Page 463 of 471 FirstFirst ... 363413453459460461462463464465466467 ... LastLast
Results 4,621 to 4,630 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #4621
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................



    Mỗi khi tôi qua cơn sốt, Sáu Lăng và Thủy Thủ đến nấu trà uống với tôi. Một người nữa cũng đến là nhà văn Anh Đức. Anh ta không thích tôi mà tôi cũng không thích ǵ anh ta. Hồi ở Hà Nội, sống cùng nhà nhưng không chơi chung v́ anh ta là ngôi sao sáng nhất trong Hội Nhà Văn, c̣n tôi th́ cứ như lục b́nh trôi, dở không dở hay không hay, ai đến đâu tôi đến đó. Tôi vô Hội trước anh ta nhưng viết không được, cứ viết tới viết lui ba cái chuyện kháng chiến không có lập trường và suông đuồn đuột, c̣n anh ta th́ lên như diều, tác phẩm lớp in sách , lớp được lấy làm phim. Tố Hữu cho đó là cây bút số một, trên cả Nguyên Ngọc.

    Khi về gặp nhau ở đây th́ hầu như không c̣n những t́nh cảm cũ, thấy thương nhau hơn v́ hai đứa bây giờ hiểu ra ḿnh đều là nạn nhân và tội nhân của đảng cả. Khổ như con chó để sau này Nam Kỳ lại tiếp tục là thuộc địa của Bắc Kỳ như hai đứa cùng biết quá trễ!

    Nh́n thằng bạn, tôi hết biết nói sao. Tôi vụt nghĩ đến thân thể ḿnh rồi sau này cũng thế mà ớn ḷng. Trước kia nó trắng, cao, có một cái răng cửa sâu ăn, nói chung là đẹp trai. Đào hát bóng xưởng phim Hà Nội có cô từng mê nó mà. Nhưng bây giờ than ôi ! Nó đă trở thành một anh chàng nào khác. Mặt đầy nốt đen thâm như sẹo trái rạ, da bủng vàng hay xám ngoét ... tôi cũng không rơ nữa, một thứ nước da kỳ dị, thú thực tôi chưa từng thấy ở đâu. Tay th́ nổi hột như da trái khổ qua, da chân như da cóc. Môi thâm sịt.
    Trời ơi ! Đó là kết quả hai năm ở rừng của một chàng trai. Thoạt đầu nh́n thấy nó , tôi hoảng hồn, nhưng rồi tự bảo: ḿnh th́ cũng có đẹp đẽ ǵ ! Loan, vợ chưa cưới của Anh Đức, nữ sinh Hà Nội, nhân viên giữ thư viện của Hội Nhà Văn, cũng vô một chuyến với tôi. Ở đâu th́ vợ chồng cũng có thể hưởng hạnh phúc, nhưng ở rừng th́ vợ chồng là một điều bi thương. Thằng đàn ông đă bệnh hoạn kiệt sức .... lại càng kiệt sức bệnh thêm.

    Lúc tôi c̣n ở Hà Nội, Anh Đức gởi thơ ra xin cho Loan vào. Bố Loan là tù chính trị cải tạo, mười năm mà không “tiến bộ” nên ở trên xét trường hợp của nàng một cách đặc biệt. Nếu không phải là người yêu của nhà văn Nam Kỳ đă về Nam th́ không đời nào Loan được vô. Loan bị ở trên ngâm hồ sơ cả năm trời. Tố Hữu phán quyết , cuối cùng Loan mới được đi. Vào đây rồi, Loan sầu ảo năo. Chỉ được phút đầu. Cơ quan tổ chức đám cưới cho hai đứa với hai gói trà và mấy thỏi kẹo. Vậy cũng đă là cả một vấn đề … tổ chức !

    Sau đám cưới là sốt rét. Hai đứa thay phiên như hợp tác xă vần công. Loan đi đường khỏe mạnh, vượt lên đi trước cả đoàn. Rủi thay, một lần vấp đá bị trẹo chân, cổ chân sưng vù. Đoàn phải họp tức khắc, quyết định khiêng Loan đi theo như một ân huệ chưa từng có , bất cứ ở quăng nào trên đường này. Hồi đó tôi c̣n khỏe nhưng không tham gia vào làm “phu kiệu cưới” v́ tôi cho là dù có khiêng th́ giỏi cũng chỉ được vài ba trạm. Nhưng đám thanh niên thuộc đội vũ Ba Lê cố tỏ ra ḿnh là lực sĩ nên cứ khiêng.

    Đâu được vài ba trạm th́ tôi sốt, đi không nổi, nằm lại, chẳng ma nào d́u dắt, mang dùm ba-lô nói chi tới khiêng. Trên đường này cũng có những tên nịnh đầm dữ dội, không biết có được xơ múi ǵ không. Bây giờ Loan đă vô đây và đă là vợ của nhà văn số một miền Bắc xă hội chủ nghĩa , cũng là người có thâm niên ở rừng cao nhất Hội Văn Nghệ Giải Phóng, trừ Lư Văn Sâm.

    Trong rừng lúc bấy giờ chỉ có hai cặp uyên ương là vợ chồng Anh Đức và vợ chồng Lư Văn Sâm. Vô đây tôi mới vỡ nhẽ ra được nhiều thứ.

    Ở Hà Nội khi nghe Đài Phát Thanh Giải Phóng tường thuật “Hội nghị văn nghệ R dưới quyền chủ tọa của Chủ tịch Trần Hữu Trang, nhà văn Lư Văn Sâm đọc báo cáo thành tích hoạt động của hội trong năm qua, nhà văn Anh Đức báo cáo những mắc mướu trong vấn đề sáng tác”, bọn tôi cứ nhảy nhổm cả lên, ngủ nghê không được. Phải chi có cánh bay về gấp gấp để dự hội nghị và băng ḿnh qua khói lửa để sáng tác v.v…

    Sau đó đâu vài tháng lại nghe đài tường thuật về buổi lễ long trọng phát phần thưởng cho các tác giả trúng giải thưởng Văn Học Nguyễn Đ́nh Chiểu. Những tác phẩm được nêu tên là “Ḥn Đất” giải nhất về tiểu thuyết, tập thơ của thi sĩ Giang Nam giải nhất về thơ v.v…
    Đồng chí chủ tịch Mặt Trận trao tặng (chứ không phải chủ tịch Hội Văn Nghệ Giải Phóng đâu đấy nhé, chớ có lầm. Ảnh chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ được treo ngang ảnh Hồ Chủ Tịch ở tiền đ́nh nhà hát lớn kia ḱa. Vậy chẳng khác nào Hồ chủ tịch trao tặng). Nghe thế bọn tôi càng nôn, nóng nảy muốn về mau. Đồ đạc ai xin cũng cho, giá mấy cũng bán. Phải về, nếu không, th́ không kịp hưởng vinh quang.

    Bây giờ về rồi: Công chúa mặt lọ!

    Ông Tổng thư kư Hội Văn Nghệ Giải Phóng mặt mũi trỏm lơ, ngồi đâu không đứng dậy nổi, cứ ngáp vắn ngáp dài. Ông Phó chủ tịch th́ khá hơn nhưng lại mang bịnh ghẻ hờm. Mỗi sáng phải bỏ ra hai tiếng đồng hồ để gỡ mài ghẻ c̣n bao nhiêu thời giờ th́ lại dành vào việc chăm sóc đám lác voi.


    Nói có trời đất chứng minh, chỉ một ḿnh Trưởng Tiểu ban Văn Nghệ là Sáu Lăng được sức khỏe kha khá không ghẻ hờm, không lác voi, sốt cũng ít. Nhờ vậy ông mới chạy chọt lănh tiền xin gạo, thuốc kư-ninh và bông băng thuốc đỏ về cho anh chị em dùng.

    Té ra đài Giải Phóng gạt được cả bồ nhà. Tài ! Tài thật. Tiên sư anh Giải Phóng! Trong số về trước tôi c̣n có vài nhân vật độc đáo khác nữa. Trong đó có nhà phê b́nh trẻ Từ Sơn , con nhà văn Viện phó Viện Văn Học , đầu sỏ số một chống Nhân Văn Giai Phẩm 1956 Hoài Thanh.
    Cậu sinh viên này vừa soọc-ti đại học Văn Khoa của Phạm Huy Thông hay của Hoàng Xuân Nhị ǵ đó muốn vô chơi cho biết xứ Nam Kỳ và dạy dỗ dân Nam Kỳ phê b́nh văn học theo đường lối đảng.

    Nhưng vô tới đây nằm mắc kẹt ở đây v́ tỉnh , quậ̣n , giải phóng của ông Thọ đâu có rộng bằng cái bánh bẻng của bé gái lên ba mà có sinh hoạt văn học. Không có văn học th́ lấy ǵ để phê b́nh? Cái cầy đặt trước con trâu nhà phê b́nh Từ Sơn tối ngày xung phong bửa củi cho nhà bếp. Đừng tưởng đùa. Bửa củi tốt hơn ngủ trưa. Nếu nằm không th́ cứ nằm ngáp dài một lúc là ngủ. Ngủ dậy nghe ơn ớn, rồi vài hôm là sốt. Cho nên bửa củi rất lao tư lưỡng lợi.

    Nhân vật thứ hai là Ca Lê Hiến, cũng sinh viên Văn Khoa cùng khóa với Từ Sơn, nhưng lại làm thơ. Thơ Ca Lê Hiến được Tố Hữu khen. Do đó Hiến được tiến cử về Nam một cách suông sẻ, khỏe hơn tôi nhiều! Hiến là con trai thứ bảy, thứ tám ǵ đó của cụ Ca Văn Thỉnh đốc học liên tỉnh Bến Tre, thị xă quê tôi. Cụ Thỉnh có cử nhân văn chương, có bút hiệu là Ngạc Xuyên, thời Pháp thuộc đă từng thông dịch cho toàn quyền Decoux tại sân vận động Bến Tre khi tôi c̣n là học tṛ Trung học.
    Cách mạng tháng tám nổ ra, cả gia đ́nh vợ con cụ đi kháng chiến đủ mặt. Nếu tôi không nhầm th́ cụ từng làm Bộ trưởng Bộ Giáo Dục hay một bộ nào đó trong chánh phủ liên hiệp hồi 1946. Bến Tre kể cũng có nhiều người hữu dụng cho kháng chiến lắm , nhưng khi kháng chiến thành công họ đều ra ŕa. Chính tôi thấy tận mắt, cụ Thỉnh được thưởng công kháng chiến bằng chức Giám đốc Thư Viện ủy Ban Khoa Học , mà sách vở phần lớn là tiếng Nga cho nên mỗi ngày có chừng hai người tới đọc, trong đó có thằng con trai của cụ là Ca Lê Hiến biết tiếng Nga. Nhà nước cho cụ cái nhà mà trước kia Tây dùng nuôi chó bẹc giê ! Hỡi ơi dân Thành Đồng Tổ Quốc ! Phơi xương đổ máu để cho ai ?

    Ca Lê Hiến có người yêu đi học Trung Quốc là em gái của Anh Đức. Cô nàng tên Lan Anh. Do đó, Hiến lấy bút hiệu là Lê Anh Xuân. Khi Hiến lội tới trong này th́ Lan Anh từ Trung Quốc về Hà Nội. Thơ của Lê Anh Xuân làm nhiều hơn cả Giang Nam. Chàng đang làm trường ca “T́nh Yêu Song Sắt Nở Hoa” để ca ngợi mối t́nh của Nguyễn Văn Trỗi và cô Quyên th́ thư từ Hà Nội phóng vào, Lan Anh cho biết: “Em không thể chờ đợi anh. Vậy anh cứ đi đường anh và em đường em!”
    Nhà văn Anh Đức giận cô em gái nổ trời , nhưng làm ǵ được khi trái tim Lan Anh không c̣n ḥa nhịp cũ với trái tim Xuân ? Nhất là hai bên ở cách xa ngàn cây số th́ bàn tay phàm cũng khó nỗi rút ngắn đường đất , cho hai người gặp nhau để tâm t́nh và hôn hít được. Thói đời yêu nhau trên giấy, hôn nhau trong thơ vài lần th́ c̣n “thơ” nhưng cứ năm này sang năm khác th́ thơ hóa ra thơ thẩn rồi thơ thẩn trở thành ngơ ngẩn và nàng quất ngựa chuối dông luôn.

    Anh Đức gởi thơ ra dọa: “Tao từ mày.”

    Lan Anh gởi thơ đáp lễ: “Em có cuộc đời của em ! “

    Thế là nhà thơ Lê Anh Xuân “ôm song sắt nở hoa” một ḿnh.

    Sau đó ít lâu, Lê Anh Xuân đi Long An với một anh cán miền Bắc. Cả hai chết dưới hầm bí mật v́ nghẹt thở. Cái chết của Lê Anh Xuân được báo về Hội Văn Nghệ Giải Phóng như một tin sét đánh ! Nó làm cho những kẻ định đi Đồng Bằng lấy đề tài như tôi teo ruột.

    Tưởng đến hóa ra chưa đến.

    Từ rừng Cao Mên mà lội về tới Bến Tre là cả một cuộc đi vô cùng nguy hiểm , không bằng th́ cũng hơn cuộc leo núi Trường Sơn chớ không phải dễ. Những người đă đi rồi về lại được R kể như đầu thai kiếp khác. Trong những người này có Anh Đức, kẻ đă về tận Rạch Giá để lấy tài liệu viết tiểu thuyết Ḥn Đất. Theo anh ta kể lại th́ phải qua vô số “cửa tử. ” Đồng Chó Ngáp, Sông Cửu Long, Lộ Đông Dương và đồn bót, chụp dù, máy bay, tàu lặn, cà nông của Mỹ gấp ngàn lần hồi kháng chiến chống Pháp.

    Tôi nằm vơng cả ngày nh́n lên nóc tăng, cứ tưởng tượng đó là nóc nhà của ḿnh cho đỡ khổ. Ở trên bảo riêng tôi: Về Bến Tre cố gắng viết một cái tiểu thuyết về Đồng Khởi ! Vẫn ghi khắc lời dặn ḍ và mong ước ấy của cấp trên, nhưng làm sao về ? Về tới nơi th́ mới mong viết được chứ bỏ xác dọc đường th́ viết làm sao?

    Cái mộng viết tiểu thuyết Đồng Khởi trong tôi rất to. Nó vừa là tác phẩm vừa là mối hận tôi phải rửa cho xong, mối hận gần mười năm sống trên đất Bắc in ba quyển sách chẳng ra hồn.

    Từ một hội viên trẻ nhất vô Hội sớm nhất, sau một thời gian đă được xếp vào hạng “sắp bị đưa xuống hội viên dự bị!” Điều này c̣n bí mật , nhưng một thằng bạn Nam Kỳ vô Hội sau tôi bấy giờ đă vào ban chấp hành, rỉ tai cho tôi biết.

    – Mấy ổng chẳng có xét vấn đề chính trị ǵ ǵ của mày đâu (tức là vụ lên ủy Ban Quốc Tế xin về Nam) mà xét qua các truyện của mày.

    Tôi bảo:

    – Xuống dự bị th́ xuống chứ tao c̣n biết làm sao bây giờ. Tao viết không được v́ tao viết không được ! Tao chịu thôi !

    Bây giờ lấy cái tiểu thuyết Đồng Khởi mà phục hận cho chính ḿnh vậy.


    Những ngày nằm sốt rét lây lất ở Hội Văn Nghệ Giải Phóng, tôi gặp lại Hoàng Việt đi móc vợ ở sông Sài G̣n trở về. Sau một thời gian tẩm bổ, anh khỏe lên nhưng tóc th́ bạc hết và mặt như sưng, da mặt láng như vỏ vú sữa. Anh khoe:

    – Tao đạt mục tiêu rồi ?

    – Mục tiêu ǵ ?

    – Mục tiêu tao nói hồi ngoài Trường Sơn đó !

    – À anh đă móc chị Bảy vô rồi hả?

    – Tao về tới là móc vô ngay.

    – C̣n yếu vậy mà cũng cả gan móc!

    – H́ h́… mày cũng nên tính việc móc đi. Cơ quan đài thọ tiền móc.

    – Nhưng tôi có quen với ai đâu mà nhờ.

    – Cơ quan lo luôn cho mày. Có móc chuyên nghiệp. Họ đi một phát móc luôn năm, bảy gia đ́nh.

    – Anh gặp chị Bảy thật không?

    – Cái thằng ! Không chị Bảy mày th́ ai ?

    – Có ḷi mấy cái h́nh em bé tóc vàng Bungari ra không?

    – Tao đốt hết trước chứ mày !

    – Bả có hạch hỏi ǵ không?

    – Hạch ǵ mà hạch. Tao dẫn cái xác về tới được cho bả thấy là quới rồi. Nhiều thằng từ Sài G̣n đi một lượt với tao đâu có về nữa.

    Hoàng Việt móc trà bao ch́, lấy sữa Con Chim ra pha cho tôi uống. Anh bảo:

    – Của bả đem ra đấy. Rồi vung tay lên :

    – Cái đồng hồ Movado này nữa. Rồi cả bộ đồ này nữa. Tao lột xác ... Trường Sơn vứt cả rồi.

    – C̣n cái vơng đâu ?

    – Tao cũng có vơng ni-lông mới.

    Hoàng Việt vừa móc thuốc lá thơm ra hút vừa đáp :

    – Cái ǵ cũng mới cả chỉ có vợ cũ . Nhưng vieille marmite, bonne soupe ! (nồi cũ canh ngon!)

    – Sao chỉ biết mà mua vơng mua dù cho anh?

    – Mấy bà móc nói cả chứ! Chắc chắn là thằng Lê Tương phùng ra đời vào năm tới !

    – Lê Tương Phùng nào?

    – Cái thằng ! Hoàng Việt trợn mắt :

    – Mày mau quên quá mậy . . .

    Tôi sực nhớ ra đó là thằng con mà anh dự định sẽ có sau khi gặp chị. Anh đem nào sữa nào cà phê ra liên hoan với tôi và kể chuyện bốp trời.
    Sữa Con Chim thơm bát ngát cả một vùng rừng âm u man rợ. . . Chợt nhớ tới hộp sữa của thằng Thuần cho trên đường Trường Sơn, tôi hỏi:

    – Anh biết con Thu về tới đây chưa?

    – Nó vô đây lâu rồi. Nhờ nó đi chung với đoàn của ông Mặt Sắt. Bộ mày muốn sưu tầm vốn cũ dân tộc hả? Để tao chỉ cho. Nhưng mà phải chờ.

    – Chờ ǵ?

    – Chờ cho mày lấy lại sức chớ chờ ǵ. Mày bây giờ ruồi đậu lỗ mũi không đập nổi mà ! Gặp làm ǵ ?

    – Chậc ! Th́ hỏi cho biết vậy thôi ! Nó đến nơi, tôi mừng chớ tôi có muốn gặp làm ǵ đâu ?

    – Thiệt không muốn gặp không? Mày mà ḅ đi được là mày t́m nó ngay chớ không muốn. Nó ở ngoài đoàn của chị Ba Thanh Loan kia ḱa. Tao vừa gặp bả. Tức cười quá. Hồi ở Sài G̣n trông bả mướt xầy, vô đây lùi xùi quá đỗi.

    – Thanh Loan nào?

    – Mày nhớ Thanh Hương không?

    Thằng cha ác thật. Cái ǵ chả cũng biết. Toàn chặn họng ḿnh. Thanh Hương là em Thanh Loan. Thanh Loan là đào thương của Đoàn Cải Lương Văn Nghệ Nam Bộ từ hồi kháng chiến.
    Tập kết ra Bắc là đào số một đoàn cải lương Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Bạch em ông bác sĩ Hưởng, Phó chủ tịch Quốc Hội bù d́n. Thanh Hương trẻ đẹp (giống in như Kiều Lệ Mai bây giờ). T́nh duyên trắc trở sao đó nên đang ở Sài G̣n hái ra bạc, bỗng bỏ đi bưng biền năm 1950. Ra Hà Nội đóng vai Nguyệt Nga và Điêu Thuyền độc chiếm sân khấu Cải Lương Nam Bộ ở Hà Nội năm, sáu năm liền.
    Thanh Hương có quen với tôi, tới lui nhiều lần và làm mai cho tôi một cô đào Nam Bộ cũng ở trong gánh hát này. Nhưng tôi không khứng, mà tôi lại muốn người khác tuy rằng tuổi cao hơn tôi. Nói thẳng ra là bà mai tốt số.

    Tại sao Hoàng Việt cũng biết mà khơi lại vết thương cũ?

    – Mày có muốn ra đầu quân làm lính của nữ tướng Thanh Loan không?

    – Sao kêu bả là nữ tướng?

    – Bả đóng các vai Phàn Lê Huê Lưu Kim Đính ở SàiG̣n nổi tiếng chớ sao.

    – Rồi tôi vác cà bắp đi hầu bà nữ tướng à?

    – Mày soạn tuồng cải lương cho bả.

    – Tôi đâu biết món đó. Mà đă có Nguyễn Ngọc Cung về rồi ! Ở trên đă cân đo sắp xếp cả.

    – Thằng Cung đi về Bạc Liêu luôn để móc gia đ́nh chưa thấy lên.

    Tôi lại nhắc vụ Lê Tương Phùng:

    – Anh có chắc năm tới chị Bảy ẵm Thiếu Nhi Cứu Quốc vô thăm anh không?

    – Chắc. Bài bản tao thuộc làu mà. Tuy mấy em tóc vàng bóc lột kha khá nhưng cây đờn ḱm vẫn lên dây ngon như thường.

    – Anh chị trăng mật được mấy ngày?

    – Đếch họ chớ mấy ngày !

    Hoàng Việt mắc vơng nằm song song với tôi và đốt thuốc hút. Anh hút không hở miệng. Một gói Ruby Queen đốt một ngày không đủ. Tôi cũng hút tới ngủ mới thôi. Ngủ mà hút được chắc anh cũng hút. Anh tḥ đầu qua rỉ tai tôi, nói bằng tiếng Pháp:

    – Révolution égale barbarisme. Cách mạng có nghĩa là dă man! Mẹ, thằng anh đă mười bảy tuổi, thằng em mới oe oe chào đời. Tao đi ṿng quanh trái đất mất bằng ấy thời giờ. Tưởng đi đâu ai dè cũng quay về chỗ cũ!

    Hoàng Việt rít khói rồi tiếp:

    – Trăng mật ǵ mà trăng mật. Dập mật th́ có.

    – Sao vậy? Ở đâu?

    – Bị ruồng chạy ra khói đít chớ sao. Bờ sông Sài G̣n đẹp lắm mày ạ. Có thể ngồi ở đó mà tưởng tượng sông Cửu Long cũng được nhưng bom pháo tơi bời chạy tuột quần tuột áo, ở đó mà trăng với mật. Gặp nhau chỉ hai mươi bốn tiếng mà thấp thỏm như ngồi bàn chông. Trực thăng nó bay như chuồn chuồn ! Cuộc chiến tranh này không có thơ mộng kiểu Lá Xanh, Nhạc Rừng (*) đâu đấy nhé. Để mầy về đồng bằng rồi sẽ nếm mùi tân khổ.

    (*) Những bài hát của anh sáng tác hồi chín năm.


    Mai tiếp ....

  2. #4622
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    TAXI SÀI G̉N XƯA


    Taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài G̣n – Chợ Lớn khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20. Khi ấy, người dân Sài G̣n vẫn quen miệng gọi là xe “cóc” hoặc “con bọ”.., tôi có vài người bạn là dân gốc Sài G̣n “chính hiệu” cho biết : “Đến giờ tôi vẫn nhớ như in h́nh ảnh của chiếc taxi cóc có màu xanh dương và màu vàng kem.

    H1: Những năm 1960 – 1970 đường phố Sài G̣n tràn ngập loại xe này, ngày đó những người dân cho dù giàu hay nghèo vẫn b́nh đẳng đi phương tiện này và không bao giờ phân biệt giàu nghèo như nay. Sau năm 75 những chiếc taxi này hầu như bị “tuyệt chủng” không c̣n xuất hiện trên đường nữa”.

    H2: Một nét văn minh khi đi trên những chiếc Taxi Sài G̣n xưa trước 75 hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, không biết có ai c̣n nhớ không ta ?

    Mới đây trong vài lần đi ngao du ḷng ṿng Sài G̣n có thấy một anh tên Ḥa năm nay cũng đă 65 tuổi, anh là một người Sài G̣n chính gốc một tài xế taxi trước 75 chia sẻ : “Tôi lái taxi lúc đó 21 tuổi, cũng vào những năm tháng huy hoàng cuối cùng của những chiếc xe taxi con cóc, lúc đó, bến Bạch Đằng là điểm đậu rất nhiều taxi.

    H3: Thời đó taxi không được trang bị bộ đàm, không có tổng đài như bây giờ, nên phải chạy ḷng ṿng để đón khách, hằng đêm, chúng tôi hay đậu xe gần các rạp hát cải lương để đón khách, những chiếc taxi thời kỳ này đa phần là nhập từ Pháp về Sài G̣n, sau đó được đăng kư và cấp phát số hiệu. Số hiệu được in lớn hai bên cửa, khách muốn đi taxi phải ra đường chờ xe chạy ngang qua rồi vẫy tay để gọi, hoặc ra tận những nơi đậu xe. Đi taxi thời bấy giờ chỉ tính tiền km, không tính tiền chờ như hiện nay”, anh Ḥa kể lại”

    1/. Gặp lại chiếc TAXI c̣n sót lại

    Taxi “con cóc” thời đó đặc trưng nhất là những chiếc xe mang tên Renault 4CV, do Pháp sản xuất đại trà từ năm 1947 và những h́nh dưới đây là chiếc Renault 4CV mang số hiệu Taxi – 1541, một trong số ít những chiếc taxi c̣n sót lại tại Sài G̣n và đang được phục chế sau hơn 40 năm “mất tích”, theo một thợ chuyên phục chế lại xe cũ, sau một thời gian bị lăng quên, hiện nay một số chiếc taxi xưa đang được phục hồi nguyên trạng, để phục vụ du lịch và dành cho những người muốn t́m lại chút hoài niệm về Sài G̣n xưa.

    Một nhà sưu tầm đồ cổ đă t́m và phục dựng thành công chiếc taxi Renault 4CV này. Anh cho biết sẽ đưa chiếc xe đến những địa điểm mà nó đă từng đậu và đón khách, cũng theo anh, chiếc taxi xưa hiện anh đang sở hữu được người bán lại cho biết, nó được cấp lại biển số sau giải phóng..

    H4: Taxi “con cóc” thời đó đặc trưng nhất là những chiếc xe mang tên Renault 4CV, do Pháp sản xuất đại trà từ năm 1947. Đây là chiếc Renault 4CV mang số hiệu Taxi – 1541, một trong số ít những chiếc taxi c̣n sót lại tại Sài G̣n và đang được phục chế sau hơn 30 năm “mất tích”.

    H5: Theo một thợ chuyên phục chế lại xe cũ, sau một thời gian bị lăng quên, hiện nay một số chiếc taxi xưa đang được phục hồi nguyên trạng, để phục vụ du lịch và dành cho những người muốn t́m lại chút hoài niệm về Sài G̣n xưa.

    2/. Những tính năng Taxi con cóc trước 75

    H6: Đồng hồ tính tiền, đây là một loại đồng hồ cơ học cũng sản xuất từ Pháp, được trang bị trên taxi thời đó hiện vẫn c̣n nguyên vẹn trên chiếc xe đang được phục chế, một nét văn minh Sài G̣n xưa, hầu hết các xe taxi thời đó đều viết khẩu hiệu tuyên truyền “Không bỏ rác xuống đường” để giữ đường phố sạch đẹp, thời đó, chủ nhân của xe được khắc tên, địa chỉ lên một tấm bảng gắn trên xe. Chiếc xe này thuộc về người chủ tên Nguyễn Thị Mười, ngụ đường Lê Văn Duyệt xưa (Cách Mạng Tháng Tám) nay..

    H7: Thời đó, chủ nhân của xe được khắc tên, địa chỉ lên một tấm bảng gắn trên xe. Chiếc xe này thuộc về người chủ tên Nguyễn Thị Mười, đường Lê Văn Duyệt, nay là đường Cách Mạng Tháng Tám, quận Tân B́nh.

    FB Yên Huỳnh chuyển tiếp

  3. #4623
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    .................



    Tôi hỏi:

    – T́nh h́nh căng như vậy, anh làm sao biết chắc Lê Tương Phùng sẽ ra đời ?

    – Bởi v́… chịp ! Tất cả đều từ ước mơ. Attends-moi ! Je reviendrai ! Đợi anh, anh sẽ về. Về rồi ! ước mơ đă thành sự thực. Nhưng rồi lại có ước mơ mới.

    Hoàng Việt ném cái tàn thuốc , đưa tay lên miệng hú to và nói:

    – Để tao kêu Ba Mực về nhậu.

    – Ba Mực nào.

    – Thằng Xuân Hồng !

    À, ra Xuân Hồng, tác giả nhiều bài nhạc giải phóng rất nổi tiếng ở Hà Nội, nổi tiếng hơn cả trong Nam, có cái tên là Ba Mực. Tôi chưa hỏi thêm th́ Hoàng Việt đă nói tiếp:

    – Nó là huyện ủy viên một huyện nào đó của Thủ Dầu Một tao quên rồi, không hiểu tại sao nó không lên tỉnh ủy mà lại nảy nách ngang làm nhạc sĩ mới kỳ chứ!

    Nhạc sĩ Xuân Hồng là một con người khỏe mạnh, cù lự như nông dân cơ bản. Ở rừng tối kỵ là xoay trần và mặc quần tiều (phơi sơ hở ra cho đ̣n xóc tiêm kí-ninh !) nhưng Ba Mực lại mặc quần tiều và ở trần, khoe bắp thịt c̣n rất cợm và rắn chắc.

    – “Chiến sĩ ta dầm mưa dăi nắng. Rét run người nắng rám màu da!” Hoàng Việt vừa nói vừa cười :

    – Làm một miếng trà Thiết Quan Âm cái đă rồi tính tiệc mặn !

    – Chứ không phải “chiến sĩ ta ngồi đâu ỉa đó, ỉa trong quần không biết mùi hôi” à? Xuân Hồng tự chế diễu.

    Tôi cười xă giao:

    – Có bài nào mới không, hát nghe chơi ta !

    Hoàng Việt xỏ ngang:

    – Y đang sáng tác trường ca dài hai trăm tám chục nhịp.

    – Vậy hả, tên ǵ ? Gởi ra Hà Nội chưa ? Ở ngoải đang chờ tác phẩm trong này gởi ra như chờ nước uống.

    Hoàng Việt cười:

    – Chưa. C̣n chờ sả ớt !

    – Bản ǵ mà có sả ớt trong đó.

    – Trường ca “Săn Mễn”!

    Tôi bật cười. Hoàng Việt tiếp:

    – Mục tiêu của nó là một tuần phải hạ được hai khỉ, một mễn, một cà khu c̣n chim cóc th́ không kể. Mày mới về chưa biết danh nó đâu. Để nay mai tao bảo nó sẽ bắn một con mễn liên hoan mừng mày về tới nơi.

    Hoàng Việt quay sang Ba Mực:

    – Vợ con có ra được không bồ .

    – Ra ǵ nổi mà ra anh Bảy !

    Ba Mực đưa tay cào cái đầu tóc xùi lên như cái bùi nhùi thợ rèn và nói tiếp:

    – Khó lắm anh Bảy ơi ! Hôm anh đi rước chị Bảy tôi muốn cản anh ghê lắm , v́ tôi sợ anh không thành công , nhưng thấy anh nôn nóng quá xá, nên tôi không dám .

    – Nóng chớ nguội sao được ! Hai mươi năm trời vợ con bất biết, bây giờ về tới đây sống chết cũng phải gặp

    Hoàng Việt nấu nước châm trà. Quần áo có làn xếp thẳng băng như giặt ủi. Trà rót ra ly tách , văn minh đàng hoàng chứ không uống bằng chén sắt Hungari hoặc nắp gà-mèn quốc doanh Hà Nội đâu. Hớp một ngụm trà, rít một hơi thuốc thơm rồi lắc lư cái đầu bùi nhùi, Ba Mực hỏi phong long:

    – Biết ông Bảo không?

    – Bảo nào?

    – Nguyễn Văn Bảo, dân chiến khu Đ hồi kháng chiến trước và là đồng chí Nam Kỳ 40 với Tô Kư.

    Tôi vọt miệng:

    – Phải Bảo sư đoàn 330 không? Tôi biết. Người cao lớn, mặt mũi hiền hậu, ổng là Chánh ủy Sư đoàn của Đồng Cống Bến Tre tôi mà. Ông có cho tôi đi ké xe jeep lên Nông trường Lam Sơn , hồi văn nghệ sĩ đi lao động thực tế sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm 1958.

    – Chết rồi ? Ba Mực nói gọn khô.

    – Trời đất ! Tôi kêu lên.

    – Ổng về đến bờ sông Sài G̣n th́ biệt kích bắn chết. Ở trên đưa ông về làm chính ủy I/4.

    – Vậy à? Vậy là lên chức dữ dội. Từ chánh ủy F lên chánh ủy Quân khu.

    Hoàng Việt ngồi lặng lẽ uống trà và phà khói mịt mù như núi lửa phun, để mặc cho tôi và Ba Mực tân cổ giao duyên chơi, hồi lâu mới trút xác trà ra và nói.

    – Lên chức con mẹ ǵ !

    – Từ chánh ủy F lên chánh ủy một khu mà không lên chức à? Tôi căi lại.

    Hoàng Việt chậm răi châm trà mới , rồi nói:

    – Mày ở ngoài Bắc cả chục năm mà vẫn c̣n ngây thơ. Chỗ nào bỏ mạng sa tràng dễ dàng th́ thằng Nam Kỳ đi đầu hết cả. Ngă rạp như cỏ lác bị phát rồi kế đó…

    -…mới tới ḿnh ! Ba Mực vuốt.

    Hoàng Việt lắc đầu:

    – Không! Ḿnh đâu có được đi tiếp theo. Mà là tụi Bắc Kỳ. Tụi nó dẫm lên xác ḿnh và đi tới nẫng chiếu nhất , chiếu nh́ ngồi chật hết. Xong đâu đó mới tới tụi ḿnh chầu ŕa đứng bốn góc chiếu chờ chúng nó ném cái xương nào lên đầu th́ mới nhào ra giật lấy mà gặm.

    Ba Mực cười:

    – Anh đi mấy năm trời bên “Bun-da-ri” mà cũng c̣n bất măn dữ vậy sao anh Bảy?

    – Th́ tao nói để rồi tụi mày coi có đúng không? Bắc Kỳ vô đặc rừng này hết rồi đó. Chừng nữa đây rồi từ Bộ trưởng cho đến tổ phó tam tam chế cũng đều Bắc Kỳ xực hết ráo, chứ đám dưa hấu chả có được cái con mẹ ǵ. Tao bảo đảm tụi mày như thế. Giỏi lắm th́ chỉ “phó” thôi. Phó nháy, phó may, phó nḥm, phó cối, phó vịn, phó đè, phó đội!…

    Ba Mực cười:

    – Ông Tư Siêng vô đây là để làm Bộ trưởng Bộ Văn Hóa đó cha nội !

    – Ừ, th́ ở trong rừng, nó phong chức đủ hết ! Nhưng khi về thành phố, bày đặt ra tiêu chuẩn xe hơi nhà lầu , phiếu đi mậu dịch quốc tế ḱa, chừng đó dân Nam Kỳ mới bị đá văng một cách rất đau đớn mà đếch có dám la. Bây giờ ở trong rừng với ba con cà khu này, thằng nào cũng ăn cơm nấu bằng chảo đụng, hơn nhau vài viên thuốc sốt rét, Bắc Kỳ nó đâu có thèm tranh giành cho mang tiếng mậy!

    Ba Mực ngẩn người ra. Tôi cũng có một bụng bất măn giống y như Hoàng Việt nhưng để Hoàng Việt sôlô cho Ba Mực nghe êm ái hơn. V́ tôi là thằng ăn nói lỗ măng hay chửi thề bọn Bắc Kỳ nên ngồi im rung đùi cho khỏe bộ gị Trường Sơn nhăo.

    Hoàng Việt chưa chịu x́ tốp. Anh uống trà liền liền đốt thuốc liên miên và tiếp:

    – Hồi kháng chiến chống Pháp tao thấy các ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần mà thương. Hai ông ấy có ở chiến khu D với tao một thời gian. Tao phục các ông lắm. Đại trí thức như vậy mà không thèm bơ sữa xe hơi nhà lầu, bỏ tất cả để đi kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. C̣n Luật sư Thái Văn Lung người Công giáo, hy sinh trong kháng chiến, Lê Trần nhạc sĩ nữa, kể sao cho hết. Nhưng qui luật của tụi Bắc Kỳ là như thế này: khi ṃ cua bắt ốc th́ cục muối cắn làm hai nhưng khi mâm cỗ dọn lên rồi th́ Bắc Kỳ quất trọn.

    – Bộ anh thấy vụ đó sao anh Bảy? Tôi cười khảy chọc tức anh bạn Nam Kỳ sồn sồn chơi.

    Hoàng Việt nguưt tôi một phát kinh hồn rồi bảo :

    – Mày biết rơ hơn tao chứ! Phạm Văn Bạch th́ ở hang chuột c̣n Phạm Ngọc Thuần th́ bị đày đi làm đại sứ bên Đức Quốc.

    Tôi nói:

    – Nói làm mẹ ǵ mệt cái mồm, để uống trà Thiết Quan Âm cho nó ngọt.

    Ba Mực nói:

    – Tôi c̣n một mớ khô nai đây đem ra “chống sốt” chơi.

    Ba Mực và Hoàng Việt ở chung một cḥi một cách tương đắc. Khi Hoàng Việt vừa về là Ba Mực rước tới cḥi luôn. V́ Hoàng Việt không c̣n khả năng dựng nổi một cái sườn cḥi và cũng không có đủ ni-lông để mà lợp. Cả tôi lẫn ông nhạc sĩ Giao hưởng số một của chế độ được xếp vào hạng sơ cấp (Xin phép dừng lại địt mẹ thằng Hồ và Trung ương đảng mỗi đứa vài phút) trong khi anh vợ thằng Lê Đức Thọ và mụ già trầu vợ Nguyễn Chí Thanh th́ lại đi vô Nam bằng máy bay Hàng không dân dụng và trực thăng Liên Xô. Chí công vô tư của đảng đấy !

    Hoàng Việt đến trạm cuối cùng là Kà Tum Kà Teo ǵ đó th́ không c̣n lết được nữa. Trần Bạch Đằng nghe tin bèn cho hai nhân viên ra cơng khiêng vác lôi anh nhạc sĩ về tới nơi th́ ngáp ngáp.

    Bây giờ đă lấy lại sức khỏe đi rước vợ, đi lung tung là nhờ ba cái thịt rừng của Ba Mực và ba cái xa xỉ phẩm Sài G̣n được tiếp tế qua tay bà vợ. Ba Mực ở chung với Hoàng Việt được cái lợi là học hỏi thêm ở đàn anh tiên tiến , c̣n Hoàng Việt th́ được Ba Mực săn sóc như một người yêu.

    Ba Mực lấy khô đem dụi vào bếp. Thứ khô này rất nhát lửa. Chỉ nháy mắt là đem ra dần là mềm mại ăn được ngay. Ngon lắm. Lại có cả rượu Tây. Quên là hiệu ǵ nhưng không phải “đế quốc Miên”. Thế là từ trà bắt qua rượu, từ việc nhà bắt qua việc nước, việc kia việc nọ̣ lung tung.


    Từ hôm về tới nay, tôi chỉ toàn ăn chực, uống chực , chứ không có tiền mua sắm một thứ ǵ. Sáng dậy th́ đầu này hú, đầu kia hú đến uống trà, trưa lănh cơm xong , một bạn nào đó bí mật x́ cho một ít ruốc thịt rừng hoặc một dúm lạc rang muối. Vậy là đă quí vô cùng rồi. C̣n chỗ ở th́ tấp vào cái cḥi chung với nhà phê b́nh ṇi là Từ Sơn con của ông Hoài Thanh.

    Anh này nghịch lắm. Đi ăn cơm về là nhào lên vơng nằm là rớt cái ạch thôi. Đó là do anh ta sửa dây vơng. Ở với anh ta nhưng tôi chỉ về để ngủ và những lúc bị ma rét hành, c̣n th́ suốt ngày tôi đi la cà hết lều này sang lều khác để hỏi thăm t́nh h́nh trong Nam và t́m gặp người quen từ kháng chiến chống Pháp.

    “Tiệc” sắp dọn ra th́ có tiếng cười khúc khích rồi tiếng chân khua lá khô. Tôi ngoảnh nh́n ra th́ thấy một bầy tiên cô tay ôm quần áo từ từ đi tới.
    Như một ảo ảnh xa vời, đám con gái vụt hiện ra trước mặt tôi, ngay bên thềm cḥi.

    – Đi tắm hả các em ? Ba Mực nhắp miếng khô rồi hỏi :

    – Đừng có quậy ngọp đục hết nước, để các anh uống trà nhé !

    Tôi vụt kêu lên:

    – Thu !

    Cô gái đi sau cùng c̣n lếch thếch ở phía bụi cây vừa nhô ra đi tới cḥi cũng khựng lại như tiếng gọi của tôi.

    – Thu với chả Đông ! Hoàng Việt càu nhàu một cách vui vẻ :

    – Mày đi đâu cũng gặp nợ !

    Thu vừa tới , th́ lũ con gái đi trước đă quá cḥi khuất dạng về phía suối. Thu đứng lại bên thềm ngẩn ngơ. Tôi hỏi tiếp:

    – Em vào đây đă lâu chưa?

    – Cả tháng rồi !

    – Ngồi trên vơng ḱa em gái, đứng mỏi chân ! Ba Mực trỏ cái vơng mời khách một cách ga-lăng.

    – Em phải đi, kẻo tụi nó trêu. Nó lại báo cáo với đoàn

    – Trêu cái giống ǵ ? Báo cáo cái ǵ ?

    – Đoàn có kỷ luật nghiêm lắm. Đi đâu phải đi tập thể!

    – Ừ th́ đi đi ! Hoàng Việt lúc nào cũng tỏ vẻ “ghét” các vụ nam nữ lăng nhăng.

    – Bữa nào em xin phép đoàn vào thăm anh ! Thu nói xong quay lưng đi.

    Tôi nh́n theo, sững sờ. Kể từ chia tay ở cái trạm gặp ông Mặt Sắt tới bây giờ là một trăm năm hay một tháng, tôi cũng không c̣n nhớ được. Tôi đă chết năm bảy lần và cũng đă sống lại năm bảy lần, tôi cũng không hiểu. Tôi càng không ngờ là tôi c̣n gặp được Thu.
    Thu bây giờ trông có vẻ trắng trẻo trơn tru không lùi xùi bủng beo như hồi đó.

    – Cái ǵ mà ngẩn ngơ thế kia? Này, uống một chút cay hâm bầu nhiệt huyết ! Hoàng Việt bảo.

    – Đoàn ǵ mà có kỷ luật nghiêm dữ vậy anh Bảy?

    – Đoàn Văn Công chứ c̣n đoàn ǵ ?

    – Trời đất ? Tôi kêu lên :

    – Văn Công ǵ ?

    – Th́ Văn Công chớ c̣n Văn Công ǵ ? Cái thằng !

    – Ở đây diễn cho ai coi ?

    – Cà khu, khỉ mặt xanh, khỉ mặt đỏ, nai, mễn, rắn rít và tụi ḿnh ! Ba Mực tiếp.

    Tôi mới sực nhớ ra rằng trong đoàn tôi đi , có đến cả chục cô em đẹp nhất lấy từ trường Múa và các đoàn Văn Công Trung ương trong đó có Phương của tôi và Thu.


    Mai tiếp ....

  4. #4624
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Phương đă bị phục kích chết ở Eo Máu trên đường về quê khu Năm. C̣n Thu th́ c̣n sống sót vô đến đây để gặp người yêu, nhưng dọc đường chúng tôi đă đi quá xa trên con đường t́nh cảm. Tôi muốn biết thêm về việc gặp lại người yêu của Thu ở trong này. Nhưng không tiện hỏi thẳng Thu mà cũng hơi khó hạch Ba Mực. Nhưng Ba Mực biết tỏng bụng tôi , nói:

    – Vụ đó xù rồi ! Thằng kia ở trong này lại lăng nhăng với một con nhỏ cải lương.

    Hoàng Việt cười, nh́n tôi một cách trêu chọc:

    – Mày nên báo cáo với tổ chức đi là vừa. Để nó trống chân lâu ngày có thằng nhảy vô đấy.

    Ba Mực cười:

    – Ra thế à ?

    – Th́ nó thế đấy. C̣n hơn thế nữa. Hà Nội đỡ rắc rối là nhờ nó và một thằng nữa đi vô đây.

    Ba Mực hỏi:

    – Thằng nữa là thằng nào?

    – Thằng Sáng ủy viên Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn. Đó là hai con quỉ chùa phá nhà chay ở ngoài đó, cho nên để cho dân Hà Nội an cư lạc nghiệp, người ta tống hai thằng vô rừng này.

    Ba Mực hớp miếng rượu khà một cái to và tiếp:

    – Muốn làm ǵ th́ dắt đi đâu , chứ ở đây không được đâu cha nội ơi !

    – Dắt đi đâu là đi đâu?

    – Không có đi đâu được hết, nghĩa là không có làm ǵ được hết.

    – Sao quái gở vậy? Hoàng Việt hỏi.

    – Các anh mới về nên chưa có thông t́nh h́nh ở trong này đâu! Đoàn Văn Công không cho ai yêu ai, không có nói tới cái vụ yêu đương trong lúc này. Để toàn tâm toàn ư phục vụ cách mạng.

    – Vậy sao cái thằng của con Thu lại lăng nhăng với con nhỏ nào?

    – Hai đứa vừa bị kiểm thảo một trận trời long đất lở.

    – Thế à? Hoàng Việt cười khè :

    – Bà trưởng đoàn đă “lên mốc” nên không cho đám trẻ con chơi tṛ hú tim chớ ǵ !

    – Chị Ba ở Sài G̣n mới ra nhưng chỉ giác ngộ mau lắm. Chỉ c̣n nghiêm hơn các ông ngoài ta.

    – Chị Ba nào? Tôi hỏi.

    – Chị Ba Thanh Loan chớ chị Ba nào. Anh không biết sao? Ba Mực nói.

    – Không !

    Hoàng Việt trả lời thay.

    – Thanh Loan là chị Thanh Hương Nguyệt Nga Điêu Thuyền của ông Tám Danh rơ chưa nào?

    – Ủa!

    – Ủa cái ǵ ! Bả là ủy viên trung ương Mặt Trận ta đó chú em.

    – Hiện phụ trách đoàn Văn Công Giải Phóng của ḿnh.

    – Vậy th́ “chú em” có muốn “đút đờ-măng” vô con Thu phải báo cáo với nữ chúa nghe ! Vô đây là cơ quan rồi không có đấu phép như trên đường Trường Sơn được nữa. Coi chừng sụp hầm chông đấy!

    Tôi thở dài một cách vui vẻ:

    – Vấn đề là tui có muốn oánh phép hay không thôi chứ không phải vấn đề xin phép ai đâu!

    Hoàng Việt cười ré lên:

    – Mày là con quỉ. Đi đâu th́ phá làng phá xóm tới đó.

    – Tôi tu lâu rồi anh Bảy!

    – Ừ mày sắp thành ở ngoài trường đi B rồi đấy nhỉ.

    – Trường đi B nào? Ba Mực hỏi.

    – Tức là cái trường tên mang gạch mang đá của tụi này đấy. Trước khi vô đây phải trải qua một khóa luyện nội công ba tháng. Ở đó vách tường khít rim mà nó c̣n đấu phép rần rần kia ḱa, vô đây rừng cây không có hàng rào nó coi như đồ bỏ.

    Tôi hỏi sang vấn đề khác:

    – Chị Ba có anh Ba không?

    – Không có ai cả!

    – Vậy ai làm người t́nh của nữ chúa? Hoàng Việt cười ngặt nghẽo hỏi.

    Ba Mực ngó quanh rồi nói:

    – Có ông Tám Năng nhà ḿnh mới xứng, nhưng ổng đạo đức lắm, ổng không dám đánh du kích đâu.

    – Tám Năng nào?

    – Huỳnh Minh Siêng đấy! Trại cưa Kim Hữu, nhớ không?

    – Á, à… ổng vô đây đổi Tư Siêng ra Tám Năng hả?

    – Ừ th́ đại khái là ở rừng th́ cũng lấy tên cho nó có vẻ rừng rú một chút. Nay mai rồi mày cũng phải vứt bỏ cái tên Trường Sơn của mày đi để tra một cái tên rừng vào. Xuân Vũ th́ đổi ra Tư Cọp, Năm Cheo hay Tám Ḅ Hóc vậy đó. Không thấy Xuân Hồng lại hóa ra Ba Mực sao?

    – Ba Mực là tên cũ của tôi , bây giờ đem ra xài rất hợp ní ! C̣n anh th́ lấy tên ǵ ?

    – Tớ th́ có sẵn rồi. Tụi nó bảo Hoàng Việt cũng như Hoàng C̣ … Thôi th́ để cho Mỹ Ngụy nó không t́m ra tác giả Tiếng C̣i Trong Sương Đêm (*), sẵn rượu thịt đây, tôi tự đặt cho tôi là Bảy C̣ luôn nhé. C̣n thằng Xuân Vũ th́ tao đặt cho là Hai Cọc, được không?

    (*) Bài hát nổi tiếng của Lê Trực tức Hoàng Việt.

    Tôi cười ngất:

    – “Cộc hay “cọc” ? Cộc th́ có nghĩa là cồng cộc bắt cá dưới đ́a c̣n cọc là cây cọc, cọc gỗ, em gái ngồi phải cọc. Anh muốn cho tôi là cồng cộc hay cọc cho em gái ngồi ?

    Ba Mực đáp:

    – “Cọc” hay hơn.

    – Tại sao?

    – V́ “cọc” không có “ô” cho nó khỏe và khoái nữa. C̣n “cộc” th́ có “ô” mệt lắm. Ở đây mà bị một phát “ô” th́ sầu đời vô cùng.

    – Ô che nắng che mưa, ǵ mà rầu.

    – Không ! Cái ” ô” kia cơ !

    – Ô trong này ăn cực ăn khổ thế mà cũng phạm cái “ô” đó nữa sao?

    – Cả hai cái, “ô” này dẫm lên chưa rút chân ra khỏi lại dẫm lên “ô” nọ. Có thằng dẫm một, có thằng dẫm cả hai. “Buồn t́nh quê” lắm ông văn sĩ xă nghĩa ơi! ông về đây th́ nên mau mau xin xuống đồng bằng mà công tác đi thôi. Ở trên này chẳng có đề tài đâu.

    – Đi đâu bây giờ?

    – Ông ở Bến Tre th́ về viết Đồng Khởi. Ông Bảy C̣ th́ đi sông Cửu Long viết Giao hưởng số hai như ông đă từng tâm sự với tôi.

    – C̣n ông ở đây à?

    – Ở đây th́ sớm muộn ǵ cũng kênh cần cổ lên đội “dưa hấu” thôi, nhưng nếu đi hết th́ ai thường trực? Tôi với thằng họa sĩ Đức kia ḱa được phân công ở lại thường trực.

    – Đức nào ?

    – Đức cháu họa sĩ Huỳnh Văn Gấm đại biểu quốc hội hồi 46 đó!

    – Ủa… Thế à !

    – Ông ra ngoải có gặp ổng không?

    – Có chớ đi họp gặp hoài, ổng có minh họa truyện của tôi đăng trên báo nữa.

    – Nhưng mà nói chuyện với ông họa sĩ này th́ nên chú ư nghe !

    – Tại sao ?

    – Nó toàn dùng ngôn ngữ đặc biệt không hè.

    – Thí dụ như ǵ?

    – Thí dụ như đi săn khỉ, cà khu th́ nó gọi là đi săn Tổ Tiên. Đi bệnh xá th́ nó gọi là đi Diêm Vương, uống kí-ninh nó gọi là “thỉnh thị”, trà hiệu con khỉ nó gọi là con khỉ hộc máu… hoặc con khỉ có tháng.

    – Anh ta có định nghĩa “Rờ” là ǵ không? Tôi cứ nghe nói rờ, rờ, mà không hiểu rờ ǵ !

    Ba Mực nói:

    – Tôi không hiểu cũng không rơ nó có từ đâu. Ai đặt cho nó từ thời nào? Tụi tôi nói riết quen miệng, thành thói quen luôn. Cũng như chứ “I”. I ngắn ông hiểu không. Chẳng hiểu tại sao người ta không gọi là Khu Tư, Khu Ba, Khu Tám, Khu Chín như thời chống Pháp, mà lại gọi là “I.” I Tư là khu Tư tức Sài G̣n Chợ Lớn. I Ba là khu 9. I Hai là khu 8 cũ. Rờ có lẽ là một tiếng lóng lấy từ câu “Rờ Râu, Râu Rụng, Rờ Rún, Rún Rung Rinh” chăng?

    – Không phải! Hoàng Việt căi lại :

    - Rờ là “Ṛm Rỉn Rầu Rỉ Rét Rên Rũ Riệt Ră Rời.”

    – Vậy ḿnh xài cái tiếng mà chính ḿnh không hiểu à?

    – Có nhiều tiếng quái gở hơn thế nữa cơ.

    – Như tiếng ǵ ?

    – Ví dụ như tiếng “Học.” Ḿnh dùng tiếng này một cách phổ thông là: Tôi đi học, học trường nào. Phải không? Thế nhưng nếu ông xuống đồng bằng th́ ông nghe các ông tỉnh ủy nói: “Tôi đi học cho các đồng chí cơ quan ! ” . . .

    – Nghĩa là sao ?

    – Nghĩa là “tôi đi dạy cho các đồng chí cơ quan một bài ǵ, một chỉ thị nào của ở trên!”

    – Tiếng ǵ lạ vậy ai mà hiểu cho nổi.

    Ba Mực cười khè khè hiền hậu:

    – Ở trong này nó toàn ngược ngạo như thế. Anh ở đây hoặc xuống đồng bằng rồi sẽ thấy. Không có giống bất cứ sinh hoạt nào hồi kháng chiến hết.

    – Thí dụ coi.

    – Thí dụ như tất cả sinh hoạt đều về đêm. Chợ họp đêm, mít-tinh đêm, đi đêm, ngủ ban ngày và ở hầm bí mật. Ở rừng này cũng vậy thôi. Chúng ta chỉ sống về đêm, chỉ hưởng được sự yên ổn về đêm. Nhưng bây giờ đêm cũng không c̣n yên ổn nữa.

    – Tại sao ?

    – Trên rừng th́ bị B52. Đồng bằng th́ bị trực thăng. Thằng Mỹ này ác gấp ngàn lần thằng Pháp. Khi nó đă đánh th́ nó đánh triệt để. Đại khái như nó bỏ bom nhé. Bom bỏ xong, đến pháo bắn. Pháo bắn dứt trực thăng đến tỉa. Ba cuộc tấn công liên tiếp không cho ḿnh ngóc đầu dậy.

    Ba đứa đă nhậu hết rượu và khô. Kẻng cơm khua leng keng vừa đủ nghe. Ba Mực đứng dậy:

    – Để tôi đi lănh khẩu phần !

    Đoàn tiên nữ tắm suối lại , vừa cười rúc rích vừa dẫm lên lá nát trở về.

    Ba Mực nói:

    – Chừng vài bữa nữa bọn đực rựa các anh sẽ câm hết.

    – Sao vậy? Một nàng gắt yêu.

    – Tụi anh ở dưới nguồn chứ sao. Hà hà hà…

    Hoàng Việt đỡ giùm các cô:

    – Bậy nào, uống nước tiên tắm, giọng hát mới thanh tao chớ.

    – Mấy anh ngày nào không ghẹo tụi em là mấy anh bị sốt hả?

    – Đâu tui có ghẹ… ẹo ǵ. Các em chê tui xấu xí mà!

    Hoàng Việt tiếp:

    – Đứa nào sôlô Xuân Chiến “Xĩ” đâu, vô đây tác giả thưởng miếng khô dê, ủa khô na..ai!

    – Ảnh láu ăn lắm. Hôm nọ ảnh săn được con nai, ảnh vác ngang đoàn tụi em, ảnh không đi đường ṃn mà cắt đường mới, sợ tụi em xin một đùi.

    – Ai mà sợ ! Xin một đùi cho liền, sợ bắt nguyên con chớ.

    Thu đứng xa xa nh́n tôi qua vai các bạn. Bây giờ tôi thấy khó gặp nàng. Có lẽ nàng cũng muốn nói ǵ với tôi nhưng không tiện đứng lại. Cho nên khi các cô kéo nhau đi th́ Thu cũng chỉ giơ tay vẫy nhẹ tôi rồi quay lưng đi.

    Ba Mực nói với theo:

    – Mai anh bắn cho con tổ tiên nhé.

    – Con tổ tiên là con ǵ ?

    – Là con tổ tiên ở trên ngọn cây kia chứ con ǵ.

    Hoàng Việt kêu giật lại:

    – Ấy Thu ! Trở lại anh Bảy gởi bài hát của anh về cho chị Ba phân công cho em nào dượt trước đi. Mai anh sẽ ra duyệt.

    Có lư do chính đáng, Thu quay lại. Ba Mực xách gà-mèn lănh cơm, vừa đi vừa hát:

    “Chiến sĩ ta ngồi đâu ngủ đó…đó… !”

    Hoàng Việt hỏi Thu.

    – Thế nào? Thằng kia chơi đểu rồi hả?

    Thu cúi xuống lí nhí trong miệng:

    – Chuyện của người ta, em không để ư.

    – Giỡn hoài ! Không để ư mà leo hết dăy Trường Sơn vào đây !

    – Em đi công tác chớ !

    Hoàng Việt cười khẩy:

    – Ờ, không để ư th́ đừng có nhờ anh Bảy giúp đỡ nghe ! Muốn nói ǵ, nói một câu đi ! Kỷ luật đoàn gắt gao lắm. Nay mai anh Bảy đi đồng bằng, ở trên này không có ai hiểu em đâu.

    Thu đứng trơ trơ không nói ǵ . Hoàng Việt quay sang tôi:

    – Nam Bắc chừng nào thống nhất một nhà hả mậy?

    Tôi rót miếng trà đưa cho Thu:

    – Em uống tí trà chặn cử sốt chút đi. Em cứ tự nhiên. Chúng ta vẫn là bạn.

    Hoàng Việt gắt:

    – Bạn ǵ? Bạn đường, bạn đời hay bạn trăm năm. Năm bảy thứ, thứ nào? Không được nói bạn này mà ra bạn nọ. Tao thấy mày nên quyết định đi. T́nh h́nh địch găng lắm. Mày không c̣n th́ giờ để nhởn nhơ như ở Hà Nội nữa đâu. Thằng Anh Đức nó khôn đấy. Vô đây là quèo con nhỏ vô đám cưới liền. Nhảy pa-dô-đớp luôn đi, ở đó mà rà rê tango!

    Tôi uống trà cầm chừng chờ xem Thu tỏ thái độ ra sao. Nhưng dù thái độ của Thu sao đi nữa, tôi cũng không thể đi tới bước nào. V́ hiện đang có một người con gái Nam Bộ từ Hà Nội vào đây. Chắc Thu dư biết điều đó. Cũng như Thu biết tôi đă hứa với Phương…

    Thu đă hớp hết chén trà và trao cái bát cho Hoàng Việt. Hoàng Việt gắt:

    – Trà ngọt không?

    – Em không biết nữa! Thu lắc đầu và hơi nhếch môi.

    – Đắng à?

    – Không.

    – Không ngọt cũng không đắng hả em? Không có trà ngọt hay trà đắng! Nó đắng hay ngọt là do cái lưỡi của ḿnh.

    Thấy Ba Mực xách cơm về, Hoàng Việt chạy ra đỡ tiếp, đứng rù ŕ rồi rẽ vào một lối ṃn đi sang cḥi khác. Lạnh lùng, Thu đứng dậy cáo từ. Tôi hỏi:

    – Em có hay Phương đă hy sinh chưa?

    – Hồi nào? Thu kêu lên :

    – Anh bày đặt hả?

    – Thiệt mà.

    – Các anh là ghê gớm lắm.

    – Anh không đùa đâu. Chốc nữa hỏi Hoàng Việt th́ biết !

    Thu sững sờ. Tôi cũng lặng thinh. Và không hiểu ḿnh nói ra chuyện đó để làm ǵ trong lúc này. Để cho Thu yên trí rằng tôi không c̣n vướng bận ai nữa chăng? Tôi đă đi tới với Thu một cách bất ngờ.

    Thu gạn hỏi thêm. Tôi cho thêm chi tiết về vụ phục kích ở Eo Máu mà kẻ sống sót là Thiệp chồng của Xuân Anh.

    Thu hỏi:

    – Chị Xuân Anh bị bắt à?

    – Th́ như thế đó. Truyền đơn bay xuống từ phi cơ và tiếng loa nghe rơ ràng.

    – Rồi anh Thiệp ở đâu?

    – Thiệp định đi vào luôn với anh, nhưng sau khi nghe tiếng nói của vợ th́ nằm nín lại đó…

    – …Để làm ǵ?

    – Ai biết ! Đau chân th́ há miệng vậy thôi , chứ c̣n biết làm ǵ !


    Mai tiếp ...

  5. #4625
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Tôi chẳng ngờ rằng tôi sống lại cái không khí lều trại ở Tây Nguyên mấy tháng trước. Cái làng đó không biết c̣n hay bị máy bay quét sạch thiêu rụi rồi. Tôi về đến R là một việc không thể hiểu. Tôi cố nói câu ǵ để xua đi mùi tử khí trong chuyện tôi vừa gợi lại, nhưng Thu đă nói ngay một cách chán đời cực độ.

    – Chết th́ vô lư mà sống th́ vô ích.

    – Sao Thu lại nói thế. Chết th́ hy sinh cho cách mạng, c̣n sống th́ phục vụ cho cách mạng chứ!

    – Anh nghĩ thế thật không? Thu bĩu môi.

    Cái lập trường của tôi như ngọn cỏ bị phạt chân nhưng c̣n gượng:

    – Không nghĩ thế th́ c̣n nghĩ thế nào nữa ?

    – Em cảm thấy em là một kư sinh trùng chết dở mà sống cũng dở. Tệ hơn nữa, một kư sinh trùng bị kư sinh trùng phản bội !

    – Thu định làm ǵ bây giờ?

    – Em đâu có định làm ǵ. Mà có muốn làm ǵ cũng không được.

    Chúng tôi lặng thinh một chập lâu. Tôi nghe câu nói của Thu như một mũi tên bắn vào tim tôi. Tôi là kẻ phản bội Thu ? Tôi đâu có non thề biển hẹn với Thu ! Chúng tôi chỉ là bạn đồng hành. Chúng tôi chỉ tựa vào nhau để cho đôi tim không phải chịu quá nhiều đau đớn khi lăn lóc trên mặt núi đá Trường Sơn. Tôi biết Thu vào đây để gặp người yêu và Thu cũng biết tôi yêu Phương, bạn đồng nghiệp của Thu.

    T́nh yêu đến bằng bước chân , nhưng không ai biết được. Đôi khi ḿnh tự nhủ ḷng rằng không nên nhưng rồi vẫn cứ. . .

    Tôi không trách Thu. Khi người ta đau khổ th́ người ta có quyền đổ lỗi cho bất cứ ai, nhưng khi người ta yên vui hạnh phúc th́ người ta không để ư đến những ai đau khổ v́ ḿnh.

    Thu ngồi lại một chốc rồi đứng dậy, chua chát:

    – Bây giờ em mới hiểu một điều ghê gớm.

    – Điều ǵ ?

    – Cách mạng là một lư do chính đáng để những kẻ phản bội vin vào làm phản.

    – Nghĩa là thế nào ?

    – Em cũng không hiểu nghĩa là thế nào cả.

    Đám bạn của Thu đă đi xa, nhưng c̣n một cô ở rốn lại có ư do thám. Cô ta bảo:

    – Ḿnh chờ Thu năy giờ.

    – À, thế hả ? Thu có vẻ mất tự nhiên, tự bào chữa :

    – Ḿnh chờ anh Hoàng Việt đi lấy bản nhạc đem về cho chị Thanh Loan.

    – Bản ǵ?

    – Anh ấy mới sáng tác.

    – Bản T́nh Rừng Rú. Nhịp Valse, hay lắm ! Cô nào sôlô bản đó sẽ nổi tiếng ngay tức khắc!

    Tôi hơi cáu, nói một hơi dài. Nhưng nh́n ra th́ đó là một cô bạn quen từ Hà Nội: Kim Ly.

    – Kim Ly ? Tôi cười :

    – Nè, có nhắn ǵ th́ tôi nhắn giùm cho chứ làm bộ chờ chi cho mất công.

    Kim Ly cười:

    – Sao anh biết em nhắn ai ?

    – Tôi c̣n biết thấu chuyện ǵ nữa cơ.

    – Thôi mày có nhờ ǵ th́ nhờ quách đi. Để có người tới rồi mất dịp tốt.

    Thu cười bảo Kim Ly, yên tâm rằng có kẻ chung xuồng.

    – C̣n mày. Mày đă nhờ chưa?

    – Tao không cần ǵ cả !

    Thấy hai cô đùa nhau có vẻ gay gắt, tôi xen vào:

    – Thằng bạn tôi nó sắp sửa đi đồng bằng đấy, Ly viết thư đi, tôi chuyển giùm cho. Bảo đảm bí mật trăm phần trăm.

    Kim Ly có hôn phu ngay bên cạnh, cả hai đi vào Nam trước chúng tôi. Hai bên cứ sống song song với nhau. Thiếp đâu chàng đó suốt từ Hà Nội vào đây nhưng không chịu dứt điểm cho rồi. Vỡ nhẽ ra là nàng không yêu chàng mà không nỡ dứt đường tơ.

    Chàng th́ như kẻ nô tỳ lúc nào cũng sẵn sàng qú gối dâng trái tim cho nàng. Chính v́ thế mà nàng lại không nhận. Một thứ t́nh yêu van xin. Chàng là “nhà quay phim tài liệu " c̣n nàng là diễn viên điện ảnh đẹp nhất nh́ Hà Nội. Nàng đ̣i hỏi phim truyện, phim t́nh Othello, phim yêu say đắm, phim trên trời dưới biển nhưng chàng th́ chỉ có khả năng dí ống kính vào các nhà máy, hợp tác xă hoặc vào mặt mũi những anh hùng chăn vịt, làm phân xanh.
    Hai tâm hồn, hai ước mơ. Con đường Trường Sơn đă có một lúc là ngă rẽ nhưng rồi không hiểu sao họ vẫn c̣n song song tồn tại .

    Thằng bạn tôi là một nhà văn trẻ nhất và có tài nhất, sáng chói nhất của Hà Nội lại là uỷ viên Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn. Ở Hà Nội, một hôm bất ngờ tôi bắt gặp nàng đến pḥng thằng bạn tôi. Chúng tôi ở chung nhà, pḥng chỉ cách vách, một tấm vách để lọt những âm thanh chứ không lọt ánh sáng. Vô đến đây tưởng dứt ai dè chưa.

    Tôi bảo Kim Ly:

    – Nó đang sốt, có ǵ cho nó tẩm bổ không?

    – Có, anh đem giùm cho ảnh nhé.

    – Đem th́ đem.

    – Anh không sợ bị kiểm thảo à?

    – Tôi chưa biết sợ cái ǵ cả ngoài sốt rét.

    – Người ta vừa bị kiểm thảo đấy.

    – Ai ?

    – Anh hỏi sẽ biết.

    – Ai kiểm thảo tôi, tôi kiểm ngược lại cho bỏ mẹ.

    Thu xen vào:

    – Anh lại nói cái giọng ngang như cua nữa rồi !

    Kim Ly liếc Thu:

    – Thế mà có kẻ yêu gần chết đấy mày ạ !

    – Ai yêu ảnh ?

    – Có chứ. Mày muốn biết không tao chỉ cho . Kim Ly tiếp :

    – Gái Bắc yêu mấy anh Nam là v́ cái kiểu nghênh ngang của các ảnh. Nếu tao là Bắc tao cũng thế.

    Tôi bảo:

    – Nam Kỳ chỉ được cái du côn ai yêu họ th́ đó là người khùng.

    Hoàng Việt và Ba Mực về tới. Kim Ly cười như nắc nẻ:

    – Trông hai anh nhạc sĩ em tức cười “oá” hè !

    – Trông thấy chỗ nào của hai anh mà cười ? Hoàng Việt hỏi gặng.

    – Th́ chỗ đó đó ! Chớ c̣n chỗ nào nữa? Ba Mực nói hớt.

    Kim Ly úp mặt vào vai Thu cười sục sục:

    – Một ông th́ giống chủ nhiệm Hợp tác xă , c̣n một ông giống công nhân đẩy xe ba gác bến Phà Đen.

    – Bậy nào . Tôi gạt ngang :

    – Một ông giống ma Hời một ông giống ma Miên.

    Hoàng Việt cười:

    – Kệ tui, ma ǵ ma miễn tui có khô nai và rượu Tây nhậu thôi. Nè, cô Ly chừng nào đám cưới? Ăn giầu cau lâu rồi. Hồi tôi mới đi nước ngoài, tới bây giờ tôi về nước, về Rừng rồi cũng chưa cưới nhau c̣n đợi chừng nào? Đợi anh về, anh có đi đâu mà đợi!

    Kim Ly đáp giống như tài tử xi-nê:

    – Em đâu có đợi. Cái em đợi đă không đến. Cái đến lại là cái em không đợi !

    – Ba Mực ! Chú mày nên nhường chỗ trong Hội Văn Nghệ Giải Phóng cho cô ấy đi !

    – Tôi đâu có nằm hoặc đứng ngồi ǵ trong Hội đâu mà bảo tôi nhường. Tôi đảm nhiệm việc săn khỉ mà.

    Hoàng Việt nói:

    – Thôi, ai có sứ “miệng” cao cả ǵ th́ trao đổi đi, kẻo đóng trong cḥi tôi , lâu quá rồi người ta đồn tiếu tùm lum oan cho tôi lắm.

    Kim Ly nguưt ngang:

    – Anh muốn đuổi tụi em th́ nói đi .... chứ ai đồn tiếu ǵ anh. Anh gần có cháu nội rồi ai không biết. C̣n chú Ba th́ là chủ tịch hội sồn sồn của R, tụi em kêu bằng chú mà !

    Hoàng Việt trỏ tôi:

    – Thằng này có kêu bằng chú không? “Chú” với “chó,” hai chứ đó chỉ khác nhau cái chứ “u.”

    Kim Ly nói:

    – Có người trong đoàn vừa đi qua bên Bộ Chỉ huy về mang một cái tin có liên quan tới ảnh nên em trở lại cho ảnh hay. Vậy mà ảnh nghi em do thám con Thu !

    – Tin ǵ ? Tôi hỏi :

    – Mà có liên quan đến tôi ?

    – Người bạn của anh đang sửa soạn đi vô.

    – Bạn nào ! Tôi có cả trăm, biết thằng nào ?

    – Đây không phải là thằng đâu! Kim Ly cười khúc khích.

    – Không phải ông cũng không phải thằng.

    Hoàng Việt biết là tin ǵ nên nháy Kim Ly một cách kín đáo. Có lẽ Kim Ly không biết quan hệ giữa tôi với Thu trên đường Trường Sơn, hoặc biết mà v́ lư do ǵ đó cứ nói phứa ra.

    – Anh có quen với ai tên Nguyệt không?

    Tôi suưt nhảy nhổm như bị kim chích, nhưng bấm bụng ngồi b́nh tĩnh. Tôi giả bộ reo lên:

    – Tưởng ai chớ cô…ô ấy th́ tôi que…en!

    Kim Ly hỏi tới:

    – Quen thế nào ?

    Hoàng Việt biết sự đời đă vỡ tung ra rồi, nhưng c̣n cố đỡ giùm tôi:

    – Cái cô đó hả? Tôi biết rồi :

    - Ở Văn Công cũ của tôi hồi trước, nhưng ra Bắc lại bị rau muống quấn mất.

    Kim Ly nói tới:

    – Làm ǵ có vụ gái Nam Kỳ bị rau muống quấn ! Có mấy ông Nam Kỳ bị bánh đa quèo th́ có ! Anh tưởng em không biết chị Nguyệt hả. Để em kể lại vụ rau muống quấn chỉ ... cho anh nghe. Rau muống thấy dưa hấu ngon th́ ham nhưng có quấn được không chứ?

    Hoàng Việt sợ vỡ to hơn nên tạt ngang:

    – Thôi cái ǵ đă qua th́ cho qua luôn. Bây giờ ḿnh ở rừng hăy nói chuyện rừng, phải không ông bạn Xuân Chiến Sĩ?

    Tôi để ư thấy Thu đổi sắc mặt. Thu đứng lặng ngắt , sau cây cọc lều tự năy giờ. Thu nói hơi cộc:

    – Đi về đi Ly ! Tớ đang nhận vai vũ trong tác phẩm của ông Thái Minh.

    Kim Ly đă ra đi c̣n quay trở lại nói với tôi:

    – Hôm nào có tin thêm em vô cho anh hay nghe !

    Đợi cho nhị vị tiên cô đi khuất, Hoàng Việt lắc đầu:

    – Bể nữa rồi !

    – Chậc, con quỷ cái ! Tôi chép miệng.

    – Tao tính bụm mà không kịp. Con nhỏ kia đoán ra rồi chứ ǵ. Thế nào nó cũng cạch con Ly, không có giống ǵ lại bí mật được.

    Ba Mực cười khà khà:

    – Nói vậy ông anh cũng đă hát bài T́nh Ca của anh Bảy dọc Trường Sơn ?

    – Nó lúc nào cũng hát. Hát song ca, hát chùm một lúc “ba bè” cơ đấy ông ơi !

    Hoàng Việt kể chuyện Phương và tôi trong trường đi B, chuyện Nguyệt gặp lại tôi cho Ba Mực nghe.

    Ba Mực lại cười hồn nhiên với Hoàng Việt:

    – Tại anh chớ sao !

    – Tôi có xúi nó đâu. Tôi c̣n ngăn nó nữa là đằng khác! Đi đường ráng giữ ǵn ba cái sức khỏe để lúc bị Fulro phục kích th́ c̣n đủ xí quách mà chạy. Nhưng nó có nghe tôi đâu. Hết vụ này tới vụ khác.

    Hoàng Việt chép miệng :

    – Mà nghĩ cũng kỳ, không biết tại sao đám con gái tới với nó hoài hoài. “Chất nhờn” ở Trường Sơn hiếm thế mà nó lại có thừa.

    Ba Mực trở ra bụi cây lấy ba cái gà-mèn cơm đem vô lều rồi nói:

    – Hắn học tập anh chớ sao anh Bảy. Anh đă viết trong T́nh Ca: … “Vượt băng băng qua đêm tối t́m hương hoa mà!”. Anh nói sao làm vậy phải không?

    – Tôi tu lâu rồi !

    – Vâng, anh Bảy tu lâu rồi ông Ba Mực ạ! Bây giờ mà có ai qua Bungari sẽ t́m thấy dấu vết của anh tu với mấy cô văi tóc vàng trong rừng thông ở mấy cái am Píc-níc !

    Ba Mực banh cơm ra. Tôi liếc thấy mà ngao ngán. Ba Mực biết ư nói:

    – Để tôi nấu miếng canh lua mới vô.

    – Canh ǵ ?

    – Canh bột ngọt.

    – Ừ nấu đi ? Hoàng Việt giục ! Ở đây tuy thua Hà Nội nhưng c̣n sướng gấp trăm lần Trường Sơn. Đ.M. ở đường dây đang nấu cơm, giao liên nó bảo đi cũng phải cuốn bếp đi !

    Tôi leo lên vơng nằm chờ Ba Mực nấu canh.

    – Con Kim Ly nó bảo ông Bảy nhà ḿnh giống chủ nhiệm Hợp tác xă là đúng đó anh Ba bày trẻ ! Con nhỏ có mắt tinh đời phải biết !

    – Mày định moi lư lịch của tao ra hả mày thằng quỉ.

    Tôi tiếp:

    – Ảnh từng làm chủ nhiệm Hợp tác xă rồi đó, anh Ba mày biết không?

    Ba Mực đang thổi lửa khói bốc mịt mù, quay ra gắt:

    – Hợp tác xă sáng tác nhạc à?

    – Không ! Hợp tác xă nấu cao khỉ ! Tôi cười to khoái chí:

    – Ảnh đă từng nấu cao khỉ suưt thành công ở đường Trường Sơn kia đấy!

    Tôi kể luôn vụ bắn khỉ với thằng Phẩm, người trồng cây mận Quảng Bá ở hốc núi Trường Sơn cho Ba Mực nghe rồi kết luận :

    – Bây giờ xin đổi lại “Cao Tổ Tiên” cho hợp lư với cuộc sống trong này.

    Ba Mực kêu lên:

    – Có vụ đó nữa sao?

    – Th́ ông chủ nhiệm c̣n đó, tôi có bịa tạc đâu!

    – Rồi có kết quả không anh Bảy? Ba Mực hỏi.

    – Tao nấu ba bốn trạm liền, xương vẫn c̣n nguyên nên quẳng đi cho nhẹ.

    Ba Mực nói:

    – Hổng chừng vụ đó trở thành sáng kiến ở đây nghe. Từ trước tới giờ ăn thịt tổ tiên xong, hài cốt quăng hết ráo. Uổng quá ? Để tôi đi bắn một con về nấu cao tẩm bổ chơi.

    Nước sôi, Ba Mực lấy bột ngọt và ruốc nai bỏ vào quậy quậy rồi nhắc xuống đất:

    – Canh bột ngọt là vậy đó !

    – Không có chút rau ǵ sao?

    – Rừng bạt ngàn rậm rịt, nhưng không có cái lá ǵ ăn được.

    – Ở dọc khu 6 có lá “bép” và đọt cây “dớt” ăn đỡ khổ lắm. Ở đây không có hai thứ đó à?

    – Không có ǵ cả ngoài lá “bờ lờ”.

    – Bời lời hả?

    – Không “bờ lờ.”

    Hoàng Việt cười như nắc nẻ:

    – Quanh đi quẩn lại th́ cũng cái… lờ.

    – Không. Bờ lờ là Bàng Lăng, tức là cây thao lao ấy mà! Lá nó đẹp nhưng đó là đề tài vẽ tranh chứ ăn không được

    – Ở Tiểu ban ḿnh có ai vẽ chưa?

    – Có ba ông họa sĩ nhưng một ông là chuyên gia bửa củi, một ông suốt tháng cứ sốt, c̣n một ông th́ chê rừng không có ánh sáng nên đ̣i móc đất sét nặn tượng cà khu. Nghệ thuật ở đây vẽ bằng nước cơm sôi và màu vẽ là gạo, nhạc là tiếng kêu của muỗi đ̣n xóc và thơ văn là những bài kiểm thảo dài cả chục trang giấy.

    Hoàng Việt cười hắc hắc:

    – Mấy trang th́ mấy , nhưng anh đây thấy cái g̣ má láng lẩy của mấy em, anh muốn dẫm bừa lên một cái ô cho biết mùi cay đắng chút chơi !

    – Anh có để ư thấy trong các tiên cô có một nàng cổ cao ba lóng, ngực tṛn vun vun không? Hề.hề… đó là cô Miên lai, Văn Công ta mới tuyển vào đoàn.

    – Thấy rồi. Nhưng cô nào lại ngực không vun không tṛn?

    – Tṛn nhất, vun nhất cơ! Đó là đề tài của một bài thơ dài vừa mới xuất bản.

    – Thôi Mực ơi ! Chuyện của Văn Công cậu đem vào đây rủi thằng nhà văn nổi hứng nó ra ngoài đó “nghiên cứu” nhân vật th́ ḿnh lại ngồi đau xương sống đấy.

    Tôi hỏi:

    – Đó là một bản song ca phải không? Giọng Soprano th́ là nàng Miên lai c̣n giọng Ténor là ai?

    Ba Mực nghiêng qua nói vào tai tôi. Tôi kêu lên và ngồi sững sờ hồi lâu.

    – Tôi thật không ngờ.

    – Ai ngờ nổi ! Ai mà ngờ một chuyện như vậy lại xảy ra. Nếu nó trống chân th́ cơ quan cũng xử nhẹm thôi, nhưng ngặt một nỗi là con nhỏ đă có chồng. Chồng nó đang đi công tác bên vùng biên giới. Nghe chuyện tùm lum nó về ngay.

    – Đường dây luộc nào đánh tin đi mau vậy?

    – Nó có con em gái làm thơ trong tiểu ban ḿnh nè. Con nhỏ cho anh nó hay ngay. Đ... bà! Cơ quan vỡ lở c̣n hơn ăn B52. Nó là Việt kiều mà ! Thành ra phạm chánh sách to !

    – Thôi Mực ơi ! Nói chuyện khác đi. Cứ nói ba cái chuyện Bờ… lờ đó hoài nghe mệ…ệt quá!

    – Đó là đề tài chính mà. Chỗ nào có Bờ lờ ḿnh mới sống được.

    – Kệ nó, kể nghe chơi để rút kinh nghiệ…êm ! !

    Ba Mực lua hết mớ cơm, rót canh vào nắp gà-men húp lia lịa, hà một cái, thở phào:

    – Hồi năy bỏ ớt hơi quá tay nên cay quá ! Hít hít hà !

    Ba Mực tiếp :

    – Thằng chồng nó về có vẻ b́nh thản lắm. Nó không tỏ vẻ ǵ cả. Nó lại c̣n tuyên bố: Chuyện đó chẳng ăn thua ǵ. Ở trong rừng khủng hoảng sinh lư nên ai cũng thế thôi. Tôi về là v́ xong công tác.

    – Thằng ngon hả ! Tôi gật gù bảo.

    – Khoan khoan đă! Nó cao tay ấn thật đấy. Thấy thái độ cao thượng của nó, ông Ténor nhà ḿnh bèn mời nó đến để xin lỗi. Xếp cơ quan mà đi xin lỗi thằng nhân viên, kể cũng hiếm có.

    – Thằng chả cũng ngon chớ ! Dám làm sai, dám nhận lỗi !

    – Khổ thay nó không để ông Ténor nhận nhiếc ǵ. Nó quết cho ổng một nhát.

    – Nhát ǵ ?

    – Cũng may là nó không chơi theo du côn Cầu Muối ! Nó chỉ dùng cây… Bờ lờ ủa gỗ Bờ lờ..

    – Mày cứ xài cái chứ đó hoài !

    – Rồi sao ? Tôi hỏi .

    – Th́ vậy đó chứ c̣n sao nữa ! Do đó mà ở ngoài Bắc mới đưa ông chủ trại cưa Kim Hữu vào thay chứ ǵ ?

    – Ông cũng biết danh từ trại cưa Kim Hữu nữa à .

    – Biết chứ. Ông Tám Năng nhà ḿnh chớ ai !

    Tôi gác tay lên trán thở dài. Hoàng Việt nói:

    – Trường hợp của mày khác mà ! Thằng kia đă có con nhỏ Cải lương cải liếc ǵ đó cho nên con Thu trống chân. Mà mày với nó đă quan hệ “mật ch́” với nhau rồi.

    – “Mật ch́” là mật ǵ ? Ba Mực gặng ngay.

    – “Thiếc” với “ch́” cũng thế thôi. “Mật thiếc” cũng như “mật ch́”!

    Hoàng Việt tiếp:

    – Mày nên báo cáo với tổ chức đi thôi, để Văn Công nó xây dựng cho mày. Mày tới lui rù ŕ dưới bóng mát Bờ Lờ không có ai trành tṛn ǵ , mà cơ quan cũng đỡ phải thả do thám theo ŕnh ṃ.

    – Anh biết vụ tôi với con Nguyệt mà anh Bảy. Nguyệt đă hứa với tôi sẽ vô. Bây giờ nghe tin. Nguyệt vô thiệt tôi không thể làm ǵ khác hơn là chờ.

    – Bao lâu?

    – Không biết.

    – Nó đă cho mày đi cầu tuột một phát hộc máu ra đằng đít rồi, bây giờ lại thủy chung.

    – Chuyện đó là do cơ quan, đâu phải cô ta muốn.

    – Mày luôn luôn tin miệng con gái, suốt đời sẽ không ngóc lên nổi v́ con gái. Ba mươi ba tuổi rồi. Người ta có con hồi mười tám, mười chín tuổi là thường. Mầy c̣n ở đó ôm ống đồng của Thoát Hoan mà thác oan !

    Tôi lại thở dài. Quả Hoàng Việt nói đúng. Tôi cứ chạy theo chữ thủy chung rốt cuộc chẳng sờ được cái ṿi của nó. Khi tôi giữ trọn th́ người ta bẻ găy nó ra, c̣n khi người ta giữ yên nó th́ tôi lại đành ngoảnh mặt đi, c̣n khi cả hai đều chung thủy với nhau th́ một đứa lại chết. Như trường hợp Phương hy sinh ở Eo Máu vừa rồi. Ba mươi ba tuổi chưa phải già nhưng không c̣n trẻ. Có vợ có con là đă muộn lắm rồi. Nhưng tôi cứ bị t́nh cảm gàn cản. Cái đă dứt lại nối như trong tiểu thuyết…


    Mai tiếp ....

  6. #4626
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Nằm nói chuyện trời trăng với ông nhạc sĩ Ba Mực một chập, tôi ngồi dậy vác gậy ra về. Ông Tư Mô là người bạn “chung lều” với tôi. Từ hôm ông Hai Tân, phó ban tuyên huấn cho tôi hay rằng tôi được ở trên chấp thuận cho đi đồng bằng, tôi đến ở chung lều để bàn việc hành quân với anh.
    Anh là nhà thơ từ đầu kháng chiến, có nhiều bài đăng báo mà tôi chép trong tập “lượm lặt” của tôi. Đời Tư Mô là cả một chuỗi éo le chua xót. Anh cỡ tuổi với cậ̣u với chú tôi, học cùng trường với chú tôi và đi kháng chiến với cậ̣u tôi.

    Khi tỉnh Bến Tre bị lực lượng UMDC (Unités Mobile de Défense Chrétienne) của Một On tức là Thiếu tá Le Roy người Tây lai ở An Hóa, chiếm đóng, anh Tư và gia đ́nh chạy xuống miền Tây, tỉnh Rạch Giá ở đậu với một người nông dân trong Rạch Cái Nhào. Anh và chi Tư mới có đứa con trai đầu ḷng tên là thằng Lê. Cậu bé c̣n ẵm nhưng bị bịnh xụi hết một tay, h́nh như tay mặt (bây giờ nó đă ba mươi bảy tuổi và đă có con).

    Hai vợ chồng đi mua dừa khô và đường mía (bà con thương t́nh bán rẻ) về làm mứt dừa đi bán cho các quán cóc trong vùng giải phóng. Khu giải phóng thời kháng Pháp rộng ba tỉnh Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng , chèo xuồng đi mệt không hết chứ không phải như thời đánh Mỹ không có lấy một cái chợ làng. Nhờ cái “ḷ” kẹo dừa này mà chị Tư đă nuôi được chồng con. Tang thương thay, một người có bằng cấp Tú tài (thời đó đâu có nhiều! Đốt đuốc kiếm cũng không ra) mà phải đi mua từng trái dừa khô và từng kí đường mía !

    Hồi đó tôi mới bắt đầu viết báo, làm phóng viên đi theo bộ đội trong các chiến dịch hoặc những trận đánh lẻ tẻ của chủ lực hoặc của bộ đội địa phương và du kích, nhưng hăng lắm. Chính anh đă dịch bài thơ Attends-moi (Đợi anh Về của Simonov và chép một bản đưa cho tôi. Sau này khi ra Hà Nội tôi so bản dịch của anh và bản dịch của Tố Hữu th́ thấy chẳng kém tí nào, nhưng không hiểu sao anh không được Tố Hữu gọi ra Bắc như anh Phạm Anh Tài (Sơn Nam).

    Ḥa b́nh sau Giơ-neo đă là một cái nạn cho anh. Anh về Sài G̣n bị ông Diệm bắt. Rồi tù. Tập kết là một chánh sách mọi rợ và ngu xuẩn. Nó được Sơn Nam phê phán như sau: “Một đám đi, một đám ở lại , bị đám đi trói quăng vô chuồng cọp.” Cái chánh sách này đă phá nát hằng triệu gia đ́nh cán bộ và quân đội kháng chiến chống Pháp.

    Theo anh Tư th́ sau 54, cán bộ cũ của Bến Tre bị “xúc” sạch v́ tên tỉnh ủy viên thường vụ ra đầu thú và chỉ điểm. Hắn tên Tuất. Đồng bào gọi là thằng chó.

    Tôi biết hắn khi tôi c̣n làm ở cơ quan Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh của hai anh Trần Chính và Mạch Văn Tư. Sau này Cao Thái Tôn thay thế. Tên thật của hắn là Quang. Quang là cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh , không có ǵ xuất sắc nhưng v́ sự thiếu hụt nên đưa hắn vào tỉnh ủy. Hắn lấy một cô giao liên trẻ nên sợ bị kỷ luật và hai cu cậu dông luôn cho được việc.

    Anh Tư Mô được thả ra vào khoảng 1960 là lúc manh nha có Mặt Trận Giải Phóng cái mà ông Diệm gọi là Mặt Trận Côn Đồ.
    Tư Mô đang ngồi nhậu đầu cá ở Chợ Đũi th́ có người tới quèo. Cột kèo cũ không rủ cũng về. Thế là anh ra khu. Tưởng ngon lành: Ai dè ra khu anh bị coi là tên đầu hàng phản bội, bị xử lư nặng nề trong đảng , đến đỗi không c̣n được coi như đồng chí mà chỉ là một nhân sĩ lô-can. Tư Mô buồn lắm, nhưng lỡ tay trót đă nhúng chàm rồi, không c̣n làm ǵ được nữa.

    Đêm đầu tiên tôi gặp lại anh, hai anh em nằm đâu đầu vơng tâm sự suốt sáng.
    Chuyện tù tội khổ ải và cay đắng lắm, đă qua th́ cho qua chứ nhắc lại làm ǵ. Anh cho tôi biết, anh có ư định gả cô em cho tôi khi nghe tôi về gần tới.

    Anh chưa biết ǵ về những chuyện dây mơ rễ má của tôi khắp từ Nam chí Bắc, ngoài chuyện một người con gái khác nữa. Cô này là đạo diễn kịch nói , đă về trước trong Nam (cũng bằng đường Trường Sơn) nhưng khi về tới R th́ được ông Trần Bạch Đằng cho giao liên thành đưa về Bạc Liêu quê cô ta. Cũng may, nếu cô c̣n ở lại Tiểu ban Văn Nghệ này th́ sẽ có một Đông Châu Liệt Quốc R.

    Tôi về tới lều th́ Tư Mô đang ngồi chiên khô cá trèn hay cá mè ǵ đó. Mùi thơm bốc ngào ngạt. Anh bao giờ cũng nấu nướng hoặc chế biến thức ăn “tùng cựu đáo tân” như anh nói, tức là thức ăn “gốc” của nhà bếp lănh về tanh lắm, thô sơ lắm, không thể để vậy mà ăn được. Với bàn tay của anh nó sẽ thay h́nh đổi dạng phi thường. Anh là tay nấu bếp rất có “gu” ăn uống giống như công tử. .

    – Cơm chưa ?

    – Tôi ké đằng cḥi ông Bảy C̣ rồi.

    – Tôi đang “ngào” lại ba con khô. Có sum sum đây chú làm thêm ít miếng!

    – Tôi nhậu đằng đó với ông Xuân Chiến Sĩ rồi.

    Tư Mô nói ngay:

    – Coi bộ t́nh h́nh “găng xi-măng” lắm nghe chú !

    – T́nh h́nh ǵ, anh?

    – Ở trên cho biết là Mỹ sẽ mở chiến dịch Johnson City.

    – Chiến dịch Johnson City là chiến dịch ǵ ?

    – Đại khái đó là chiến dịch của nó cũng như tụi nó có những cái tên chắc chú chưa nghe. Như Phượng Hoàng Vồ Mồi, Bủa Lưới Phóng Lao v.v… vậy đó.

    – Tên ǵ mà nghe ớn vậy?

    – Về đồng bằng c̣n ớn nữa chú em !

    Bây giờ ngồi ghi lại cái quăng thời gian trước CZ Johnson City tôi bỗng rùng ḿnh.
    Nếu tôi không sớm quất ngựa chuối th́ có lẽ tôi đă theo ông theo bà. Chuyện đó cách đây ít nhất là hai mươi bảy năm ! (1963-1990). T́nh cờ một hôm tôi đi t́m một số các loại đá cho con gái tôi làm bài về địa dư Texas, th́ tôi đi ngang qua Johnson City nơi sinh ra Tổng Thống Johnson.

    Khi lái xe đi ngang qua tấm bảng có chỉ mũi tên cho biết lối rẽ vào nhà của tổng thống, tôi vụt nhớ lại khu rừng của R. Trong đầu tôi như có một sợi tơ ngàn dặm mà một đầu là khu rừng Tây Ninh một đầu là nơi nhau rốn của người đẻ ra cái chiến dịch kể trên. Hai mảnh đất này hoàn toàn xa lạ với nhau nhưng lại nhờ kư ức của tôi mà trở nên gần gũi.
    Ghê gớm thay, tôi nghĩ vậy như một tia chớp. Nhưng tôi cũng chẳng biết là cái ǵ ghê gớm và tại sao ghê gớm. Có lẽ là cái thằng tôi ghê gớm chăng? Tôi đă đi từ đó đến đây. Đi từ cái hoang vu đến ánh sáng văn minh, đi từ đổ nát đến kiến thiết, đi từ cái chết ra sự sống. Ghê gớm là v́ thế chăng? Hai mươi bảy năm một cái chớp mắt.

    Tôi với Tư Mô bây giờ đă cách nhau nửa quả địa cầu. Ai ngờ nổi chuyện đó. Vừa rồi (1988) nhân có người quen đến Mỹ có cho biết Tư Mô vẫn c̣n sống và vẫn viết truyện. Tôi có t́m đọc được một truyện của anh. Th́ vẫn như thuở nào: giọng văn chua chát mỉa mai !


    Bây giờ trở lại với Tư Mô ở rừng Tây Ninh năm trước.Tư Mô nói tiếp:

    – Ông Hai Tân bảo ḿnh đi sớm chừng nào hay chừng ấy. V́ khi nó khởi sự th́ nó bao vây tất cả và chặt đứt mọi đường huyết mạch ḿnh sẽ không đi được.

    Tôi chưa nếm bom đạn Mỹ nhiều nên lơ lửng trả lời:

    – Chừng nào anh đi th́ tôi đi, chớ tôi có biết ǵ !

    – Chú lại đằng kho quản lư t́m một đôi giầy bắt heo thủ sẵn đi !

    – Chi vậy ?

    – Lội Đồng Chó Ngáp.

    – Đồng Chó Ngáp là đồng nào?

    – Đồng Tháp Mười ! Nó nằm ở tỉnh Kiến Phong Kiến Tường tức Mộc Hóa hồi trước.

    – Nhưng giầy đâu ở đó mà t́m. Dép Trường Sơn này không đủ hay sao ?

    Tư Mô dọn cơm ra ăn một ḿnh c̣n tôi leo lên vơng lắc lư. Cái lều lung lay như cái răng rụng của Tú Xương và gầy guộc như Tú Mỡ tưởng chừng cây đu của Hồ Xuân Hương.
    Anh bao giờ cũng ăn uống chậm răi, tươm tất, dù thiếu thốn cũng có vẻ sang trọng phong lưu như Nguyễn Tuân, chứ không ăn ẩu tả bạt mạng như tôi. Hễ đói bụng , thứ ǵ ăn được cũng nuốt càn.

    Anh nhấm nháp rượu rót từ trong một cái chai thuốc tây có nút vặn cũng do anh pha chế cho đúng miệng. Anh giải thích tiếp về vụ giầy dép:

    – Lội Đồng Chó Ngáp là giẫm lên củi tràm lục, nó đâm lủng gan bàn chân, chú biết không? Cho nên phải có dép. Nhưng dép không xài được. V́ lội lút bùn rút chân lên th́ dép mắc ở dưới. Cho nên phải mang giầy. Ràng rịt vô chân như cầu thủ đá bóng vậy.

    – Trời đất! Tôi kêu lên :

    – Lội lầy mang giầy th́ chỉ có ḿnh thôi !

    – Chứ ai mà kỳ cục như vậy được. Nhưng nếu không mang giầy th́ không lội nổi.

    – Củi tràm ở đâu mà kỳ vậy?

    – Tràm đâu thời Thiên Hộ Dương ai biết !

    – Rồi giầy ở đâu mà có?

    – Th́ tiếp phẩm họ mua để sẵn cho ai đi đồng bằng th́ sẽ “vơ trang” cho. Hoặc những ông bà từ đồng bằng lên. Ông bà nào có kinh nghiệm th́ cũng thủ sẵn một đôi trong ba lô để cho Chó Ngáp.

    Cơm nước xong lên vơng “ru hồn” với ma sốt. Đêm ở rừng thật là kinh khủng. Trẻ cũng hóa già. V́ nghĩ tới tương lai ... th́ mù mịt và bịnh hoạn hoặc cái chết. Cho nên chỉ hồi tưởng là mang lại chút ít an ủi mà thôi. Tư Mô ló đầu ra vách mùng hút thuốc và hỏi tôi:

    – Chú năm nay bao nhiêu rồi ?

    – Ba mươi ba.

    – “Meo” lắm rồi. Chú là con một phải không?

    – Tôi c̣n một đứa em gái.

    – Vậy là phải lo gấp !

    – Nếu tôi biết đi ra Bắc mà lâu vầy th́ tôi đă rụt trở lại rồi.

    – Chịp ! Ai mà biết trước cái sự đời.

    – Bố tôi đâu có cho tôi đi. Kể cả kháng chiến cũng không. Nhưng tôi trốn đi, rồi đi luôn.

    – Hồi đó ai cũng hăng. Bây giờ ai cũng hết. Tôi lơ mơ suy nghĩ nhiều điều lung lắm. Chú đừng có nghe tôi mà bị ảnh hưởng.

    – Ảnh hưởng ǵ ?

    – Lư lịch chú chưa bị “đổ mực tàu.”

    Tôi thở dài. Tôi biết đó là tâm sự cay đắng của anh. Vô cộng sản hồi 48, kháng chiến mười năm ngon hơ. Ḥa b́nh bị bắt. Khi ra tù bị kỷ luật v́ những chuyện không đáng ǵ. Bây giờ gặp tôi, có lẽ là người hiểu gốc rễ của anh nhất nên anh mới nói tới câu đó. Tôi né đi v́ sợ động tới vết thương của anh. Tôi nói sang chuyện khác.


    – Bây giờ ḿnh tính cách về quê đi anh. Anh xa quê ḿnh bao lâu rồi ?

    – Th́ hồi UMDC của Một On chiếm tỉnh. Rồi vô miền Tây gặp chú ở xă Hồ Văn Tốt gần Cái Nhào đó. Nhớ không?

    – Nhớ chớ sao không .

    Tôi nói luôn một mạch :

    – Hồi đó anh có thằng Cu đầu ḷng.

    – Có đứa con gái nữa chớ. Thằng bé bị Polio xụi một tay. Mẹ nó phải làm kẹo dừa bán cho quán ở Vàm Cái Dứa gần nhà thằng Phục.

    – Anh lấy tên là Trường Kháng phải không? Anh có cho tôi một bản dịch bài thơ Đợi Anh Về của Simonov. Tôi có đưa cho báo đăng.

    Tư Mô thở dài:

    – Hôi đó cũng khổ , nhưng ḿnh sống với dân. Dù ǵ cũng có tiếng chó sủa gà gáy, thấy cái xuồng, cái ghe, thấy cây dừa cây cau. C̣n bây giờ chẳng thấy cái ǵ cả. Tối ngày chỉ nấu cơm là hết giờ.

    – Làm sao về được nhà anh Tư?

    – Tôi cũng nôn nóng lắm , nhưng cái đó c̣n do trời. Trời cho th́ đi tới. Trời không cho th́ ḿnh “nằm đường”.

    – Tưởng về tới đây là đến. Chẳng ngờ chưa.

    – Sốt rét và bom đạn đều nguy hiểm cả , sốt rét th́ có thể chữa được , nhưng bom đạn th́ vèo một cái là xong.

    – Anh bi quan dữ vậy anh Tư?

    – Mấy chú mới về c̣n lạc quan lắm. V́ sau một thời gian leo núi đă đến nơi nằm nghỉ khỏe hơn. C̣n tôi ở đây đă mục mấy cái vơng rồi. Ngó xuống đồng bằng không thấy ǵ cả. Hy vọng th́ to c̣n triển vọng lại bé.

    Hai cái vơng đưa, rung lắc làm cọc lều rung rinh như trời đất sắp đổ ! Chính ra trời đất đổ tự trong ḷng người. Tư Mô trở lại vụ cô Thu buổi chiều.

    – Sao ở Bắc tám năm mà không vợ con ǵ hết vậy?

    – Cưới sao được mà cưới.

    – Sao người ta được mà chú lại không? ?

    – Tôi biết thế nào cũng đi. Rủi có con bỏ lại ai nuôi? Vô Nam đâu phải chuyện chơi.

    – C̣n vụ cô ba-lê .

    – Cô ba-lê nào ?

    – Tôi nghe tụi nó nói cả rồi.

    – Tôi cũng có định nhưng đem một cô Bắc về nhà Nam sợ e không hợp phong thổ. Ông già bà già tôi khó lắm. Khi tôi c̣n ở ngoài Bắc đă có thư đi đường Cao Miên ra cho biết ở nhà đă đi hỏi vợ cho tôi.

    – Làm sao?

    – Hỏi những chỗ quen từng là bạn học cũ ở trường của tôi.

    – Bây giờ vấn đề vợ con của mấy chú là nan giải. Ngoài ba mươi cả rồi. Sợ khó ai ưng. C̣n con nít mới lớn lên th́ đi dân công, văn công, cán bộ hư hỏng cả.

    Tôi cười:

    – Vậy ở ngoài Bắc tôi nghe Ban Thống Nhứt cho biết là các cô chờ đợi dân Mùa Thu dữ lắm. Các cô sẵn sàng trừ mười tuổi cho dân Mùa Thu.

    – Vậy chú c̣n hai mươi ba. Khỏe quá hả.

    Tư Mô bật cười, ném cái tàn thuốc vạch một ṿng cung trong màn đêm và tiếp:

    – Mấy ông ḿnh tuyên truyền giỏi lắm. Hồi Đồng Khởi cũng thế đó. Đến chừng rơ ra mới ngă ngửa.

    Tôi lặng thinh. Ở đâu cũng một phách với báo Nhân Dân. Cái ǵ nghe cũng phấn khởi cả. Đụng vào thực tế th́ mới rơ là ở trên nói láo. Ngay con đường ṃn cũng thế. Khi bắt đầu vào trường đi B th́ người ta bảo là dọc đường sẽ có các mậu dịch bán đủ thứ hàng bằng ba loại tiền Việt Miên Lào. Ngay cả ông Bảy C̣ cũng c̣n tin nữa là ai. Nhưng khi vào vài trạm th́ hỡi ôi ! Đến muối cũng không có.

    Tư Mô bảo:

    – Thôi bây giờ chú hăy ở lại R một thời gian đă.

    – Rồi sau, tôi đi với ai ?

    – Tôi chờ.

    – Để làm ǵ ?

    – Th́ nghe nói có cô Nguyệt nào vô tới đó.

    Tôi lặng thinh. Đây là một chuyện vừa vui vẻ vừa là…nguy hiểm. Tôi gặp Nguyệt ở Cần Thơ năm 1952. Ra Bắc v́ ba cái vụ Cải Cách Ruộng Đất, lập trường bần cố nông nọ kia nên tôi và Nguyệt hiểu lầm nhau. Cuối cùng chia tay. Nhưng rồi hai bên giảng ḥa.
    Khi đi vào Trường Sơn chúng tôi lại gặp nhau và cuộc giảng ḥa đă đi đến kết thúc tốt đẹp. Lúc đó Nguyệt là Trưởng đội văn công của Quân Đội Nam Bộ. V́ biểu diễn cho các đơn vị trên đường Trường Sơn nên Nguyệt phải trở ra Hà Nội sau khi xong công tác. Nhưng Nguyệt đă hứa với tôi là nàng sẽ xin trở về Nam. Con gái ba mươi tuổi mà chưa chồng, kể cũng hiếm có. Vả lại ra vào con đường chết này những hai lần, lại càng hiếm có hơn.

    Quả thật nàng xin vô. Và đă vô tới.

    Khi ở trên đường Trường Sơn th́ gặp nhau là hạnh phúc. Bây giờ gặp nhau lại là trở ngại công tác vô cùng. Ai cho ở đây để cưới vợ. Và nàng ở bên Bộ Chỉ Huy Giải Phóng c̣n tôi ở bên dân chánh. Sự điều động của hai bên sẽ trớt he , như lần tôi và Phương sắp trở thành vợ chồng mà Phương bị đưa về Bác Kế, c̣n tôi th́ lại đi tuốt da cây me ông Cụ.

    Phen này có thành chuyện ǵ th́ cũng lại sẽ chia loan rẽ thúy. Vậy ra cưới vợ để phục vụ công tác cách mạng chớ chẳng phải để gần nhau. Cách mạng là dă man. Đó là lời của Bảy C̣ nói hồi chiều. Tôi đă nghĩ vậy từ lúc Kim Ly cho biết Nguyệt đă vô tới.

    – Vậy bây giờ chú tính sao?

    – Đâu anh tính giùm tôi thử.

    – Về đồng bằng không c̣n ma nào đâu. Coi chừng chú buông h́nh bắt bóng cho mà coi.

    – Hổng chừng anh nói đúng. Tôi với Nguyệt biết nhau cả chục năm rồi. V́ cái lập trường Cải Cách Ruộng Đất (Nguyệt là con địa chủ học trường Tây) nên Nguyệt bị dọa đủ điều. Do đó Nguyệt tự ái với cách mạng và giận lẫy cả tôi. Tôi c̣n trẻ quá, cũng giàu tự ái như ai, đâu có chịu năn nỉ và giải thích cho ra nhẽ hoặc liều mạng tương một câu như ông đạo diễn Bích Lâm đă dạy tôi nói với Nguyệt: “Anh yêu cả những sai lầm của em ! ” (Đúng ra Nguyệt không có sai lầm ǵ . Có chăng là cách mạng sai lầm với Nguyệt.)
    May mà tôi chưa kịp nói câu ấy. Chứ nếu tôi nói câu ấy th́ nàng càng tự ái mạnh hơn.

    – Chú nên quyết định đi ! Tư Mô bảo.

    Chả là Tư Mô cũng biết mối t́nh “màu hoa anh đào” đó của chúng tôi hồi kháng chiến nên mới khuyên tôi đi tới.

    – Con gái giải phóng nứt mắt ra là có chuyện rồi v́ ba cái Thanh Niên Xung Phong, ba cái cán bộ lưu động, chú ơi. Tôi có con thà bỏ nó ở thành nó hư ḿnh không tức, chứ cho nó đi theo giải phóng mà ḿnh cũng giải phóng, nó lại hư với giải phóng th́ tức lắm. Không có đứa con gái nào chịu trừ cho chú tám năm ở miền Bắc đâu. Thà là nó chửa hoang với tỉnh ủy huyện ủy.

    Tôi lùng bùng lỗ tai. Tư Mô lắc lư cái vơng và tiếp:

    – Con bé ba-lê của chú là ǵ ?

    – Là ǵ nghĩa là ǵ?

    – Nghĩa là có ăn thua ǵ lắm chưa ?

    – Th́ cũng chỉ t́nh cảm thôi.

    – Thằng hôn phu của nó đang bị một cú kỷ luật nặng. Nó nghe rồi, nó sẽ không có ngó tới nữa đâu. Bây giờ nó đeo chú là cái chắc. Nhà văn không hơn thằng diễn viên múa lang ba à?

    – Vậy anh không rơ vụ nhà văn Anh Đức nhà ḿnh à?

    – Không !

    – Ở Hà Nội có một cô đào xi-la-ma mê anh ta lắm v́ anh ta có cái truyện được trung ương cho làm phim. Cô nàng muốn đóng vai chánh. Thế nhưng đá bóng với nhau vài lần không hiểu sao cô nàng lại yêu một anh thơ kư xoàng thay v́ trao trái tim cho nhà văn.

    – Ở đây lại khác. Nàng diễn viên ca múa lại muốn trao tim cho nhà văn hơn. Tôi bói chắc trúng đó.

    Tôi bối rối. Về sắc đẹp th́ cô ba-lê hơn Nguyệt xa, lại trẻ nữa. Đâu hai mươi, hai mươi hai là cùng. Từng đi học ngoại quốc, nói chuyện rất là hơi hám tiểu thuyết. C̣n Nguyệt th́ cũng là nữ sinh nhưng đă trung niên rồi. Nhưng tôi có hơi nghiêng về Nguyệt v́ là người cố cựu và bản sở. Cắt với Thu th́ dễ nhưng quay lưng lại Nguyệt th́ quả là không thể .


    Mai tiếp ....

  7. #4627
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Đêm khuya lạnh lẽo như trong khám tù. Gió không thổi nhưng ngọn cây xao động v́ thú rừng chuyền qua lại trên cành. Và những tiếng cú rúc nhọn hoắt như những chấm than, như những lưỡi dao găm cắm vào tim ḿnh. Ngổn ngang trăm mối tơ ṿ. Nợ nước t́nh nhà.

    Qua một đêm trằn trọc tôi như ốm nặng. Sáng bét từ lâu nhưng tôi cứ trăn trở không thoát ra khỏi chiếc mùng túm rụm.

    Nhưng lại có một tin vui. Hoạ sĩ Anh Đức đến bảo:

    – Chuẩn bị nghe nhà “dăng”.

    – Cái ǵ chớ vác gạo th́ cho tôi miễn.

    – Biết rồi. Ai mà bắt người mới dzô vác gạo sớm vậy? Chuẩn bị đi liên hoan tiễn ông Thép Cũ về Hà Nội.

    – Thép Cũ nào?

    – Thép Mới ấy mà. Chú nên phỏng đoán chữ nghĩa của ông hoạ sĩ nầy. Tư Mô bảo.

    – Dịp may rất hiếm, bỏ qua rất uổng.

    – Liên hoan to lắm hả?

    – To vô cùng.

    – Sao ổng về Hà Nội vậy?

    – Ổng lấy hết đề tài của mấy ông rồi , cho nên về nhanh Hà Nội để sáng “toác” chứ sao!

    Đức cười hí hí rồi đi. Tư Mô bảo tôi:

    – Cũng một vụ tính nhầm, như tôi và chú.

    – Nhầm ǵ?

    – Tôi nhầm kháng chíến chống Pháp, tù xong lại nhầm giải phóng. C̣n chú th́ nhầm tập kết hai năm. Nhầm kháng chiến là nhầm bài thơ:

    Bao giờ kháng chiến thành công
    Chúng ta cùng uống một chung rượu đào
    Tết này ta tạm xa nhau
    Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy.

    – Tết sau hay là Tết mười năm sau? Bây giờ th́ hai chục năm sau. Sum vầy đâu?

    Tư Mô cười khẩy :

    – Th́ cũng như chú xuống tàu ở bến Chắc Băng để ra Bắc vậy. Giơ hai ngón tay phải không? Bây giờ th́ mấy chục ngón? Hai chục phải không?

    Tôi càu nhàu:

    – Đ…bà mấy thằng Tây nói ẩu mà đúng.

    – Nó nói ǵ?

    – Hồi đó tôi làm phiên dịch cho Ủy Ban Liên Hiệp Đ́nh Chiến tỉnh. Mấy thằng sĩ quan Tây láu cá bảo thẳng với tôi: “Hai mươi năm chứ không có hai năm đâu!” Tôi quát trả lại: “Chúng ta tin tưởng cách mạng sẽ thành công!” Tụi nó chỉ cười và mời tôi hút thuốc Camel.
    Khi tôi xuống tàu, bọn thủy thủ lại trêu lần nữa. Chúng không nói ǵ, chỉ ngồi trên mui tàu. Nh́n đồng bào đứng trên bờ gạt nước mắt tiễn chồng con ra đi, chúng x̣e mười ngón tay và giơ cả hai bàn chân lên nữa. Vậy mà đúng mới thấy mẹ chứ.

    – Cách mạng có nghĩa là dă man và nói láo!

    Tư Mô nói bằng tiếng Pháp. Anh thường nói bằng tiếng Pháp với tôi v́ sợ mấy anh bần cố nông nghe được, đi báo cáo. Anh tiếp:

    – Ḿnh tin cách mạng một lần đă tiêu tùng rồi , bây giờ lại tin lần thứ hai.

    Tôi tiếp:

    – Ai biểu ở Sài G̣n yên thân rồi mà lại vọt ra đây chi ?

    – Th́ lại cũng “tin” chớ c̣n sao nữa?

    – Bộ người “ngoéo” anh ra khu cũng hứa “hai năm”

    – Không ! Họ không hứa ǵ cả.

    – Vậy họ có hứa là năm sau ta sẽ sum vầy không?

    – Sum vầy ! Tôi cưới vợ đă hai mươi năm ! Chẳng bao giờ gần được vài tháng, ngoại trừ lúc tản cư xuống khu 9 làm kẹo dừa bán.

    – Thằng Lê nay đă bao lớn rồi ?

    – Mười bốn. Cô nó nuôi chứ tôi có nuôi ngày nào. Con Thi cũng vậy. Đi làm cái ǵ ở đây? Nhiều lúc nghĩ mà tự thẹn một ḿnh. Không hiểu hồi đó sao ḿnh ham vui và dễ nghe lời người ta vậy.

    Mặt trời đă lên cao, những tia nắng yếu ớt của một b́nh minh tối om lởn vởn trên ṿm lá. Tôi vừa rũ áo đi khỏi cái xă hội chủ nghĩa oái oăm để về Nam mong hưởng lại không khí thời kháng chiến chống Pháp, nhưng bây giờ lại thất vọng.
    Chẳng có cái ǵ ḿnh ước mơ mà thành sự thực cả. Ngay cả những giấc mơ nhỏ nhất của đời ḿnh. Cách mạng là ǵ ? Đó là một mớ tà thuyết được tiêm vào đầu óc những lănh tụ mù quáng coi dân tộc và mạng người như cỏ rác. Mười năm ở miền Bắc tôi chẳng thấy một điều ǵ nhân dân chấp nhận một cách vui vẻ. Về đây lại cũng y như thế.


    Đột nhiên Tư Mô hỏi tôi:

    – Già Tuế bị đụng xe mô tô chết ở Liên Xô phải không?

    Tôi giật ḿnh, không hiểu tại sao Tư Mô lại biết tới chuyện đó. Ở Hà Nội tôi có nghe phong phanh anh ấy đă chết v́ tai nạn. Nhưng tôi nói trớ qua:

    – Tôi không hay ǵ cả.

    – Giả đỗ Phó Tiên sĩ triết học rồi. Ngày mai lên đường về nước th́ ngày nay cỡi xe máy dầu ngoài đường Mốt-cu , bị xe đụng chết tươi. Tôi biết hắn hồi c̣n làm cán bộ tuyên truyền quậ̣n Mỏ Cày.

    – Sao anh rành vậy ?

    – Th́ cũng do mấy cha ngoài ... đi về nói lại chớ ai. C̣n Nguyễn Xuân Ôn nghe nói làm nghề huấn luyện trong quân đội phải không? Hai đứa nó học một khóa với nhau, sau tôi hai năm.

    Chỉ tiếng “Mỏ Cày” làm tôi nhớ lại tất cả khung cảnh kháng chiến chống Pháp. Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi đă mang ba-lô đi tuyên truyền cho Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc và các quyền Dân Chủ dưới chế độ Dân Chủ Cộng Ḥa. Vui thiệt là vui. Đi đến đâu cũng được đồng bào tiếp đón và lắng nghe nồng nhiệt. Tuế là một cán bộ tuyên truyền rất sáng chói (người xă An Định cùng quê với vợ tôi), có bằng Tú tài trước 45. Trưởng ban tuyên truyền là ông Nguyễn Văn Ngọc, thầy học của tôi ở trường quận.

    Tôi rất mê nghe tuyên truyền và tập làm cán bộ tuyên truyền v́ thấy người ta vỗ tay hoan nghênh dữ quá. Tư Mô là người thâm trầm không thích nghề ăn nói, mà chỉ làm thơ văn và ở trong Đoàn Văn Hóa Kháng Chiến Tỉnh.

    Giới trí thức đă tham gia nhiệt liệt cuộc kháng chiến chống Pháp. Cả các tôn giáo cũng thế. Khắp thôn quê rộn rịp. Ai không tham gia kháng chiến là tự thấy ḿnh lạc lơng, không hợp thời.

    Tôi buột miệng hỏi Tư Mô:

    – Họa sĩ Đức là cháu của họa sĩ Huỳnh Văn Gấm phải không anh?

    – Đúng vậy !

    – Sao hắn ra đây làm ǵ ?

    – Đi học Liên Xô ! Nó đang học Bô-da Gia Định, không biết ai móc nó ra khu để đi Liên Xô.

    – Sao c̣n ở đây?

    – Nghiên cứu nguồn gốc loài khỉ !

    – Chừng nào sang tới bên đó để học tiếp ?

    – C̣n chờ ư kiến ban tổ chức Trung ương.

    – Trời đất !

    – Chúa hài hước đó ! Nó nói lái, nói xiên, nói xéo, nói móc nói ngoéo tối ngày v́ cay cú việc đi học. Nhưng nó được cái là dễ dăi và ai cần ǵ nó cũng giúp, một tay bắn khỉ cho cơ quan ăn, chỉ thua Ba Mực tí thôi, nhưng nó siêng bửa củi hơn Ba Mực.

    – Bửa củi mà cũng được chấm công à?

    – Chú đừng tưởng chuyện đó là tầm thường. Đó là lư tưởng cao nhất đấy.

    – Nghĩa là sao?

    – Củi trên Trường Sơn dễ kiếm chứ ở đây khó lắm.

    – Ở Trường Sơn không dễ đâu anh.

    – Tôi không biết ở đó chuyện củi lửa ra sao chứ c̣n ở đây phải đi xa khu vực đóng quân đốn cây rồi cưa khúc bổ ra vác về nhà bếp. Nếu đốn cây ngay trong khu vực th́ chẳng bao lâu tụi ḿnh bị ḷi lưng hết. Ban chỉ huy An Toàn Khu đă cảnh cáo nhiều cơ quan rồi. Bây giờ ngay cả vấn đề bắn khỉ cũng bị hạn chế nên sự cải thiện sinh hoạt gặp khó khăn.

    – Tại sao hạn chế bắn khỉ ?

    – Tại v́ bắn măi, tiếng động sẽ lọt vào tai gián điệp.

    – Trong rừng mà cũng gián điệp ?

    – Phải đề pḥng từ muỗi đ̣n xóc đến B52 mới sống được chú ơi !

    Đó là câu chuyện lót ḷng vớ vẩn buổi sáng. Tư Mô bao giờ cũng có một cữ trà tiếp theo để trụng cái bao tử trong lúc chờ cơm. Đồ nghề của anh đă có sẵn. Anh như một chuyên gia về môn uống trà. Ai có trà muốn uống cho ngon cũng mang đến lều của anh để uống. Trà dở uống ở đây cũng trở thành ngon. Anh chẻ củi rất tỉ mỉ.
    Mớ nào để làm đóm, mớ nào để đun, mớ nào mới chẻ c̣n tươi mớ nào đă gác trên giàn bếp đă khô anh đều xếp có thứ tự , hễ nhóm th́ lửa cháy chứ bếp không tắt câm , khói bốc mịt mù , bị an ninh cơ quan cảnh cáo như những lều khác. Ngoài sự uống trà chuyên nghiệp, Tư Mô c̣n là một ông “Chủ Tịch Liên Việt” – nghĩa là với ai anh cũng đoàn kết thiệt t́nh, bất cứ thành phần nào anh cũng chơi thân.

    Nước sôi anh quay ra bốn phía hô lên: “Uống trà nghen!” vài ba lần, thế là có khách tới. Khách thứ nhất là ông Bảy C̣, khách thứ nh́ là Ba Mực, thứ ba là Sáng, thứ tư là Tám Thủy Thủ, thứ năm là họa sĩ Đức v.v…

    Đề tài các buổi uống trà là săn khỉ, vác gạo, móc gia đ́nh, mua trà loại nào uống ngon mà rẻ, anh nuôi nấu cơm sống chín, ai bửa củi, ai sẽ đi tản khai trong lúc CZ Johnson City sắp mở màn, ai sẽ ở lại thủ trại. Và cuối cùng là đề tài muôn thuở: Các tiên cô của đoàn Văn Công Giải Phóng dưới quyền cai quản của nữ chúa Thanh Loan !

    Đây là chuyện “Cấm trẻ con dưới hai mươi lăm tuổi.” . V́ ở đây trẻ con ít nhất cũng đă trên hai mươi lăm nên không cần phải cấm ai, tha hồ ngả mặn.
    Họa sĩ Đức mở màn câu chuyện bằng cách nhắc lại:

    – Uống trà nước suối này không sớm th́ muộn phải câm !

    Sáng là nhà văn cùng đi một chuyến với tôi vô đây, ngơ ngác một cách thật t́nh:

    – Bộ suối ở đây độc lắm hả ta?

    – Độc nhất vùng, đồng chí ạ! Họa sĩ Đức nghiêm chỉnh đáp.

    Ba Mực nói:

    – Thôi, để các ông mới tới uống cho ngon miệng mà !

    – Khi các ông biết sự thực th́ uống càng ngon miệng hơn !

    Bảy C̣ cười khậc khậc. Sáng tiếp:

    – Trên đường Trường Sơn có lúc tôi cũng được giao liên cho biết là có con suối độc, lội xuống rụng hết lông chân, có con suối th́ nước uống vô bị sốt rét hoặc thương hàn. Nói th́ nói vậy thôi chứ có con suối nào là chúng tôi không múc nước uống đâu mà rồi có rụng cái lông nà…ào!

    Họa sĩ Đức xua tay:

    – Đó là suối hiền ông ơi ! C̣n đây mới là suối độc!

    – Sao các cha ở đây hồi nào tới giờ, uống nước đó mà chưa câm?

    – Chậc, cái thằng ! Bảy C̣ lên tiếng :

    – Mày không biết thằng Đức à? Nó nói vậy là mày phải ngẫm ra cái kiểu biểu tượng hai mặt.

    – Nghĩa là sao ?

    – Nghĩa là nó nói chuyện này phải hiểu chuyện kia.

    – Suối hiểu ra cái ǵ ?

    – Th́ vẫn là suối nhưng suối này…

    – Có bảy con nhền nhện tắm giặt hằng ngày . Bảy C̣ tiếp :

    – Rồi cá leo xuống đó, hiểu chưa?

    Sáng vốn là anh chàng thích chuyện hiện đại, không bao giờ mó tới truyện Tàu nên không hiểu cá leo là cá ǵ. Cho nên cả bọn cười rộ mà Sáng vẫn ngơ ngác.
    Thấy thế, Bảy C̣ bèn rỉ tai Sáng. Sáng kêu lên và vỗ đùi :

    – Biết rồi. Tôi biết rồi ! Nhưng dù có nhền nhện tắm th́ nước càng ngọt chứ sao uống phải câm ?

    – Ai biết đâu ! ông Ba Mực đang nói ngọng, nhạc của ổng toàn dấu “xị” bémol không thôi.

    Bảy C̣ nói:

    – Ở ngoài Hà Nội th́ dễ, nhưng vô đây cây nhà lá vườn mà khó. Ngó thấy đó mà không bỏ ngón được, hả các em?

    – Bên Bung-gia-ca-ri khó hay dễ anh Bảy?

    Bảy C̣ cười:

    – Tao tu rồi. Không nên nhắc chuyện trần thế nữa nghe.

    – Nói cho mấy em nghe rút kinh nghiệm.

    – Mày có đi th́ đi Liên Xô chứ đâu có sang xứ Bungari của tao.

    – Sao vậy?

    – Hội họa th́ phải sang Liên Xô chứ Bungari đâu có truyền thống về hội họa.

    Mặc ai nói ǵ th́ nói, Tư Mô thủ phận chủ nhà nấu nước pha trà đều đều. Cốc uống trà th́ tự túc. Ai muốn uống trà th́ phải mang dụng cụ theo – đúng ra là cái để đựng nước và cho vào mồm chứ không phải chung uống trà - Nếu cái ông ăn mày trong “Những chiếc ấm đất” của Nguyễn Tuân thấy cảnh này chắc phải khóc ṛng chứ chẳng chơi đâu.

    Ba Mực nói:

    – Tôi không hiểu bà cụ Thanh Loan giữ mấy con nhền nhện để làm mắm hay sao , mà ai động tới bả cũng bắt kiểm thảo cả. Bữa nào tụi ḿnh phát thinh lên , tổng ruồng thộp hết cái đám nhền nhện đó về bó… óp gỏi nhẹc một bữa thử coi ... bả làm ǵ ?

    Họa sĩ Đức cười, tiếng bể nghe cạch cạch:

    – Ai làm nguyên soái, tôi xin lănh ấn tiên phuông ngay.

    Bảy C̣ chêm vào:

    – Ở ngoài đó có cô em Miên lai “đầu gà đít vịt” coi khó khủm ! Thằng nào muốn hết đau lưng th́ quơ lấy.

    – Đọ anh Bảy mở đầu giao… hưởng rồi đó nghe! Anh làm nguyên soái đi anh Bảy !

    Tôi hỏi gặng :

    – Anh cũng chân ướt chân ráo sao anh biết có cô em “đầu vịt đít gà?”

    – Tao ra dượt cho đám đồng ca, tao liếc thấy chớ sao mậy.

    Tư Mô nói:

    – Tài thật. Mới ra vườn đă biết ngay hoa thược dược giữa đám cỏ hoang. E he ! Nhưng mà coi chừng đó. Nó có chủ rồi nghe ông Bảy !

    – Có chủ th́ có chớ, tao đâu có mó vào !

    – Chuyện rắc rối lắm ông Bảy ơi ! Đừng có ham. Ông mới về nên không rơ. V́ là chuyện của ông lớn nên người trong cơ quan cố ém đấy thôi. Nếu của tụi nhăi nhép th́ kiểm thảo trắng đờ con mắt rồi.

    Tám Thủy Thủ chỉ ngồi khoanh tay rế uống trà và thỉnh thoảng cười mỉm chi cọp, không nói tiếng nào. Tôi hơi giật ḿnh. Vốn luôn luôn bị những cú sét ái t́nh ở mọi hoàn cảnh nên tôi nghe mà lo. Nhưng vẫn tính , trước khi đi đồng bằng thế nào cũng t́m cách gặp em “ba-lết” một đôi lần. Kỷ luật chặt chẽ đến như ở trường đi B mà tôi cũng c̣n hoạt động hữu hiệu, sá chi cái khu rừng mênh mông không có hàng rào và cửa ra vào ... với ông Liên khu 5 xét giấy rất gắt này.

    Bảy C̣ bấm trúng tim đen của tôi:

    – Bữa nào tao ra dượt cho tốp đồng ca, chú em theo để t́m đề tài nghe ! Tao sẵn sàng làm b́nh phong cho.

    – Coi chừng trâu buộc ghét trâu ăn ! Tụi cải lương ngoài đó cũng gắm ghé từng mục tiêu cả rồi. Tụi nó sẵn sàng báo cáo bất cứ kẻ lạ mặt nào dám xâm nhập vào vương quốc “Cặm-bù-ch́a” của chúng nó. Nhưng tụi nữ ca nhạc mới lại không thích cải lương.

    Họa sĩ Đức vừa dứt lời th́ Bảy C̣ tiếp:

    – Không nên nghĩ như vậy. Túng quá th́ cái ǵ cũng được nữa là cải lương.

    Sáng nói:

    – Ngoài đó c̣n có kịch nói, ca múa nhạc nữa chớ bộ một ḿnh cải lương thôi sao !

    – Ông thầy “vũ đạo” tu rồi. Các em giỡn mặt, xách… hồ lô múa qua múa lại ổng vẫn không quăng cây tru tiên kiếm ra.

    – Ổng đâu có kiếm tru tiên tru tiếc ǵ mà quăng!

    Cả mâm trà cười ré lên, ngă nghiêng ngă ngửa. Bảy C̣ nói:

    – Ông trời thiệt là bất công. Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra. Ổng có dư của ăn của để mà không biết làm ǵ . Không khéo mấy em bất măn bỏ ca múa, vô trong này hợp xướng với ḿnh hết cho coi.

    – Nói vậy thôi chớ có những cú ngầm ḿnh đâu có hiểu nổi chú em ! Quy luật cách mạng là “Sức ép mạnh sức bung càng mănh liệt” mà!

    Câu chuyện đang hào hứng th́ bỗng có tiếng “rùng rùng” giây lâu làm rung rinh mặt đất. Trà trong chén cũng xao động khe khẽ. Mọi người ngó nhau, lặng ngắt.

    Chờ cho dứt tiếng rung, Ba Mực nói:

    – Kỳ này “dưa hấu” bán hơi gần đó nghe các cha.

    – Độ chừng ở đâu ta?

    – B́nh Dương, Tam Giác Sắt, Củ Chi ǵ đó.

    – Là ở đâu ?

    – Vài chục cây số thôi ! Ba Mực tiếp:

    - Mấy lúc gần đây sáng nào nó cũng cho ḿnh điểm tâm dưa hấu. Cái trận vừa rồi, ḿnh thiệt hại to, nên mới dời qua đây. Các cha mới về không biết đâu. Nó đánh ngay chóc. Hai đợt. Mỗi đợt cách nhau năm phút.

    Thật t́nh tôi không nghe ǵ hết về cái vụ Ban Tuyên Huấn R bị B52, mà điểm nặng nhất là tiểu ban Văn Nghệ. Ngay cả trong nội bộ cái tin này cũng được giấu kỹ và những ai biết hoặc, sống sót sau trận đó phải thủ khẩu như b́nh, không được bàn ra tán vào ǵ hết. Nó đă vậy th́ cứ cho nó vậy luôn, không được bới móc ra.



    Mai tiếp ....

  8. #4628
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Sau khi dư âm của trận giao hưởng tan đi, buổi uống trà gượng hào hứng trở lại. Theo ông chuyên gia Ba Mực th́ buổi sáng nó chỉ chơi một cú thôi. Nếu hợp tác xă văn nghệ ḿnh mà thất thu cú sáng th́ kể như yên ổn được hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nghĩa là tới sáng mai. Cuộc đời được tính như thế, nếu không có việc mưa đêm cây rừng ngă đè chết, không bị rắn chàm oạp gặm, không bị sốt ác tính v.v…

    Ba Mực nói với Tư Mô:

    – Anh cho chúng em xin b́nh trà mới đi anh Tư. Tụi em phải ăn mừng mới được !

    – Ăn mừng ǵ ?

    – Ăn mừng chết hụt chớ ăn mừng ǵ ! Há há há ! Mỗi đêm trước khi ngủ, em đều chắp tay lên ngực cầu xin ông thần Chà Gạc phù hộ cho chúng em tai qua nạn khỏi.

    Tôi hỏi:

    – Thần Chà Gạc là thần ǵ?

    Bảy C̣ vọt miệng đáp:

    – Đây là đất Miên, hiểu chưa chú em ?

    – Đây là đất Miên? Ḿnh đang ngồi trên đất Miên?

    – Vậy chứ c̣n đâu nữa !

    – Tôi tưởng là Tây Ninh chớ!

    – “Tây” bất an “Ninh” của ḿnh… không ổn nữa nên mới dời qua đây.

    Tôi ngơ ngác:

    – Vậy sao ở ngoài Bắc tôi nghe “la-diô” nói là Mặt Trận đă giải phóng ba phần năm đất đai và ba phần tư dân chúng?

    Bảy C̣ chép miệng:

    – Cái thằng! Mày ngây thơ quá mậy.

    – Ai cũng tin vậy chớ phải ḿnh tôi đâu !

    Họa sĩ Đức cười hắc hắc:

    – Giải phóng năm phần năm đất đai và bốn phần tư dân chúng của ḿnh xong rồi nhưng Miên chưa giải phóng cho nên ḿnh mới qua đây giải phóng Miên chớ sao !

    Tư Mô moi ba lô lấy trà mới. Nhưng lại hết nước.

    Những cái bao tử lép đă tiêu thụ hết cả thùng nước anh lấy dưới suối lóng trong hôm qua. Cái thùng con vốn đựng thịt nạc heo của Mỹ gởi qua tiếp tế cho lính Mỹ lại chạy tọt vào nuôi sống bọn ốm đói chúng tôi , qua tay các con buôn Sài G̣n. Dung tích của nó chừng bốn, năm lít. Một cái thùng không như thế không dễ ǵ kiếm trong rừng. Tư Mô là người được kính trọng lắm lắm nên nhà bếp mới dành cho một cái, để chứa nước nấu trà. Tư Mô hỏi họa sĩ Đức:

    – Chú em giỏi gị đi xuống suối lấy nước đi !

    – Ừ được ! Ai có đồng hồ coi giùm mấy giờ rồi ?

    Bảy C̣ vừa được phu nhân trang bị cho một cái Movado, giơ tay lên xem và bảo:

    – Mười giờ bốn mươi chín phút mười lăm giây rưỡi !

    Họa sĩ Đức cười ha hả:

    – Vậy th́ tôi xin xung phong ngay.

    Rồi rỉ tai tôi và Sáng. Chúng tôi cười. Tôi hỏi:

    – Nhưng có chắc không?

    – Chắc chớ. Giờ này là giờ đại lợi mà ta.

    – Ông có kinh nghiệm lần nào chưa?

    – Cả chục lần rồi. Hễ mắt mũi tôi hơi kèm nhèm là tôi đi ra suối rửa ngay.

    – Sao bảo nước suối độc , uống nước sẽ bị câm ? Bảy C̣ gắt.

    – Uống th́ câm nhưng nh́n th́ sáng !

    Nói vậy rồi họa sĩ kéo tay tôi lẫn Sáng :

    – Đi hai cha! Mới leo dốc Trường Sơn, bây giờ phải nên tẩm bổ.

    Đức lôi hai đứa tôi. Tôi và Sáng cũng hăm hở đi theo. Ba Mực nói:

    – Các tiên hay xuống suối vào buổi sáng. Trời thanh tịnh và suối c̣n trong.

    Bảy C̣ nói:

    – Mỗi ngày tắm hai lần c̣n ǵ là suối ?

    – Vậy nước uống trà mới ngọt chớ anh Bảy !

    Bỗng nối tiếp theo câu nói của Ba Mực, một tràng “rùng rùng.” Ba Mực kêu lên:

    – Coi bộ nó làm gần hơn anh Bảy. Mấy cái chén nhảy tưng tưng.

    Tư Mô nói với tôi:

    – Nó sửa soạn mở màn chiến dịch Johnson City. Ḿnh phải đi gấp. Ở đây không có lợi đó chú Hai.

    – Muốn đi cũng không phải dễ đâu anh Tư. C̣n phải chuẩn bị lương khô chớ. Ít nhất phải vài ba tuần mới đi được. Hồi đi Trường Sơn tụi tôi không có chuẩn bị ǵ hết ráo nên dọc đường khan thức ăn phải vô buôn đổi gà đổi chó nguy hiểm vô cùng.

    Tư Mô nói:

    – Ở trên đường ḿnh sẽ đi, đâu có buôn bản ǵ mà đổi gà đổi chó, chú em.

    Đúng ra tôi cũng không c̣n có ǵ để đổi. Vừa đến đó th́ ông Tổng Thư Kư Văn Nghệ Giải Phóng Lư Văn Sâm đến. Tôi có cảm tưởng đó là một con ma sốt rét hiện h́nh, trông thảm năo vô cùng. Ngó anh mà tôi hiểu tôi. Chắc tôi cũng không hơn ǵ anh. Chỉ khác là tôi trẻ hơn đâu chừng mười tuổi thôi. Anh nói giọng khàn khàn:

    – Chiều nay ḿnh tiễn đồng chí Thép Mới về Bắc. Dự trù của anh nuôi là giết con gà mái cuối cùng để làm tiệc, ngoài ra th́ ai bưng cơm thường lấy , đến ăn chung một bữa.

    Ba Mực vọt miệng hỏi:

    – Đi tất cả hả anh Hai ?

    – Ư quên ! Mỗi tổ cử một đại biểu thôi. Tổ văn th́ được ưu tiên ba đại biểu.

    – Tại sao ?

    – V́ đồng chí Thép Mới là nhà báo. Hai Lư tiếp :

    – C̣n tổ thơ th́ Giang Nam đi, tổ họa…

    – Tôi xin nhường cho người khác ! Tư Mô nói :

    – Tôi mệt lắm không dự nổi.

    – Họa sĩ Đức đâu rồi, năy giờ tôi đi t́m mà không thấy !

    – Nó đi coi tiên … ủa, nó đi lấy nước uống trà !

    Hai Lư thủ thỉ:

    – Đồng chí Thép Mới vô cũng đă gần ba tháng , lại có đi đến cả Củ Chi lượm đề tài nữa. Hà Nội đâu có đồng chí nào gan dạ bằng đồng chí ta. Vậy chiều nay trong buổi tiệc tiễn đưa, các đồng chí nên phát biểu vài cảm tưởng cho ngọt để đồng chí ḿnh về ngoài đó giữ những cảm t́nh tốt đẹp với miền Nam.

    – Có thể bảo thằng Xuân Vũ nói cảm tưởng! Bảy C̣ vọt miệng nói liền.

    – Nó ở ngoài Bắc mới vô, để cho nó phát biểu th́ chẳng khác nào mèo khen mèo dài đuôi.

    – Anh đừng lo ! Nó có đọc Tùy bút của Thép Mới và quyển “Thời Gian Ủng Hộ Chúng Ta” của Ilya Erhembourg do Thép Mới dịch, nó khen hay lắm. Bảy C̣ nói.

    Tư Mô căi lại:

    – Cái chúng ḿnh phải khen là những ǵ Thép Mới viết về miền Nam, chớ c̣n mấy cái kia th́ đă cũ rồi, vả lại khen Thép Mới như là một dịch giả th́ không cần thiết lắm anh Hai ạ.

    Hai Lư lẩm nhẩm một hồi rồi nói:

    – Vậy th́ thôi, trong bữa tiệc, tự do cảm tưởng, nhưng đường hướng chung là đề cao đồng chí ta.

    Vừa đến đó th́ lại một loạt “rùng rùng” khác tiếp theo, gần hơn hai lần trước.

    – Mẹ kiếp! Ba Mực kêu lên:

    - Bữa nay nó thím xực ba lần. Coi bộ nó muốn chơi qua ranh giới Cao Miên nữa đó anh Hai.

    Hai Lư lắc đầu:

    – May rủi tại trời, ḿnh sống như những con kiến dưới những lỗ nẻ vậy. Một gáo nước sôi, một mồi lửa là rụi tèng heng hết ráo.

    – Anh nói vậy làm sao “Nắng Bên Kia Làng” nổi, anh Hai !

    – Nắng đă tàn rồi, chú em !

    – Nhưng nắng được th́ cứ nắng chứ anh Hai !

    Tuy cà rỡn với nhau vậy chớ trong bụng, người nào cũng hoang mang cực độ. Chiến dịch Johnson City đă mở màn ở xa xa rồi đó. Nhưng bọn tôm tép này th́ cứ ở đây chờ lệnh trên. Có lẽ nó khía Củ Chi trước rồi đến các cơ quan R chung quanh biên giới Việt Miên. Nó không cần đổ quân, chỉ chơi B52 là đủ.

    Vài người rút lui. Mấy người c̣n ở lại lơ láo mất hồn. Sáng, tôi và họa sĩ Đức lấy nước xong trở lại th́ chỉ c̣n có ông chủ lều ngồi chong ngóc một ḿnh.

    – Gặp tiên không? Tư Mô hỏi.

    – Đi sớm quá, tiên chưa đáp xuống.

    Họa sĩ Đức cười:

    – Coi hát đă đời rồi c̣n bảo là chưa. Hề hề… bầy tiên cảnh giác nên rút lui không phơi cánh nữa. Nếu bây giờ mà trở lại th́ gặp chắc.

    – Thôi đi cha non, dưa hấu sắp rụng tới nơi rồi ḱa ở đó mà coi tiên.

    Hai Lư là người lănh đạo tiểu ban về mặt chánh quyền nên anh cũng chỉ làm hụ hợ v́ đă có đảng bao sân, chánh quyền giải quyết xong rồi cũng phải thông qua đảng. Đảng không đồng ư th́ cũng vô ích thôi. Ngay như việc hi sinh con gà mái để tiễn nhà báo về quê cũng phải có ư kiến của đảng.

    Chiều hôm đó, chúng tôi đến với tư cách đại biểu chính thức của tổ văn là tổ đứng ra tổ chức buổi tiễn đưa này. Theo qui định của anh Hai Lư th́ mỗi đại biểu đều mang khẩu phần thường lệ của ḿnh đến bữa tiệc. Giữa nền đất trơ khấc là hai cái nồi, nồi cháo loăng như Biển Hồ, trên mặt lềnh bềnh mấy vệt mỡ vàng nhạt lấp lánh mặt trời chiều , không có tí hành nào bập bềnh biểu hiện tư tưởng bấp bênh của cán bộ trong lúc này.

    C̣n chú gà luộc th́ có lẽ tự biết bản thân ḿnh quá bé bỏng trước miệng những con hổ đói nên lẩn tránh đâu đó. Đây là con gà tự túc c̣n sót lại của tiểu ban: Ba con trước, một con bị chồn tha, một con phải hy sinh cho bữa người ốm cần bồi dưỡng, một con th́ lại sầu t́nh cứ đứng cú rũ nên tiểu ban quyết định xử trảm sớm để ăn thịt tươi trước khi nó chết.
    C̣n con có khả năng sản xuất trứng mà tôi là một trong những người được hưởng hôm mới về đây, th́ được vinh dự hi sinh cho buổi tiễn đưa quan trọng này. . .

    Mỗi người đưa bát lại cho anh nuôi múc cháo và bỏ vào đó một tí thịt có thể để dành ngửi như dầu Nhị Thiên Đường chứ không phải để ăn.
    Đối tượng được đăi tiệc hôm nay là nhà báo Thép Mới cũng nhận lănh số cháo và thịt y như mọi thực khách, không hơn không kém.

    Phải nghĩ rằng có những người trong tiểu ban không được hân hạnh đến dự buổi tiệc này th́ mới hiểu được giá trị của bát cháo thịt. Có người húp cháo “nguyên chất” để t́m lại hương vị của nó ngày xưa ở vỉa hè SàiG̣n hoa lệ , hay thời đi học ăn sáng: bát cháo gà có rau ghém bắp chuối. Nhưng có những người cho rằng ăn như thế là phí. Nên trộn cơm nhà bếp vào mà lua. Như vậy cũng vẫn biết mùi cháo đồng thời no bụng hơn là húp cháo rồi ăn cơm hai phần rời ra.

    H́nh như không ai nghĩ đến việc phát biểu cảm tưởng đối với cuộc từ giă của đồng chí ḿnh. Nó không có ư nghĩa như cuộc sang Tần mạo hiểm của Kinh Kha, nhưng kể ra nó cũng nguy hiểm lắm.

    Đồng chí Thép Mới nhà ḿnh vào đây chưa quá ba tháng nhưng v́ là Bêka nên Bộ Chỉ huy (toàn là dân Ba kê) ưu đăi đặc biệt. Lệ thường nhà văn nhà báo của R đi công tác th́ cứ đi như dân thường, không có cần vụ bảo vệ ǵ cả, nhưng Thép Mới đi th́ có “gạc-đờ-co” và bây giờ trở về Hà Nội th́ ba-lô của đồng chí đầy những vải vóc đồng hồ, bút máy và các thứ xa xỉ phẩm khác của Bộ tặng hoặc các đồng chí ấy nhờ mang về cho gia đ́nh ở ngoài xứ mạt rệp Bắc Kỳ.

    Không phải một ba lô mà cả chục. Một tiểu đội giải phóng quân, mỗi người đeo một ba lô đầy ém. Đó cũng là công tác cách mạng chớ sao. Những thứ này được nhân viên công tác thành mua ngoài Sài G̣n chuyển vô đây , qua đường dây cách mạng đấy ạ. Nh́n đồng chí Thép Mới đi, tay chống gậy, lưng c̣ng xuống v́ chiếc ba lô quá nặng, anh em x́ xầm với nhau: “nhà báo bị gậy thật vinh quang.”

    (Có lẽ v́ chuyên công tác chí công vô tư này mà sau này trung ương không tín nhiệm Thép Mới nên đă xách chóp hai tên Hồng Hà và Hà Đăng qua đầu y , vứt vào Ban Chấp Hành Trung ương đó chăng?)


    Mai tiếp ...

  9. #4629
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Tư Mô không đến dự buổi tiệc bi đát này. Thấy tôi cầm chén không trở về, anh hỏi:

    – Xong rồi hả?

    – Xong rồi!

    – Lo ba cái lương khô để sửa soạn hạ san! Tư Mô bảo :

    – Vô đây coi bản đồ để thấy đường đi.

    – Ở đâu mà anh có ?

    – Ở đâu có th́ thôi, không nên hỏi.

    Đi trên đường Trường Sơn, giao liên bảo đi đâu đi đó, bảo đứng th́ đứng, bảo nằm th́ nằm, không hề biết thắc mắc cũng không hề hỏi đi đâu, bữa nay là lần đầu tiên tôi được xem tấm bản đồ lớn có rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt. Anh trải dưới đất. Mới nh́n vào tôi tối tăm mày mặt, phải nhờ anh chỉ mới dần cảm nhận ra.

    – Đây là vùng Tam Biên. Đây là những buôn của dân tộc ít người. Chú phải đi qua các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng, băng qua sông Đồng Nai Thượng hai lần mới tới Đồng Nai Hạ, vượt qua một dăy núi tới suối Mă Đà. Mă Đà Sơn Cước anh hùng tận là ở đây !
    Nó nằm ở giữa tỉnh Long Khánh và Phước Long. Dân Nam Kỳ ḿnh ḅ tới đây là kiệt sức, chỉ c̣n lết chớ đi hết nổi. Nhiều người nằm luôn tại đây. Nghỉ dưỡng sức ở đây rồi lại phải băng qua sông Bé thuộc tỉnh B́nh Long lội qua sông Sài G̣n đi hết bề ngang của tỉnh Tây Ninh. Đây là Kà Tum. Đây là Cầu Cần Đăng. Lúc chú về ngang chiếc cầu c̣n đó không?

    – Sập rồi.

    – Hiện ḿnh đang ở đây, trên xứ con Mên. Hễ có động tịnh là vọt vô sâu nữa.

    Tôi nh́n lại con đường mà ớn cho cặp gị. Vậy mà vẫn lội suốt.

    – Bây giờ ḿnh phải đi dọc sông Vàm Cỏ Đông. Có lẽ phải qua cả Vàm Cỏ Tây nữa. Lội băng hai tỉnh Kiến Phong Kiến Tường tức là Đồng Tháp Mười, qua Mỹ Tho rồi mới đến tỉnh ḿnh. C̣n cả chục con sông phải qua, vài ba khúc lộ Đông Dương phải vượt.

    – Tôi tưởng về đến R coi như là tới nhà chớ!

    – Chưa đâu chú em. C̣n lội tóe phở ra đấy. Coi trên bản đồ th́ chẳng mấy gang tay nhưng ngoài thực địa th́ vạn lư trường chinh. Mấy cậu đi miền Trung miền Tây về nói lại, găng lắm, không có dễ như hồi kháng chiến trước đâu. Đi rồi sẽ biết. Bây giờ th́ phải chuẩn bị cặp gị. Ở Trường Sơn th́ núi đá tai mèo, mang dép cao su leo được, nhưng ở đây dép cao su thọc xuống là dính luôn. Ở Đồng Chó Ngáp, biết không? Củi tràm lụt dưới bùn đâm thủng gan bàn chân.

    Tôi ngán ngẩm vô cùng. Đường về quả là khó khăn.. Đến đây chỉ mới nửa đường. Nhưng chẳng lẽ lại không về. Không về th́ vượt Trường Sơn làm cái ǵ ? Bao nhiêu người bỏ mạng trên đỉnh Trường Sơn, bên bờ suối Mă Đà, giữa ḍng sông Bé cũng là v́ một chữ “nhà” – Về Nhà – chứ nào có phải v́ lư tưởng giải phóng giải phiếc ǵ.
    Ngoài ra c̣n có một lư do khác, chán ngán ê ẩm cái xă hội chủ nghĩa quái gở. Có phải vậy không? Ba trăm ngàn hồi chánh viên trong đó có trên một trăm ngàn người Bắc, c̣n lại là dân Nam Kỳ tập kết hoặc dân giải phóng Nam Kỳ tại gốc ; ngày nay sống rải rác khắp trong nước và ở nước ngoài, hăy xác nhận điều tôi nói. Riêng tôi tôi đă chán đến cùng cực cái xă hội mọi rợ do một lũ ngố dựng lên. Ai về được sẵn sàng về, như thoát địa ngục, ai không về được th́ ráng ở lại chờ. Chẳng có quyến luyến chút nào với cái gọi là xă hội chủ nghĩa.


    Một hôm tôi nằm buồn bèn đi theo một cậu thanh niên lao động đến địa điểm của tiểu ban Văn Nghệ để t́m sách đọc. Sách đây là sách “phản động Sài G̣n.” Người có “trách nhiệm” mới được quyền mó tới , nhưng v́ trong lúc loạn lạc, cái kho sách chẳng c̣n ai trông nom nên mạnh ai nấy t́m đọc. Trước khi tôi về, tiểu ban Văn Nghệ R đă bị một trận B52.

    Khi tôi về đến R th́ được biết ông Trần Hữu Trang, thường được gọi là bác Tư Trang, chủ tịch hội Văn Nghệ Giải Phóng, ủy viên trung ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn Hữu Thọ đă chết trong trận bom B52 đầu tiên.
    Ngoài ra c̣n có bảy người khác gồm diễn viên hạng bét ở Sài G̣n chui ra rừng và một soạn giả cải lương ở miền Bắc về: Ngọc Cung. Tôi quen anh ta hồi kháng chiến chống Pháp, ở Bắc không viết được vở nào khả dĩ diễn được trên sân khấu lớn, nhưng không hiểu sao Hà Nội cho anh về để chết vô lối như vậy.

    Về đến R, lội luôn một mạch đến nhà ở tận Bạc Liêu gặp vợ con cha mẹ. Gia đ́nh buôn vàng ở thị xă Bạc Liêu, giàu lắm. Anh được tiếp tế cả chục lượng vàng, giắt lưng lội trở về R để nghỉ ngơi, sáng tác gởi ra Hà Nội nhưng chưa kịp xài tí vàng cũng chưa viết được vở nào th́ bị B52.

    Thanh Loan, Thanh Hùng và Ngọc Lan là những người sống sót trong trận B52 kể trên nên tôi được gặp mặt, c̣n Bảy Thinh và những người khác th́ chết đă lâu nhưng tên tuổi được giấu rất kín. Ngay cả vợ con ngoài thành hỏi tin tức th́ R chỉ trả lời rằng các anh ấy đi công tác ở tỉnh, nhưng tỉnh nào th́ không chịu nói ra. Ai mà không biết cái kiểu ấm ớ của tụi đầu ḅ.

    Bây giờ ngồi viết lại những chuyện xưa (hai mươi tám năm qua, ít ỏi ǵ) tôi thấy những người chết hồi đó quả thật khỏe hơn là đồng đội của họ bây giờ. Chết đi, khỏi phải trông thấy những cảnh hỗn mang mọi rợ của Sài G̣n đỏ, cái Sài G̣n tươi vui phồn thịnh đă nuôi họ lớn , đă tạo cho họ tiếng hát để cuối cùng bị họ phản bội.
    Họ chết đi để khỏi phải nh́n thấy đào kép bây giờ xơ xác trơ trụi khốn nạn bần cùng đi hát với cái bụng lép với cái đầu đội măo nhà Hồ nặng cụp cổ. Họ chết đi để khỏi phải ân hận thấy rằng ḿnh đă ngu dại đi t́m cái mà ḿnh đă có thừa trong tay nhưng đă quăng đi để t́m cái không.
    Họ chết đi để khỏi phải trông thấy những đồng nghiệp tài ba của họ rụi dần và không có mầm non nào mọc lên dưới sự cai quản của lũ xạo ke gọi là đảng ủy và công đoàn. Họ chết đi để khỏi bị dân Sài G̣n chửi vào mặt, như đă chửi vào mặt một tên nào đó ăn cơm quốc gia thờ ma Việt Cộng bằng mấy câu thơ tuyệt vời:

    “Thằng nhạc sĩ vàng
    Ôm cây đàn đỏ
    Âm nhạc từ đó
    Trở thành màu cam. ”


    Màu cam là sự pha trộn đỏ với vàng. Màu cam là màu chết người. Thằng nhạc sĩ vàng là thằng nào? Bảy Thinh, Tư Trang, Ngọc Lan, Thanh Hùng hay thằng nào khác mà bài thơ không chỉ trán ra? Họ chết đi là họ đă tránh được cái địa ngục , chính họ góp công sức và tiếng hát xây đựng và ca ngợi. Đời cô Lựu xưa hăy c̣n đẹp gấp vạn lần đời các cô Lựu ở Sài G̣n ngày nay.

    Ngày nay nếu lăo Tư Trang c̣n sống ắt là sẽ được đám đầu ḅ Hà Nội quăng cho cục xương gị ḅ để đền ơn đă ra công vận động nhiều nghệ sĩ hạng bét Sài G̣n tham gia Mặt Trận Giải Phóng của một tên lưu manh mang tiền án nhơ nhớp chưa rửa sạch.

    Tôi theo chân cậu thanh niên đến vùng bom B52 cũ bên đất Tây Ninh để t́m sách đọc giải sầu. Cậu thanh niên miền Bắc giải thích:

    – Chỗ ḿnh ở hiện nay là đất Miên anh ạ.

    – Đất Miên ?

    – Vâng. Sau khi bị B52 cơ quan ḿnh vượt biên giới.

    – Làm bừa như vậy tụi Miên nó không nói ǵ sao?

    – Họ thấy ḿnh có súng họ chạy bỏ bố chớ nói ǵ !

    Tôi gặng hỏi:

    – Nhưng làm sao cậu biết rằng ḿnh đă vượt biên giới?

    – Em nghe ở trên nói vậy th́ hay vậy, chớ có biết biên giới là cái ǵ.

    Tôi không thấy dấu vết ǵ có thể gọi là ranh mức cả: một lạch nước hoặc một làn cỏ khô nằm giữa một vạt đất trống cũng không.
    Nhưng tôi hiểu sự đào tẩu sang đất Miên dù chỉ cách đất Việt non cây số là sinh lộ. B52 của Mỹ nó biết tôn trọng luật quốc tế c̣n “chúng ta” dùng cái sai để đáp lại cái đúng. Cộng sản luôn luôn như thế. Chúng sống để làm bậy và bịp người. Và không bao giờ dám công nhận lỗi lầm.


    Vùng đất bị B52 nay đă hồi sinh. Cành cây đă nảy tược, những lỗ bom đang cạn dần. Tôi hỏi cậu thanh niên:

    – Các đồng chí ḿnh nằm ở đâu?

    – Dạ, rải rác mỗi người một nơi.

    – Em vô đây hồi nào? Đột nhiên tôi hỏi ngoặc lại để t́m hiểu thêm.

    Cậu thanh niên đáp:

    – Em vừa đút đầu vô vài bữa th́ bị.

    – Bom tới vào buổi sáng hay buổi chiều?

    Cậu bé đứng hẳn bên một gốc cây bị vết đạn găy cúp , như một cánh tay xụi và nói:

    – Thường thường nó đến buổi sáng. Mỗi buổi sáng đều có vài vụ ở chung quanh ḿnh. Lúc đó anh em trong cơ quan bàn rằng nó đánh các cơ quan khác quan trọng hơn như Bộ Chỉ Huy, Cục Tham Mưu và Mặt Trận, c̣n ḿnh là văn hóa chẳng quan trọng ǵ nên nó không cần đánh.
    Thế nhưng đùng một cái nó đánh, cho nên không trở tay kịp. Em đang nấu cơm sáng. Lúc đó chừng chín giờ Bỗng nghe rầm rầm rầm. Em đâu có biết là tiếng ǵ. Nếu bom th́ phải có máy bay tới, nhưng em không nghe tiếng động cơ. Chỉ nghe tiếng bom nổ, mà nổ hằng loạt như liên thinh. Em lăn xuống đất. Rồi ḅ bạt mạng.

    – Không có hầm à?

    – Có chứ, nhưng đâu c̣n nhớ đầu đít ǵ. Nếu có ai hỏi ḿnh tên ǵ cũng không nhớ nữa là ! Em co ḿnh phóng vào gốc cây. Cây run như băo, đất lắc như sàng gạo ... c̣n miểng đạn th́ rít như sáo thổi anh ạ. Dứt loạt đầu em lóp ngóp ḅ dậy không thấy ǵ hết. Khói đen nghịt và lửa cháy từng cụm, em không c̣n nhớ lều của ai ở đâu nữa v́ tất cả cây cối đều găy cụp xuống hết.

    – Nó bỏ trúng ngay trân à?

    – Chứ c̣n ǵ nữa anh ! Trúng ngay cơ quan ! Chẳng những thế lại trúng ngay đầu năo. Bác Tư chết ở loạt đầu và ngay trong hầm. Cậu bé nuốt ực và kể tiếp:

    – Lúc đó em nghe văng vẳng tiếng chú Sáu Lăng kêu: Bác Tư bị thương các đồng chí ơi ! Bác Tư bị thương.

    – Chỉ một ḿnh bác Tư thôi à?

    – Cả chục người chứ đâu một ḿnh được anh. Em định chạy tới coi sự thể ra làm sao. Nhưng em vừa đứng dậy th́ lại té ngửa ra rồi rầm rầm rầm.

    – Nó tới nữa à ?

    – Vâng, nó tới nữa. Nó tới đợt thứ hai.

    – Ác thế!

    – Chỉ cách nhau chưa tới năm phút. Anh Cung chết ở đợt này. C̣n chú Tư Siêng th́ bị đất lấp. Cũng may nó chỉ bỏ có hai đợt. Nếu nó thêm đợt nữa chắc tiểu ban không c̣n người nào.

    Tôi viết đến đây th́ chiến tranh mặt đất bắt đầu diễn ra ở Kuwait. Tôi có dịp xem sự tàn phá của B52. Đứng ngoài ṿng nguy hiểm để xem sự nguy hiểm th́ c̣n thích thú nào bằng. Lửa cháy như biển. Một chiếc B52 qua, một loạt bom rắc như trấu vẩy. Sinh mạng con người dưới cánh B52 quả là mong manh hơn mạng con kiến.

    Không ǵ chịu nổi với B52. Nhưng quân Iraq th́ có th́ giờ đào hầm hố và đúc bê tông công sự để cố thủ hoặc có pháo pḥng không để chống trả. Hơn nữa khi cần di động th́ chúng có xe thiết giáp. C̣n cái gọi là tiểu ban Văn Nghệ và các cơ quan R không có ǵ hết. Ban đêm th́ nằm ph́nh bụng hứng , c̣n ban ngày th́ dùng đầu để đội như cầu thủ đội banh da.
    Trên thế giới này không có ai tàn nhẫn bằng bọn lănh đạo Hà Nội. Chúng ở trong dinh thự hưởng lạc, xua đám thanh niên miền Bắc ngây thơ đi giải phóng miền Nam và đốt đít bọn Nam Kỳ nhẹ dạ cả tin Trung ương , thừa thắng xông lên chơi với Mỹ để sau này lănh thêm một cái huy hiệu Thành Đồng Tổ Quốc.

    (Khi kết thúc cuộc chiến tranh ăn cướp, dân Nam Kỳ lănh khúc xương không có tí thịt để cạp chơi đỡ buồn).



    Mai tiếp ...

  10. #4630
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Cậu bé thanh niên lao động này vượt Trường Sơn bốn tháng vào đến tiểu ban Văn Nghệ lănh chức hỏa đầu quân và chết hụt B52. Cậu ta nói tiếp:

    – Chúng em phải moi đất kéo chú Tư Siêng lên. Chú vừa thở dốc vừa nh́n cái cây bên miệng hầm bị xén đứt ngọt vừa hổn hển nói: “Trời cứu tôi.”

    Cậu thanh niên trỏ cho tôi cái mả của Bác Tư Trang, cái mả của Ngọc Cung, của Bảy Thinh và mấy cái nữa. Mấy mô đất nằm không có hàng lối ǵ, cũng không gần nhau… Bởi v́ khi chôn c̣n tùy địa h́nh địa vật. Chỗ nào đất mềm mới đào huyệt được, theo cậu bé nói. Đâu có ai ngó ngàng ǵ. V́ chúng nằm bên Tây Ninh. Về bên đây lơ mơ lại ăn phát nữa.

    Đột nhiên tôi hỏi:

    – Chỗ ḿnh đang đứng đây là đâu, tên ǵ ?

    Cậu bé đáp vừa đủ cho tôi nghe:

    – Tà Nốt ! Cậu ta ngập ngừng một lúc rồi nói :

    – Đây là sát biên giới Miên. Nếu ḿnh nhảy một cái qua là đất Miên rồi. Đây là Tà Nốt. C̣n chỗ ḿnh đang ở là “phum” ǵ đó cháu quên rồi. “Phum, sóc” là làng người Miên. Tà Nốt đâu phải là tiếng Việt Nam. Có lẽ đất Tây Ninh ở vùng này trước đây thuộc về Cam Bốt.

    Những địa danh khác cũng nghe như tiếng Miên: Kà Tum, Ḷ G̣, Trảng Bàng, Củ Chi, Nàng Rà, Chà Ruột…

    Cậu bé bảo tôi:

    – Chú có lấy sách vở ǵ th́ lấy mau đi rồi về ! Vừa nói nó vừa trỏ tôi cái hầm.

    Tôi chui xuống và moi tất cả vứt lên mặt đất. Một số ướt ẩm, một số bị mối ăn. Mặc kệ, tôi liếc những tên sách báo rồi t́m một tấm ni-lông rách túm lại tất cả quảy lên vai.

    Thằng bé nói:

    – Chờ cháu một chút.

    – Để làm ǵ ?

    – Cháu cắm mấy cái bia.

    Lúc ra đi tôi thấy nó xách hai ba tấm gỗ bó vào nhau. Tôi không hiểu nó dùng để làm ǵ. Té ra đó là những tấm bia. Nó đi sang đây công tác đặc biệt chứ không phải chỉ xung phong dắt tôi đi lấy báo.

    – Chú Sáu Lăng bảo đem cắm mấy cái bia cho bác Tư, ông Bảy Thinh và ông Ngọc Cung.

    – Ừ th́ cắm nhanh nhanh đi rồi về.

    – Nhưng cháu không biết bác Tư nằm đâu c̣n hai ông kia nằm đâu.

    Tôi hơi cáu:

    – Sao hồi năy nói rơ vậy ?

    – Chú Sáu Lăng có dặn cái mả cao nhất là mả bác Tư nhưng bây giờ cả ba cái đều tụt thấp bằng nhau cả, cháu không biết cái nào là của bác Tư.

    – Thôi vác bia về để kỳ sau hỏi cho kỹ rồi hăy đem cắm. Chẳng lẽ bia ông này lại cắm mả ông kia.

    Thằng bé bảo:

    – Cháu ớn đi qua bên này lắm. Cháu không dám đi nữa đâu. Chú coi đó toàn là mồ mả, hố bom giữa hoang tàn, không có một bóng người.

    Tôi thông cảm với thằng bé:

    – Vậy th́ làm sao?

    – Thôi cháu cứ cắm đại, bia nào mộ nào cũng được chớ sao !

    – Làm như vậy tủi vong linh người chết quá cháu ạ !

    Thằng bé đáp ngay, không suy nghĩ:

    – Nếu tủi vong linh th́ những đồng đội của cháu chết dọc Trường Sơn tủi hơn nhiều. Họ chết có được chôn cất ǵ đâu ! Toàn dập, ḷi cả tay chân nói chi đến mộ bia. Thằng bé nói vậy rồi dựng mấy thanh gỗ vào một gốc cây ... Thôi để kỳ sau…

    Chúng tôi trở về trên vết ṃn cũ. Thiệt là hăn hữu. Bất ngờ tôi có một tủ sách con con để giải sầu. Tư Mô thấy tôi về th́ mừng rỡ:

    – Chú đọc hết mớ sách báo đó th́ ḿnh đi là vừa.

    – Anh có viết cho những tờ báo này lúc ở Sài G̣n không?

    Tư Mô soạn qua và đáp:

    – Tôi có viết cho mấy tờ thôi.

    – Anh thấy những tờ văn nghệ Sài G̣n so với tờ Văn Nghệ Hà Nội th́ sao?

    – Ai có trí thức nấy chú ơi.

    – Vậy cũng tốt chứ sao ? Ḿnh có lư luận phủ nhận công tŕnh của người ta th́ người ta cũng có lư luận phủ nhận công tŕnh của ḿnh. Anh viết truyện ngắn hay ǵ ?

    – Truyện ngắn. Ư mà thôi bỏ đi chú ơi ! Tôi khổ v́ ba cái truyện ngắn đó.

    – Viết là khổ chứ sao !

    – Không phải thế đâu. Khổ công sáng tạo nói làm chi !

    Tư Mô ngó quanh, không thấy có ai nên tiếp :

    – Khổ này là khổ ngồi c̣ng lưng kiểm thảo. Người ta kiểm thảo tôi ba ngày ba đêm về tư tưởng sáng tác đó chú ạ !

    – Con mẹ ǵ lắm thế?

    – Ác lắm. Tôi chỉ nhận sai lầm thôi; c̣n sửa chữa th́ không cần thiết.

    – Tại sao vậy?

    – V́ tôi không định viết cái ǵ nữa hết.

    – Th́ đó cũng lại là sai lầm. H́ h́. Tiểu ban có mấy ngoe, anh không viết th́ ai viết.

    – Có thiếu ǵ !

    Tôi trải sách báo ra một vệt nắng tṛn tṛn méo méo mà phơi. Tôi gỡ ra từng trang rời cho mau khô. Tôi tự chế diễu ḿnh: Một thứ Cống Quỳnh phơi sách nhưng không có bà công chúa nào đi ngang qua để xin “đá bèo” một phát.

    Trong tiểu ban có một anh ban rất dễ thương. Đó là nhà văn Thủy Thủ, thân h́nh gầy nhom, tay chân ḷng kḥng. Đă vậy lúc nào cũng mặc quần cụt và áo bà ba ngắn tay không cài cúc để hở cái cổ cao nḥng và bộ ngực lép như tấm các-tông. Anh có giọng nói khàn khàn. Thủy Thủ thân với Tư Mô nên đến chơi luôn. Do đó gặp tôi ở trong lều với Tư Mô. Thủy Thủ hay nói chuyện trời mây , mưa nắng chứ không nói chuyện Sài G̣n (sợ các đồng chí nghi là c̣n dính đáng với chế độ cũ!) cũng không nói chuyện rừng rú hoặc xă nghĩa, v́ không biết nhiều.
    Anh là một thủy thủ – từng sống trên đại dương… hơn trên đất liền. Tôi có nghe anh em nói anh làm chủ bút tập san Hải Quân Sài G̣n. Ngoài ra tôi c̣n biết anh qua truyện ngắn “Chiếc Guốc Xinh Xinh” đăng trên báo văn học Hà Nội, là cơ quan cuối cùng của tôi trước khi tôi đi B.

    Thủy Thủ lận lưng một gói “chè” Chính Xuân. Anh đưa cho Tư Mô và nói:

    – Của anh Sáu Lăng cho tôi.

    Sáu Lăng, cũng như anh em, trên răng dưới dế, có cái ǵ khác đâu . Anh đặc biệt chú ư đến Thủy Thủ như một người bạn lầm đường biết ăn năn hối ngộ, và với Tư Mô là đồng chí bị kỷ luật đảng (một cách oan uổng hay không oan uổng) và đang buồn rầu.
    Có lần đi hội nghị ở đâu “trên ” anh giấu đem về được một tí rượu Mao Đài Tửu , tráng đít chai để tặng Tư Mô, cái thứ rượu thừa của các ông bà thủ trưởng vô sản, nhưng rất quí với đám cắc ké này.

    Tư Mô luôn luôn nhắc lại tấm ân t́nh nồng mặn đó. (Ngay cả lúc xuống Bến Tre với tôi, hai đứa chạy vắt gị lên cổ, anh cũng vẫn nhắc cái hớp rượu Mao Đài). Tư Mô nhóm lửa nấu nước và bộ ba ông táo uống trà khan. Tư Mô khen:

    – Ngoài Bắc chỉ có trà Chính Xuân là uống được thôi. Nó đậm đà, pha nhiều nước vẫn c̣n cốt. C̣n các thứ khác như Hoa Nhài, Ba Đ́nh th́ không bằng.

    Tôi nói:

    – Tôi không phải là chuyên gia uống trà, nhưng xin cho anh biết Chính Xuân là trà hạng bét miền Bắc ta đấy !

    – C̣n trà nào hạng nhất?

    – Anh đoán thử coi ! Thiết Quan Âm Kỳ Chưởng của Chợ Lớn, Vũ Di Sơn, Trảm Mă Trà của Tàu không sánh nổi đâu.

    Tư Mô ngẩn ngơ:

    – Có thể là tôi chưa biết.

    Tôi nói:

    – Đó là trà “cau khô”.

    – “Trà cao” à? Trà nấu thành “cao?”

    – Không!”Cau,” trái cau của mấy bà cụ ăn trầu.

    – Rồi làm sao thành trà?

    Tôi điềm nhiên nói :

    – Trà khó mua lắm. Cán bộ và dân ghiền phải treo mơm chờ đầu tháng để mua một gói. Lúc lên cơn ghiền th́ đi quán uống trà cau khô. Nói tắt một cái là chủ quán phơi xác trà rồi tẩm với nước cau khô đem sấy. Châm nước vào rót ra cũng nước nâu nâu, uống th́ chát chát nhưng không có bao nhiêu vị trà. Tụi quán này t́m được sáng kiến đó nên làm được khối tiền.

    Tư Mô hỏi:

    – Khách vẫn uống à?

    – Không có chất chát nào khác th́ đành chịu uống nước cau khô thôi.

    Tư Mô nghe tôi nói thế lắc đầu ngồi im. Tôi rót cho anh và Thủy Thủ mỗi người một cốc và nói:

    – Đây không phải là nước cau khô đâu. Uống đi cho bổ khỏe.

    Tư Mô bỗng bật qua rượu:

    – Tại sao quốc doanh ta lại cho rượu Đồng Tháp cái màu bao nhang như vậy chú?

    – Tôi đâu có hiểu được anh !

    – Nó giống như xi-rô gờ-rờ-nát-din trong này chớ không phải rượu. Hơn nữa nó ngọt quá đi. Uống gắt cổ tưởng như ăn chè.

    – Anh uống hồi nào mà anh biết rơ vậy?

    – Hôm nọ thằng ǵ ở bên Tuyên Huấn gởi cho tiểu ban nửa chai. Sáu Lăng đưa tôi nếm thử để phê phán !

    – Rồi anh phê phán làm sao? .

    - Trước mặt vài ba người khác, tôi đành phải né. Tôi nói nó ngon như Anis của Pháp nhưng phải cái màu đỏ bao nhang, nhà quê quá ! Giống như Marie Sến trong văn học vậy.

    Không muốn để cho đồng nghiệp Thủy Thủ nghe nhiều chuyện miền Bắc nên tôi quay sang “Chiếc guốc xinh xinh”. Tôi hỏi một câu đáng lư ra là một nhà văn không nên, nhưng tôi muốn biết câu chuyện chứa đựng bao nhiêu sự thực hay chỉ là một sự tưởng tượng hoàn toàn.

    – Anh viết “Chiếc guốc xinh xinh” trong trường hợp nào?

    – Tôi viết ngay ở đây, trong cái lều của tôi kia ḱa.

    Tư Mô nhắp hớp trà rồi nói:

    – Chú nó muốn hỏi anh là chuyện đó có “baser sur une vérité” (căn cứ trên sự thực) hay chỉ sáng tạo ?

    Thủy Thủ cười:

    – Chắc anh cũng tưởng tượng ra được câu trả lời. Nhân vật chính trong truyện là tôi. Tức là một sĩ quan trong cuộc hành quân ở An Hóa ấy mà. Tôi đă dùng một chiếc guốc có cái gót nhọn đập đầu tên chỉ huy trưởng cuộc hành quân và chạy sang hàng ngũ cách mạng. Ở tại mặt trận đang nổ súng, có viên chỉ huy trưởng nào để cho sĩ quan thuộc cấp đánh ḿnh trước mặt ba quân như vậy không? Càng lạ lùng hơn nữa là viên sĩ quan vẫn chạy thoát và…

    – Và bây giờ ngồi chong ngóc ở đây uống trà Chính Xuân. Tôi nói tiếp :

    – Và nghe cán bộ miền Bắc kể chuyện uống trà cau khô !

    Cả ba cùng cười, Tư Mô nói:

    – Chú ấy hỏi cho vui vậy thôi, chớ ai không biết đó chỉ là sự tưởng tượng quá phong phú của tác giả.

    Thủy Thủ cười khoe hàm răng trên vàng ệnh khói thuốc. Cuộc uống trà chỉ xoay quanh năm mẩu chuyện vặt. Rồi trà nhạt, chuyện cũng nhạt theo. Sắp sửa tan hàng, bỗng tôi sực nhớ câu chuyện cắm mộ bia cho bác Tư Trang. Biết rằng cả hai người Thủy Thủ lẫn Tư Mô đều là những kẻ sống sót sau vụ B52, nên tôi hỏi thẳng Tư Mô :

    – Bác Tư bị thương ở đâu anh Tư?

    – Ở đầu và cổ.

    – Nặng không?

    – Nặng chớ. Anh Sáu Lăng kêu y tá. Nhưng tiểu ban đâu có y tá y tướng ǵ. Chỉ có chị Hai Lư (tức vợ anh Lư Văn Sâm) giữ một mớ kí-ninh và thuốc đỏ thôi. Ngoài ra khi ốm đau th́ mỗi người là y tá của chính ḿnh. Kêu khản cổ chẳng có ma nào chạy tới. Nhưng nếu có th́ cũng không kịp.

    – Tại sao vậy ?

    – Chú ơi ! Bị một trận rồi mới biết B52 là ma quỷ. Nó rải thảm một loạt rồi chú thấy trời đất đều thay đổi, không biết đường nào mà đi. Chân tay như xụi lơ, đầu óc trống rỗng , không c̣n hoạt động và suy nghĩ ǵ nữa. Nhưng chỉ trong ṿng ba, bốn phút là đợt hai lại tới. Tất cả lại thụt xuống hầm chớ làm sao mà băng bó. Nhưng băng bó cũng vô ích v́ bác đă chết rồi .

    – Không có trối trăn ǵ à?

    – Bác chết trên tay Sáu Lăng. Sáu Lăng bảo bác không có nói ǵ hết. Ngáp ngáp rồi đi xuôi.

    – C̣n Ngọc Cung?

    – Ngọc Cung chết ở đợt hai.

    – Nghĩa là…

    – Hồi sau đợt một Ngọc Cung chỉ bị sụp hầm , nên ḅ sang hầm Bảy Thinh. Do đó mà chết cả hầm sáu, bảy người .

    – Chậc! Tư Mô ngồi thừ ra một hồi rồi tiếp :

    – Con người có cái số hay sao đẩy chú ạ! Nếu nó không ḅ sang hầm Bảy Thinh th́ nó đă không chết.

    – Tại sao ảnh lại ḅ sang đó?

    – Đă bảo là hầm của nó bị sụp mà !

    Tư Mô lại ngồi thừ ra, không giấu được sự xúc động :

    – Mấy người chui trong hầm chữ L là cái hầm lớn nhất của tiểu ban đều văng mất hết. Sau đợt hai, anh em đi nhặt nhạnh. Bảy Thinh c̣n sót có cái đầu, nhờ mớ tóc xám tro mà anh em nhận ra. C̣n Ngọc Cung th́ anh em chỉ nhặt được có cánh tay đeo đồng hồ. Lạ thay người chết mà cái đồng hồ vẫn chạy. Cái đồng hồ vàng của vợ mới mua cho. Chỉ có bác Tư là c̣n nguyên xác thôi.

    – Rồi chôn cất làm sao?

    – Chịp ! Điêu đứng, hoang tàn và khốn nạn lắm chú ơi. Ở trong nhà chỉ có một người chết là tang gia đă bối rối lắm rồi. Đằng này sáu, bảy người... ủa… đâu phải sáu, bảy mà…

    Thủy Thủ tiếp:

    – Mười một người anh ạ !

    – Mười một người chết một lúc, chôn một lúc. Và “tang gia” không có món ǵ hết ngoài chiếc cuốc cùn. May sao c̣n được món binh khí đó. Nếu không th́ phải đào huyệt bằng răng. Ba lô ba liếc bay mất hết, vơng màn lều trại không c̣n chút nào. Anh em đi quơ được miếng ni-lông, mảnh vơng nào đem đắp điếm chứ không đủ gói ghém đâu. Cứ để nguyên xác vậy cho xuống huyệt rồi lấp đất.
    Chôn xong mười một cái xác là đến nửa đêm. Chưa kịp đắp nấm đă phải dời cơ quan. V́ sợ sáng mai nó chơi phát nữa là rụng hết tiểu ban. Thằng yếu hóa ra ốm, thằng mạnh th́ dật dờ như sắp chết. Cả một lũ khật khừ kéo nhau đi giữa đêm tối. Đâu có biết đường hướng ǵ. Cứ nhắm chừng mà vượt biên giới, qua đất Miên để lánh nạn.

    Cũng may nó không vượt biên ẩu cho nên ḿnh mới t́m ra chỗ bắc cái bếp nấu lon nước uống. Nếu nó đuổi theo th́ chẳng biết chạy đi đâu. Chịp! Chú biết không, tôi nằm ở giữa hai hố bom chú ạ. Nếu thằng phi công “bấm nút” sớm hoặc muộn một cái nháy mắt th́ tôi văng xương rồi. Chú có nghĩ rằng có trên một trăm trái bom rơi xuống khu vực tiểu ban ḿnh không?

    – Một trăm ? . .

    – Sợ c̣n hơn. Số chết tôi vừa kể là người của tiểu ban Văn Nghệ thôi, c̣n các bộ phận khác th́ không tính. Có một cặp vợ chồng ôm nhau mà chết. Đó là một cặp đào kép trẻ mới tập sự. Hai đứa yêu nhau nhưng tổ chức lại ngăn cản. Sợ rằng cô đào mang bầu th́ không lên sân khấu được , ngoại trừ một nhân vật trong kịch có bầu. Chúng nó vẫn kiên tŕ yêu nhau …
    Hôm đó có lẽ chúng chui chung một hầm để có dịp tâm sự hoặc hôn nhau. Đúng vậy, khi bom dứt anh em đào lên, thấy cô trong tay cậu. Không vết tích ǵ hết nhưng chết tươi. Sức ép của không khí làm đôi tim ngưng đập. Hai đứa nó sẽ yêu nhau trên thiên đàng.

    – Mặc dù hết sức bối rối, anh em vẫn làm hô hấp nhân tạo cả mấy tiếng đồng hồ, nhưng tim vẫn không đập trở lại. Có lẽ mạch máu nào đó bị đứt. Trái bom nổ cách có ba thước tây.

    – Có ai làm thơ về cái chết đó không?

    – Ở đó mà thơ. Thơ văn ở đâu ... chớ ngay trong tiểu ban Văn Nghệ th́ lại không.

    Mai tiếp ....

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 5 users browsing this thread. (0 members and 5 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •