộm thuốc đỏ. Đích là bệnh xá rồi. Chắc hai anh giao liên người Thượng đă cáng bệnh nhân đến đây từ hôm qua.

    Mặt tiền của bệnh xá được trang trí bằng một dăy mộ lè tè mặt đất và một cái huyệt vừa đào xong đất c̣n mới. Chắc sắp chôn ai đây. Người chết nhiều đến nỗi không có cái chết nào làm xúc động những người trông thấy. Và người bệnh cũng nhiều đến nỗi y tá bác sĩ phải trốn lánh hoặc đưa mắt nh́n qua mà không xem đó là trách nhiệm của ḿnh, cho dù là bệnh nhân đến tận bệnh xá và gặp bác sĩ ở ngay bệnh xá! Như tôi hôm nay đây.

    Từ lúc tôi vào cho đến lúc người ta xem giấy tờ, tôi mất đến hai tiếng đồng hồ. Cái con người xem giấy tôi là một người béo ,gương mặt bầu bĩnh. Đặc biệt cặp mắt anh ta lộ hẳn hơn mọi cặp mắt lộ b́nh thường. Có lẽ mỗi khi xem giấy hoặc nh́n người bệnh, anh ta phải trợn trạt, phải trố mắt ra nh́n thật kỹ xem bệnh nhân có đủ điều kiện cho anh ta săn sóc hay không .

    Anh ta xem giấy của tôi xong , nh́n tôi đau đáu rồi nói giọng lạnh lùng:

    – Anh sốt như thế th́ ở nhà chữa bằng kí-ninh thôi. Vô đây làm ǵ? Vô đây anh c̣n bị bệnh nặng thêm. Tôi nói cho anh biết, ở đây là ổ của một trăm thứ bệnh, nó lây anh hiểu chưa? Các anh hễ cứ bệnh tí là đi bệnh xá. Bệnh xá ở đâu, chứ ở đây chẳng có cái mẹ ǵ cả, ngoài ba viên kí-ninh và một lọ thuốc đỏ. C̣n tệ hơn thời đánh Tây cưa chân bằng cưa thợ mộc.

    Anh ta nói chưa hết câu chuyện th́ đă quay sang cạnh hỏi một người khác có lẽ cũng là y tá:

    – Thằng cha thương hàn đi rồi à?

    – Chịu ǵ nỗi mà chịu!

    – Bảo văn pḥng xuất 3 thước vải đen. Tội nghiệp!

    Rồi anh ta quay sang tôi:

    – Anh nào hồi mới vô đây chỉ có sốt rét thôi. Nằm ở đây, chữa sốt rét chưa xong là bị thương hàn. Thương hàn chưa khỏi, dính luôn kiết lỵ. Anh ấy nằm ở trại cách ly, tội lắm! Nằm lâu quá lỡ cả lưng, loét cả mông …. Anh ta là tỉnh ủy viên đó, cho nên tiêu chuẩn được ba thước vải đen hơn anh em.

    Mới tới lúc đầu, nghe anh ta nói, tôi hơi khó chịu nhưng dần dần tôi thấy anh ta nói có lư cho nên tôi mới tŕnh bày chuyện của tôi một cách b́nh tĩnh. Tôi nói:

    – Thú thật với đồng chí là tôi không biết ǵ về bệnh xá cả! Tôi cũng không có ư định vào nằm ở đây. Tôi chỉ xin nhờ các đồng chí tiêm dùm tôi mấy mũi kí-ninh 0,40.

    Anh y tá nhảy cỡn lên:

    – Cái đó làm ǵ có ở đây. Vô lư! vô lư! Chúng tôi không thể nào giúp đỡ đồng chí được.

    Tôi cười nhă nhặn và tiếp:

    – Dạ tôi chỉ nhờ đồng chí tiêm dùm thôi, c̣n thuốc th́ tôi có.

    Vừa mới đến đó th́ từ bên ngoài có một cái cáng đi vào. Anh y tá lắc đầu:

    – Tôi trốn mất! Tối rồi cũng nên cho người ta nghỉ với chớ!

    Nhưng cái cáng vẫn đi vào. Người bệnh nằm trên vơng cứ ngóc lên múa tay loạn xạ như đấu vơ với một đối thủ vô h́nh và mồm cứ la hét, cứ nói lải nhải không đầu không đuôi, có khi vô nghĩa, có khi có nghĩa như một tên say rượu.

    Một tiểu đội đi phía sau để thay phiên nhau khiêng. Một cậu luôn luôn đi bên cánh chiếc cáng để đè bệnh nhân xuống khi anh ngóc dậy múa may, hoặc xé quần xé áo, lao ḿnh xuống đất.
    Khi vô đến nhà, hai người đặt cái cáng xuống giá. Một anh có vẻ là chỉ huy tốp người khiêng , nói với anh y tá:

    – Đồng chí này là trung đoàn phó đây .. Tiếng Liên Xô đồng chí ấy nói lẫy c̣ không kịp … Không biết bệnh ǵ kỳ cục quá. Cứ múa cứ hét như thế suốt đêm ngày. Có khi nói toàn chiến lược chiến thuật y như giảng bài ..

    Tôi không muốn nh́n lâu cái cảnh tượng năo ḷng ấy nữa. Đúng ra tôi muốn trở ngay lại trạm với Thu. Nhưng chiều đă xuống hẳn rồi. Giá mà tôi bẻ mấy ống kí-ninh 0,40 tôi uống được th́ tôi đâu có phải cực khổ thế này.
    Tôi quảy ba-lô đi t́m chỗ ngủ, không nhờ ai dẫn cả. Tôi đi theo một con đường ṃn dẫn xuống một cái lán lợp bằng lá rừng và ni-lông.

    Tôi bước vô lán ngang nhiên xem ḿnh là bệnh nhân đă được thuận vào nằm. Không có một cử chỉ nào của tất cả những người nằm trong lán tỏ ra vui buồn khi tôi bước vào. Vài người đưa mắt nh́n tôi, rồi thôi, làm như không có ǵ mới cả.


    Còn tiếp ...

  10. #4370
    Tran Truong
    Khách

    Đường Đi Không Đến _ Xuân Vũ

    Tin tội đồ , mất cảnh giác là tự sát _ Tin kẻ cướp , hoà đàm là mất nhà

    .....


    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng[2]. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968. Trích :

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................... .....


    Lán chia làm hai phần. Một phần th́ gồm có hai dăy sạp nứa ọp ẹp, trên đó các bệnh nhân nằm chen chúc sắp lớp như cá ṃi. C̣n một phần th́ toàn vơng, những cái vơng mắc song song với nhau, chiếc này sát chiếc kia. Bệnh nhân chỉ nằm im chứ không lắc được. Nh́n suốt hai dăy sạp nứa, không thấy ai quen, không một chỗ trống. Tôi đưa mắt t́m chỗ trong dăy vơng. Đây là chỗ lư tưởng nhất, nhưng không thể nào chen được!

    Nền đất thâm ś. Mấy cái chén bể lăn lóc. Mấy đống ói mửa không ai hốt. Cơm văi ra ở giữa láng. Dọc theo đầu sạp, những cái áo, cái quần treo ṭong teng đă lên mốc. Từ tất cả những cái đó bốc lên một mùi chết.

    Tôi trở ra ngoài t́m chỗ mắc vơng, tự nhủ thầm rằng , qua đêm nay thôi, từ nay về sau xin bái luôn các thứ bệnh xá. Ở ngoài trạm ḿnh thấy bệnh ḿnh nặng lắm, nhưng khi vào đây th́ bệnh ḿnh đúng là một thứ bệnh vặt vô nghĩa lư so với mọi người.

    Tôi nôn nao muốn trở về ngay, muốn bay đi ngay. Khi tôi đi, Thu lo lắm. V́ tôi đi có một ḿnh và Thu ở nhà một ḿnh với Việt.

    Tôi đang nằm suy nghĩ vơ vẩn th́ có tiếng kẻng. Một que sắt gơ vào một cái vỏ đạn không thành nhịp thành hồi ǵ cả, làm như người gơ kẻng không có đủ th́ giờ để làm cái việc đó cho trọn vẹn.

    Tôi nh́n lại th́ thấy thiên hạ chạy rầm rập về một hướng với ca, với bi-đông trên tay, leng keng lộp cộp, như một cuộc chạy đua hỗn loạn mà đích tới chắc chắn là nhà ăn.

    Tôi biết là giờ cơm.

    Tôi có thức ăn nhưng không có cơm, tôi phải đi lănh cơm. Kinh nghiệm ở đường dây cho tôi biết rằng nạn ăn cắp rất thịnh hành. Cho nên khi tôi lọ mọ cuốn vơng xong, mang ba-lô tới nhà bếp th́ người ta đă tràn vào kín cả một gian nhà, tôi không chen vào được.

    Người ta kêu lên có vẻ vui mừng:

    – Tuyết Mun phát cơm bây ơi!

    – Thế hả. Vậy là ḿnh có thêm tí cháy!

    – Con Tuyết Trắng phát th́ đói meo.

    Trời mưa lâm râm vừa đủ ướt áo. Cái mùi đất đặc biệt của bệnh xá do hằng trăm thứ pha trộn, bốc lên xộc vào mũi tôi làm cho tôi chốc chốc lại phải sịt mũi một cái hoặc nhón chân lên ngửa mặt lên trời mà hít một hơi thật dài cho căng hai lá phổi ra.
    Cái mưa ở rừng tuy không buốt, nhưng nó dai dẳng héo ruột héo gan chẳng khác mưa phùn miền Bắc là mấy.

    Mọi người phải chen chúc nhau đứng trong nhà vây quanh thúng cơm. Cái thúng cũ thâm đen đă rách, đựng cơm trắng bốc khói mù mịt. Tuyết Mun, một cô gái vừa gầy vừa đen đúa như tên gọi cô ta, tay cầm danh sách bệnh nhân đọc to lên. Anh nào anh nấy ngóng cổ lên nghe, khi đến tên ḿnh th́ đáp lại một tiếng “có” rất to, như tự xác nhận rằng : “tôi đang đợi ở đây khi Đảng gọi để lănh cái khẩu phần cơm gầy c̣m mà tôi có quyền hưởng thụ.”

    Đọc một lượt 8 tên th́ Tuyết Mun lại phát cơm. Một khẩu phần một bát sét. Nếu nắm lại th́ được một nắm lỏng lẻo.
    Những cái ca, cái đĩa nhôm chen vào, ch́a vào tua tủa kín cả thúng cơm, tranh nhau lănh trước (v́ lănh sau có khi hết cơm, hoặc không đủ cơm, khẩu phần rút xuống kém hơn), Tuyết Mun gạt phắt ra và quát ầm lên.

    Vài anh cứ tḥ tay bốc lấy một cục, hoặc bẻ một miếng cháy bỏ vào mồm nhai rau ráu.

    Cứ tám anh th́ lập một khóm, lănh cơm xong th́ sang lănh thức ăn. Rồi kéo nhau ra ngoài giữa trời mưa lúm xúm chia với nhau, chí choé. Tôi nh́n thấy mỗi mẩu thịt thâm đen to bằng từng lóng tay một.

    Tôi nghe một người nói:

    – Hôm nay mỗi đứa lănh được một cái má “phanh” xe đạp!

    – Không! một mẩu dép lốp cao su.

    Tôi đứng chờ cô Tuyết Mun phát đến khẩu phần cuối cùng để tôi xin lănh cơm th́ cô ta đáp:

    – Anh mới vô đâu có báo cho nhà bếp?

    – Cô cho tôi lănh gạo được không?

    – Thôi được, để tôi giải quyết cho!

    Nói xong Tuyết Mun quay vào bếp một chốc, trở ra trao cho tôi một dĩa nhôm đầy cơm và nói:

    – Khẩu phần của tôi và Tuyết Trắng đó.

    Tôi thấy Tuyết Mun tuy da dẻ đen đúa nhưng duyên dáng mặn ṃi, có lẽ cô ta ít bị sốt.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 7 users browsing this thread. (0 members and 7 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •