Page 465 of 471 FirstFirst ... 365415455461462463464465466467468469 ... LastLast
Results 4,641 to 4,650 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #4641
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Tôi hỏi:

    – Ban năy nó thụt ở vùng nào vậy đồng chí ?

    – Nó cắt đường dây của ḿnh đó. Nó biết hết đường đi của ḿnh hai chú ạ !

    – Ḿnh không mở đường khác được sao?

    – Mở đường mới luôn nhưng đi vài tháng là nó biết, nó lại cắt.

    – Ban năy đồng chí có nói là ông già đi tập kết?

    – Dạ! Mấy chú ở ngoải về phải không?

    – Phải ! Sao biết ?

    – Chú nói giọng Bắc.

    – Ủa vậy sao? Tôi giật ḿnh hỏi.

    – C̣n “ủa” ǵ nữa. Ăn rau muống tám, chín năm líu lưỡi nghe rơ lắm. Tư Mô nói.

    – Anh có nhận thấy điều đó ở tôi không?

    – Có chứ. Vâng, nhỉ, nhé, thế à ! Những chữ đó đầy trong tiếng của chú. Hổng chừng trong máu của chú cũng có “chất Bắc.”

    Tôi quay lại anh giao liên:

    – Bố cháu ở đơn vị nào ?

    – Cháu đâu có biết. Cháu không có gặp ổng. Cháu chỉ nghe má cháu nói lại thôi. Ổng thoát ly đâu hồi cháu bảy, tám tuổi ǵ đó lận !

    Tôi định lấy cảm t́nh với anh giao liên bằng cách nói ṿng quanh sự tiến bộ của dân Nam Kỳ tập kết, những đơn vị và cá nhân Nam Bộ được khen thưởng, được huân chương và được tuyên dương anh hùng quân đội, anh hùng lao động. Trước nhất tôi nịnh đám dân Long An một phát. Tôi nói:

    – Ở ngoài Trung ương khen ngợi dân Long An dữ lắm. Sau Bến Tre là Long An. Hai tỉnh này được Trung ương Đảng tuyên dương là “Lá cờ đầu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ! ” Bí thư Trung ương Cục Miền Nam bây giờ là đồng chí Sáu Lầu gốc Long An.

    Thấy anh ta im lặng , tôi chắc anh ta “thấm bài” nên tương thêm một loạt để chiếm thêm cảm t́nh.

    – Thống nhất đất nước rồi đồng chí dắt gia đ́nh ra thăm Hồ Gươm, Tháp Rùa, Chùa Một Cột… cho biết.

    – Đẹp lắm hả chú?

    – Sau đó đi thăm lăng Bác !

    – Ủa, Bác Hồ chết rồi sao?

    – Chưa, chưa, nhưng chừng đó th́ chắc Bác không c̣n sống!

    Tôi tiếp :

    – Miền Bắc ta tươi đẹp vô cùng. Dân chúng đang hăng hái xây dựng xă hội chủ nghĩa. Lúa tốt gấp mấy lần lúa trong ta nhờ lai giống lúa Liên Xô và Trung Quốc, Triều Tiên. Có những hợp tác xă được mùa, lúa chín bông lúa dầy đặc đến nỗi ḿnh leo lên đứng trên ngọn mà lúa không sập.

    – Trúng quá hả chú ?

    Tôi tuôn ra thao thao bất tuyệt, tuyên truyền anh giao liên mút mùa, c̣n Tư Mô th́ ngồi im hút thuốc. Anh ghiền nặng. Trước khi đi anh đă nhờ mấy cậu tiếp phẩm mua giùm thuốc rê dồn cứng một bịch ni-lông to bằng nửa chiếc gối đệm, anh dự định cục nhựa này có thể đủ xài trong cơn thắt ngặt ... chạy không ra chất đốt trên đường. Nghe tôi tuyên truyền hơi mạnh cho anh giao liên, anh nhắc khéo:

    – Chú không phải lo! Mai mốt bố về sẽ nói cho con nghe !

    Xuồng lách vào trong rạch nhỏ quanh co tối om. Độ hai ba giờ sáng về đến trạm. Không biết trời đâu đất đâu , cứ việc lao vào ṃ mẫm t́m chỗ mắc vơng. Anh giao liên đến bảo:

    – Chú nào có muốn mua ǵ cháu mua dùm cho !

    – Ủa, ở đây có quán sao cháu? Tôi kêu lên.

    – Dạ có ! Mắm, khô, xà bông thơm, thuốc lá thơm, kẹo đậu phộng, trà con Tôm, con Khỉ, đường cát, đường tán có đủ hết.

    – Tôi muốn mua cây bút máy có không?

    – Báu ǵ ba cái đó .

    Tư Mô nói:

    – Bút Bic có thiếu ǵ. Ở trong này không xài Stylo Kaolo hay Pilot hút mực ng̣i vặn ló ra thụt vô như thời kháng chiến nữa!

    – Vậy à? Tôi không biết.

    – Vậy ở ngoài Bắc xài bút ǵ ?

    – Toàn ng̣i bút lá tre chấm mực trong lọ.

    – Cơ quan xài ǵ ?

    – Cũng thế.

    – Trong này một cây bút giá mấy xu thôi.

    Tôi bảo:

    – Mua cho tôi một “lố.” Tôi móc tiền đưa cho anh :

    – Mua luôn các thứ ăn uống và một cục xà bông thơm.

    Tôi giăng vơng nằm chụm đầu với Tư Mô. Anh giao liên xuống mé rạch tát nước xành xạch rồi bơi đi. Tôi thấy trong người khỏe khoắn vô cùng v́ cái quán mà anh giao liên vừa nói. Bằng ấy mặt hàng ở trong một cái quán cóc trong vùng giải phóng ư? Khác nào Tổng Hợp Bách Hóa Hà Nội ? Mà ở đây lại không cần phiếu.

    Tư Mô hút thuốc và chậm răi cất giọng:

    – Tôi nói với chú chuyện này, chú đừng có giận tôi nghe.

    – Chuyện ǵ ? Anh cứ nói đi ! Ǵ mà giận !

    – Mấy việc tốt đẹp chú nói hồi năy ở trong này người ta biết hết rồi.

    – Vậy hả? Sao biết ?

    – Th́ cũng mấy ông ở ngoài đó về trong này nói tùm lum ra. Họ c̣n biết nhiều chuyện đẹp ác nữa. Tiểu ban ḿnh cũng đă ngập tràn những chuyện như vậy rồi. Ấy là mấy cha ngoài Bắc về c̣n giữ kỷ luật cơ quan đấy. C̣n mấy tướng bung ra ngoài, bất măn đâu hồi đời nào, đi tới đâu họ ria tới đó. Bây giờ không có ai tin mấy ông tập kết nữa đâu.

    – Có vụ đó nữa sao anh Tư?

    – Có chớ !

    – Sao anh chưa đi đồng bằng mà anh biết ?

    – Th́ mấy cậu ở tiểu ban ḿnh đi về, uống trà nói. Dân ḿnh trong này bây giờ không có muốn thống nhứt đâu. Đây tôi nói nhỏ với chú thôi. Chú của chú cũng từng đi kháng chiến như tôi, nhưng tại sao bỏ ngang? Đó là một vấn đề. Các ông bà tập kết ra Bắc rồi về đây toàn nói chuyện bất măn. Đó là hai vấn đề.

    Tôi thở dài. Mệt c̣n hơn lội một keo Trường Sơn.

    Tư Mô tiếp:

    – Dân Nam Kỳ ra ngoài đó bị chết xe chết tàu dữ hả chú?

    – Đâu có ai bị chết tàu đâu ! Chỉ có ông Mười Kỉnh Tổng Thư Kư ủy Ban Hành Chánh Tỉnh ḿnh ra đó làm ǵ ở Bộ Nội Vụ, thay mặt cho Bộ đi Hải Pḥng đón tiếp Việt kiều ở Tân Đảo về, khi chuyền qua tàu, ông bước hụt chân té và chết ch́m thôi chớ đâu có ai chết tàu chết xe ǵ .

    Tư Mô thở khói một hơi dài rồi bảo:

    – Thôi, ngủ đi. Mai t́nh h́nh dám “động” lắm! Xuống đồng bằng th́ phải chuẩn bị cặp gị và cái lỗ mũi. Tụi đi trước về cơ quan khuyên như vậy.

    – Chuẩn bị cặp gị th́ phải, c̣n cái lỗ mũi, tại sao?

    – Chém vè dưới lục b́nh lú lỗ mũi lên thở. Hiểu chưa ?

    Buổi sáng chúng tôi dậy th́ mặt trời đă ló lên ba sào. T́nh h́nh yên tĩnh. Trong trạm đă có trên ba bốn chục khách v́ đường nghẽn nên bị ứ lại. Có những người đă nằm cả tuần lễ, cứ nhao nháo đi ra đi vào, chặc lưỡi găi đầu găi tai: “Kiểu này th́ bỏ mạng sa tràng rồi !” “Kiểu này th́… th́…” v.v…

    Tôi và Tư Mô chẳng “bỏ” ǵ cả. Cuộc sống rừng khan hiếm đủ thứ, kể cả không khí và trời xanh, nên ló đầu ra được khỏi tàng cây rậm bịt đến đây hít thở không gian mênh mông th́ sốt ruột cái ǵ ?

    Anh giao liên đem về các thứ mua ở quán. Tôi muốn kêu lên như một đứa trẻ con. Sau năm tháng không biết, cái mái nhà, không biết mua một món hàng… bây giờ có tất cả.

    Buổi sáng hôm nay là buổi sáng lịch sử. Tôi thấy một mái nhà. Cái nhà của anh giao liên, một cái nhà nhỏ hai mái như cḥi trâu nhưng có vách phên và lợp bằng lá dừa nước… Tuy vẫn phải giăng vơng ngoài bờ ngoài bụi nhưng mắt được nh́n thấy một cái nhà.

    Một điều lạ lùng nữa là ở đây nấu nướng tha hồ, nước nôi ở ngay bờ mương, củi, không phải đẽo gốc cây đứng như ở Trường Sơn và có cả quán bán đồ.

    Ơn Bác ơn Đảng con suưt làm phân bón rừng Cao Nguyên, nhờ hồng phúc của Bác mà con được trông thấy miếng kẹo đậu phộng và cục xà bông thơm. Nhưng không phải của Hợp Tác Xă Thống Nhứt hoặc nhà máy Cao Xà Lá sản xuất mà là của nguy Sài G̣n.

    Có cá mắm sặc, khô mực, khô cá đuối, cá hố, đường, đậu v.v…. những thứ ở Hà Nội rất khó mua hoặc không có để mua. Tôi nói với Tư Mô:

    – Ḿnh nhậu một ván tẩy trần đi anh Tư!

    – Tẩy Rờ đó chớ!

    – Sao ḿnh gọi là R anh Tư?

    – Hừ, chú hỏi cắc cớ vậy ! Chính tôi cũng không hiểu R là cái ǵ. Rờ ǵ, rờ rún hay rờ m… Nhưng tôi cứ hiểu R là Rừng. Không có tự vị để tra nghĩa.

    – Bây giờ trước nhất là làm ba con khô mực đi !

    – Nhờ chú giao liên đi mua giùm một xị “sum sum” mới được.

    Tôi gọi anh giao liên tên là Tôn đến và nhờ thi hành lệnh của anh Tư. Tôn sẵn sàng đi ngay. Tôi hỏi:

    – Ngày mai có chuyến đi xuống chưa đồng chí ?

    – Chưa đâu chú à! Đường c̣n kẹt. Nó đang đổ dù ở miệt dưới.

    – Nghĩa là phía nào ? Tôi chẳng biết đâu là trên đâu là dưới cả.

    – Dưới là dưới chứ c̣n chỗ nào nữa . Tư Mô pha tṛ :

    – Chú nốc một xị rồi sẽ thấy cái chỗ dưới nó đổ dù ngay.

    Tôn cười và hỏi:

    – Có thịt trâu hai chú có làm vài kí không?

    – Bộ trong này dư trâu làm ruộng hả chú?

    – Trâu bị cà-nông hồi hôm !

    – Bắn sơ sơ vậy mà có thiệt hại rồi à?

    – Có chứ. Chuyện đó xảy ra hằng ngày. May mà không có người chết. Đạn pháo là đạn mù mà chú. Nó đâu có ngắm mục tiêu. Nó chỉ nhắm mắt thảy đùa trúng ai trúng? Chú gặp dịp may, mua vài kí đi. Lớp ăn tươi lớp làm lương khô. Đường đây c̣n dài, và c̣n nhiều việc chông chênh lắm chú ạ. Có ba cái lương khô giắt lưng là vững bụng nhất.

    Tôi gật và đưa tiền, rồi nói với Tư Mô:

    – Lương khô heo, gà, chó, nai, khỉ, voi, rồi bây giờ tới lương khô trâu ! C̣n thứ ǵ làm lương khô được nữa không?

    – Cá chú ạ!

    – Cá đă đành rồi!

    – Chuột chúng cháu cũng làm lương khô luôn!

    – Vậy nữa ?

    – Chuột tháng mưa mập lắm. Chú mua vài con làm thử coi. Ăn cũng chết giấc chứ chẳng chơi đâu! Bữa nào t́nh h́nh yên tĩnh, vài ba chúng cháu đi dậm cù bắt chuột lớp ăn lớp bán tự túc.

    – Dậm cù là sao ?

    Tư Mô nói:

    – Chú đi ra Bắc lâu quá rồi quên mấy cái vụ quen thuộc của xứ ḿnh. Dậm cù là một trận chiến gồm năm sáu người bao vây một đám lác ruộng, dùng chân dậm lác ngă xuống và càng ngày cụm lác càng thu nhỏ lại. Chuột rút vào. Cuối cùng bị đuổi nột, chúng liều chết vọt ra. Ḿnh chụp đầu. Dậm cù có càng nhiều người càng tốt v́ chuột khó chạy thoát.

    – A, tôi nhớ ra rồi. Hồi tôi ở nhà mỗi lần băi trường về quê cũng chơi cái tṛ dậm cù này. Tụi ở vườn có đứa bắt chuột giỏi, chúng chụp ngay đầu và bóp cổ con chuột nhăn răng, nhưng cũng có đứa chụp cái đuôi chuột quay lại cắn la trời.

    Tôn đứng đó, chưa chịu đi làm sứ mạng. Tôi giục th́ nó nói mua có một xị không đủ đổ lỗ mũi mua làm ǵ. Nghe nói thế Tư Mô móc túi đưa thêm tiền và dặn:

    – Đong một lít chẵn đi, c̣n bao nhiêu th́ mua đậu phộng. Nếu dọc đường có gặp lá cách quơ dùm một mớ. Có mỡ heo không? Chậc, quên mất cái vụ mỡ dầu. Xào thịt trâu không có mỡ th́ xào làm sao?

    – Ôi ồi ! Mỡ đằng quán thiếu chi. Tôi đăi mấy chú mỡ Mỹ.

    – Mỡ Mỹ là mỡ ǵ ? Tôi ngạc nhiên hỏi.

    – Mỡ từ bên Mỹ đem qua bán cho ḿnh.

    – Sao Mỹ lại bán mỡ cho ḿnh ?

    Tư Mô trả lời giùm thằng Tôn:

    – Đây là mỡ của dân Mỹ tặng cho dân Việt Nam tức là ba thằng Nguy đó ! Tặng phẩm của Mỹ nhưng vợ quan chộp lấy đem bán đầy các chợ. Ḿnh mua đem về ăn. Vậy chớ chú không thấy mấy cái thùng mỡ tổ nải ở nhà bếp tiểu ban ḿnh đấy à?

    – Tôi tưởng là thùng không chớ?

    – C̣n ba cái thịt hộp nữa. Hộp sơn màu cứt ngựa là của nhà binh. Nó đem sang cho lính Mỹ nhưng cũng chạy tọt vô trong này tiếp tế cho ḿnh. Chú chưa thấy hộp thịt heo nạc năm kí lô trút ra cục nào cục nấy bằng đầu gối ḿnh vậy.

    Tôn xen vô:

    – Ở dưới này cũng có thiếu ǵ ba cái ngữ đó chú. Bà chủ quán này cứ mỗi chuyến đi chợ là mua về cả xuồng. Tha hồ bán cho cán bộ, bộ đội.

    Tư Mô vụt hỏi :

    – Ở gần đây có bán dừa khô không chú? Thịt trâu xào lá cách th́ phải xài nước cốt dừa mới đúng điệu.

    – Trời đất ! Nước cốt dừa ! Tôi kêu lên.

    – Sao? Xào lá cách th́ phải nước cốt dừa chớ la cái

    – Th́ đúng rồi ! Nhưng tôi sực nhớ ra rằng gần mười năm tôi không có ăn dừa.

    – Sao vậy? Ngoài đó không có dừa à?

    – Có nhưng ít thôi.Ở Quảng Xương Thanh Hóa! Nhưng chánh quyền cấm bán. Chính phủ ḿnh mua hết cả để gây vườn dừa.

    – Thế à?

    – Tôi quên mất xứ ḿnh là xứ dừa.

    Thấy thằng Tôn cứ đứng lần chần măi không chịu đi, tôi giục, hắn bảo:

    – Chờ cho tan phèn mới đi được.

    – Tan phèn là sao? Tôi lại hỏi.

    – Là chờ cho trưa trưa th́ đi mới bảo đảm ! Điểm bán thịt trâu hơi xa. Đi bỏ trạm rủi nó chụp dù bơi về không kịp. Nó tới nhanh lắm chú ơi. Trước khi tới nó chào mừng bằng nửa giờ pháo bầy. Không có thứ ǵ ngóc đầu lên được. Xong pháo bầy th́ trực thăng tới. Vài cặp cá lẹp ria như mưa bấc. Nếu không có cá lẹp th́ phản lực bỏ bom. Xong đâu đấy mới cho đầu láng tới.

    – Cá lẹp, đầu láng là cái ǵ?

    Tôn nói :

    – Đầu láng là một trong các loại trực thăng tụi nó dùng để chụp ḿnh đó chú ạ. Nó cũng là trực thăng bành bạch thôi nhưng ḿnh nó như c̣n cá chẻm có vảy sáng trưng và cái đầu nó láng dùng để chở cấp chỉ huy, c̣n đen thui và có càng trông rất dị hợm th́ dùng chở lính.
    C̣n cá lẹp, chời ơi ! Cái thứ cá lẹp, nhắc tới đâu teo tới đó. Cũng là trực thăng thôi nhưng ḿnh nó dẹp và mỏ nó dài. Trước khi đổ dù nó thả hai con cá lẹp tới phóng rốc-kết tàn nhẫn. Mỗi phát bốn quả. Ai lọt vô giữa th́ lượm không được miếng da ! Rồi c̣n bắn nữa. Nó bắn không có nghe rồn rột như trung liên đâu. Súng của nó nổ như ḅ đái … e e e… éc. Mỗi loạt dài chừng hai phút. Nó phóng rốc-kết rồi bắn th́ hầm nào cũng không chịu nổi.

    Tôi chú ư nghe , c̣n Tư Mô th́ phớt lờ.

    Lúc lội Trường Sơn, tôi có nghe một cán bộ từ trong Nam ra Bắc nói cho nghe cái vụ nhảy gị của trực thăng … Hồi đó tôi chỉ hiểu mơ màng, bây giờ đến thực địa mới h́nh dung rơ hơn.

    Vụ nhậu thịt trâu quy mô thực hiện một cách dễ dàng nhờ nhiệt t́nh của thằng Tôn. Liệu chừng tan phèn nó đi mua rồi bơi xuồng theo mé sông t́m hái được cả lá cách và mua được một trái dừa khô trong xóm. Tư Mô là người ăn uống kỹ lưỡng, tỉ mỉ, chứ không phải như tôi ... món ǵ cũng ăn, chín sống ǵ cũng xực , không kén thứ ǵ. Anh đ̣i cho được lá cách và dừa khô để xào thịt trâu “ăn cho nhớ nhà chơi” , chứ không chịu xào bằng mỡ Mỹ.
    Nhưng được dừa khô rồi th́ không có bàn nạo. Đó là món đồ nghề thiết thân với dừa khô. Không có bàn nạo th́ chỉ ăn dừa kho thôi ! Cho nên đành chịu v́ không t́m đâu ra cái bàn nạo ở giữa cái chốn ma quỉ này.


    Mai tiếp ....

  2. #4642
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Thằng Tôn đem thức ăn của nó chung ty với chúng tôi. Nó có vẻ thân mật hơn với những người khách khác. Nó cũng uống rượu. Uống được vài hớp , nó hỏi một cách bất ngờ:

    – Ai tập kết cũng đều về hết hả hai chú?

    Tôi nói:

    – Có người về có người không.

    – Tại sao vậy chú ?

    – Chọn lựa dữ lắm chứ đâu phải hốt ngang hốt ngửa như mua tép ngoài chợ!

    – Không biết chừng nào ba cháu mới về ?

    Ba cái vụ tập kết tập kiếc Hà Nội Hà Niếc Miền Bắc Miền Biếc xă nghĩa xă nghiếc, có lẽ nghe đă đầy tai chán ngấy rồi nên Tư Mô để cho tôi đối đáp, c̣n anh cứ chăm chú tiêu diệt những miếng thịt trâu thơm nức. Tôi nói lấy ḷng thằng Tôn.

    – Sớm muộn ǵ cũng về thôi ! Cháu đón ở đường dây này th́ chắc gặp.

    Thằng Tôn không tỏ vẻ vui mừng ǵ hết. Nó hơi ngó xuống và uống rượu liên tục. Tôi đoán là nó nhớ bố nên lựa lời mà an ủi:

    – Dân Nam Bộ ḿnh ra ngoài đó được đề cao dữ lắm. Ba cháu ở bộ đội, biết đâu đă được gởi đi học Liên Xô, Trung Quốc rồi !

    Thằng Tôn vẫn im lặng. Tư Mô liếc ngang tôi, ư bảo: Coi chừng tới hố! Tôi hiểu ư nhưng tôi vẫn cứ tuyên truyền miền Bắc xă nghĩa để bù đắp lại “công ơn” miền Bắc đă thắt lưng buộc bụng nuôi những thằng Nam Kỳ ăn hại, trong đó có tôi.
    Hơn nữa, tôi đoán là ở nơi đ́u hiu hút gió, những ông bạn giao liên trẻ này ngày ngày dầm mưa dăi nắng đội pháo bom đều một ḷng tin tưởng ở ngày mai sáng lạn của miền Nam và họ không thể biết những chuyện tang thương ngẫu lục của dân tập kết ở ngoài đó, cho nên tôi không ngại “phóng đại tô màu” mặc cho ông bạn già háy liếc:

    – Nếu hồi đi tập kết ba cháu là đại đội trưởng th́ khi về phải ít nhất là tiểu đoàn trưởng.

    Thằng Tôn lắc lia:

    – Chắc không có đâu chú ơi !

    – Sao vậy? Thiếu ǵ chiến sĩ ta ra ngoài đó được đề bạt vượt cấp.

    – Ai chớ c̣n ba cháu th́ chắc không được đâu. Cháu biết mà.

    – Tại sao ?

    – V́ ba cháu không có chữ nghĩa ǵ ! Cháu nghe má cháu nói mà. Riêng cháu cũng biết là hồi cháu lớn th́ ba cháu c̣n đi ở cho người ta.

    Tôi vỗ đùi như đóng kịch:

    – Nếu vậy th́ càng hay nữa. Cháu không biết chớ thành phần bần cố nông là thành phần được Bác Hồ chiếu cố nhất v́ đó là ṇng cốt của cách mạng.

    Tư Mô xen vô một cách móc họng:

    – Bần cố cỡ Nguyễn Văn Sơ không chú ? Anh gắp miếng bầy nhầy vứt xuống mé ao và tiếp :

    – Đó mới thiệt là bần cố bảy mươi lăm phần dầu của xà bông Trương Văn Bền hả?

    Tôi háy lại ông bạn già. Tôi không ngờ ông bạn lại biết những chuyện hóc búa này.

    (Xin mở một cái ngoặc khá dài để bạn đọc hiểu đầu đuôi câu chuyện: Thật ra th́ đó cũng chẳng phải là chuyện đại chúng , nhưng cũng chẳng phải là chuyện pḥng the nên người ta có biết th́ cũng chỉ xầm x́ với nhau v́ đây là một trong những cái sự hố to của đảng và quân đội: Chuyện này để đời, tôi có muốn giấu giùm cho đảng cũng không giấu được. Bây giờ ngó lại thấy nó quá ư kỳ cục: Không hiểu tại sao người ta có thể phạm sai lầm như vậy.

    Số là hồi cải cách ruộng đất, lính ông Viết Thắng Hồ (tên viết theo kiểu Mỹ) đuổi lính ông Giáp Vơ Nguyên chạy tét nước. Cũng v́ cái thành phần mà thôi. Ai có gốc bần cố nông th́ kể như ngủ khỏe ru, c̣n anh nào tiểu tư sản trở lên phú địa mệt cầm canh, không khác nào cái án treo trên cổ.
    Trong quân đội có một anh cần vụ tên là Nguyễn Văn Sơ. Sơ chuyên môn xách dép và nấu cơm cho Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sơn tức là Nguyễn Văn Tây dân đại địa chủ ở Vĩnh Long vô đảng hồi 1930.
    Kháng chiến nổ ra ở Nam Bộ, tôi không biết ổng làm ǵ, ở đâu; nhưng khoảng 1948 tôi được thằng em trai của ổng rủ đi Cao Miên: “Anh tao làm Tư Lệnh T́nh Nguyện Quân của ḿnh trên đó.” Nhưng tôi không đi. Khi tập kết, tôi có gặp ổng ở bến Chắc Băng trong đoàn T́nh Nguyện Quân hồi hương. Ra Bắc nghe đâu ông ấy được phong (miệng – chớ không thấy đăng báo) Thiếu tướng. Tôi chỉ gặp thằng em trai của ổng thôi. Một hôm nó cho tôi hay rằng ông Thiếu tướng văng mất hết lon gáo. Tôi hỏi nó tại sao? Nó bảo là tại v́ thằng ở đợ (tức là tên cần vụ Nguyễn Văn Sơ) tố khổ ông. ông gốc là địa chủ gộc, Vĩnh Long ai c̣n không biết, nhưng ổng giác ngộ vô sản từ khuya làm tới chức Tướng, cần ǵ phải tố ra ... đảng mới rơ.

    Thế nhưng ông vẫn mất chức như thường. C̣n tên Sơ th́ được đề bạt lên làm hiệu trưởng trường Cải Cách Ruộng Đất cao cấp của quân đội. Trường này là cái “ải thứ ba” đẫm nước mắt của cán bộ từ Thiếu tá trở lên.
    Có lắm anh chỉnh huấn tại trường này xong, lon gáo rớt hết v́ thành phần không cơ bản ! C̣n đại tướng Tổng Tư Lệnh và Hồ Chủ Tịch, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng thành phần ǵ ? Sao vẫn là lănh tụ ? ?

    Lúc đó tôi c̣n ở trong quân đội, không đeo lon mang gáo ǵ cả, coi cái tuồng Cải Cách Ruộng Đất cũng vui vui v́ ḿnh là tiểu tư sản, tội không nặng mấy.

    Nhiều anh bạn Nam Kỳ đi học ở cái trường này, khi về khóc khóc mếu mếu trông rất thảm thương. Báo Quân Đội Nhân Dân đăng ảnh và tiểu sử Nguyễn Văn Sơ như anh hùng Cải Cách Ruộng Đất với thành tích tố cáo làm ngă ngựa một ông Tướng từng là chủ cũ và là thủ trưởng của ḿnh. Sau đó, tôi có gặp lại thằng em ông Tướng. Nó cười khẩy: Thằng ăn trộm tố điêu! Nó giải thích thêm: Hắn ăn trộm dừa nhà tao có lần bị người nhà bắt được. Bây giờ nó oán, nó dựng chuyện và bịa ra cái thảm cảnh của gia đ́nh nó chứ chẳng có cái đếch ǵ ? – Sao ở trên dễ tin thằng cần vụ hơn một ông Tướng vô đảng từ 1930? Ba mươi năm qua, tôi vẫn không t́m ra câu trả lời ! Đi theo cách mạng vô sản chẳng phải dễ đâu bà con làng xóm ơi !)


    Tôi hỏi Tư Mô:

    – Ông cũng biết chuyện ấy nữa sao ông nội ?

    – Th́ cũng do mấy cha ở ngoải về x́ ra.

    Tôi bèn bóp méo câu chuyện kể cho thắng Tôn nghe rồi bảo:

    – Nguyễn Văn Sơ là người ở cho địa chủ cũng như ba cháu vậy, nhưng khi ra ngoài Bắc được Bác Hồ cho làm tới hiệu trưởng trường cao cấp quân đội đó.

    – Ở đợ mà làm hiệu trưởng như vậy rồi làm sao chỉ huy mấy ông có học chú ?

    – Ờ ờ.... Tôi như bi mắc nghẹn miếng thịt trâu nên ngập ngừng :

    – Ở ngoài đó ít cần chữ lắm cháu ạ. Lập trường mới là cái cần nhất. Người có lập trường làm cái ǵ cũng được, c̣n người có chữ không làm được cái ǵ!

    Nhưng thằng Tôn không tin, nó nói:

    – Chú bảo vậy sao được. Chẳng lẽ dốt như cháu mà lên làm chỉ huy cả trăm cả ngàn người. Chỉ làm giao liên là tốt thôi !

    Tôi đành lặng thinh và nâng chén rượu uống cho đỡ ngượng. Tư Mô cũng đánh trống lảng giùm tôi:

    – Con trâu này chắc c̣n tơ nên thịt không dai hả chú em ?

    – Dạ, nó mới nổi cổ.

    – Trâu chết vậy là bỏ mùa ruộng.

    – Ối ! Ruộng mà kể ǵ chú ơi ! Làm xong mùa có được ǵ .

    – Trực thăng bố hả ?

    – Thuế!

    Thằng Tôn như giật ḿnh, nói lấp:

    – Có khi một trái cà nông thảy vô giữa bầy trâu, chết ba bốn con, què hai ba con !

    Cơm nước xong, tôi lên vơng nằm. Trời chiều lại có chất men trong người, nên tôi muốn thả hồn theo Lư Bạch lên Hoàng Hạc Lâu, nhưng thằng Tôn lại lê tới tâm sự. Nó có vẻ dè dặt hơi lâu, nói chuyện bao đồng một chốc rồi mới hỏi:

    – Ḿnh có gửi thư ra Bắc được không chú ?

    – A, cái đó th́ chú không rơ.

    Tư Mô đáp xẵng :

    – Muốn gửi th́ gửi. Có khi ra tới, có khi không.

    – Vậy nữa à?

    – Trên R có bưu điện ra trung ương nhưng có lẽ là chỉ dành cho cơ quan thôi.

    Thằng Tôn nói:

    – Cháu muốn gửi thư cho ba cháu đừng có về.

    – Hả! Tôi ngóc cổ dậy, gắt :

    – Tại sao?

    Thằng Tôn lặng im. Tay nó đưa lên nắm đầu vơng của tôi run run . Trong bóng chiều vàng ối , tôi thấy cặp mắt thằng nhỏ rưng rưng. Nó suưt khóc.
    Tôi không biết chuyện ǵ, nhưng đoán chắc là có bi kịch trong gia đ́nh. Tôi nằm xuống im lặng. Hồi lâu nó mới nói:

    – Má cháu đă lấy chồng.

    Trời đất. Tôi kêu thầm. Đó là bi kịch to lớn nhất của một gia đ́nh.

    Chồng đi (tập kết) th́ có chồng nhà
    Hơi nào mà đợi chồng xa đi về.

    Ca dao trào lộng trở thành đời sống hiện thực của thời đại Hồ Chí Minh. Câu đó được đổi ra như sau:

    Chồng đi (giải phóng) th́ có chồng nhà
    Hơi nào mà đợi chồng xa đi về.

    C̣n trong đám Nam Kỳ tập kết th́ có câu chế diễu những anh miền Nam cưới vợ Bắc:

    Ngang lưng th́ giắt su hào
    Đầu quấn rau muống chân quào bánh đa.

    Và tự chế diễu ḿnh:

    Đất Bắc anh ǵn cho tí ngẳng.
    Trời Nam em giữ cái bề hê.

    Trung ương không nghe làm ǵ. Trung ương ở nhà lầu ba góc có hàng rào làm bằng xương dân Nam Kỳ bịt kín, ông nào cũng gối đầu trên miếng đất xéo tanh tanh dí mũi vào cḥm cỏ rối, đâu có ông nào bị chia loan rẽ thúy ! Cho nên không thông cảm nổi với các đức lang quân bị gối chiếc pḥng không, mưa phùn gió bấc, kêu không thấu Thiên Tào Bắc Đẩu.

    Vừa trồi ra khỏi rừng mới bước chân xuống vùng có dân cư, tôi đă đụng ngay cái bi kịch không màn này.
    Tôi không nói ǵ thêm, sợ làm thằng Tôn khóc ré lên. Nhưng nó không khóc. Nó hỏi tôi:

    – Mà chú biết thằng chồng bây giờ của má cháu là ai không?

    (Tôi suưt kêu trời. Cái câu hỏi đầy hài hước và bi thương. Thằng chồng của má cháu! Ở Hà Nội, có chiếu một phim có cái tên cũng ngược đời như thế “Người chồng của vợ anh ta. ” Nhưng không chói lỗ tai bằng “Thằng chồng của má cháu ! )

    Tôi không thể đoán thằng đó là thằng nào. Thằng nào mà má cháu gọi bằng chồng, c̣n cháu gọi bằng thằng? Nó không phải là ba cháu ư?

    Thằng Tôn nói tiếp:

    – Thằng cha Xă đội trưởng chú ạ !

    – Rồi sao ?

    – Nó rà rê riết rồi má cháu ưng.

    – Chịp !

    – Nó bảo là đám tập kết hết về rồi. Mỹ vô, miền Bắc không dám đánh. Mỹ đánh ra Bắc, Bắc thua. Nó nói đủ thứ, ngày một ngày hai. Nó gạ gẫm, tới lui, ban đầu th́ ngày, lần lần th́ đêm. Có khi cà nông thụt, nó chui đại vô hầm với bả!

    Tôi nằm im không dám cục cựa như sợ mỗi cử động của ḿnh làm vết thương của nó vỡ to thêm.


    Mai tiếp ....

  3. #4643
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Nó tiếp:

    – Bây giờ cháu ít về lắm chú ạ. Về càng thêm chán. Cháu lấy trạm làm nhà.

    – Lâu chưa?

    – Có con rồi .

    – Trời đất !

    – Hai ba bốn năm trước chớ không phải mới đây. Cháu định bữa nào đụng đầu cháu lia cho nó một băng AK.

    – Bậy nào ! Làm vậy loạn hết.

    – Th́ tại nó loạn trước mà.

    – Rồi xă ủy chi ủy không có kỷ luật ǵ à?

    – Nó là xă ủy chớ c̣n ai nữa?

    – Vậy th́ hết chỗ nói rồi !

    Đây là phần nâng cao chất lượng của bi kịch. Chồng đi làm cách mạng, vợ ở nhà bị người ta cuỗm mất. Đó đă là bi kịch, nhưng cái kẻ cuỗm vợ nhà cách mạng kia lại chính là đồng chí của nhà cách mạng. Thế mới dzui.
    Tôn tiếp:

    – Xă này có hai ba trường hợp như vậy chú ạ!

    – Vậy à?

    – Mà toàn là xă ủy, chi ủy chủ động không hè !

    – Chủ động là sao?

    – Th́ là vậy đó. Mấy bà kia cũng có chồng đi tập kết như ba cháu. Rầu lắm chú ơi ! Bà nào bà nấy cũng mang bụng chửa thè lè như chuột tháng mưa. Có bà giấu giếm nhưng ai cũng biết. Có bà đẻ con rồi quăng xuống sông để phi tang nhưng làm sao mà tan được. Có bà bỏ nhà đi chỗ khác v́ sợ bà vợ lớn chửi bới.

    Tôi đă từng biết vụ ghen của bà lớn Duẩn ở Hà Nội. Hà Nội có nhiều lính và nhà bê tông cốt sắt thế mà đồng chí Tổng bí thư không có chỗ để cho bà nhỏ ở , tránh khỏi nanh vuốt của bà lớn. Đồng chí phải cho bà nhỏ chạy sang bên Tàu tị nạn. Th́ ở cái vùng giải phóng hỗn loạn vô pháp luật này làm sao có chỗ dung thân cho những nạn nhân của sự ghen tuông?

    Thằng Tôn thở dài sườn sượt. Nó không nói ǵ nữa. Trời tối hẳn. Tối như ở Trường Sơn, nhưng sự tối tăm hôm nay ở đây là sự tối ám của tâm tư. Cách mạng càng kéo dài càng thêm nhiều bi kịch. Chẳng có ǵ vui cho mỗi cá nhân. Như tôi vậy. Cái vui duy nhất của tôi là đă thoát khỏi nơi ḿnh không thích, nhưng cái bi kịch của tôi th́ vô tả.

    Tôi đă rời khỏi rừng nhưng trái tim của tôi c̣n ở lại đó , chôn sâu nơi một hố đất giữa rừng già. C̣n biết được ngày nào tôi trở lại. Mưa gió sẽ san bằng tất cả, nhưng tim anh th́ mang măi h́nh dáng của em.

    Tôi bỗng sực nhớ ra rằng lúc bối rối , tôi đă bỏ luôn cả chiếc ba lô của Nguyệt vào ḥm. Trong đó có biết bao nhiêu là món có thể giữ để làm kỷ niệm.
    Thằng Tôn đi về cḥi của nó bỏ tôi và Tư Mô ở lại với nhau trên hai chiếc vơng giăng cụ̣ng đầu. Bất ngờ Tư Mô hỏi:

    – Chín Nheo ra ngoải làm cái ǵ ?

    – Chín Nheo nào?

    – Th́… nhà họ Lưu, không nhớ à? Chú ở trong chi hội Văn Nghệ Nam Bộ với chả chứ ai !

    – À! Nhớ ! Chùm Vải Đỏ ! Chùm vải đỏ ! Tôi bật ra mấy câu thơ:

    Một bước đầu qua ranh Nam Bộ
    Nhận món quà ủng hộ của Đồng Nai
    Ḷng run run theo một chuỗi cười dài
    Vải ngọt quá, ngọt như t́nh đất nước…

    phải chả không?

    – Chớ c̣n ǵ nữa.

    – Mà anh hỏi chả làm ǵ ? Chả ra ngoài chẳng c̣n văn thơ ǵ nữa. Làm ǵ trên Phủ Thủ Tướng, được ở trên cấp cho chiếc xe hơi Peugeot 401 hồi ḿnh c̣n ở truồng tắm vũng.

    Tư Mô nói:

    – Tôi nhớ bài Chùm vải đỏ của chả. Mới mé ranh Nam Bộ đă nhận được chùm vải ngọt của Bà Rịa. C̣n tụi ḿnh mới lú ra khỏi rừng th́ được vị bần chua của đồng bằng.

    – Bần ǵ ở đâu?

    – Bần mọc đầy hai ven sông đó !

    – Nhưng ḿnh đă ăn trái nào đâu mà chua với chát?

    – Chuyện thằng bé kể đó không chua th́ ngọt à?

    – Anh thật! Tôi trở ḿnh úp mặt vào mép vơng.

    Tư Mô hút thuốc liên miên. Một chốc anh nói:

    – Không kết tội th́ không được ! Nhưng kết tội th́ cả quan ṭa cũng đau ḷng.

    – Tội ǵ ? Ṭa nào ?

    Tư Mô lặng thinh. Anh ném tàn thuốc xuống mương. Tôi nghe một tiếng “xèo” to. Chắc điếu thuốc c̣n dài nhưng anh không hút nữa. Anh nói:

    – Đàn bà mà không có đàn ông ở nhà cả chục năm trời th́ c̣n ǵ là đàn bà? Chú chưa có vợ, chú chưa biết chuyện đó đâu. Cá bỏ trong giỏ không có hom, nếu nó không vọt ra th́ cũng bị mèo tḥ móng vào chụp, chú hiểu không ? Đàn ông đi như thế nếu có chuyện ǵ xảy ra và bất cứ như thế nào cũng là lỗi ở đàn ông chứ không phải của đàn bà!

    Tư Mô thở dài. Anh nói như một tín đồ của Freud :

    – Xác thịt là tội lỗi nhưng đó lại là hạnh phúc của người đời. Đàn bà mười năm không biết đàn ông th́ c̣n là cái ǵ được chớ? Chú xem con cá, con chim, con chó, con trâu có phải chịu đựng gian nan thế không? Đàn bà Việt Nam đâu có phải là đàn bà Âu Châu mà nuôi chó berger, mà xài dụng cụ cao su được. Hoặc họ nói thẳng với anh hàng xóm là tôi muốn ngủ với anh một đêm thôi v́ mai mốt chồng tôi về, tôi không cần anh nữa.
    Tập kết hai năm đă là quá lắm rồi. Bây giờ gần mười năm. Một người con gái đă phải già, một người đàn bà trung niên đă là mẹ chiến sĩ. Chú thấy không? Đàn bà Nam Kỳ đă xa chồng chín năm kháng chiến rồi bây giờ đă xa thêm chín, mười năm nữa…

    Xin Trời hăy tha thứ cho họ.

    Tôi không muốn nói ǵ. V́ tôi không phải chịu đựng loại thảm kịch đó. Tôi ra Hà Nội một thân một ḿnh. Tôi có bạn gái. Nếu tôi muốn lấy vợ cũng không phạm ǵ cả. Nhưng tôi thấy nó không ổn thế nào ấy. V́ Hà Nội không phải là nơi cư trú vĩnh viễn của tôi. Hơn nữa tôi luôn luôn t́m đường trốn.

    Những ngày tôi đi công tác ở các tỉnh, ở các đơn vị quân đội người Nam Bộ hoặc những nơi có đông người Nam Bộ, tôi thấy nhiều chuyện đau ḷng.

    – Anh Tư ơi ! Tôi kêu lên .

    – Người Nam Bộ ḿnh là những con vật hi sinh anh ạ!

    Tư Mô không nói ǵ . Hai bàn tay anh ṃ ṃ bị thuốc nghe sột soạt. Anh lại hút. Tôi tiếp:

    – Chẳng những đàn bà bị hi sinh mà đàn ông con trai cũng thế! Cả anh nữa?

    – C̣n phải nói !

    Tư Mô đồng ư một cách xuôi chèo với tôi :

    – Tài Lé chửi ghê lắm !

    – Anh có gặp giả à?

    – Có chứ !

    – Vẫn lé ?

    – Muôn năm.

    – Vẫn càu nhàu ?

    – Muôn năm !

    – Vẫn ở đó ?

    – Muôn năm ! Và vẫn nói chuyện hấp dẫn. Có một bà tư sản ở Sài G̣n mê chả dữ lắm !

    – Mê ǵ ở cái bộ xương đó?

    – Mê nghe chuyện của chả thôi ! Bà ta nói là nếu xừ Tài đồng ư, bà sẽ mướn lũy cứ mỗi tuần tới nói chuyện cho bả nghe một ngày, chuyện ǵ cũng được ! Thằng chả có duyên tệ. Nói cái ǵ nghe cũng hay, nhất là chuyện Miệt Thứ. Ba cái chuyện lẩm cẩm Trèm Trẹm U Minh !

    – Chả chửi cái ǵ ?

    – Lủy bảo là cách mạng ǵ kỳ cục vậy. Khi đánh giặc th́ cùng đánh. Khi thắng giặc xong th́ một thằng chạy đi hưởng lạc, c̣n một thằng th́ bi trói quăng vô chuồng cọp.

    – Chuồng cọp nào? Thằng nào bị quăng?

    – Tụi tui đây chứ c̣n thằng nào ! Chuồng cọp là Chí Ḥa, Côn Đảo, Bà Rá, Kontum ! Chú không biết chứ tụi này ở lại chỉ trong ṿng vài tháng là bị xúc hết ráo. Trần Chính, trưởng ban tuyên truyền Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ, nhớ không?

    – Thày cũ của tôi.

    – Bị thịt ngay sau khi các vùng hoàn thành các chuyến tập kết. Đó là người trong tỉnh ḿnh. C̣n cỡ như tôi, cậu của chú th́ vô khám ngay. Không chuồng cọp là ǵ ?

    Tư Mô ngồi bật dậy :

    – Đành rằng đấu tranh th́ phải có hi sinh, nhưng ḿnh tránh sự hi sinh oan uổng và tức tối đó được không? Người ta tưởng đem được mấy chục tàu người ra Bắc là đủ rồi, c̣n những kẻ ở lại lộ mặt hoặc lem nhem th́ cứ việc ở lại tha hồ mà chui trốn và tin tưởng trung ương.

    Tôi biết Tư Mô có một tâm sự uất ức dài như Cửu Long Giang, nhưng tôi không dám khuyên can ǵ. Ngược lại tôi c̣n tán thành. Đúng là trói đồng chí ḿnh quăng vô chuồng cọp. Ngoài ra tôi c̣n thấy ḿnh chỉ là một tên vô tích sự. Ra Bắc có làm được cái ǵ để hai năm thống nhất đất nước đâu!

    Về tới R, ở Chiêu Đăi Sở, tôi gặp rất nhiều người quen cũ từng là cấp trên của tôi ở quận, ở tỉnh trong kháng chiến chống Pháp nằm la liệt sốt triền miên, để làm ǵ ?
    Chờ Ban Tổ Chức R giải quyết sinh mạng chính trị cho ḿnh, tức là tuyên bố khai trừ, cảnh cáo, hoặc trấn an và được chấp nhận cho công tác trở lại. Họ bi tù vừa ra hoặc “bí mật liên lạc” với đảng trong nhiều năm.
    Trong số người này, có một người từng là thư kư Thanh Niên Cứu Quốc quận Mỏ Cày của tôi tên là D.
    Anh ta nhờ tôi nói dùm với Ban Tổ Chức giải quyết sớm sớm, hoặc “chém,” hoặc “tha,” lẽ nào cũng được. Để nằm dài như vậy khổ sở quá. Nhưng tôi có quyền hạn ǵ ! Hơn nữa tôi cũng không biết Ban Tổ Chức ở đâu và ai là chủ của cái ban đó. Anh ta tưởng là dân tập kết về th́ oai hùng lắm. Tôi đành hứa cho qua truông , trước khi chia tay nhau. Từ đó tôi không gặp lại anh ta nữa.

    Tư Mô có lẽ đă nhờ anh Năm Quang, tức Trần Bạch Đằng, bảo lănh (cũng như bảo lănh tôi vậy) nên được về ngay tiểu ban Văn Nghệ R. Tuy được làm việc, sáng tác nọ kia, nhưng phải mang cái án gỡ không ra.
    Ôi, cách mạng! Giá đừng có cách mạng th́ dân Việt Nam đỡ chết chóc và bầm dập hơn. Cách mạng không làm nên hạnh phúc cho ai cả, mà ngược lại. Tính đến năm 63 là đă đổ máu gần hai mươi năm, nhưng chẳng thấy người cán bộ Nam Bộ nào được hưởng cái ǵ cả. Chỉ toàn hy sinh.

    Tư Mô nói tiếp:

    – Nếu tôi bị rơi vào trường hợp của bố thằng Tôn th́ tôi hoàn toàn không bắt tội người đàn bà.

    – Khổ lắm anh Tư ơi ! Tôi van anh. Thôi ngủ đi , để c̣n giỏi gị sáng mai nó “chụp” th́ ḿnh chạy.

    Tư Mô im. Nhưng tôi nào ngủ được. Tôi về đây là thoát rồi, dù có ǵ xảy ra đi nữa th́ cũng hài ḷng. Tôi chợt nhớ lại tất cả bạn bè, lũ c̣n ở ngoài ‘Bắc lẫn đám bị trói quăng vào chuồng cọp: Phạm Anh Tài, Huy Hà, chú, cậu tôi và v.v… không nhớ hết.

    Tư Mô làm tôi nhớ nhất Phạm Anh Tài, bởi có nhiều kỷ niệm trong thời kỳ chống Pháp

    Không rơ anh làm ở ṭa soạn tờ Tiếng Súng Kháng Địch Miền Tây Nam Bộ hồi nào , nhưng khi tôi đến (1950) th́ thấy anh đă ở đó rồi. Anh in thơ, in truyện nhiều nhất trong những nhà thơ, nhà văn trong vùng. Tài rất thích thơ Huy Cận. Tôi được anh ngâm cho nghe hầu hết tập Lửa thiêng. Giọng của anh là một giọng ngâm đặc biệt không thấy ở ai khác.

    Đẹp xưa, Ngậm ngùi v.v… bài nào anh ngâm nghe cũng muốn đứt ruột đứt gan. Anh ngâm xong lại b́nh về kỹ thuật và chính anh đă khuyên tôi: “Ê, Xuân Vũ, sao mày không cưới vợ cho rồi ? ” – Thôi ông nội ơi ? Một cái ba-lô trên lưng đă thấy nặng rồi, đeo thêm cô vợ làm sao đi nổi ? – Ấy, mày cưới vợ xong rồi mày sẽ thấy cái ba lô nhẹ hơn! H́ h́… Kháng chiến này c̣n dài mày ạ. Mày có chắc mày khỏi ốm đau không?
    Mày lủng phổi th́ đi dưỡng đường nó chích cho mũi calcium rồi về chớ nó đâu có chứa mày lâu. Mày có vợ nó ở nhà nuôi gà, nuôi vịt, mày về trụ h́nh ở nhà có trứng gà tẩm bổ, nó nấu cơm sốt cho mày ăn ! Như tao nè, vợ tao có khi nào cằn nhằn khi tao về nhà đâu. Nó c̣n mong cho tao bệnh để ở nhà nữa là khác !

    Câu khuyên thật chí lư chí t́nh và khoa học, nhưng tôi đă không thích vợ con , lại coi chuyện đó hơi kỳ cục. Đến khi ḥa b́nh lập lại, tôi làm ở ṭa soạn th́ anh ở nhà. Tuy c̣n dính chân ở cơ quan, nhưng anh có giấy của bác sĩ cho nghỉ dài hạn. Dài là bao dài, không ai biết, nhưng lâu lâu thấy anh đến nói chuyện với cấp chỉ huy rồi “biến” ngay , trước khi họ thay đổi ư kiến !


    Mai tiếp ....

  4. #4644
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Khi tôi sắp xuống tàu tập kết ở bến Chắc Băng th́ gặp anh. Lúc bấy giờ các cơ quan dân chánh đều hối hả rộn rịp tập trung ở vùng này để lo móc ngoéo gia đ́nh xin đồng hồ, bút máy, áo ấm, để đem ra Bắc bán ăn. Anh đưa tôi coi cái điện văn và nói:

    – Xừ Tiểng (tức Huỳnh Văn Tiểng, Giám Đốc Sở Thông Tin Nam Bộ kiêm Giám Đốc Đài Phát Thanh Tiếng Nói Nam Bộ) mới đưa tao !

    Tôi đang đọc th́ anh nói:

    – Ở ngoải kêu tao ra.

    – Ngoải là ai ?

    – Tố Hữu.

    Tôi mừng rỡ bảo:

    – Vậy sửa soạn nhanh đi cha ! Ḿnh cùng đi một chuyến !

    Anh lắc lia:

    – Thôi th…thôi !

    – Sao vậy?

    – Tao không có đi đâu!

    – Sợ bỏ vợ hả ?

    – Cũng có một phần, nhưng cái chính là tao không muốn đi!

    – Không đi ra đó th́ đi đâu?

    – Về Sài G̣n.

    – Làm ǵ ở trển ?

    – Chưa biết ! Nhưng mày ra ngoài đó rồi mày làm ǵ có biết không?

    – Gặp cụ Hồ cho bơ cái công kháng chiến.

    Anh xua xua tay không nói. Chả là tôi mới làm một bài thơ là “Thay áo mới “ vừa đăng báo, với hai câu kết mà tôi rung đùi khoái lắm:

    Mười năm dồn lại một ngày
    Là ngày tay cháu cầm tay Bác Hồ !

    Anh nói :

    – Tao có đọc thơ của mày. Hay lắm !

    – Tại sao anh không đi chứ?

    – Nhưng đó chỉ là thơ. C̣n đi ra ngoải lại khác.

    – Khác thế nào được !

    – Rồi mày xem. Ở trong này th́ mày thấy gần ổng, nhưng khi ra đó th́ thấy lại xa hơn lúc ở trong này !

    Rồi anh ăn mấy quả cam nhà của tôi, vừa đi vừa nói chuyện trên bờ kinh xáng.

    Quả thật “ra ngoài đó th́ xa” đúng y như rằng. Chẳng những xa mà tôi hết ham gặp Bác Hồ nói chi bắt tay. Tôi không được bắt tay bác và thú thực tôi cũng không mơ ước được cái hân hạnh đó. Chẳng phải riêng tôi mà nhiều không biết bao nhiêu.

    Anh Tài ở lại Sài G̣n viết văn, viết hay hơn trong kháng chiến. Nếu anh ra Bắc có lẽ (tôi đoán vậy thôi) anh sẽ ít nhiều dính vào Nhân Văn Giai Phẩm.
    Ḍng tâm sự của tôi chảy lan man như nước sông Vàm Cỏ. Nếu tôi có ngọn đèn dầu trong tay, tôi chỉ cần nghiêng qua mép vơng th́:

    Khêu đèn ta thấy trong ḍng nước
    Có máu Miền Tây, máu Hậu Giang.

    Huy Hà! Đó là nhà thơ kháng chiến, người thứ hai tôi quen thân sau Anh Tài. Tôi đi chiến dịch Long Châu Hà chung với Quốc Hương bài “Cười vui mà đi Long Châu“, rất hay. Làm xong Quốc Hương hát và dạy bộ đội hát rền trời.

    Cười vui ta đi Long Châu
    T́nh thương reo trong ṇng súng
    Ta về mang theo vui mừng
    Cầm súng ta đi diệt Tây!

    Huy Hà làm ca dao. Được câu nào anh đưa cho tôi:

    – Ê! Xuân Vũ coi đă không?

    Huy Hà có cái sắc-cốt cũ rách đi đâu cũng mang xề xệ và miệng cứ lải nhải những câu thơ viết ra:

    Làng tôi mấy cội trâm bầu
    Làng tôi có mấy nhịp cầu sang sông
    Có bao du kích xung phong…

    ….Sặc rằn chia đứa nửa con
    Mặn mà mà nhớ mà ôm nhau hoài!

    Đôi lần Huy Hà cũng bảo tôi:

    – Ê, Xuân Vũ mày muốn vợ chưa ? Tao gả em vợ cho ! Mày thấy nó là mày thích ngay!

    Ôi ! Bao kỷ niệm êm đẹp của thời kháng chiến phơi gan trải mật tuổi thanh niên, như ḍng nước nhỏ róc rách chảy về những kẽ hở của tâm hồn, len vào tận những nơi cùn cạn.

    Sáng hôm sau trời lặng gió êm. Trời thương tụi sứt mẻ đui cùi này nên không có chụp dù. Hai thằng được ăn cơm trắng, nhai đậu phộng và uống trà quạu đă đời. Rồi ngủ một giấc ngon lành, yên chí rằng sau khi thức dậy không có ma rét theo níu lưng.

    Nước sông đỏ lừ và ngọt ngào. Từ lâu chuyên môn uống nước lá cây mục, nước voi đầm, nước suối vô vị. Bây giờ được uống nước Cửu Long Giang.

    Tư Mô là một người châm biếm tế nhị, một người rành đời và hiểu cảnh thổ quê hương rất sâu sắc. Đại khái ăn món ǵ th́ phải có thứ ǵ đi kèm. Anh nhắc những chuyện mà tôi quên hoặc nói những chuyện mà tôi không biết. Đang uống trà bỗng anh hỏi:

    – Hồi trước chú có đi tới Cù Lao Bảo chưa ?

    – Có. Đó là xă Thanh Triệu chớ ǵ.

    – Chú có kỷ niệm ǵ ở đó không?

    – Tôi nhớ là tôi có đọc một bài báo Tổ Quốc kư tên là Sắt Máu ở trong một quán nơi tôi mua cái ca uống nước bằng nhôm năm đồng để đeo trên nắp ba lô.

    – Đó là mục gây căm thù của báo Tổ Quốc do ông Bùi Kính Lăng nhà ḿnh, hồi đó tên là Lê Nguyên Phổ, phụ trách.

    – Đúng. Bài đó tả một tên lính Pháp hiếp một em bé gái ở Đồng Tháp Mười. Em bé mới có bảy tuổi nên hắn lấy dao găm rạch âm hộ của em…

    Tư Mô thêm:

    – Câu cuối cùng là: “..:Rồi hắn trườn lên một cái xác không hồn!”

    Tôi kêu lên:

    – Tôi phục anh nhớ dai hơn tôi.

    Tư Mô hỏi:

    – Chú biết Thành Triệu có ǵ đặc biệt không?

    – Lôm chôm, sầu riêng, măng cụt. Và nước ngọt bốn mùa ! Chú nhớ không?

    – Vậy à?

    – Nước dưới biển tràn lên đến cỡ Vàm Tân Hương th́ c̣n mặn, nhưng lên tới An Thới Thạnh Thới th́ đă pha chè. Nước mặn không lên tới đầu Cù Lao Bảo và Cù Lao Minh.

    – Hồi vô khu 9 tôi lên đây băng qua Vĩnh Long.

    – Đúng, nhưng hồi kháng chiến tàu bè không kiểm soát nổi sông Cửu Long. C̣n bây giờ ghê gớm lắm chú ơi. Tụi đi đồng bằng về kể lại nghe rất ớn. Nay mai ḿnh phải qua sông Cửu Long và lộ Đông Dương. Hơn cầu B́nh Thân (tục gọi là cầu Trần Thân) ở khu 9 xa.

    – Ở đoạn nào ?

    – Không biết, nhưng nghe nói đoạn Ấp Bắc th́ bể rồi.

    – Nguyễn Ngọc Tấn đi viết về Ấp Bắc gởi ra ngoài đó. Sao không có ǵ đặc sắc cả ?

    – Ở xa nghe th́ “đặc,” khi đến nơi lại “lỏng.” Tài Lé nói đúng hả?

    Chiều đến, thằng Tôn lại dắt chúng tôi đi. Lần này th́ đi bộ. Toàn càn rừng. Nửa đêm mới tới điểm mới. Sáng hôm sau thấy sông mênh mông, nước lé đé mép bờ.

    Vàm Cỏ Đông ! Vàm Cỏ Đông !

    Vàm Cỏ Đông là con sông từng chứng kiến cảnh nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt tàu Esperanto của Pháp cách đây cả thế kỷ. Thuở nhỏ học lịch sử không thấy chuyện đó, nhờ đọc sách mà biết. Và nay tôi mới thực sự đến bên bờ sông lịch sử này. Nước xoáy như vụ, đỏ như máu.

    Hai tên Nam Kỳ kháng chiến hai mùa , mắc vơng nằm trên bờ phóng mắt nh́n ḍng nước mà tưởng là máu của những bậc tiền nhân đă hi sinh oanh liệt , hăy c̣n hồng cho đến ngày nay.

    Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
    Kiếm bạc Kiên Giang khiếp quỉ thần

    Đất nước ḿnh rộng lớn và nhiều chiến công quá – tôi buồn rầu nghĩ – nhưng con cháu th́ chẳng may mắn chút nào. Độc lập ! Giành cả trăm năm chưa được mà sự hi sinh th́ không xiết kể. Hôm nay nằm trên bờ sông ḷng lơ mơ hoài niệm một chiến công hiển hách mà thương tủi cho dân ḿnh.

    Nước lớn dâng lên ngập nửa thân cây bần. Những cánh nhụy trắng rơi lả tả trên mặt nước. Những con chim ḍng dọc nghệ làm ổ trên ngọn kêu vang và cắn đá nhau chí chóe. Cảnh trí gần gũi với quê nhà làm nhớ nhung đứt ruột. Cách mạng khởi đầu có vẻ kết thúc nhanh. Ai dè cậu bé đă trở thành gă trung niên mà chiến tranh không có ṃi chấm dứt.



    Mai tiếp ....

  5. #4645
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Rải rác cạnh bờ sông khách nằm chờ chuyến đi .... đi và đi. Suốt đời cứ đi và chưa có bao giờ ai nói với ḿnh rằng chừng nào sẽ đến. Nhiều người công tác ở vùng nay có kinh nghiệm nên họ có sắm sẵn lưỡi câu và mồi. Vừa hạ trại là họ quăng câu chờ bắt cá. Tư Mô cứ nhắc nha nhắc nhỏm.

    – Nếu biết thế này th́ tôi đă mua lưỡi câu lận lưng đem theo.

    – Thôi anh ơi, nghỉ đi cho khỏe để đi, ở đó mà câu.

    Tôi đi rảo t́m người quen. Quen loại nào cũng được. Từ dưới quê nhà lên R hay từ Bắc vô Nam cũng được. Tôi đă từng có những cuộc gặp gỡ ly kỳ ở lưng Trường Sơn.

    Quả thật, đi rảo một hồi th́ một anh chàng thi sĩ quen từ hồi 1949-50. Hắn tên là Lê Xí. Lê Xí người Phan Thiết không biết lọt vô Nam Kỳ lục tỉnh hồi thời nào , mà đi kháng chiến ở Bến Tre. Lê Xí làm thơ đăng trong tập san của Đoàn Văn Hóa Kháng Chiến Tỉnh từ năm 1946 cùng với Tư Mô. Lúc đó tôi là thiếu nhi cứu quốc mê thơ nhạc họa vô cùng và coi Lê Xí như một trong những thần tượng thơ.
    Lê Xí có một người bạn họa sĩ tên là Chi Lăng, cận thị nặng, vẽ cho các báo tỉnh, được các nữ cán bộ trong đó có cả chị Ba Định mê lắm. Một buổi trưa trên đường đá phá hoại h́nh nanh sấu từ Giồng Luông lên Cầu Mống, Chi Lăng một bên, Lê Xí đi một bên. Giữa hai người, giăng một sợi dây nhợ, một đầu buộc vào ba lô Lê Xí một đầu buộc vào ba lô Chi Lăng, trên dây nằm những quần tiều và áo thung. Đó là cách phơi đồ trong kháng chiến ngông ngông mà chỉ có hai nghệ sĩ này phát minh và tôi chưa thấy ai dùng. Nhưng tôi rất thích cái sáng kiến đó.

    – Về hồi nào vậy cha? Tôi hỏi Lê Xí.

    – Lâu rồi. Thấy Hà Nội không có tớ th́ biết là “lặn” rồi chớ ǵ .

    – Lâu nhưng bao lâu?

    Lê Xí x̣e hai ngón tay.

    – C̣n “Xa Lờ” hết ?

    – Vẫn cứ “xa”, càng xa ! Lê Xí ngoẹo cổ thất vọng.

    Nguyên là Lê Xí có vợ đẹp lắm, người Cái Mơn là xứ giàu đẹp nhất Bến Tre. Người đẹp yêu nhà thơ nhờ thơ. Khi tập kết, Lê Xí không kịp từ giă vợ, lúc bấy giờ đang có thai. Ra Bắc gặp tôi, Lê Xí than thở một cách hài hước và tự chế diễu ḿnh: Le poète “xa-lờ” (sale).

    Một năm nọ ăn Tết xă nghĩa, tôi ở trong cái ga-ra đẹp như Phủ Toàn Quyền của Bác, Lê Xí tới chơi, trời rét như cắt da, Lê Xí chỉ mặc áo sơ mi và đề tặng tôi mấy ḍng thơ, kư tên Le Poète “Xa-lờ.” Một lần khác Lê Xí khoe tôi tấm ảnh hai vợ chồng chụp chung. Tôi lấy làm ngạc nhiên sao anh chị lại trùng phùng được? Nhưng Lê Xí bảo nhỏ: “ảnh ghép.”

    V́ thế bây giờ tôi mới hỏi: “C̣n Xa-lờ hết?”

    Khi nghe Lê Xí đáp “càng xa” th́ tôi rất kinh ngạc. Đó là trường hợp của hàng ngàn cặp vợ chồng, trong thời đại Hồ – nào phải riêng nhà thơ “Xí” này. Tôi không hỏi tới nơi mà rẽ ngang:

    – Có ông bạn thơ của “vu " đằng kia ! Rồi tôi kéo tay Lê Xí.

    Hai người bạn già háp nh́n nhau. Một gă trung niên nh́n hai tên già háp. Cả ba cùng quái gở như nhau , như trong một cuộc tái ngộ ở ngoài càn khôn.
    Kháng chiến đă đi qua hai mươi năm để lại những đốm bạc trên đầu họ.

    Thời đó, Lê Xí rất trẻ, rất tài và rất trí thức nên vô đảng Dân Chủ của Đặng Ngọc Tốt ở Bến Tre. Thấy đảng Cộng Sản lấn lướt, Lê Xí bèn bỏ Dân Chủ để nhảy vô Cộng Sản, nhưng bỏ xong, không vô được, thành ra buông h́nh bắt bóng chơi vơi ở giữa hai mé bờ, mặc cho sóng vỗ ngă nghiêng.

    Ra Hà Nội, Lê Xí có được đảng ngó tới, nhưng vẫn cứ để Xí ở bệ cửa nḥm vô chứ không cho vô v́ cái tịch Dân Chủ xanh lét kia.
    Hai con người gặp nhau, mỗi người một mối hận riêng. Họ không muốn chạm tới mối hận ḷng đó. C̣n tôi th́ lại càng muốn cho họ nghĩ tới việc khác.

    Tôi hỏi Lê Xí:

    – Ở đây người ta câu cá ǵ cha?

    – Cá chạch lấu.

    – Là chạch ǵ ?

    – Nó như cá chạch ở xứ ḿnh nhưng to như con rắn hù ri và có bông có hoa coi ghê lắm.

    – Có ai bắt được chưa?

    – Có chớ. Mấy tay nghề địa phương câu một ngày được cả chục.

    – Ăn ǵ hết.

    – Nó bán chứ. Mỗi con bán năm sáu chục đồng.

    – Bạc ǵ?

    – Bạc thành.

    – Ủa ḿnh xài . . .

    – Bạc thành chớ đâu có Tín Dụng Phiếu như hồi kháng chiến ? Lê Xí vừa nói vừa móc túi đưa ra tờ bạc :

    – Bạc Sài G̣n đấy ! Hồi kháng chiến cũng gọi bạc thành là bạc xanh. Bây giờ cũng thế!

    – Năm sáu chục một con cá chạch? Vậy lương bác sĩ ở Hà Nội chỉ mua được một con cá chạch thôi sao?

    Tư Mô xen vào:

    – Th́ cũng như năm chục rịa chỉ mua được gói trà con khỉ đỏ đít.

    – Khỉ có tháng chớ. Nói cho đúng chữ nhé, nhà thơ không xa-lờ!

    – Cũng xa-lờ như toa vậy chớ sao không xa.

    – Mấy năm ?

    – Sáu bảy, tám năm rồi ! Tư Mô chỉ tôi :

    – Chú em này là không phải xa-lờ.

    – V́ tôi không có lờ để mà… xa.

    – Le poète “xăng-lờ!”

    Cả ba thằng cùng cười. Tôi chỉ cười gượng.

    – Vậy phải về kiếm lờ mau mau, kẻo hết!

    – Năm nay băm mấy rồi?

    – Băm ba.

    – Meo dữ rồi đa ! Dừa sắp lắc nước rồi. Không khéo khô chỉ c̣n thắng lấy dầu đốt đèn.

    Ba người “xa lờ” và “xăng lờ” bù khú với nhau một lúc rồi Lê Xí dẫn bọn tôi đi t́m mua cá chạch lấu. Đó là một cái tăng lụp xụp không có vẻ ǵ đặc biệt cả , nếu không có cái hũ đường để bên đầu vơng. Lê Xí vốn quen với chủ tăng nên hỏi ngay:

    – Có trự nào không Năm Hứa?

    – C̣n ba trự. Nhưng có người dặn rồi.

    – Ai ?

    – Tốp đi Cà Mau Rạch Giá ǵ đó.

    – Ăn một lúc ba con à ?

    – Cả chục người mà ! Toàn dân Nam Kỳ, đều mang “gị heo” cả nên họ xài tợn lắm. Họ dặn được bao nhiêu, bắt hết bấy nhiêu.

    – Nhín một con cho tụi này được không?

    Năm Hứa, một anh chàng tóc tai vén khéo, râu ria cạo sát lẻm, áo thun ba lỗ. Theo Lê Xí cho biết anh ta là kiểm soát viên của đường dây. Anh ta nằm ́ tại đây rồi lấy t́nh h́nh từ các trạm mà báo cáo về R. Nhân việc nhàn rỗi, y câu cá chạch lấu bán cho cán bộ với giá tương đối thông cảm t́nh đồng chí.

    Cán bộ từ R đi xuống th́ khoái chất tươi nên bi nhiêu bi cũng mua nhậu tẩm bổ. Năm Hứa không dám bán v́ đă chịu miệng rồi. Bọn tôi cứ loay hoay chưa biết cách nào nẫng một nàng chạch về làm tiệc. Ba đứa mà xơi tái một nàng th́ vừa phải, không nhiều mà cũng không ít. Miếng ăn thấy đó mà không xực được. Bạn đă từng đói, thèm đủ thứ như tôi th́ bạn mới có thể hiểu được nỗi bực dọc trong lúc này.

    Tư Mô nhỏ nhẹ với chủ cá:

    – Đồng chí thông cảm cho ! Anh em cũng gian khổ như nhau mà. Nếu các đồng chí ấy nói ǵ, tôi chịu trách nhiệm cho.

    – Không được đâu. Mấy chả dặn kỹ lắm. Tôi đă cho các chả coi cá và ngă giá chắc rồi.

    Lê Xí vọt miệng:

    – Nói nó lóc ra mất một con !

    – Hà hà… Năm Hứa lưỡng lự một chốc rồi nh́n mặt nước nói:

    – Nước đang những ṛng, cá ăn mạnh, tôi bỏ một lúc ba lưỡi đằng kia, để tôi đi thăm. Chừng nào không dính sẽ cho cá ḅ…

    Ba đứa tôi ngồi chồm hổm trong lều. Tư Mô quấn thuốc hút. Lê Xí cào cào mớ tóc ngắn như t́m kế. Tư Mô gợi ư:

    – Ḿnh cà ri một nửa nhậu, kho lạt một nửa để ăn cơm !

    – Lấy ǵ mà cà ri?

    – Tôi có thủ một mớ gia vị. Hồi ở trên R, mỗi lần mua ngũ vị và nghệ để ướp thịt nai, c̣n dư lại tôi đều thủ kỹ.

    Tôi nói:

    – Cá chạch nấu chua là tuyệt sắc. Sẵn ở đây có bần chín rụng thiếu ǵ .

    Đang c̣n bàn tính mơ-nuy th́ một phái đoàn quân sự toàn mang gị heo đi tới. Tôi kêu lên ngay:

    – Ê Trung !

    – Ai đó ?

    – Tui nè.

    – À, à nhà báo văn nghệ hả?

    Hắn là Đại đội trưởng Công Binh ở bến phà Lược ở Thọ Xuân Thanh Hóa trong tiểu đoàn Công Binh của Đại úy Mật. Tôi đến đấy công tác hồi 1957-58 chi đó sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

    Hắn tên là Đặng Chí Trung nhưng v́ nhỏ thó, lúc nào cũng ho khạc nên chiến sĩ tặng cho biệt hiệu Đặng Vi Trùng. .

    Đặng Vi Trùng mừng rỡ khi nhận ra tôi:

    – Cũng vô ?

    – Không vô th́ ra à ?

    – Đi cu ki vậy sao ?

    – Có bồ chớ. Nè, ông Mật chết rồi ta !

    – Sao vậy, hồi nào ?

    – Ngoài Trường Sơn, bị bom trộm . Tôi kể vắn tắt và nói :

    – Lăng nhách. Phải ổng nán lại đi chung với tôi th́ khỏi rồi.

    – Chậc ! Cha nội đó khiến chết hay sao á. Cho đi Liên Xô không chịu, cho đi Trung Quốc cũng không. Chỉ đ̣i về . Về rồi vậy đó, không tới.

    – Nằm lại luôn ở đó rồi.

    Tôi thở đài:

    – Ổng chưa vợ hả ta ?

    – H́nh như chưa! Ngoài bốn mươi rồi. Có lấy th́ lấy ai?

    Trung vui vẻ rẽ ngang chuyện khác:

    – Ối mà rồi cũng tới phiên ḿnh. Vô đây c̣n dễ chết hơn ở Trường Sơn nhiều.

    – Tôi tưởng xuống được đồng bằng là lột vỏ sống đời chớ !

    – Lầm to ! Lầm to ! Ai từ Bắc về cùng đều nghĩ như vậy cả. Nhưng khi xuống đồng bằng rồi mới thấy là đồng bằng gai góc, không có phải là đồng bằng ăn hút như thời chống Tây đâu !

    Tôi quay sang Le poète xa-lờ:

    – Không c̣n cái vụ phơi quần áo theo kiểu đó nữa nghe cha non !

    – Kiểu đó là kiểu nào ?

    – Giăng dây qua hai chiếc ba lô… !

    – Hồi đó ḿnh chơi ngông nhiều thứ lắm.

    Năm Hứa thăm câu trở về, xách một đùm cá, đuôi cá kéo lết trên mặt đất.

    – Ăn to rồi !

    Tôi vốn xấu chứng đói, nên thấy cá th́ la lên:

    – Tôi bắt hết cả chỗ đó nghe!

    – Ba con lận đồng chí ạ !

    – Ba con chớ ba chục con tôi cũng mua hết.

    Đặng Vi Trùng không giành giựt:

    – Để các chả hết đi. Tôi chỉ bắt số dặn sẵn thôi. Để tính việc đắp đầu gối cái đă rồi tối nay ta “ nói tâm t́nh không giấu nhau” (*) nghe nhà… răng!

    (*) Một câu trong bài hát Niềm Thương Mến của Phan Vân và Xuân Vũ được giải nhất Giải Thưởng Cửu Long 1950 ở Nam Bộ.

    Tuy nói vậy, Đặng Vi Trùng chưa vội đi. Hắn kéo tôi ra xa, rỉ tai: “Xuống đó phải cẩn thận cho lắm nghe. Đừng có mà ăn no ngũ kỹ đó. Ông Sản chết rồi !”

    Ông Sản nào? À tôi nhớ ra rồi. Đặng Quốc Sản, Trung đoàn trưởng trung đoàn Cửu Long hồi kháng chiến chống Pháp. Nghe đâu ông ta mới được Trung ương đưa về làm Tư lệnh khu 8 (Hồi chống Pháp Trần Văn Trà làm Tư lệnh).
    Về mống nào rụng mống nấy. Tôi thầm nghĩ. Nguyễn Văn Bảo, Chính ủy F330 về làm Chính ủy khu Sài G̣n Chợ Lớn vừa về tới nơi là bị biệt kích bắn chết. Nguyễn Hoài Pho, trước là Tỉnh đội phó tỉnh đội Cần Thơ (nơi tôi làm trưởng tiểu ban Văn Nghệ) về làm Tư lệnh khu 9 cũng chết. Trần Đ́nh Xu tức Ba Đ́nh về làm Tư lệnh khu Tam Giác Sắt cũng đă hi sinh. Bốn ông tư lệnh.
    Nghe mà rùng ḿnh. Mấy ông Tướng đi đâu tiền hô hậu ủng, giáp sắt bó người đấy. C̣n bọn văn sĩ này có ǵ bảo vệ ? Nghe Đặng Vi Trùng nói, tôi lặng thinh. Hắn c̣n dặn: “Bí mật.”

    Kéo lết ba con chạch lấu về lều, tôi bảo Lê Xí:

    – Dời vơng lại đây cho có bạn.

    Thế là nổi lửa. Ba con cá, làm xong, khứa ra dồn cứng ba gà-men. Thiệt là hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn. Tư Mô làm bếp chính. Tôi và Lê Xí chỉ hụ hợ. Tư Mô phân công:

    – Le poète Xa-lờ đi móc bần chín. C̣n pồ-ệt xăng-lờ th́ đi đốn mái dầm ... cắt lấy khúc non đem về tước vỏ, để cà-ri thay cho măng le, măng tre.

    Xong nhiệm vụ hai đứa tôi leo lên vơng đu đưa chờ thời. Bỗng tôi nghe tiếng thét ở mé sông. Tôi vừa ngồi bật dậy th́ thấy một người ở dưới nước vọt lên, trần trụi, tay bụm… tay bơi, mặt mày trắng nhách. Tư Mô hỏi:

    – Cái ǵ vậy ?

    – Chắc có bo bo chạy ngoài sông. Lê Xí đáp.

    Nhưng không phải . Anh ta chạy vụt qua vơng tụi tôi để về lều. Chập sau, mới biết là anh ta bị tai nạn cá nốc. Về đồng bằng có hai cái “nốc” đáng sợ nhất. Dưới nước: cá nốc. Trên trời: bù nốc.

    Cá nốc là loại cá chỉ to bằng ngón chân cái, ḿnh vàng, có đốm đen. Khi bị nắm đuôi lắc lắc th́ nó ph́nh ra như một chiếc bong bóng con. Mồm nó rất nhỏ nhưng răng rất sắc. Nó thường khoét đùi mông người tắm truồng.


    Mai tiếp ....

  6. #4646
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Bù nốc là loại trực thăng không rơ kư hiệu là ǵ nhưng ḿnh nó tṛn như con cá nốc nên dân đồng bằng gán cho nó cái tên là (trực thăng) bù nốc. Hễ đi đường trống mà gặp bù nốc là hết phương chạy. Nó bay sà trên đầu, đáp ngay trước mặt. Hễ chui xuống hầm th́ nó rà ở miệng hầm. Tên Mỹ tḥ đầu ra kêu: “Vi Xi ! Vi Xi ! ” Nếu không ra nó tung trái khói hoặc lựu đạn.

    Anh chàng kia bị cá nốc khoét ngay cái bửu bối. Anh ta tự băng bó lấy và lên vơng nằm. Thấy bạn “bị thương” mà không hỏi thăm th́ cũng khó coi, nhưng hỏi thăm th́ cũng hơi khó… mở miệng. Cho nên chúng tôi đành lấy mắt ngó và đoán ṃ với nhau thôi !

    – Có lẽ không nặng’ lắm đâu !

    – Nó “húc”nhằm cái “chốt” th́ trở thành “cán bộ…xa lờ” luôn đó.

    – Không có y tá y tướng ǵ ở đây hết ráo th́ nặng hay nhẹ ǵ cũng không chữa được.

    – Mẹ, cá ǵ mà cá ác vậy chứ. Nhè cái chỗ ăn thua của người ta mà tấn công!

    – Không biết đó là dân Mùa Thu hay Mùa Đông?

    – Coi bộ vó không đoán ra nổi là mùa ǵ. Nếu Mùa Thu th́ đau khổ lắm.

    Chiến tranh Việt Nam lần chống Mỹ này có lắm hài kịch. Chết và bị thương đủ cách ở Trường Sơn. . Bây giờ về ven đồng bằng lại gặp cái tai nạn kỳ cục này.. Không biết cá nốc ở sông Vàm Cỏ đă đánh giải phóng quân được mấy trận như vậy? Bắn tỉa kiểu này chẳng thua ǵ Nguyễn Văn Cội bắn tỉa Mỹ ở Củ Chi.

    Tư Mô ngồi lặng thinh làm nhiệm vụ đầu bếp, bây giờ mới cất tiếng:

    – Cái kiểu này th́ ông ta trở thành người không có cổ?

    – Bị chỗ đó th́ sao lại không có cổ?

    – L’homme xăng “cu” (*)

    (*) Tiếng Pháp “cou” (đọc là cu) nghĩa là cái cổ.

    Ông “thương binh” nằm im cho tới lúc anh giao liên bất ngờ xuất hiện. Không biết anh ta có được báo cáo cái tai nạn cá nốc vừa rồi hay không mà lại ghé ngay tăng của nạn nhân và nói oang oang:

    – Tôi quên phổ biến cho các đồng chí một kinh nghiệm là nếu tắm dưới sông th́ phải mặc quần đừng có chủ quan mà bị cướp mất cái c̣ súng. Vừa rồi có một đồng chí mùa Thu bị nạn đó. May mà nó chỉ mẻ có một góc tư thôi .

    Chúng tôi không nói ǵ. Anh “thương binh” càng nằm im thin thít.
    Trời chiều bớt nắng. Liền với bờ sông là một khu rừng chồi tràm xơ xác. Nếu khách chui vào đó th́ chắc ḷi lưng bị trực thăng xớt dễ dàng. Bây giờ tôi mới thấy cái hay của Trường Sơn. Dù sao trên đầu ḿnh cũng luôn luôn có một tấm giáp bằng lá che mắt kẻ địch. Đạn bắn th́ thủng tuốt nhưng sự rậm rạp làm cho những kẻ sắp chết an tâm hơn là đứng giữa trời nh́n thấy kẻ địch lù lù đi tới giết ḿnh mà không phương chạy thoát.

    Anh giao liên cũng vơ trang một loại súng như giao liên Trường Sơn: cạc-bin. Anh ta nói như chơi:

    – Nếu có động, các đồng chí rút vào rừng tràm đó.

    Tư Mô hỏi:

    – Nếu trực thăng nhảy gị th́ chạy đi đâu đồng chí?

    Anh giao liên gạt ngang:

    – Ở đây chỉ sợ bù nốc thôi. C̣n nhảy gị th́ chắc không xảy ra ! Nó mới nhảy tuần rồi !

    Tôi hỏi :

    – Tại sao đồng chí lại chắc vậy? Nếu nó chầu đôi th́ sao?

    – V́ nó nhảy xuống kỳ rồi, chẳng bắt được cái mẹ ǵ ngoài ba cái c. bần.

    Tôi cười ngất:

    – Tôi có thấy cái nào đâu !

    – Nước ṛng ḷi mé băi cơ. Cả một rừng c… lởm chởm như chông vậy. Hố hố.

    Cái tiếng tự nhiên làm tôi nhớ nạn nhân. Tôi ngoắc anh giao liên lại gần và rỉ tai. Anh ta kêu lên:

    – Thế th́ bỏ mạng rồi. Mất cái ch́a vôi đó th́ chết sướng hơn ! Rồi anh ta đi lại vơng nạn nhân lắc lắc :

    – Có sao không đồng chí ?

    Tôi làm bộ không chú ư , nhưng tai th́ lắng nghe xem sự thế ra sao.

    – Chịp! Sao không cẩn thận ǵ hết trọi vậy cha?

    – Tôi đâu có ngờ !

    – Tôi không thể nhắc mỗi người được. Phải tự bảo vệ lấy chớ. Mà có ngay chỗ nghiệt không?

    Anh chàng không đáp. Hồi lâu mới hỏi:

    – Trạm có y tá không đồng chí ?

    – Tất cả khách đều phải tự túc mọi cái. Chúng tôi không có bất cứ thứ ǵ ngoài sự dắt đường cho các đồng chí.

    Anh giao liên trở lại lều tôi:

    – Đồng chí có thuốc đỏ không?

    – Thuốc đỏ là thuốc ǵ ? Bị hỏi bất ngờ tôi đâm ra ngớ ngẩn.

    Tư Mô bảo:

    – Mẹc-cuya th́ tôi có đây, nhưng nó chỉ sát trùng thôi ăn thua ǵ !

    – Th́ đỡ vậy thôi, chớ có cái thuốc ǵ là thuốc trị cá nốc cắn đâu !

    Tư Mô lấy chai thuốc đỏ thấm miếng bông g̣n đưa cho anh giao liên và nói nhỏ với tôi:

    – Thằng này chắc tên là Lầm hoặc là Liền.

    – Sao anh biết ? Nó đâu có tự giới thiệu với ḿnh.

    – Trạm trước có thằng “Tôn” th́ trạm này gặp thằng “Liền” hoặc thằng “Lầm” là đúng công thức với vụ cá nốc đớp cái “chông ba lá ‘ của ông khách kia rồi chớ ǵ!

    Tôi cười và nói nhỏ:

    – Báo hại, nếu anh bạn ḿnh đang móc vợ vô th́ không biết tính sao !

    Tối hôm đó Đặng Vi Trùng đến mắc vơng nằm gần tôi. Vi Trùng hỏi ngay:

    – Quyển sách thế nào?

    Tôi ậm ờ:

    – Ḿnh đi nên giao lại cho nhà xuất bản Quân Đội.

    – Lâu thế mà chưa in à?

    – Chưa!

    (Đó là truyện dài “Những tiếng nổ ngầm” của tôi viết mất hai năm, xong hồi 1960 đưa cho nhà xuất bản Quân Đội. Rằng hay th́ thật là hay, nhưng nó lại bị ở trên chê là lộ bí mật quân sự nên ngâm dấm luôn. Nhân vật chính là Đặng Vi Trùng. Câu chuyện một toán công binh do Đặng Vi Trùng chỉ huy phá sập cầu Bến Lức năm 1952 bằng ḿn.)

    Tôi đánh trống lảng:

    – Kỳ này cậu về làm một cú Bến Lức nữa hả?

    – Trước th́ dễ hơn. Bây giờ th́ vô phương. Bộ Tư Lệnh Khu định làm một cú để ăn mừng ǵ đó nhưng tớ không ṃ lại gần được chiếc cầu.

    Tôi nói:

    – Hồi đó cậu đội lục b́nh thả rề theo nước rồi đáp vô chân cầu đặt ḿn coi bộ dễ mà.

    – Ba tháng trời mới làm được. Bây giờ khó lắm. Nghe nói nó đốt đèn điện tử và thả cá leo cá lung ǵ quanh chân cầu, khó bề đội lục b́nh như hồi trước lắm.

    Tôi cười:

    – Cậu sợ cá leo mà có sợ cá nốc không?

    – Cá nốc là cá ǵ?

    Tôi trỏ anh bạn đằng kia và kể vắn tắt câu chuyện. Đặng Vi Trùng cười hắc hắc vang trong đêm tối.

    – Cá nốc cũng nguy hiểm nhưng không đáng ngại bằng bù nốc. Cá nốc chỉ gặm một tí thôi nhưng bù nốc th́ nó thỉnh nguyên con !

    Chuyện cũ nhắc lại th́ như chuyện mới. Nhất là chuyện được nhắc lại trên cái nền cũ là Vàm Cỏ Đông. Cầu Bến Lức. Quả thật con đường này là con đường tâm tư dằn vặt. Tôi từng say mê cái anh công binh Đặng Vi Trùng với chiến công oanh liệt này. Một đội công binh Nam Bộ vô cùng anh dũng đă nghĩ ra cách đột nhập vào chân cầu và đánh sập cầu làm cả đến bên Tây phải chú ư và gọi là một cuộc tấn công xuất quỷ nhập thần.

    Cầu Bến Lức thuộc tỉnh Tân An nối liền Sài G̣n với các tỉnh Tiến Giang và Hậu Giang. Do đó nó trở thành cây cầu chiến lược gần như cây cầu Long Biên Hà Nội.

    Đặng Vi Trùng là đội trưởng. Các đội viên gồm có: Niệm và Tân. Niệm là người Nam, Tân là người Bắc. Hai người này phụ trách đánh chân cầu phía Bắc tức là phía Sài G̣n.

    Họ đă ṃ mẫm nghiên cứu và chế tạo ḿn, tự kết cấu dây điện, cả kế hoạch kéo dài ba tháng. Họ được địa phương giúp sức. Xă đội trưởng là một nông dân người to lớn, bị Tây bắt một lần và trốn thoát. Tây lùng măi nhưng không kết quả. Tây gọi Monsieur Le Gros (cái anh to lớn) do đó có tên là xă đội “Gô.”

    Hằng đêm họ lên ngọn sông đội lục b́nh trên đầu và thả trôi theo ḍng nước để thử đột nhập vào chân cầu. Nhưng quanh chân cầu, ngay trên mặt nước có một sàn gỗ để lính đứng gác. Cứ mười lăm phút chúng lại rọi đèn quanh chân cầu và khắp mặt sông đồng thời ở hai đầu cầu đèn pha quét ánh sáng đi xa hơn. Hễ có giề lục b́nh nào trôi gần chân cầu là chúng xả tiểu liên bắn nát.

    Thế mà họ vẫn đánh sập được một chân, hỏng mất nhịp giữa. Xe cộ ngưng chạy mấy ngày liền chờ cầu nổi bắc xong mới lưu thông.
    Tôi tưởng khi ra Bắc th́ đội công binh này phải được tuyên dương như một tập thể anh hùng. Nhưng không chẳng ai được ǵ cả. Trung th́ được huy chương chiến công hạng ba. Nhận nhưng không đeo. Niệm đi nông trường cuốc gốc lim, c̣n Tân th́ về xă cày ruộng hợp tác ở Thái B́nh.
    Tôi đi t́m gặp lại họ để hỏi tài liệu viết lên một chiến công to lớn của Nam Bộ đồng thời cũng để nhắc cấp trên một việc không nên quên. Nhưng ở trên cho là lộ bí mật quân sự! (Lộ bí mật quân sự nhưng phải thưởng kẻ có công chứ!)

    Bây giờ gặp lại Trung, sách chưa in, tôi hơi xấu hổ, nên không dám nói thật. Nhà văn ǵ viết sách không được xuất bản (bất kể lư do ǵ) nên tôi đánh trống lảng:

    – Ông đi được Tháp Mười về, thấy t́nh h́nh như thế nào?

    – T́nh h́nh ǵ ?

    – Địch ta. T́nh h́nh dân vận, đại khái như thế.

    – Tôi ở đây luôn chớ về đâu nữa. Đây thuộc đất của tôi. Đây là ven Tháp Mười rồi, tức là I Hai.

    – Sao bây giờ gọi là I?

    – Tôi cũng không biết. Thấy ở trên bảo thế th́ hay thế. Lê Quốc Sản làm Tư lệnh. Mang hia leo lên bàn thờ một cách bất ngờ!

    – Trận nào ?

    – Không trận nào cả. Bị ruồng chết.

    – Chạy không thoát à?

    – Bây giờ không phải như thời chống Pháp đâu. Hồi đó nghe Tây vô Tháp Mười, ḿnh c̣n nấu trà uống đúng ba b́nh rồi đi bắt gà làm thịt, nhậu xong xuống xuồng đi, vừa chống xuồng vừa ca vọng cổ. Bây giờ không được ! Nghe nó tới là nó đă tới lù lù trước mặt kia rồi. Chạy th́ ăn đại liên từ trực thăng, không chạy th́ bị bù nốc xớt. Bù nốc là thứ ngặt nghèo nhất ông bạn nhà văn ơi. Nó bay như bông vụ quay, chớp mắt nó tới rồi. Nó dạn hít như gà vậy. Với tay đụng mà ! K54 bắn cũng rớt.

    – Sao không lia?

    – Úy trời ! Nó mà rớt một cái là tụi kia bu đen như chuồn chuồn, ḿnh không chạy thoát đâu. Rồi bom tới, cà nông thụt, rồi đổ dù, thằng nào dại lắm mới dám bắn trực thăng.

    – Ông bị lần nào chưa ?

    – Bị rồi.

    – Sao vậy ?

    – Th́ cũng mấy cha mùa Thu nhà ḿnh mới về chưa biết qui luật, thấy con bù nốc chúc đầu xuống ngoáy ngoáy cái đuôi như con mèo hụi chuột th́ tưởng dễ ăn, vác AK ra làm một loạt lập công chào mừng quê hương anh dũng cái chơi. Chiếc trực thăng bị thương nhưng bọn nó trả hỏa gấp một ngàn lần.

    Thằng phi công nhảy xuống đất nhưng ḿnh đâu có ló đầu ra khỏi miệng hầm mà bắt. Rồi trực thăng tới tḥng thang dây, nó leo lên. Kỳ đó ở trên cảnh cáo đơn vị bắn ẩu và cấm tuyệt không được bắn trực thăng ngoại trừ lâm trận.

    Trung tiếp:

    – Tôi có thể nói hồi kháng chiến chống Pháp , lực lượng ḿnh có một, lực lượng địch đến mười. Bây giờ lực lượng ḿnh vẫn một, lực lượng Sài G̣n đến một trăm.

    – Nó kèo trên dữ vậy cha nội?

    – Để vài hôm ông bạn bước xuống tới Long An Mỹ Tho rồi thấy.

    – C̣n Bến Tre nhà tôi th́ sao?

    – Cũng cỡ Mỹ Tho vậy.

    – Ở ngoài Bắc ḿnh nghe trận Ấp Bắc oai hùng lắm mà !

    Trung lặng im. Trời đen như mực. Đèn trực thăng chớp thay sao, bay qua lượn lại ở những vùng xa. Tôi không biết hướng nào là hướng nào nên hỏi:

    – Ấp Bắc ở chỗ trực thăng bay đó phải không?

    – Xa nữa cơ. Ở đây không đoán được đâu. Chịp ! Hồi kháng chiến ở Tháp Mười , tụi này bị một trận tổng ruồng kinh hồn. Cơ quan Bộ Tư lệnh dông sạch. Thiệt hại tám mươi phần trăm. Nhưng so với bây giờ, trận đó chỉ là tṛ chơi trẻ con. Ông xuống dưới đó thế nào cũng đi ngang qua Ấp Bắc. Rồi sẽ thấy. Không có một cái cây một mô đất nào không bị thương, lỗ bom không đếm hết nổi. Bom đ́a nay nông dân đă làm ao thả chà nuôi cá rô phi rồi, gọi là rô phi Ấp Bắc.

    – Bom đ́a là bom ǵ ?

    – Là bom tấn đấy, mỗi quả nổ phá một lỗ to bằng một miệng đ́a nên mấy bác nông dân ḿnh gọi là “bom đ́a”. Pháp ăn thua mẹ ǵ. Tôi không muốn làm ông bi quan đâu , để ông đến thực địa rồi thấy.

    – Nhà quân sự nói th́ chắc như bắp rồi ! C̣n trận Ấp Bắc ?

    – Đó là trận thử sức giữa ta và địch.

    – Kết quả thế nào ?

    – Nó găy hết dăm ba ngoe c̣n ḿnh rụng cả ngoe lẫn càng. Đừng có nói ra ngoài. Bí mật đấy. Đó là tiểu đoàn chủ lực mới thành lập. Sau trận đó c̣n non đại đội.

    – Trời đất!

    – Bây giờ đồng bào vùng Ấp Bắc bỏ đi sạch rồi. Ông đi qua đó sẽ thấy nhà không vườn trống.

    – Tại sao ?

    – Ngày nào nó cũng dội bom. Trực thăng đi qua bắn, đi lại bắn. Xe tăng ngoài lộ cái bắn vô. Phi thuyền ở Đồng Tháp bắn ra. Pháo Đồng Tâm nện bồi. Ḿnh thắng th́ cũng có thể gọi là thắng, nhưng thắng rồi không c̣n ǵ. Ban chỉ huy tiểu đoàn hi sinh hết. Chiến sĩ của ḿnh mới nhập ngũ nhưng rất gan dạ, bắn tới viên đạn cuối cùng chứ không chạy nhưng về đến căn cứ th́ trốn hết.
    Có phái đoàn Bộ Tổng Tư lệnh vô tận nơi nghiên cứu . Đồng chí trưởng phái đoàn thay mặt Bộ Tổng Tư lệnh khen ngợi chiến sĩ tiểu đoàn và đặt tên cho tiểu đoàn là đơn vị gương mẫu và được mang tên là “Tiểu đoàn Ấp Bắc” để đánh dấu chiến công này.

    Tôi nghe mà lạnh xương sống nhưng cố gượng:

    – Chắc tiểu đoàn này cũng cỡ với 307 hồi trước.

    – Làm ǵ có ! Nói cho oai vậy thôi, chứ đây chỉ là những anh du kích đôn lên, chưa quen trận lớn nên sau trận đánh ... những anh c̣n lại mất tinh thần. Họ không ngờ tụi Sài G̣n lại đánh ác vậy. Nó thả quân tiếp vận bằng trực thăng và tung hàng mấy chục xe lội nước lận mà. Nhiều chú du kích dông luôn không trở lại xă nhà nữa. Tiểu đoàn Ấp Bắc làm sao so được với 307 hồi trước !

    – Bây giờ cha nghĩ sao?

    – Nghĩ sao cái ǵ? . .

    – Đánh chừng nào mới thắng?

    – Chừng nào chừng, ḿnh cũng phải đánh chớ làm sao mà nói trước được.

    – Tôi thấy ngoài Trung ương “Khơi” lắm cha nội à! Nguyên một cái đường Trường Sơn thấy cũng đă bê bối lắm rồi. Ông biết đó.

    Trung hỏi tôi:

    – Ông Mật chết cách nào?

    – Bom trộm !

    Tôi kể lại vụ gặp cái gị heo treo lủng lẳng trên cành cây, cái ví có h́nh và đoàn cán bộ Nam Cờ bị bắt xuống Bác Kế , đă bất tuân thượng lệnh đi thẳng vô Ông Cụ cho Trung nghe. Trung kêu trời inh ỏi rồi nói:

    – Ở ngoài đó ḿnh bi lép quá cỡ ! Chậc! Bây giờ c̣n làm sao được. Phải chi ông ấy về tới trong này th́ tụi tôi bảnh biết mấy. Hai ổng là thứ rái lội nước ở vùng G̣ Dầu Thượng, G̣ Dầu Hạ, Bến Cát…

    – Chết lăng nhách !

    – Biết bao cái chết lăng nhách. Ông Tư lệnh I Hai nhà ḿnh cũng chết lăng nhách chứ có đáng ǵ cho cam. Chết như Đỗ Huy Rừa, Trung đoàn phó chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 307 hồi trước kia mới hiển hách, c̣n ông Sản chạy bịi trực thăng bắn chết ở g̣ đ́a.

    – Chậc! Không biết bà Minh hay chưa?

    – Bà Minh nào ?

    – Vợ ổng ở Hà Nội.

    – Chưa đâu. Ở đây c̣n không mấy ai biết nữa là ở Hà Nội .

    Chiều hôm sau giao liên tới đả thông một cách hùng hồn: “Đây là chặng đường sanh tử, dài dằng dặc tuy không nguy hiểm bằng vượt lộ Đông Dương và băng sông Cửu Long, nhưng phải đi một mạch từ sáu giờ tối đến sáu giờ sáng, nghỉ th́ chỉ đứng dưới nước mà lấy lại sức chứ không có bờ. Ai lạc th́ ráng chịu chớ giao liên không có trở lại rước. Các đồng chí nên cố gắng đi theo đừng để đứt đuôi.

    Nghe qua lời đả thông của ông trời con mà khách ớn cả xương sống. Tôi nh́n Tư Mô, Tư Mô nh́n tôi. Hai đứa không biết nói ǵ. Cái nguy hiểm là đi đêm. Mà lại không có đường. Toàn là đồng nước. Tôi đoán đây là Đồng Tháp Mười. Sự thực th́ tôi mù tịt, giao liên dắt đi th́ đi, bảo chạy th́ chạy, bảo ḅ th́ ḅ, không được hỏi đây là đâu và chừng nào tới.

    Tẩm bổ được mấy ngày với bộn bàng cá chạch lấu, cũng khá hơn ở Trường Sơn, c̣n đ̣i voi đ̣i tiên ǵ nữa.

    Hơn thế, ở đây thấy bắt đầu lố dạng quê nhà, phấn khởi vô cùng. Dù chết cũng ráng lết. Có một câu chuyện thần thoại , hồi ở ngoài Hà Nội tôi được nghe, kể cũng hay hay. Chuyện rằng có một cán bộ có tuổi khi về gần đến Bà Rịa th́ kiệt sức không ráng nổi nữa. Anh em trong đoàn bèn thay phiên nhau khiêng ông về đến ranh tỉnh Bà Rịa là ranh Nam Bộ và cho hay đă về đến quê nhà. Nghe thế, ông ta mỉm cười và tắt thở.


    Mai tiếp ....

  7. #4647
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN


    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Tôi đến chia tay Đặng Vi Trùng. Hắn dặn tôi theo kiểu ông Hai Tân:

    – Đi cho cẩn thận nghe “nhà răng.”

    Tôi cười:

    – Đi th́ đi chớ biết cẩn thận là sao?

    – Về tới Bến Tre, hú cho ḿnh một tiếng.

    – C̣n ông, nếu đánh được cầu Bến Lức cũng hú cho ḿnh một tiếng.

    Rồi đi. Trời bắt đầu nhọ mặt th́ đoàn khách – độ chừng hai mươi người – bắt đầu cuộc vạn lư trườn “śnh” . Tôi và Tư Mô muốn chắc ăn nên đi ở khúc giữa. Vị trí này th́ có vẻ an toàn, nhưng khổ cái là không được “đứt đuôi”, nghĩa là phải bám sát khúc trước. Ở Trường Sơn tôi đă làm đứt đuôi một lần. Đám khách sau tôi không biết đường đi tới, họ sân si đ̣i đánh tôi. Đánh th́ tôi chịu chứ không đi nổi mới đứt đuôi chớ ai muốn chi vậy.

    Tôi cố gắng lội dính theo đoàn. Từ chiều đến khuya, tôi vẫn giữ được cự ly tốt. Nhưng về khuya th́ đuối sức. Cứ phải nghe tiếng lội b́ bơm mà định hướng đi. Càng ngày cái khoảng cách giữa tôi và người đi trước càng rộng ra. Giao liên làm đúng lời tuyên bố của anh ta trước khi xuất phát nghĩa là đứt đuôi ráng chịu, anh ta không trở lại rước. Sợ sẽ xảy ra một vụ suưt bị đánh như ở Trường Sơn, tôi bảo Tư Mô:

    – Ḿnh nên đi chót anh Tư ạ !

    – Đi chót họ bỏ ḿnh làm sao ? Chú không nhớ giao liên bảo là nó không trở lại rước à?

    – Th́ đành vậy ! Chứ đi ở giữa mà đứt đuôi th́ những người đi phía sau ḿnh cự chết !

    Tuy không đồng tụt lại chót nhưng dần dần hai đứa cũng cầm đèn đỏ. Ở phía sau khách thấy chúng tôi đi chậm họ càn bừa lên trước. Bây giờ chúng tôi đâm ra lo. Nếu lạc đường th́ biết hướng nào mà đi ? Không khéo lại đâm đầu vô bót. Người ta không c̣n nhớ đồng chí đồng choé ǵ nữa. Cứ dẫm bừa lên nhau. Cứ nghe tiếng h́ bơm càng xa ra là tôi giục Tư Mô hoặc Tư Mô giục tôi lội mau lên. Lội Đồng Chó Ngáp này có mấy cái bất lợi. Một là nước sâu ngang bụng, ít khi ngang đầu gối. Hai là năn và cỏ dày quấn chân. Ba là gốc tràm lục nằm dưới bùn. Đạp có cái đau té sụm, nhưng phải ḅ dậy bương theo.

    Rồi lại mưa. Mưa giữa đồng hoang, gió rít nghe vô cùng man rợ, trời chớp nh́ nhằng như có hàng ngh́n con quái vật lồng lộn trên nền trời. Thân phận con người trở thành nhỏ bé, vô nghĩa. (Bây giờ ngồi viết những ḍng này, nh́n lại cái đoạn đường Chó Ngáp, tôi chợt nghĩ: Đảng Việt Cộng đă dắt nhân dân ta đi qua quá nhiều đồng chó ngáp ... mà rồi không đến đâu cả.)

    Lúc ở trên tiểu ban, Tư Mô có bảo tôi nên vơ trang bộ gị bằng đôi giày bắt heo để chống gốc tràm lục ở chặng đường này. Tôi cũng chọn lựa và quảy theo một đôi, nhưng vẫn không bỏ đôi dép Trường Sơn thân mến. Đêm tối ấy, tôi xỏ vô và lội thử th́ thấy không thể đi được. Nước múc vô đầy nhóc, bùn bám bốn bên, nặng như hia sắt, rút lên được th́ vướng cỏ năn, nên cuối cùng tôi vứt bỏ để lội chân không. Tôi hỏi Tư Mô:

    – Anh có đau chân không?

    – Thủng ít ra vài ba vít.

    – Giày anh đâu ?

    – Mắc kẹt dưới bùn, tôi bỏ luôn rồi.

    – Sao vậy ?

    – Ngồi đó mà moi họ đi mất.

    – Thành ra anh đi chân không à?

    – Chớ sao nữa. C̣n chú?

    Trời bắt đầu mưa to. Mưa như trời sắp sập xuống đầu, vuốt nước không kịp. Nh́n bốn phía, phía nào cũng tối đen, không có một ánh đèn biểu hiện sự sống. Không ai nói chuyện. Chỉ thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu hú của giao liên gọi khách, hoặc khách lạc kêu giao liên. Tư Mô coi vậy mà khá hơn tôi. Anh kéo ngọn c̣n tôi là kẻ cầm đèn đỏ sau cùng. Sức lực đă rơi rắc từ Trường Sơn vô tới R, c̣n đâu ! Chiếc ba lô thấm nước nặng như dồn ba tảng đá xanh. Lạy Chúa, xin cho con gục rồi chết ở đây luôn, chỉ mong Chúa nâng hồn con về quê nhà.

    Tôi nghe ră rời đến mức đả phải tự nhủ như vậy. Anh giao liên nhân đạo dừng lại trên một gân bờ lầy lội để chờ những người sau tới. Được đứng trong bùn ngập nửa ống quyển và không phải lội đi đâu là một hạnh phúc quá lớn đối với tôi. Mưa vẫn rơi như roi quất vào mặt. Ni-lông che trùm nhưng không ăn thua. Cả người lẫn ba lô không thứ ǵ c̣n khô. Có lúc lội qua đ́a bào nước lên tới mũi, phải lột ba lô ra làm bè như bụp lá. Mỗi lần qua đ́a đầm như vậy th́ giao liên cho dừng lại để chấn chỉnh đội ngũ.

    Đứng trên bờ nghỉ chân, Tư Mô móc thuốc ra hút cho ấm. Cả một vấn đề. Anh nhờ hai ba người đứng áng gió mới bật được hộp quẹt Zippo ra lửa mà đốt. Loại hộp quẹt này có cái chắn gió. Nếu là hộp quẹt thường th́ bật không ra lửa. Nhưng anh chưa đốt xong điếu thuốc giao liên đă quát:

    – Ai vô kỷ luật thế hả ? Trực thăng nó thấy nó tới là chết cả đám.

    Tư Mô đành vứt điếu thuốc mà không dám ho he ǵ. Nghỉ một chốc, anh ta quát thinh không:

    – Tiếp tục đi !

    – C̣n bao xa nữa đồng chí? Tiếng the thé của một người đàn bà xuyên qua mưa.

    – Không xa mà cũng không gần. Kỳ này phải giữ cự ly cho chắc.

    Tiếng một người đàn ông:

    – Báo cáo đồng chí giao liên có một nữ đồng chí yếu quá, không đi nổi .

    – Yếu sao không ở lại ? Anh giao liên quát ngay.

    – Dạ, công tác khẩn cấp mà đồng chí !

    – Khẩn ǵ mà khẩn dữ vậy? Rồi bây giờ đồng chí ấy ra sao?

    – Dạ ḅ hết nổi rồi. Nằm đằng kia.

    Ông cán bộ nào đó nói năng hết sức lễ phép. Tôi biết là ông ta nén giận để được sự giúp đỡ, nếu b́nh thường chắc anh giao liên ăn bốp tai.

    Anh giao liên hùng dũng đi về phía ông cán bộ chỉ. Một ánh đèn pin nhoáng lên. Chỗ đó cách tôi không xa, nên mặc dù qua màn mưa, tôi vẫn nh́n thấy một người nằm, tóc xơa ra trên tấm ni lông xanh. Cố nhiên là tấm ni lông trải trên bùn. Ánh đèn pin tắt.

    – Tôi không có trách nhiệm ǵ hết ! Anh giao liên tuyên bố.

    Ông cán bộ vẫn lễ phép nằn ń:

    – Xin đồng chí giúp đỡ chị ấy.

    – Giúp đỡ bằng cách nào bây giờ?

    – Chỉ đồng chí là có thể giúp thôi, chúng tôi là khách, biết ǵ mà giúp.

    – Bây giờ nằm ở đây, chốc nữa giao khách xong, tôi trở lại, nếu chị ấy khỏe th́ theo tôi trở về trạm.

    – Nằm ở giữa đồng mưa gió thế này th́ làm sao đồng chí?

    – Làm sao th́ làm. Nhiệm vụ của tôi là dắt khách không phải cơng khách.

    Cuối cùng đoàn khách vẫn đi. Chị cán bộ nằm lại. Ai cũng đau ḷng nhưng không ai ở lại được. V́ ai cũng phải đi Đó là nguyên tắc của đường dây từ Hà Nội vào đây, chứ không phải riêng ở đây. Ai đau cứ tha hồ nằm lại và tự do chết. Tôi đă từng nằm lại vài ba lần như thế này ở Trường Sơn .

    Giao liên nói là trời nói. Đâu phải đùa. Tôi không hiểu rồi chị cán bộ kia nằm lại cách nào trên đầu là mưa tuôn, dưới lưng !à bùn śnh và đỉa vắt, nhưng tôi không lo âu nhiều lắm v́ đă có bác Hồ ở ngoài kia lo rồi. Đêm nay bác lại không ngủ cho mà coi.

    Cuộc vạn lư trườn … śnh đạt mục đích cuối cùng. Đoàn khách đến một cái nền cḥi khá rộng, có thể dùng làm chỗ nghỉ chân cho trăm người , đất cứng chớ không đến nổi śnh lầy như nơi chị cán bộ nằm nghỉ.
    Ở đây khách được ngồi bóp, băng bó chân hoặc trải ni-lông ra đất mà nằm. Trời đă tạnh mưa nhưng c̣n gầm. Bạn phải vượt qua sáu, bảy tiếng đồng hồ lội , bương , liên tục dưới śnh lầy th́ bạ̣n mới có thể hiểu hết cái hạnh phúc đứng trên một g̣ đất cao và nghỉ ngơi nó to lớn vĩ đại như thế nào. Anh giao liên không nói ǵ cả. Cũng không ai hỏi ǵ. Sợ anh ta phát cáu.

    Tư Mô làm quen với hai ba ông bạn và cho họ thuốc hút. Cái ống quẹt Zippo tỏ ra có hiệu lực vô cùng. Một ngọn lửa bật lên giữa đêm đen có tác dụng như một ḷ sưởi. Một làn thuốc lá thoảng qua trong màn sương lạnh làm ta tưởng đến mùi trầm hương của Tiên Phật.

    Anh giao liên đến xin thuốc Tư Mô. Tư Mô rất hân hạnh tặng cho anh ta. Vừa bập bập điếu thuốc, anh ta nói:

    – Bữa nay dám ở dưới đó không lên lắm đa!

    – Ở dưới nào, đồng chí!

    – Ở trạm dưới. Anh ta cắt nghĩa tiếp :

    – Cái g̣ này là nửa đường đi. Tôi ở trên đưa khách xuống, tụi nó ở dưới dắt khách lên đây. Hai bên giao khách cho nhau rồi mạnh ai quay về trạm nấy.

    – À ra thế!

    – Chớ chú nghĩ coi, gị cẳng nào mà lội cho nổi cánh đồng này. Cứ vài ngày lội một chuyến. Quần áo ră hết. Móng chân tưa ra. Ở trên đâu có bồi dưỡng cái ǵ ngoài ba cây súng.

    Tôi bắt đầu lo lắng, nên hỏi phăng:

    – Nếu ở dưới không lên rồi làm sao đồng chí?

    – Th́ tôi dắt khách trở về để vài hôm lại dắt đi.

    – Trời đất! Tôi kêu lên.

    Anh giao liên hơi cáu:

    – Các chú đi có một lần, qua rồi thôi, c̣n tôi ở đây đi hoài mà!

    – Đă có xảy ra lần nào chưa?

    – Có chớ sao không? Hễ ở dưới bị chụp th́ nghẽn đường , đâu có dẫn khách lên được. Coi đường dễ đi vậy chớ không dễ đâu. Ban đêm mù mờ là dắt khách vô tuốt trong bót đấy.

    – Bộ có xảy ra rồi à?

    – Có chớ !

    – Rồi làm sao ?

    – Th́ nạp thịt cho chằng chớ làm sao?

    (Hồi chín năm cũng có một vụ long trời lở đất như thế ở Sài G̣n. Đâu khoảng 48-49 ǵ đó ban Công Tác Thành Sài G̣n Chợ Lớn của Việt Minh hoạt động rất mạnh. Ban này chuyên môn ám sát và bắt cóc. Tên đầu sỏ của nó là Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Thi. Một hôm Thi ngồi xe Jeep cho tài xế lái đi công tác trong nội thành Sài G̣n. Th́nh ĺnh tên lái xe chạy thẳng vào bốt Ca-ti-na nộp cho mật thám Pháp. Thi bị tù Côn Đảo tới 1954 mới được thả ra miền Bắc. Xin đọc hồi kư Củ Chi).


    Mai tiếp ....

  8. #4648
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Nhưng đó là một sự cố ư. Không biết ở đây giao liên có thực sự lạc đường không? Tôi cạch hỏi, th́ anh ta bảo:

    – Ai mà biết được. Nhưng chuyến đó ba chục khách bị bắt, một số chạy bị bắn chết.

    – Rồi thằng dắt đường đi đâu?

    – Đi đâu ai biết đi đâu !

    Anh giao liên đáp cộc lốc nên tôi không dám hỏi phăng tới nữa. Chờ măi không thấy bóng dáng trạm dưới đưa khách lên, anh ta càu nhàu:

    – Kiểu này th́ bỏ mạng rồi !

    – Ở dưới bị chụp hả đồng chí?

    – Chắc là vậy rồi !

    – Mỗi khi gặp sự bất thường ở dưới không cho trên này ám hiệu ǵ hết sao đồng chí?

    – Ám ǵ được mà ám. Phải như ở bờ sông bên này với bờ sông bên kia th́ c̣n quơ khăn được c̣n đây cách nhau cả “triệu” cây số mà làm sao quơ ?

    Vài loạt cà nông nổ xa xa, làm mọi người giật ḿnh. Anh giao liên bảo:

    – Đó là cà-nông Đồng Tâm. Mỹ Tho ở hướng đó đó.

    Nghe hai tiếng Mỹ Tho tôi thấy ḿnh gần lại quê nhà vô cùng. Hồi c̣n đi học hễ về tới Mỹ Tho qua Bắc Rạch Miễu là tới đất Bên Tre rồi. Bây giờ nghe nói đó mà không biết chừng nào mới lết tới. Chờ thêm một tiếng đồng hồ nữa vẫn không thấy tăm hơi của trạm dưới, anh giao liên bảo:

    – Bà con ḿnh chuẩn bị đi trở về.

    – Đi trở về hả đồng chí ?

    – Chắc là nó không lên được rồi.

    – Chờ chút nữa xem sao đồng chí.

    – Chờ th́ được, nhưng sợ sáng ḿnh bị ḷi lưng trực thăng nó xớt, thủy phi thuyền nó gắp như c̣ gắp cá cạn.

    – Rồi mai phải trở lại à, đồng chí !

    – Chớ c̣n cách nào nữa! Ai muốn đi về th́ về. Ai muốn ở th́ cứ ở ! . Anh ta nói xẳng giọng rồi lội đi.

    Khách lao nhao một lúc rồi cũng lội theo. Ai mà dám ở lại thi gan cùng bù nốc và phi thuyền. Đi ngang chỗ gần bờ lúc năy th́ thấy chị cán bộ c̣n ở đấy. Chị đă ngồi dậy. Anh giao liên ra lệnh:

    – Đồng chí nào khỏe th́ kè chị ấy. C̣n một đồng chí vác ba lô giùm.

    Nói vậy thôi, anh ta không cần biết có ai thi hành lệnh hay không. Thi hành hay không cũng đều không phải trách nhiệm của anh ta. Tôi cũng không quan- tâm đến việc đó nữa. V́ tôi cũng là kẻ không có trách nhiệm trong việc chị đi, chị nằm hay chị chết ở đó. Cũng như Nguyệt vậy. Nàng bị cây ngă đè, nhưng các ông Bộ Chỉ Huy ở ngay cạnh đó có trách nhiệm ǵ đâu. Ngay cả một lời chia buồn cũng không mà !

    Tôi và Tư Mô lại nằm ăn hút bên bờ sông Vàm Cỏ được vài ngày th́ có lệnh đi. Lần này th́ mọi việc suông sẻ nghĩa là hai trạm trên dưới gặp nhau tại cái nền nhà hoang giữa đồng. Chúng tôi đi theo anh giao liên để về Mỹ Tho. Thay v́ lội một lần Đồng Chó Ngáp th́ chúng tôi lội hai lần. Tinh thần cách mạng càng cao, chớ sao !

    Quê hương gần hơn trên đường đất. Tôi bắt đầu thấy xóm dừa và ruộng lúa. Nhưng sức đă kiệt. Lội suốt một đêm dầm ḿnh dưới nước phèn và nước mưa. Da móp như vỏ ṣ, chân bước lên ngọn năn nhọn không c̣n biết đau. Ở Trường Sơn có một chặng , lấy đường thủy làm đường bộ suốt một ngày. Con đường đó so với cái Đồng Chó Ngáp này, không biết cái nào ác hơn.
    Tư Mô c̣n dẻo gị cứ khuyến khích tôi: “Ráng lên chú. Chút nữa ḿnh nghỉ!” "Mắt tôi đă thấy lá dừa xanh ngăn ngắt kia rồi. " Ráng lên chú. Ở ngoài đồng ḷi lưng trực thăng đến nguy lắm."

    Tôi vẫn biết vậy, nhưng cặp gị đâu c̣n nghe theo ư chí của ḿnh. C̣n chừng vài bước nữa th́ tới mé vườn, nhưng tôi không tài nào lết được. Tư Mô coi lơ mơ vậy mà khoẻ hơn tôi. Anh bảo:

    – Chú cứ đi tà tà, để tôi vô trước lo cơm nước.

    Tôi ngă khuỵu xuống ngọn năn không cần biết ǵ nữa. B́nh nước đă cạn, sức cũng kiệt theo. Những người giỏi gị đă vô tới chân vườn từ lâu. Có lẽ họ đă cơm nước xong treo vơng nghỉ ngơi. Mặc kệ họ, tôi không cần. Nhưng ngọn năn đă mẹp xuống, lưng tôi chạm nước, thứ nước phèn bị nắng nung sắc lại chạm vào da rát như muối. Có một kinh nghiệm tôi được Đăng Vi Trùng phổ biến là khi cần nghỉ ở giữa đồng th́ lấy ní-lông trải ra rồi nằm trên đó. Người ḿnh sẽ lún xuống như nằm trong cái chảo, không bị ướt.

    Nhưng tôi không c̣n nhớ cái kinh nghiệm đó nữa. Đă ngâm nước suốt đêm rồi, bây giờ thêm chút nữa cũng chả sao. Nhưng ngọn năn yếu không đủ sức giữ tôi, cả người tôi bị ngập dần trong nước. Bạn có từng thấy ai ngủ dưới nước chưa? Nếu có th́ đó là nhà văn hồi kết Xuân Vũ.

    Tôi giật ḿnh thức dậy th́ thấy nước đă ngập tới cổ. Tôi đă ngủ một giấc thần kỳ. Trời nắng chang chang. Mặt trời lên cao mú. Da thịt xốn xang lạ lùng. Tôi cố nắm gốc năn ngồi bật dậy. Tôi sực nhớ cái kinh nghiệm và rút tấm ni lông trải trên đầu ngọn năn rồi gieo ḿnh lên đó. Như vậy, cứ yên chí lớn nằm phểnh ra ở giữa đồng, ḷi lưng nguy hiểm vô cùng. Chắc không ai có gan nằm như tôi vậy. Trực thăng qua lại, nếu trông thấy th́ sà xuống xớt như diều xớt gà. Tôi lấy tay lôi quặp những mớ năn ngụy trang lấy lệ. Mặc kệ, năm ăn năm thua.

    Vừa nằm tịnh dưỡng bắp thịt được một chút th́ lại nghe nước ngập lưng. Tôi ngồi quàng dậy. Một trũng nước đục và tanh ŕnh. Tôi quyết định một cách anh dũng không thèm nghỉ nữa, cuộn ni-lông và nhắm chân vườn trực chỉ .

    Đúng là cái Đồng Chó Ngáp. Chó ngáp mà cả người cũng hả họng. Tôi cố gắng tối đa. Tôi dùng tay nhổ chân lên và nhắc tới từng bước. Nghĩa là nếu không có tay, chân lún śnh không rút lên nổi. Và cứ thế mà trở thành Đường Thế Dân sa lầy. Bằng cách đó, tôi lết tới chân vườn th́ thấy Tư Mô ngồi trên vơng. Anh lột ba lô tôi xuống lấy vơng mắc ngay cho tôi ngả lưng. Trà đă châm sẵn trong bi đông. Anh bao giờ cũng thủ một chút pḥng thân chớ không như tôi khát là nốc hết. Anh nhường vơng, rót nước cho tôi. Tôi nốc một hơi rồi bật ra vơng mặc kệ tất cả, kể cả chụp dù. Nhưng Tư Mô bảo:

    – Nghỉ chút rồi đi !

    – Hả? Tôi la lên.

    Viết tới đây tôi nhớ Hoàng Việt, người bạn đường của tôi từ Hà Nội đến R. Giữa Trường Sơn lắm lúc đi không kịp đoàn, phát cáu, anh đứng lại, gục xuống gậy quát:

    – Ê mày Xuân Vũ ! Mày bảo tụi nó đứng lại chờ tao ! Tao không phải là súc vật mà đi không cho nghỉ, nghe chưa?

    Nếu anh lội Đồng Chó Ngáp chắc anh c̣n la to hơn. V́ ở Trường Sơn tuy vất vả nhưng có chỗ ngồi và chỉ có một con đường ṃn. Muốn nghỉ th́ cứ ngồi phệt xuống mà nghỉ rồi lọ mọ cũng tới nơi, không mấy khi lạc đường. C̣n ở đồng này, ngồi không được, đứng im th́ đỉa vắt c̣n nếu lọt lại sau th́ không biết đường đi, lạc loài giữa đêm tối, thật hăi hùng.
    Tư Mô nói tiếp:

    – Chú coi quanh đây, dấu chụp dù c̣n ràng ràng!

    – Hả? Tôi lại la lên.

    – Nó chụp hôm qua !

    Tôi tỉnh người ngay. Tư Mô nói:

    – Tụi ḿnh vậy mà may. Nều đi chuyến trước th́ xuống tới đây đụng tụi nó rồi.

    Tôi đâm ra sợ sệt: Về chưa tới nơi, bỏ xác dọc đường ! Dám lắm ! Thiếu ǵ người. Tôi hỏi:

    – Giao liên đâu?

    – Nó đi trước rồi.

    – Sao kỳ vậy ?

    – Nó đă bảo mà ! Chặng đường này nó không dừng lại chờ ai hết. Vừa đến đây nó thấy dấu “chụp” nó dắt khách đi tới điểm mới.

    – Rồi ḿnh làm sao?

    – Cứ ṃ đi.

    – Tôi hết đi nổi rồi.

    – Tôi cũng vậy. Nhưng phải rời khỏi chỗ này ngay.

    – Đây là đâu?

    – Chắc là Kiến Tường hay Mỹ Tho ǵ đó. Giao liên bảo là sau khi chụp, nó thường chơi pháo. Đôi khi nó chụp phát nữa. Tôi có hỏi đường tới điểm mới.

    – Xa không?

    – Giao liên bảo là cứ thẳng vô xóm nhưng xóm không có người. Quẹo trái hai phát rồi quẹo mặt. Thấy cây cầu găy th́ lội qua sông. Trạm ở bên kia sông.

    – Sông ǵ ?

    – Ai biết sông ǵ.

    Tuy muốn nằm vạ ở đây nhưng nghe nói, tôi cũng nổi da gà, nên không dám liều nữa. Uống thêm miếng trà rồi lom khom đi tiếp. Đường đi dọc theo một bờ cau. Những cây cau tơ bị thương nát ḿnh. Vết thương c̣n mới. Một miếng giấy dán trên thân cau bên đường. Tôi đưa tay gỡ lấy đưa lên mắt đọc: “Đù má Việt Cộng,” một quăng nữa, “Đả đảo Minh Râu” và “Hoan hô thằng chủ tịch hăm con nít. “ Tư Mô hỏi:

    – Giấy ǵ đó?

    – Tụi nó chửi ḿnh !

    – Chửi ǵ ?

    Tôi làm thinh, đưa mẩu giấy cho Tư Mô. Tư Mô không cầm v́ anh đang cúi xuống nhặt một bao thuốc Ruby Queen và bảo:

    – Thuốc chú ạ ! Tụi nó hủy của quá ! Hút mới nửa bao mà ném đi !

    Vừa dứt lời lại kêu lên:

    – Cái hộp quẹt Zippo!

    – Đâu nào?

    – Ở bờ mương ḱa. Chú giỏi gị nhảy qua lấy!

    Tôi tụt ba lô nhảy phốc cái qua liền, nhưng tôi khựng lại. Bên mương kế một xác người nằm dưới nước. Sợi thắt lưng bị đạn đứt đôi máu đỏ một vùng nước. Tôi nhảy trở qua, nói cho Tư Mô nghe.

    – Tử sanh hữu mạng chú ạ !

    Tôi cứ giật ḿnh mạng ḿnh lớn lắm. Nếu ông bà không cầm chân ḿnh ở lại trạm trên th́ bây giờ ḿnh nằm ở mương cau này hoặc vô khám lớn rồi.
    Như hai thằng què cô độc, tôi và Tư Mô không biết sợ ǵ nữa, cứ đi ẩu, tới đâu tới. Xóm thôn vắng ngắt.

    – Đây có phải là Ấp Bắc không anh ?

    – Không biết.

    – Hồi ở ngoài đó tôi có nghe Nguyễn Ngọc Tấn về tận Ấp Bắc để lấy tài liệu viết, tôi nôn quá! Kế đó lại nghe Nguyễn Văn Bổng đi tận Bến Tre ḿnh.

    – Đừng có nôn ! Xuống đó rồi lo mà nhảy nai chứ nôn ǵ !

    Hai bàn chân bị củi tràm lục đâm nát như xâm mứt, giày dép tuột mất hết, chỉ c̣n hai bàn chân trơn, bước trên đất khô lởm chởm, đau thốn tới óc, nhưng phải bặm môi mà đi, ngồi ở đây một phút chết một phút.


    Mai tiếp ....

  9. #4649
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    – Không biết ai nằm ở đó?

    – Ở đâu ?

    – Dưới mương cau !

    – Chắc không ai thấy.

    – Có thấy cũng không làm ǵ được!

    – Không biết mùa Thu hay mùa Đông?

    – Tôi gặp thiếu ǵ “ca” như vậy ở Trường Sơn ! C̣n ác hơn nữa cơ ! Nó leo lên cây treo vơng nằm rồi đi luôn, không có ai biết.

    – Người ḿnh sống thảm mà chết cũng thảm.

    Đến chiều chúng tôi tới trạm. Đúng lúc khách sửa soạn vượt qua lộ Đông Dương. Chừng mười người. Quân dân chánh đủ hạng. Anh giao liên với một giọng không vui vẻ chút nào đứng trên một thềm nhà hoang nói:

    – Nó mới phục kích đoàn trước. Chúng tôi định cắt đường mới, nhưng t́m không ra khúc nào vắng, thành thử cứ đi đường cũ.

    Mấy ông dân chánh nhát gan ở lại muốn chờ có đường mới bớt nguy hiểm hơn sẽ đi, nhưng các cha quân sự th́ hầm hầm bảo: “Bi nhiêu bi cũng phải qua cho khỏi lộ trong đêm nay.” Thế là đi.

    Tôi ngỏ ư với Tư Mô nên nằm lại nghỉ một chuyến v́ tôi biết cái phong cách qua lộ Đông Dương từ hồi kháng chiến chống Pháp rồi. Không phải chỉ vọt qua lộ là xong đâu. Vọt qua được rồi phải đâm đầu phóng bạt mạng không c̣n nhớ tên tuổi ǵ hết, đến chân vườn mới được ngừng. Với cặp gị đầy thương tích làm sao chạy? Giao liên nghe bèn quát:

    – Các đồng chí phải đi. Chúng tôi không nhận ai ở lại trạm hết. Chúng tôi sẽ dời trạm nội đêm nay.

    Đêm tối ngửa bàn tay không thấy. Cứ ṃ mẩm mà đi như những thằng mù. Giao liên đă dặn gắt gao: không được đứt đuôi. Không kêu la hoặc làm tiếng động, không hút thuốc. Như chiến sĩ ra trận, người ngậm thẻ, ngựa không đeo lạc. Cứ đi một chốc lại được lệnh ngừng. Hoặc ngồi xuống. Đây có lẽ là ấp chiến lược. Nên nhà nào cũng treo đèn trước cửa đề pḥng “ăn trộm.” Thỉnh thoảng lại nghe tiếng mơ cốc cốc, không biết là mơ của ai ? Đánh để làm ǵ .

    Đi cà lắc cà lắc như vậy cho tới khuya th́ được lệnh:

    – Chuẩn bị !

    Chỉ một tiếng đó thôi cũng làm cho tôi nổi da gà. Qua lộ bạc đầu. Qua cầu giảm kỷ là đây ! Nh́n ra phía trước thấy một làn gân đen vắt ngang nền trời xám xịt th́ biết đó là cái tử điểm ḿnh phải vượt qua: Lộ Đông Dương.

    Chỉ qua một lần thôi mà đă run đến phát rét c̣n giao liên th́ đi ra đi vào gần như hằng ngày. Đụng phục kích đưa ngực hứng đạn là cái chắc. Kháng chiến thành công, giao liên lùi vào bóng tối. Chỉ một vài nhạc sĩ nhớ tới họ thôi. Thời kháng Pháp, nhạc sĩ Hoàng Lưu có làm một bài “Anh Chín Giao Liên” rất hay:

    Ai có đến Trường Thành (Bà Đầm) có qua Cái Tắc (Thát Lác) đường về Đông Sơn (Long Nia).
    Thấy anh Chín liên lạc người ôm ốm đen đen, độ hai mươi ngoài đầu hớt chải cao.
    Mấy năm trời kháng chiến, gian khổ ḷng không nao.
    Mấy năm trời kháng chiến, anh dốc ḷng thi đua.
    Đêm tối gió mưa, trên chiếc xuồng ba lá
    Đầy công văn, anh chống, anh chèo, anh hát, anh ḥ
    Ngập t́nh yêu nước non
    Bàn tay anh chai ngắt, anh giết hết quân thù
    Mặt mày anh sạm nắng, cả đồng bào yêu anh
    Kia bốt, kia đồn, trầm chiếc thân cô đơn
    Vượt lộ băng ngàn, . . .


    Ngày xưa con lộ này không đến nỗi nguy hiểm như bây giờ. Thời đó, c̣n trẻ tuổi, tôi coi mỗi lần vượt lộ là một lần lập chiến công. Tôi đă từng qua lộ Cầu Trắng, từng đẩy xuồng chui qua cầu B́nh Thân (cũng là tuyến lộ Đông Dương) tuy có nguy hiểm, nhưng vui vui. Bây giờ th́ không. V́ tủy trong xương sống đă cạn, đầu gối đă khô chất nhờn, nhất là vừa qua Đồng Chó Ngáp.
    Xe trên lộ chạy không ngớt. Xe ở đâu mà dữ vậy? Cứ chiếc này qua, chiếc kia tới, đèn pha cứ vượt tới sáng ḷa trước mặt. Ngồi quan sát mà đái trong quần hồi nào không hay.

    Bỗng được lệnh tiến lên. Đám người nhổm dậy đi kḥm kḥm. Đúng là một lũ ăn trộm. Trên Trường Sơn th́ thay tên đổi họ, xuống đồng bằng th́ đi ŕnh ṃ ban đêm. Giao liên không c̣n ra lệnh nữa. Cứ sờ vào lưng người trước, hễ thấy họ đi th́ đi, họ dừng th́ dừng. Gốc rạ khua rào rào dưới chân.

    Dế gáy ren ren trong những mô đất. Bờ cỏ đă ướt sương. Mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ. Thấy người trước vọt chạy, tôi cũng phóng theo. Tôi trườn lên bờ và phóng chừng bốn, năm bước. Gan bàn chân chưa kịp có cảm giác ấm lạnh dường nào th́ đă tới bên kia, rồi nhào xuống ruộng. Chẳng ngờ chạy được ít bước th́ súng nổ.

    Cái lô cốt ở gần đó bắn vét dọc ven lộ. Đạn đi như tàn đuốc. Tôi đang rối loạn thần kinh th́ có tiếng kêu ở ven bờ: “Chú Hai.” Tôi quay lại. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy Tư Mô đang ở dưới mương. Không biết anh thấy không xong nhảy xuống đó để tránh đạn và kêu tôi nhảy xuống cho chắc ăn, hay anh trật chân té xuống mương, nhưng dù thế nào tôi cũng như cái máy đang chạy không “phanh” lại được. Tôi chạy thẳng một mạch vô vườn. Cũng may, lính ở lô cốt chỉ bắn chứ không đuổi theo. Nếu nó đuổi theo th́ nguy to.

    Độ gần sáng tôi mới gặp lại Tư Mô.

    Tôi hỏi:

    – Anh xuống mương làm ǵ ?

    – Tôi bị lọt xuống đó. Tôi đưa tay cho chú kéo lên mà chú chạy tuốt. Bộ không thấy tôi sao ?

    – Có thấy chớ. Nhưng tôi tưởng anh kêu tôi xuống để tránh đạn.

    – Tôi không thấy đường nên nhảy xuống đó. Bị bông súng quấn lên không được.

    – Tôi hoảng quá. Đâu c̣n hồn phách ǵ mà nghĩ tới việc cứu anh.

    Hai anh em ṃ mẫm đi bậy trong xóm. Té ra giao liên phía bên kia mép lộ không có sang qua bên này. Anh ta dắt khách ra gần đến đường, chỉ hướng rồi xua khách chạy qua. Mạnh ai nấy chạy đến chân vườn phía bên này th́ có người rước. Bây giờ lại không có ai rước cả. Có lẽ nghe súng, anh ta lẩn trốn ở đâu đây ?

    – Đạn nó bắn rớt trước mặt nghe ớn quá, chú.

    – Tôi đâu có để ư ǵ. Cứ chạy thả ga thôi.

    – Coi có mất giống ǵ không ?

    – Kệ nó, mất ǵ mất, miễn ḿnh c̣n th́ thôi.

    Cũng may, chập sau anh giao liên tới gom chúng tôi lại rồi dắt đi. Vừa đi, Tư Mô nói:

    – Tử sanh hữu mạng thiệt chú ạ!

    – Sao vậy?

    – Nếu ḿnh chậm chân th́ bị nó bắn vét rồi . Anh dừng lại rỉ tai tôi :

    – Chắc có vài cậu “nằm đường.”

    Chiều hôm đó đến bờ sông Cửu Long. Xuồng đă đến đây đậu sẵn hồi nào không rơ. Máy đuôi tôm hẳn hoi. Nước lớn ngập mé bờ. Nước đỏ au, cuồn cuộn chảy. Những giề lục b́nh trôi phăng phăng như những bầy thủy quái sút xiềng trồi lên mặt nước đi phá phách dân gian.
    Tôi bỗng nhận ra một anh bạn quen. Phát ! Phát ở xưởng phim Hà Nội. Tội nghiệp nó không phải người quay phim, không phải đạo diễn cũng không phải diễn viên xi-nê. Nó chỉ là thằng quản lư lo cơm áo gạo tiền cho đoàn quay phim mỗi khi đi quay bên ngoài. Vậy đưa nó về làm ǵ, tôi cũng không hiểu nổi.

    Mọi người đă ngồi dưới xuồng chờ nổ máy, nhưng hắn cứ đứng chết trân trên bờ. Anh giao liên thúc giục cách mấy hắn cũng không nhúc nhích. Trông nét mặt th́ biết hắn sợ. Hắn chưa lấy lại tinh thần v́ chết hụt đêm qua.

    Cái sợ của nó lây sang tôi. Anh giao liên hơi cáu trước thái độ của Phát:

    – Nếu đồng chí không đi th́ đồng chí cứ ở lại một ḿnh, tôi không chịu trách nhiệm.

    Phát đáp không chút suy nghĩ:

    – Đồng chí cứ đi !

    Thấy t́nh thế gay go, tôi bước lên bờ.

    – Thôi đi xuống ông nội ơi ! Làm ǵ mà sọc dưa vậy?

    – Ai đi cứ đi tôi ở lại chuyến sau.

    Hắn đi tới miền Tây. Tôi biết vậy. Từ đây về đó nếu không may th́ bỏ xác dọc đường như chơi. Càng về đồng bằng càng lội vào gai góc. Lúc nào cũng thấy cái chết chờn vờn trước mặt. Khách dưới xuồng mỗi người một tiếng, kẻ th́ thúc giục, người lại chê bai nhưng Phát không lay chuyển. Đang dang ca bỗng có tiếng máy x́nh xịch trên sông càng lúc càng gần. Anh giao liên quát:

    – Ho bo, hô bo !

    Mọi người ngơ ngác. Các ông cán mùa Thu có lẽ không biết hô bo là cái ǵ, nhưng thấy mấy người kia nhảy lên bờ th́ cũng nhảy theo và chạy tản vô vườn. Chập sau, tiếng máy xa dần. Anh giao liên mặt mày cắt không được hột máu, lắp bắp:

    – Nó đi tuần sông đó !

    Tư Mô hỏi:

    – Nó đi thường xuyên hay lâu lâu mới đi, đồng chí?

    – Không chừng, không đổi ǵ ! Nó muốn đi th́ nó đi.

    Một ông cán đeo K54 hỏi:

    – Không qui luật ǵ hết à?

    – Qui rùa ǵ đâu !

    – Không nắm được qui luật mà hành quân th́ ớn quá !

    – Nắm ǵ được mà nắm ?

    – Vậy cứ đi liều à?

    – Liều không liều, nhưng chắc th́ không chắc.

    – Trời đất! ông cán quân sự kêu lên :

    – Đi vậy khác ǵ chỉ mành treo chuông. Nếu ông kia không dùng dằng, ḿnh qua sông th́ đụng rồi.

    Anh giao liên nói tỉnh bơ:

    – Th́ vậy thôi !

    – Vậy sao được đồng chí !

    – Hô bo nó chạy lướt trên mặt nước nhanh như máy bay. Nó tới ḿnh không có né kịp.

    Tư Mô nói:

    – Nó vừa qua, ḿnh tém đuôi nó được không đồng chí ?

    – Tém th́ tém. Cái ǵ cũng may rủi hết.

    – Không có ai làm hiệu ở ngoài sông à?

    – Hiệu ǵ mà hiệu. Nó núp trong những lùm bần rậm, dùng ống ḍm canh chừng mà. Ḿnh lú ra là nó chơi. Có lần nó quào luôn một xuồng lớp bắt sống lớp chết. Ư mà thôi, nói tới nói lui tôi cũng nhợn quá ! Có đi th́ xuống xuồng. Ăn thua chỉ mười lăm phút thôi !

    Vâng! Mười lăm phút đó có phép làm cho đám ăn trộm này hăy c̣n là một đám ma bùn trên dương thế hay thành một lũ quỉ dưới đáy sông. Cuộc sống như treo dưới lưỡi gươm máy.

    Hồi kháng chiến, con sông này cũng đă bao phen nhuộm máu những người cán bộ lưu động: Bác sĩ Nguyễn Thiện Thành đă từng bị tàu Pháp bắn ch́m ghe trên sông này. Ông ta đeo be ghe. Tàu tới. Một tên Pháp giơ súng định bắn. Ông la lên: “Tôi là bác sĩ.” Tên Pháp ngừng tay và vớt ông lên đem về thành. Sau đó ông lại lén trở ra khu chống Pháp.

    Cuối cùng rồi chiếc đuôi tôm của giao liên vẫn chở khách tách bến. Không ai nói một lời nào. Tôi ngồi sau lưng Tư Mô nh́n thấy nét lo âu khủng khiếp trên nét mặt anh. Tấm lưng c̣m cơi của anh phập phồng. Chiếc cần cổ teo tóp của anh rụt xuống. Hai tay giăng ra nắm con ghe. Không ai nói ǵ. Mắt trố ra nh́n, dáo dác.

    Có lẽ không ai trông thấy ǵ ngoài những cây bần ngâm ḿnh dưới nước. Máy chạy êm ru. Xuồng từ trong khém đâm ra sông rộng. Anh giao liên bảo:

    – Mấy đồng chí ngồi trước ngó sang phải, mấy đồng chí ngồi sau ngó sang trái. Hễ thấy nước tỏa trắng đó là hô bo th́ cho tôi hay ngay. Không ai được lao chao. Chờ lệnh tôi.

    Anh ta chỉ lo việc lái xuồng. Ḍng sông hiện ra trước mặt, đỏ như pha máu.

    Ai đă từng đi qua sông Cửu Long Giang
    Cửu Long Giang sông trào nước xoáy
    Ai đă từng nghe tiếng tiểu đoàn
    Tiếng tiểu đoàn ba trăm lẻ bảy

    Mọi người mặc quần tiều cởi trần trong tư thế nhảy xuống sông lặn. Bao nhiêu dũng khí của thời kháng Pháp bị rơi rớt trên Đồng Chó Ngáp cả rồi. Tôi nh́n mút mắt. Chỉ thấy những chiếc ghe buôn trên sông. Ước ǵ ḿnh được đi thảnh thơi như họ.

    Tôi nói:

    – Chắc nó đi thẳng rồi đồng chí !

    Anh giao liên nói:

    – Nếu nó đi thẳng th́ nói làm chi. Sợ nó quay lại hoặc có chiếc sau đi tới.

    Chiếc xuồng vẫn nghếch mũi phóng sang bờ bên kia. Không xa lắm. Hàng bần ven sông hiện ra càng lúc càng rơ nét. Trong cái màu xanh kia đang ẩn núp những họng súng, có thể lắm. Chúng thừa biết chẳng có ghe xuồng nào đi như vậy. Chúng vừa uống bia với tôm khô vừa chờ chúng tôi ra giữa sông mới xả súng bắn rồi chạy hô bo tới xách ót từng tên lên.

    Tôi là bác sĩ . Tiếng la của bác sĩ Thành vang lên trong tâm khảm tôi. Bỗng anh giao liên chửi thề. Tôi không biết chuyện ǵ. Th́ ra máy hỏng. Cái đuôi tôm đang quay như gió bỗng chậm lại rồi ngừng hẳn như con cá bị chặt đuôi. Một luồng gió lạnh buốt tâm tư chạy khắp đoàn khách. Anh giao liên quát:

    – Lấy dầm bơi ! Rồi bật đuôi tôm lên quay ngược gác ra phía trước.

    Anh đóng cột chèo và tra chèo vào trong lúc đám khách quơ những cây bụp lá lót dưới ghe làm dầm bơi lia lịa. Chiếc xuồng loay hoay một lúc rồi tiếp tục trườn tới với tốc độ rùa ḅ. Sóng bắt đầu vỗ mạnh vào mạn xuồng v́ đă ra giữa ḍng nước xoáy. Thằng Phát ngồi chết trân. Hai tay nó ôm gối, đầu nó gục xuống không muốn nh́n ǵ hết. Nó lâm râm khấn vái. Không nghe rơ nó kêu ai phù hộ: Chúa, Phật, hay đức Huỳnh Giáo Chủ.
    Có lẽ đây là Vương quốc của Ḥa Hảo. Hồi 1948 tôi theo bộ đội vượt sông này ở khúc Cần Thơ để xuống miền Tây và bị bộ đội Ḥa Hảo chận đánh ở Bù Hút. Vị đại đội trưởng bị dân làng chém chết bằng dao trong trận đó.

    Thấy ghe đi chậm mọi người tự động dùng tay bơi tiếp. Tốc độ không tăng mà chiếc ghe lại cḥng chành. Sóng tạt ướt mặt. Nước vào từng chập. Một người ngồi gần lái cầm miếng bẹ chuối tát xành xạch như một thứ nhịp trường canh hướng về cuộc sống.

    Bỗng… Rắc ùm!

    Cây chèo trái của anh giao liên găy ngang. Anh chúi lủi thay v́ nhảy trên lưng khách anh lại nhào xuống sông. Loay hoay một lúc anh mới leo lên được. Và tiếp tục chèo một chèo. Anh chửi thề:

    – Đ.m. chèo mục, xui quá ? Rồi quát :

    – Bơi riết lên !

    Những chiếc dầm tay lại thọc xuống nước. Bỗng anh giao liên kêu lên:

    – Quên rồi !

    – Quên ǵ đồng chí ? Đám khách lao nhao hỏi .

    Anh ta không đáp, buông chèo ngồi xuống giở sạp lái rút lên một chiếc thùng móp méo. Anh mở nút rồi đổ vào máy. Th́ ra cái thùng xăng. Anh quay máy ra sau rồi giật. Máy nổ. Xuồng phóng nhanh. Đám khách cười ré lên. Một người nói:

    – Trời ngó lại !

    – Nhờ tôi van vái năy giờ ! Phát bảo.

    Tính lại thử xem, đến nay, trên đường qui cố hương, tôi đă qua bao nhiêu con sông, lạch suối ? Suối sông vô danh th́ không nhớ hết. Bên cạnh đó, những con sông hữu danh th́ bây giờ nh́n lại bản đồ mới thấy: Sông Bé, Sông Đồng Nai Thượng, Đồng Nai Hạ, Vàm Cỏ Đông, Sông Cửu Long.
    Thời kháng chiến có câu: Qua sông bạc đầu, qua cầu giảm kỷ. Tôi đă qua bằng ấy con sông với phương tiện vô cùng “hiện đại” như vừa thấy ở trên, nhưng hăy c̣n khá hơn những chặng đường Trường Sơn lắm khi chết hụt. Và tôi đă từng trông thấy một anh lính miền Bắc chết đuối , đồng đội không vớt được v́ không ai biết bơi.


    Mai tiếp....

  10. #4650
    tran truong
    Khách

    ĐẾN MÀ KHÔNG ĐẾN

    Nhà văn Xuân Vũ, sinh quán tại Mỏ Cày, Bến Tre, ngày 19 tháng 3 năm 1930, lớn lên trong một gia đ́nh nông dân từng học tại trường College Mỹ Tho. Ông theo chân cậu ruột, một nhà trí thức đi kháng chiến chống Pháp lúc 15 tuổi và gia nhập đoàn thiếu nhi cứu quốc dưới sự điều khiển của Trần Bạch Đằng. Được nhà thơ Tâm Điền tức nhà thơ vàng Xuân Tước cố vấn lúc ban đầu, ông Xuân Vũ đă đăng bài thơ đầu tiên lên báo ở Hà Nội năm 1947. Năm 1950 ông làm cho báo "Tiếng Súng Kháng Địch" của khu 9 và tập kết ra Bắc vào năm 1954 sau hiệp định Genève. Ông tham gia hội nhà văn (cùng khóa với Phùng Cung (có bài viết là Phùng Quán [Thực ra Phùng Cung và Phùng Quán là hai người khác nhau. Phùng Cung là tác giả "Con ngựa của chúa Trịnh", c̣n Phùng Quán là tác giả "Tuổi thơ dữ dội". Cả hai nhà văn đều vướng vào vụ án Nhân văn Giai Phẩm]) 1958. Năm 1965 ông vươt Trường sơn trở về miền Nam và đă ra hồi chánh Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1968.

    Ít ra , ông cũng để cho đời sau , biết rõ một phần sự thật trong cái gọi " xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước " . Mời bạn đọc xem , sự "thần thánh" của nó !!!!

    ................



    Cuối cùng rồi tôi cũng về tới Bến Tre. Mảnh đất đầu tiên tôi đặt chân lên là Thành Triệu hay Phú Túc ǵ đó. Lại phải vượt thêm một lần nữa sông Cửu Long. Bây giờ hết sông suối rồi nhưng gặp bom đạn tua tủa.
    Ngay buổi sáng, chúng tôi được chào mừng bằng một trận bom. Hai thằng chui đại xuống một cái hầm hoang ven đường khi phản lực đă trút loạt bom thứ nhất, tiếng miểng đạn bay veo véo bên tai. Tư Mô cũng như tôi không có kinh nghiệm trốn bom. Kháng chiến chống Pháp có bị trận nào. Nay bất ngờ nên lúng túng và chui ẩu. May mà có chỗ để chui. Ngồi dưới hầm nước ngập, tôi không hiểu ǵ cả. Cái h́nh ảnh một ông già Nam Kỳ lội Trường Sơn kiệt sức được đồng đội khiêng về đến ranh Nam Bộ th́ tắt thở – hiện lên trong đầu tôi.

    Khi dứt trận bom chúng tôi lóp ngóp ḅ lên. Mấy trái bom vàng lườm như cam Bố Hạ nằm lăn lóc trước miệng hầm. Nếu chúng không lười biếng, chịu khó lăn vài thước nữa ắt bơ cái công từ Mỹ được chuyên chở sang đây. Hai đứa chạy tránh ra. Anh giao liên, một cậu thanh niên non nhẽo cũng đă chui lên từ hang hố nào không rơ la thét trong màn khói:

    – Coi chừng bom bi. Coi chừng bom bi !

    Bom ǵ cũng coi chừng, đâu phải chỉ coi chừng bom bi ? Tôi đă biết loại bom này ở Trường Sơn rồi. Nó be bé xinh xinh như một món đồ chơi. Hai anh lính thấy một quả mắc trên cành, một anh lấy cây thọc xuống một anh đưa tay hứng như hái cam. Bom vừa rụng xuống cụp cánh lại và nổ. Bây giờ lại thấy cái thứ đồ chơi đó ở đây, không treo lủng lẳng trên cành cây mà lại nằm lăn lóc dưới đất.
    Hú vía! Trận bom b́nh thường. Nghĩa là kéo dài độ nửa tiếng đồng hồ. Không biết nó thấy cái ǵ dưới đất mà h́ hục đánh dữ vầy.

    Khi theo chân giao liên đi tới một quăng nữa th́ thấy một chiếc cầu xi măng sụp. Bên cạnh đó là một chiếc đ̣ máy đang cháy và ch́m dần xuống nước, khói bốc đen cả một khúc đường. Cảm giác đầu tiên của tôi khi đặt chân lên đất Bến Tre quê nhà là Hà Nội nói láo, Trung ương nói láo, Mặt Trận nói phét.

    Trước khi đi, ông Nguyễn Văn Vịnh, chủ nhiệm ủy Ban Thống Nhứt, đến nói chuyện th́ nghe rất xôm, nào ta đă giải phóng ba phần tư dân chúng, bốn phần năm đất đai. Bộ đội đi hành quân toàn bằng đ̣ máy.
    Từ R xuống đây toàn chui rúc trong rừng. Chỉ có một cái xóm nho nhỏ bán dăm bảy món hàng đón gió cho khách đi đường ở vùng Mỏ Vẹt, nhưng lại ở bên đất Miên. Khách đến đó mua sắm đồ vật chút đỉnh – chính yếu là kẹo bánh và gạo, cá khô, mắm để giằn bao tử- rồi mau mau trở về đất ḿnh v́ sợ tụi lính Miên bắt được tịch thu. Rơ là một lũ ăn trộm. Từ Hà Nội vô đây, tên họ cũng dấu kín, mua đồ cũng lén lút.


    Cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày nay không giống thời chống Pháp, bộ đội và cán bộ đi đến đâu đồng bào đón tiếp ŕnh rang, đăi đằng như đám giỗ. Bây giờ bộ đội cán bộ đi đến đâu nhà không vườn trống tới đó. Suốt hai ngày, tôi qua những trạm giao liên toàn đóng trong nhà hoang. Dân chúng lẩn tránh Giải Phóng. V́ Giải Phóng đi tới đâu phi cơ đại bác đến đó.

    Tôi đi qua những làng mà trong kháng chiến tôi từng đến. An Thành, Thành Thới, An Thới, An Định, B́nh Khánh, Phước Hiệp rồi Tân Trung.

    Thời kháng chiến tôi đóng vai tṛ cán bộ tuyên truyền, lúc đó mới mười bảy tuổi mà hăng vô cùng, nói chuyện trước đồng bào cứ tưởng ḿnh là đại diễn giả, v́ luôn luôn được vỗ tay. Tôi học nghệ thuật diễn thuyết từ trại huấn luyện của Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh của các anh Mạch Văn Tư, Trần Bá Hậu, Nguyễn Duy Hưng (cậu tôi). Bước chân lên tỉnh nhà th́ tôi nhớ ngay đến các vị này, những người thầy chính trị và nghệ thuật đầu tiên của tôi. Không biết bây giờ họ ở đâu. Từ ngày Le Roy chiếm toàn tỉnh Bến Tre, dân tôi lưu lạc xuống miền Tây tới bây giờ tôi không c̣n nghe ai nhắc nhở tới họ nữa.

    Những trang sử vẻ vang của tỉnh nhà đă được viết thêm nữa chăng? Tôi thấy niềm vui được trở lại quê hương thật là vô tận. Tôi nhớ những đồng hương bây giờ c̣n kẹt ở lại ngoài Bắc, nôn nả muốn về mà không được về , hoặc không về được.
    Hai năm như một giấc chiêm bao dài vô tận. Hiện lên trong tôi h́nh dáng xơ xác của ông chủ tịch tỉnh Bến Tre: ông Đốc Huệ ở Giồng Trôm. Khi biết tôi sắp vô Trường Sơn, ông khóc và bảo: “Tao chắc nằm lạ̣i ngoài.”
    Đi mấy ngày liền, gặp cán bộ cũng đông trên đường dây, nhưng không có một người quen. H́nh như không ai c̣n sống. Lớp chết đạn bom lớp tù tộ̣i, lớp chết trên đường về.

    Thôi, được về tới đây là hạnh phúc rồi !

    Khi anh giao liên dắt đoàn khách đi ngang ngă tư Cái Quao th́ tôi nhớ thời đi học Mỏ Cày vô cùng. Những hàng me ngày xưa không c̣n. Thằng bạn học cũ không biết bây giờ ở đâu? Không thấy nó đi kháng chiến. Từ đây mà lên Mỏ Cày có sáu cây số, thế mà không đi được.
    Đi một quăng nữa th́ tới chợ Cái Quao. Anh giao liên bảo đây là cái chợ Giải Phóng nhưng không ai dám tới đây mua bán ǵ. Chỉ vài ba mái lá xiêu vẹo, bên mấy cây me cháy nám đen và nhựa xám napalm dính đầy cành. Khách định ghé lại mua dăm món đồ dùng nhưng giao liên muốn bảo vệ khách nên giục đi mau.

    Đây là mảnh đất Giải Phóng nằm trong cái diện tích của Mặt Trận Giải Phóng kiểm soát đây chăng? Suốt trên đường đi tôi không thấy cái nhà nào c̣n nguyên. Những nhà giàu bị phá hoại thời trước không dựng lại được đă đành, nhà mới cất cũng không có, nhất là nhà vách gạch, nền đúc. Dân ḿnh mạt rệp luôn từ sau 45 không ai c̣n có thể cất loại nhà đó nữa.

    Đi ngang qua B́nh Khánh, tới nhà ông Đỗ Phát Quan, nghị sĩ Quốc Hội, nhớ nhà ông huyện Nghĩa và ông Chủ Xạ, những ngôi nhà vĩ đại nhất trong vùng mà ngày xưa tôi có đến chơi với con cháu của họ bạn học trường quận với tôi. Tất cả đều chỉ c̣n trơ lại những cái nền.
    Trong kháng chiến , Việt Minh phá nát, bây giờ Giải Phóng chui vào đống gạch vụn để trốn. Ngày xưa khi anh Mạch Văn Tư lên Thanh Niên Cứu Quốc Nam Bộ, anh Cao Thái Tôn lên thay th́ cơ quan Thanh Niên Cứu Quốc tỉnh dời về đây, đóng muôn năm trong vùng này để anh bào chế thuốc Nam bán lấy tiền nuôi cơ quan. Bây giờ tôi không t́m thấy vùng đất đó nữa.

    Đúng là một cuộc bể dâu.
    Qua B́nh Khánh đến Phước Hiệp. Ở đây có thằng bạn học trường quận, nghe nói nay nó làm tới tỉnh ủy. Anh nó là Xôi từng là cán bộ Thanh Niên Cứu Quốc, đi tập kết nhưng tôi không gặp.

    Qua hết Phước Hiệp đến Tân Trung. Tân Trung là làng cuối cùng trước khi tôi đặt bước chân lên quê ngoại. Đây là một làng nhỏ nhưng lại có nhiều người làm quan. Bước chân tới đây, người tôi gặp đầu tiên là một nàng độ chừng hai mươi tuổi. Tôi nhận ra ngay và kêu đúng tên.

    Hồi đi học trường quận tôi ăn trọ một nhà gần chợ, th́ cô bé mới biết đi lẩm đẩm. Hai mươi mấy năm qua… bây giờ tôi vẫn nhận ra một cách dễ dàng. Cô bé rất ngạc nhiên. Tôi bèn kể lai lịch cho cô nghe. Cô càng ngạc nhiên hơn nữa. Tôi hỏi thăm cha mẹ cô th́ mới hay ông bà đă qua đời. Hai mươi năm dù không có chiến tranh th́ cuộc đời cũng thay đổi nhiều , nữa là chiến tranh liên tục. Những con đường cái ngày xưa tôi đi không c̣n nữa. Tôi đi trên bờ ranh, trên lối ṃn, nhảy mương và lội ruộng.

    Đến trạm Giồng Cui th́ Tư Mô ở lại. Đây là mé sông Hàm Luông, một ngánh sông Cửu Long chảy qua tỉnh Bến Tre đổ ra biển. Trong ngôi cḥi xơ xác ở ven sông, Tư Mô trỏ đường nước cuồn cuộn chảy mà lắc đầu:

    – Tôi lại phải qua sông Cửu Long lần nữa.

    – Tôi ghé lại thăm nhà ít ngày rồi qua sau. Tôi phải qua tŕnh giấy giới thiệu của R cho tỉnh.

    – Thôi chú đi về nhà nhé. Gặp lại gia đ́nh xem sao. Gởi lời tôi thăm già Hưng.

    Chúng tôi bắt tay nhau sơ sịa nhưng ḷng thật ngậm ngùi. Tư Mô nh́n theo tôi bảo:

    – Rồi ḿnh sẽ gặp nhau, để bàn kế hoạch sáng tác.

    Ven sông là rừng rậm rạp không nhà cửa. Ngày xưa bọn ăn trộm trâu ở những làng Minh Đức, Hương Mỹ, Cẩm Sơn đều đem trâu ra đây giấu để sau đó làm thịt hoặc bán cho bọn lái ở bên Cù Lao Ốc. Người chủ bị mất trâu thường t́m được ở đây những tấm da.

    Bây giờ cách mạng dùng dăy đất này để làm căn cứ. Vô h́nh trung cách mạng gần với bọn trộm cướp hoặc đi trùng dấu của chúng nó.
    Từ mé sông vào đến giữa làng tôi phải đi trên một con đường vắng teo, rợn người. Mỗi bước chân đi như dẫm lên một kỷ niệm, mỗi hơi thở hít vào như nghe những ngày xưa làm rộn rực cả ḷng. Hai bên đường không c̣n nhà cửa.
    Dân tản ra ngoài đồng ở rải rác xa xa một cái nhà. Do đó ít khi tới lui và cũng do đó không c̣n t́nh lân xóm nữa. Ngay cả sự đi lại b́nh thường cũng không c̣n. Hễ ra đường là người ta dớn dác, hối hả như sợ việc không may xảy ra cho ḿnh.

    Tôi đi một chập lâu th́ đến một gân đường phóng qua ruộng về phía Cái Quao. Tôi sực nhớ ra đây là lộ Thợ Điếc. Ngày trước khi ở cơ quan Thanh Niên về thăm nhà tôi thường đi đường này. Nó rộng lớn xe ḅ đi được, bây giờ chỉ là một bờ ranh. Cách đó không xa là ngă ba Tân Trung. Ở đây đă từng xảy ra một trận đánh phục kích của phân đội Nguyễn Thái Học, giết hai Pháp, ba Việt gian. Vậy mà bản tin in trên tờ thông tin tỉnh tôi đă chép lại từng chữ một để đi tuyên truyền.

    Những cây c̣ng sum suê hai bên đường từng mang những thông cáo cách mạng ra lệnh bất hợp tác với giặc Pháp, kư tên chi đội trưởng chi đội 19 Đồng Văn Cống.

    Tất cả đều không c̣n. Thời oanh liệt của dân vùng này đă biến mất. Cỏ cây như ngậm ngùi trong vắng lặng mênh mông. Lâu lâu mới nghe một tiếng gà đơn độc như nhắc cho tôi rằng trong cái chết vẫn c̣n sự sống.

    Ngày xưa ở tại ngă ba này có nhà xe ngựa của ông Ba Đệ. Mỗi lần tôi từ nhà ra thăm ngoại tôi th́ tôi thường được đi cùng cậu tôi lên thăm bà cụ ngoại tôi trên làng Cẩm Sơn. Tôi chỉ phải đi bộ một khúc ngắn từ nhà lên đến đây, rồi ngồi xe ngựa chạy toong toong trên đường đá đỏ. Chỉ chừng bốn cây số thôi nhưng quả là một cuộc du lịch kỳ thú.
    Bà cụ ngoại tôi đă tám mươi tuổi nhưng c̣n đọc được chữ mà không mang kiếng. Bao giờ tôi lên thăm cụ cũng cho tôi ít nhất là một đồng bạc trắng hoặc năm, sáu đồng hai mươi xu gọi là “góc tư.” Tôi túm vào khăn mù-soa xoắn lại và cầm bo bo trong tay. Với số tiền to lớn đó , tôi và cậu tôi thừa sức thuê một cỗ xe ngựa khác về nhà.

    Gần ngă ba, ở phía trong vườn là nhà dượng tôi. Hồi đó ông làm thôn trưởng. Tôi khéo léo hỏi ḍ anh giao liên th́ được biết hiện giờ ông đang làm cai tổng, gọi là Tổng Cường. Nhưng tôi không nôn nao v́ tôi có hai mươi năm thâm niên cách mạng. Nó đủ bảo đảm cho lập trường của tôi. Tuy vậy tôi cũng tự nhủ thầm: Sao người thân của ḿnh mà ḿnh thấy xa cách ?

    Càng đi vào mảnh đất quê hương yêu dấu tôi càng ngẩn ngơ. Không c̣n ǵ cả. Cả ngôi nhà thờ đồ sộ ngày xưa tôi vẫn thường đến đọc kinh cũng đă biến mất. Cách đó không xa là hai cái ḷ rèn ở ngay đầu cầu gọi là Cầu Vĩ bắc ngang qua rạch Tân Huề. Hồi cách mạng mới nổi lên, hai cái ḷ rèn này đă sản xuất vô số dao găm, phi tiêu, đoản kiếm cho dân quân cách mạng. Bây giờ cũng không c̣n thấy nữa.

    Tôi phải khó khăn lắm mới t́m được lối đi . Ở đầu cầu này năm 1946 anh Hoàng Trọng Liễn, một cán bộ xuất sắc của Thanh Niên Cứu Quốc quận Mỏ Cày, em ruột của giáo sư Hoàng Ngọc Bích đă bị Pháp đuổi bắn chết. Cách đó không xa , là nhà của ông Lâm Thiên Tứ, một đại địa chủ trong vùng cũng đă bị tên đội Định ở bốt Cầu Mống bắt cùng với người con trai là Lâm Thiên Trường đem về chợ Cầu Mống trói vào gốc cây bắn chết và không cho gia đ́nh lấy xác. . .

    Những cái chết vô cùng oanh liệt ấy đă mở đường cho cách mạng tiến lên. Tôi đă rời xa con đường đó từ thời thiếu nhi đến bây giờ mới quay về được. Bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ lẫn kỷ niệm kháng chiến bừng dậy trong đầu. Chân run rẩy bước nhanh, mắt phóng nh́n bốn phía vườn hoang. Không một bóng người thấp thoáng. Ngôi chợ làng không c̣n một cửa tiệm nào. Tất cả đều hoang tàn lạnh lẽo. Ngôi chợ đầy kỷ niệm ấu thơ của tôi chính là ngôi chợ Tân Hương này.

    Ở đây có ông Chệt già tên là Thầy Thẹo. Ông là người bạn thân của tôi và cậu tôi. Ông lùn tịt, có cặp mắt kèm nhèm ti hí như không bao giờ mở rộng ra nhưng không bao giờ để lọt một đồng xu hay một hạt đậu. Cái đầu của ông trông như một chiếc gáo dừa gọt nhẵn, c̣n cái trán mang những nếp nhăn như một mảnh ruộng bừa và ở giữa có một vết cắt to bằng trái ớt sừng trâu dựng đứng.
    Ông vừa bán tạp hóa lạ̣i vừa bắt mạch hốt thuốc Bắc. Những kệ tủ của ông đen đúa dơ bẩn và cũ x́ chứng tỏ rằng ông đến đây lập nghiệp đă lâu. Vừa mang thẹ̣o lại vừa hốt thuốc Bắc, nên ông được người ta gọi là Thầy Thẹ̣o. Hồi c̣n bé thơ, có lẽ không ngày nào là tôi không đến chợ này. Đi mua nước mắm dầu lửa, mua đậu phộng, đậu xanh, mua nhang, đèn cầy, đặc biệt là giấy bạ̣ch và nhợ̣ để thả diều. Ở chợ cũng có nhiều tiệ̣m khác, nhưng tôi và cậ̣u tôi chỉ đến tiệm Thầy Thẹ̣o.

    Mỗi lần thấy tôi, ông đều xoa đầu khen đáo để. Bất cứ tôi mua ǵ ông cũng bán rẻ hơn người khác, và lần nào tôi cũng được ông thưởng cho một cục kẹo dừa, tôi lộ̣t ra ngay ngậ̣m về đường.
    Ở kế tiệm Thầy Thẹo là tiệm của một ông Chệt trẻ , hiệu là Anh Kư. Không biết tại sao có lần tiệm này phát cháy , nhưng nhờ ở gần mé sông nên chữa lửa dễ dàng. Nhà lồng chợ, nhà việc, bến sông đều rất thân mến đối với tôi. Những buổi sáng đang ngủ bỗng nghe trống và phèng la văng vẳng, tôi và cậu tôi vùng dậy vừa dụi mắt vừa chạy sang chợ. Biết bao nhiêu tṛ mị thuật kỳ thú , tôi được xem ở ngôi chợ làng này.

    Một lần tôi được xem gánh Tiểu Lực Sĩ. Tiểu Lực Sĩ không làm tṛ mà chỉ biểu diễn bắp thịt gọi là luyện nội công. Ông hót bụng vô và đưa tay chẹn ngang eo ếch , th́ những đầu ngón tay vừa đụng nhau. Ông hít thở ph́nh ngực rồi vận chuyển bắp thịt con chuột chạy ra phần trước của cánh tay, rồi cho nó chạy trở lại chỗ cũ. Xong lại chuyển vận bắp thịt ngực, làm cặp vú vun lên như vú đàn bà và nhúc nhích. Cả bọn con nít lẫn người lớn đều cười khoái trá.

    Nhưng chưa hết, ông c̣n bẻ sắt. Những cọng sắt dài hai tấc to bằng ngón tay út được ông cầm lên và bóp cong lại thành h́nh chữ U rồi đưa cho mọi người xem có phải là sắt thiệt hay không.
    Ông lại c̣n bịt vải một đầu que sắt rồi đút vào răng, nạy cong rồi bóp, ném xuống đất nghe leng keng. Ông Tiểu Lực Sĩ c̣n cho biết ở Vĩnh Long ông đă từng nằm trên đường cho chiếc xe hơi chở ba mươi người cán ngang ngực ông. Để chứng tỏ phần nào về sức chịu ghê gớm của bộ ngực, Tiểu Lực Sĩ dùng một thanh sắt dẹp đập liên tiếp năm, sáu phát vào ngực làm cho thanh sắt cong ṿng.

    Những hồi trống chiêng của những gánh Sơn Đông Măi Vơ ngày xưa như c̣n vang đâu đây hay trong ḷng tôi. Cứ mỗi bước chân đi .... tôi lại như bắt gặp một kỷ niệm ngày xưa hiện về. Mặt đất không c̣n ǵ nữa ngoài cỏ rậm và những hố bom, vết đạn, nhưng ḷng tôi cứ tươi non như một tàu lá chuối xanh. Tôi bắt gặp lại Tôi vài chục năm trước.

    Chiếc cầu sắt gần chợ vẫn c̣n đứng đó như bộ xương con khủng long ngă gục xiêu vẹo. Nhịp giữa bị cách mạng đánh đứt ngang hồi đầu thời kỳ chống Pháp nay được thay thế bằng một thân cây dừa cũng mang nhiều vết đạn. Ngày xưa ở dốc cầu này có một bà cụ ngồi bán những trầu cau , vôi , thuốc , bánh ít , bánh tét trong một cái quán nghèo nàn.

    Tôi không bao giờ chú ư hoặc ghé lại đây mua bất cứ món ǵ, nhưng bây giờ chiếc quán và bà cụ lại hiện rơ lên trong đầu tôi. Giá chiếc quán c̣n đây tôi sẽ ghé lại mua bánh ăn và xin nước uống.

    Cỏ mọc lên quá lưng quần, tôi phải đưa tay rẽ lấy lối. Không có ai lai văng quanh đây. Tôi như con trâu bị kẻ trộm mang đi xa .... sút dây trở về chuồng cũ, nên vẫn c̣n nhớ đường. Tôi phải khó khăn lắm mới đi qua nhịp cầu giữa được v́ tay vịn không c̣n nguyên. Nó đă bị một viên đạn hay một mảnh bom nào xén ngang găy ĺa c̣n nằm lung lơ, mỗi bên một khúc.

    Bên kia đầu cầu là một bụi tầm vông to um tùm che cả cái quán cóc của ông Tám Cần. Cái quán này phong phú hơn cái quán của bà cụ v́ nó nằm ở ngă ba đi về làng Hương Mỹ quê tôi. Ở đây tôi thường mua những miếng đu đủ chín hoặc dưa hấu vừa đi vừa ăn. Đây là mảnh đất tưới đầy nước mắt của tôi và có lẽ bụi tầm vông kia xanh tươi là nhờ những ḍng nước mắt đó. Mỗi lần băi trường, tôi ra nhà ngoại tôi chơi, đến lúc về, th́ ngoại tôi theo tôi đến đây, bịn rịn măi mới để tôi đi.

    Bây giờ ngôi quán kia và bụi tầm vông không c̣n để lại dấu vết ǵ ! Con đường đất nối liền hai làng Minh Đức và Hương Mỹ từng in dấu chân tôi nay đă trở thành rừng hoang. Tôi cứ đi thuộc ḷng. Tim tôi như ḥn than bừng đỏ . Sự nóng ḷng thấy lại cảnh nhà ngoại tôi làm cho tôi tuôn bờ lướt bụi bất kể gai góc.

    Tôi ra đi kháng chiến từ đây và bây giờ tôi trở lại nơi đây , như một tên cường đạo hoàn lương với tội lỗi được chính ḿnh nh́n nhận. Tôi tưởng tôi đi trên mảnh đất nào khác không phải quê hương ḿnh.

    Không c̣n nhớ ... đó là vào buổi chiều hay buổi sáng nữa. Tôi đă gặp lạ̣i ngoại tôi đứng trước một căn cḥi lụp xụp thấp lè tè như một cái chuồng vịt hẫng. Tôi kêu lên:

    “Ngoại!”


    Mai tiếp ....

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 3 users browsing this thread. (0 members and 3 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •