Page 385 of 471 FirstFirst ... 285335375381382383384385386387388389395435 ... LastLast
Results 3,841 to 3,850 of 4709

Thread: SAIGON THUỞ ẤY ...

  1. #3841
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    CHIẾC XÍCH LÔ CHỞ MÙA XUÂN


    1
    Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nh́n những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, ḷng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách th́ coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa

    Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, v́ phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân – những ngày tháng cũ trước 75 – anh đă gặp “người yêu lư tưởng” của ḿnh và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm.

    Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ văng tan theo khói thuốc, th́ anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nh́n. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (v́ chỗ này thuộc phạm vi “lănh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

    “Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt ḿnh lên xe thong thả nói:

    ”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

    Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”

    “Đúng!”

    Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên ṣng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.

    Cô khách đáp: “Tôi sẽ trả anh như đă trả cho những người trước anh.”

    “Nghĩa là…?”

    “Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”

    “Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

    Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi năy:

    “Nghĩa là…?”

    “Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

    Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói ǵ.

    Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đ̣i, thế mà khi trả tiền c̣n nằn ń xin thêm. C̣n anh xích lô này th́ lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

    Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:

    ”Cô đă biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:

    “Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

    Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:

    “Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đă dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.

    “Cô ăn được cả nước mắm?”

    “Cũng hơi… khó chịu một chút lúc đầu.”

    Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:

    “Tôi hơi ṭ ṃ, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”

    “Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”

    “Cô tới đây lần đầu?”

    Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân h́nh thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc robe xuyến hoa văn xanh đậm thật trang nhă. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xơa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tṛn lẳn gợi cảm. Tân cũng đă có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân th́ nhan sắc cô nàng ở mức trung b́nh nhưng khá quyến rũ và h́nh như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.

    “Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.

    Khách khẽ gật.

    “Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. th́ cũng tiểu bang nào vùng đó.”

    Lần này cô nàng ngoái hẳn ḿnh về phía sau nh́n Tân:

    “Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

    Tân hóm hỉnh cười:

    “Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lư tưởng mà các cô gái mơ ước.”

    Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động b́nh dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi c̣n biết cả nịnh đầm với món “vơ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:

    “Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte tiểu bang North Carolina. Lớn lên đi học và sống ở Washington DC.”

    Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món ǵ đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.

    “Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”

    “Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:

    “Cô đă vào Chợ Lớn chưa?”

    “Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”

    “Cô đă đến Hồng Kông?”

    “Tôi đến đó hồi c̣n là con nhóc đi với bố mẹ.”

    Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:

    “Xin lỗi, cô đă lập gia đ́nh?”

    “Phải, tôi đă lập gia đ́nh gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

    Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, sau cặp kính mát nhạt, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nh́n vào cơi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hăi kêu lên v́ tưởng nó đâm nhào vào ḿnh. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:

    ”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:

    “Tưởng ǵ, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”

    “Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

    Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:

    “À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”

    “V́ tôi đă ở bên đó và có mua tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”

    “Ồ, anh đă ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”

    “Tôi đi học.”

    Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:

    “Đi học? Th́ ra anh sang Mỹ du học!”

    “Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

    Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đă từng là sỹ quan Không Quân và đă sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, ḍ đường:

    “Anh sống ở Mỹ lâu không? Tiểu Bang nào nhỉ?”

    Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đă tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:

    “Tôi học lái máy bay tại Pensacola tiểu bang Florida vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”

    “Anh c̣n nhớ tên khóa huấn luyện?”

    “Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với toán Pilot Hải Quân Mỹ.”

    Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.

    Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ư một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nh́n những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:

    “Họ chắc không phải là người Việt?”

    “Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Ḥa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”

    “Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”
    Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. V́ thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân căi:

    “Tôi không đồng ư với cô. Người ta đă dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”

    “Tôi nghĩ với Cộng sản th́ chỉ có thể dùng vũ lực.”

    “Dùng vũ lực, Mỹ đă thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

    Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lư, chiến tranh, ḥa b́nh, cộng sản, tư bản… quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa băi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon c̣n nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đă lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ ḿnh như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:

    “Năy giờ tôi cứ thắc mắc măi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại… lại đi đạp xích lô?”

    Tân ph́ cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết ǵ về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:

    “V́ tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”

    “À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”

    “Gần mười năm.”

    “Trời! Anh được tha lâu chưa?”

    “Mới sáu tháng.”

    “Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”

    “Tất nhiên. Chúng tôi đă trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”

    “Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ư chí quật cường, về truyền thống tranh đấu…”

    Tân cười nửa miệng:

    “Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

    Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ th́ cô khách Mỹ đă bước vào trong khách sạn.

    C̣n tiếp ...
    Last edited by Tigon; 10-01-2017 at 10:32 PM.

  2. #3842
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi – Tự Do đă nh́n thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.

    “Hôm nay cô muốn đi đâu?”

    “Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều th́ giờ để tṛ chuyện với anh.”

    “Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

    Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ư kiến ǵ, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đă nghèo khổ mà lại c̣n chê tiền?

    C̣n Tân bây giờ mới nh́n thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền ḥa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ ḿnh xưa nhận xét thật tài t́nh tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ư muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:

    “Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”

    “Tốt thôi, không có ǵ đáng phải bàn căi!”

    Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:

    “Cho chắc ăn!”

    Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, c̣n kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”

    “Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ th́ cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc ǵ cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đă tới mức ăn cướp th́ họ đâu c̣n sợ cái ǵ. Lăo Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”

    Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi th́ bị mắng trả tục tĩu. C̣n cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho ḿnh, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn c̣n lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đă bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:

    “Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

    Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nh́n trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:

    “Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”

    “Có chứ! Bạn cùng khóa th́ nhiều lắm, nhưng thân thiết th́ chỉ một hai người.”

    “Anh c̣n nhớ tên?”

    “Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng ǵ với lăo Tổng Thống Jimmy Carter không!”

    Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

    Tân vỗ vỗ trán như gọi những h́nh bóng cũ trở về:

    “Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng th́ đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.

    ” Cô khách Mỹ chăm chăm nh́n thẳng vào mặt Tân như quan sát, như ḍ xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:

    “Sao, nếu tôi đoán không lầm th́ có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.
    ” Cô khách không trả lời. Cô lơ đăng nh́n sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng ǵ đó, Tân nghe không rơ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.

    “Anh hút thuốc ǵ mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.

    “Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quư đấy cô ạ! Chúng tôi c̣n hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa ḱa!”

    “Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để c̣n giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”
    “Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là ḿnh sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh b́nh yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhă. Nếu như người Mỹ của cô th́ ít ra cũng chết nửa nước.”

    “Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đă làm?”

    “Tôi c̣n cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi c̣n con nhỏ mới sinh.”

    “Bây giờ chắc con anh đă khá lớn. Thế c̣n vợ anh? Chị ấy vẫn một ḷng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn t́nh nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, c̣n trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.

    ” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”

    “Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ư khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi ṭ ṃ, thế anh có oán hận người vợ không?”

    “Cô ấy c̣n trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có ǵ mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.

    ” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.

    “C̣n cha mẹ anh?”

    Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy ḷng:

    “Cha mẹ tôi đều mất khi tôi c̣n ở trong tù!”

    Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế c̣n đứa nhỏ?”

    “May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra th́ cũng c̣n có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.

    Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nh́n cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nh́n Tân nói:

    “Tôi tên Jacqueline Hunter. C̣n anh?”

    “Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Ḥa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”
    Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:

    “Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra t́m được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết ḷng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”

    “Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà…. Hẻm… Đường…. Thành phố Saigon.”

    Họ c̣n ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ư mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:

    “Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.

    ” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”

    ”Không, đây là một tấm ḷng. Anh hăy nhận lấy ở đây một tấm ḷng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:

    “Tạm biệt Tân, người bạn mới quư mến của tôi.”

    Tân nh́n tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng ḿnh bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn:

    “Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

    Nhưng Jacqueline đă mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gă xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:

    Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

    Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:

    “Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”

    “Cái ǵ?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”

    “Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

    Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:

    “Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”
    Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:

    “Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở th́ hăy chuồn mau đi, không nó đổi ư ra đ̣i lại, th́ chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

    Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm răi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” măi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần ǵ cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho ḿnh cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm ḷng? Dù có là ǵ đi chăng nữa th́ sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

    Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác ǵ tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quư hóa: Tôi rất trân trọng tấm ḷng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đă có ân t́nh nghĩa trọng ǵ. Cám ơn ḷng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung ṇi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

    Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đă đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn c̣n nằm trong đó. Chín giờ đă tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp ḿnh kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:

    “Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

    Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:

    ”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.

    Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:

    “Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”

    Cô kư tên một chữ tắt “J”.

    C̣n tiếp...

  3. #3843
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    2
    Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do có ư chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời ḿnh chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này th́ đúng là “thảm vô cùng” rồi, c̣n chờ c̣n mong ǵ nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” – tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đă về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, c̣n bướm th́ vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi ḿnh về để đ̣i đây. Số tiền Jacqueline cho anh đă tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày th́ chị chủ nhà đă tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:

    “Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:

    “Tin vui? Tôi làm ǵ có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

    Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:

    “Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lănh quà từ Mỹ gửi.”

    Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ v́ anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt.

    Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:

    “Sao? Quà của ai gửi vậy?”

    Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi kư. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:

    “Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

    3

    Washington DC. ngày… tháng… năm….

    Tân thân mến,

    Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đă nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của ḿnh tôi đâu mà c̣n là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang t́m cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài ḷng về số quà tặng “đó là những tấm ḷng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đă hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn ḷng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất t́m kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”

    Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố h́nh dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi măn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái B́nh Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đă mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:

    “Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống th́ nhất định Jacqueline đă biết tin, v́ tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:

    “Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích c̣n quá dài. Tôi phải tự đi t́m chồng tôi v́ tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đ́nh có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.

    Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức ǵ. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vă book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đă bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng th́ anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự t́nh cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nh́n anh, không khỏi giật ḿnh sửng sốt. Suưt chút nữa th́ tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đă về hưu vẫn c̣n nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những ǵ có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có ǵ trở ngại về phía anh.

    Chúc anh vui khỏe.”

    J.

    Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như ḿnh nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt ḿnh cay cay… Anh đă không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy ḿnh chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quăng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật ḿnh thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng c̣n phảng phất đâu đây.

    C̣n tiếp...

  4. #3844
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    ( Tiếp theo và hết .)

    4
    Tân đi tù khoảng hơn năm th́ vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đă dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân kư giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay ḷng đổi dạ như vậy, anh không c̣n ǵ để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con ḿnh được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đă hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn pḥng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không c̣n chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đăi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đă phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, x́ ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lănh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đă làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

    Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ ḷng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi – Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline h́nh như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lư nào cô nàng yêu ḿnh? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải măi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại ḿnh thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đă bóng gió viết về t́nh cảm của ḿnh đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn ǵ của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy ḿnh sống trên đất Mỹ. Lúc th́ lái máy bay, có lúc th́ đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài măi.

    Măi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đ́nh bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở b́nh dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài ḷng v́ dù sao vẫn c̣n hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đă trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi th́ tất cả mọi sự trên cơi đời này đều… nhẹ như lông hồng!

    Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an t́m gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người ḿnh đi t́m gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại măi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lư do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nh́n Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Th́ ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm th́ được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đă gặp ông tŕnh bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương tŕnh viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

    5
    “Anh Hoàng thân quư,

    Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đă hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh v́ khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xă hội chủ nghĩa” (c̣n bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đă giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. C̣n Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quư mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quưt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đă mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy ḷng ṿng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suưt nữa th́ làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong pḥng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quư và trân trọng giữ ǵn nó.

    Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng ḷng lắm với những ǵ ḿnh đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.

    Xin chúc anh và gia đ́nh mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.

    Quư mến,

    Đỗ Tân. ”

    t/g Thanh Thương Hoàng

    https://ndb51.wordpress.com/2015/04/...-cho-mua-xuan/

  5. #3845
    Tran Truong
    Khách

    Sài G̣n Ngày Trở Lại 1978...( Tiếp theo và hết )

    Một h́nh ảnh lạ đập vào mắt khiến tôi thắng vội xe . Dưới gầm một chiếc Molotovav, hai ba chú bộ đội đang lui cui chụm lửa nấu cơm . Dù bây giờ 1978. Dù bây giờ Sài G̣n đă tối tăm u buồn đi nhiều lắm, nhưng h́nh ảnh một đống lửa lập ḷe, soi sáng một nồi cơm độn bắp vẫn là điều coi rất là không ổn .

    Tưởng sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 th́ cuộc đời của các đồng chí bộ đội có ǵ thay đổi chứ ? C̣n nếu vẫn cứ lui cui với củi lửa ngô khoai ngay giữa phố Sài G̣n th́ thà là ở luôn trong rừng Trường Sơn, mặc cho muỗi đốt, mà đời lính – may ra – c̣n có đôi chút ảo tưởng về lư tưởng hay chính nghĩa !


    [img]url=https://flic.kr/p/bqg2kG][/url]Vietnam War - chạy giặc trên cầu chữ Y Sài G̣n, 7-5-1968 by manhhai, on Flickr[/img]

    [img]SAIGON 1965 - Flags recognizing countries assisting in the Viet Nam war - Photo by Thomas W. Johnson by manhhai, on Flickr[/img]

    [img]Hồ con rùa, h́nh rùa ngày c̣n nguyên vẹn by manhhai, on Flickr[/img]


    Sau khi kiếm chuyện để đổi tiền và kiểm kê tài sản năm bẩy lượt ở miền Nam, một thằng đui cũng thấy rằng cái được người cộng sản mệnh danh là cách mạng – thực chất – cũng chỉ là một vụ kinh doanh mà Đảng đă mượn vốn là máu xương của mọi tầng lớp nhân dân .

    Tưởng đâu là sau khi làm ăn trót lọt rồi th́ những kẻ sống sót cũng phải được chia chác chút đỉnh cả vốn lẫn lời chứ . Đâu có ai ngờ sự thể lại thê thảm đến là như vậy . Từ bé đến giờ tôi đă xem ít nhất là một trăm chuyện và phim ăn cướp . Tôi chưa hề thấy cái đảng cướp nào ăn dơ ở bẩn và đối xử với đàn em khốn nạn như Đảng Lao Động Việt Nam.

    Tôi tiếp tục chầm chậm đạp xe về . Ḷng mỗi lúc một thêm năo nề và uất hận . Lại thấy nhớ, thương và phục cụ Nguyễn Du quá sức . Thảm cảnh của Sài G̣n hôm nay, chỉ có hai câu Kiều này là diễn tả được trọn vẹn và chính xác:

    Lạ ǵ một thói sai nha
    Làm cho khốc hại chả qua v́ tiền


    [img]Saigon, 3 May 1968 by manhhai, on Flickr[/img]

  6. #3846
    Tran Truong
    Khách
    Bùi Bảo Trúc – Mẹ kiếp : Đứa nào bán nước?


    Thư gởi bạn ta,

    Đứa nào bán nước? Đoạn video xem được trong internet về chuyến đi mới đây của một nhóm người đến đảo Song Tử Tây, một hải đảo thuộc quần đảo Trường Sa, cho thấy cảnh một sĩ quan hải quân Cộng Sản Việt Nam đứng giải thích cho những người trong chuyến đi về một cột mốc bằng xi măng dựng trên đảo.

    Bằng giọng Bắc đặc sệt, người quân nhân này vừa chỉ vào tấm bia xi măng vừa nói rằng cột mốc là một bằng cớ quan trọng có thể dùng để trưng ra làm bằng cớ về chủ quyền của Việt Nam trên đảo. Anh ta chỉ vào tấm bia có từ ngày 22 tháng 8 năm 1956 do hải quân Việt Nam Cộng Ḥa dựng lên nhân một chuyến đi thị sát nghiên cứu và thăm đảo.

    Tấm bia ghi rơ quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Ḥa. Anh ta nói rằng tấm bia rất quan trọng v́ nó chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên đảo. Anh ta nói thêm đó là bằng chứng lịch sử xác thực do hải quân của “chế độ cũ”, tức là chế độ Ngô Đ́nh Diệm dựng lên. Kế đó, anh nói thêm đó là tấm bia ghi rơ Việt Nam Cộng Ḥ̣a chứ không phải Cộng Ḥ̣a Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

    Rồi anh chỉ vào một chi tiết khác của tấm bia và nói đó là biểu tượng của “ngụy quân Sài G̣̣n và chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.”





    Mẹ kiếp, các con muốn dùng những thứ ấy trong những tranh chấp về lănh thổ với Bắc Kinh th́ trước hết, các con phải thay đổi ngay cái lối ăn nói mất dạy, vô giáo dục của các con. Tiếp tục gọi chính phủ ở miền nam vĩ tuyến thứ 17 là “ngụy quyền” th́ các tài liệu, lập luận của các con liên quan đến Trường Sa và Hoàng Sa sẽ không có giá trị ǵ hết.

    Các con coi Việt Nam Cộng Ḥa là “ngụy quyền”, là “chính quyền lập ra để chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân chống xâm lược”. Các con coi chỉ có các con mới là chính quyền hợp pháp (tức là chính phủ Việt Nam Cộng Ḥ̣a của cả hai nền cộng ḥa ở nam vĩ tuyến 17 là bất hợp pháp) th́ tại sao các con lại lôi các tài liệu bằng chứng lịch sử của chính quyền “ngụy” ra để chống lại lập luận xâm lược của Tầu Đỏ bây giờ ?

    Các con phải bỏ ngay cái lối ăn nói mất dạy, vô giáo dục của cả nhà các con mỗi khi nói về các chính phủ ở nam vĩ tuyến 17 trước năm 1975, th́ mới có thể trưng ra những bằng cớ hợp pháp về chủ quyền của Việt Nam tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Làm như thế mới có được sức mạnh đoàn kết của toàn dân mà các con rất cần vào lúc này. Phải công khai nh́n nhận các nỗ lực và hy sinh của người dân và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đối với toàn vùng lảnh thổ của đất nước.

    Ngày nào mà các con không chịu công nhận và ghi ơn những hy sinh của các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa ở Hoàng Sa trong trận hải chiến kéo dài từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, và tiếp tục cái lối ăn nói mất dạy gọi Việt Nam Cộng Ḥa là “ngụy”, th́ ngày đó các con sẽ vẫn chỉ là một bọn phản quốc, sẵn sàng cắt đất, dâng đảo ngoài khơi và sẵn sàng ăn cứt cho bọn Tầu Cộng.

    Nên nhớ tấm bia của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa dựng lên ngày 22 tháng 8 năm 1965 không có nghĩa là chỉ từ ngày đó trở đi, chủ quyền của Việt Nam mới có trên đảo, mà c̣n cả trước đó nữa. Bắc Kinh không hề có bất cứ một chứng cớ nào có thể đưa ra về chủ quyền của chúng trên các đảo này.

    Nhưng cái này khó hơn cho các con trong những tranh căi về lănh thổ với Bắc kinh. Tấm bia của Việt Nam Cộng Ḥa dựng lên ngày 22 tháng 8 năm 1956, th́ ngày 14 tháng 9 năm 1958, tức là sau ngày dựng tấm bia hai năm, th́ thủ tướng của các con gửi cha nó một công hàm cho Chu Ân Lai nói rằng nhà nước của các con “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 58 của chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung quốc”.

    Cũng trong bức công hàm ô nhục đó, Phạm Văn Đồng c̣n viết thêm là sẽ “chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng quyết định của Bắc Kinh trong mọi quan hệ với nước Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể”.
    Rành rành ra như thế rồi th́ làm thế nào các con vô hiệu hóa được cái công hàm khốn nạn đó. Chính thủ tướng của các con đă ngu xuẩn và nhanh nhảu viết bức công hàm đó chỉ 10 ngày sau khi Bắc kinh tuyên bố láo lếu về chủ quyền của bọn chúng, và t́nh nguyện nh́n nhận, tôn trọng quyết định ngang ngược xâm lăng của bọn Tầu.

    Đến nay, các con mới quưnh quáng không biết ăn làm sao, nói làm sao v́ cái miệng mắc bố nó cái quai công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng. Trong khi đó, sau 38 năm các con vẫn chưa dám nói về trận hải chiến ở Hoàng Sa và các hy sinh của hải quân Việt Nam Cộng Ḥa. Các con vẫn không dám gọi thẳng bọn Tầu khốn nạn là bọn xâm lược th́ các con chống Tầu thế chó nào được, và các con vẫn tiếp tục đàn áp những tiếng nói yêu nước khi người dân Việt lên tiếng về việc lănh thổ của cha ông bị bọn chó Bắc kinh xâm chiếm th́ các con sẽ không bao giờ có được hậu thuẫn và ủng hộ rất cần của toàn dân để chống lại Trung quốc.

    Mẹ kiếp bây giờ đă thấy rơ đứa khốn nạn chó dại nào bán nước cầu vinh chưa?

    -------------------------

    Hôm nay post lại bài của anh lên đây , thay cho nén hương dâng anh !!!

  7. #3847
    Tran Truong
    Khách
    Ơi Em, Bắt Hồn Tôi Về Đâu …

    Lê Văn Nghĩa


    Thoạt đầu, tôi định đặt tựa bài này là “Thiên Đàng Mơ Mộng”, v́ thấy thật đúng tâm trạng của những thằng học sinh Petrus Kư chúng tôi thời đó. Thời chúng tôi có rất nhiều thiên đàng mơ mộng: “Em theo trường về … áo dài tà áo vờn bay” (1).







    1. “Thiên đàng” của những thằng tóc hớt ngắn, quần xanh áo trắng là nơi các nữ thiên thần áo dài trắng túa ra như lũ chim bồ câu sau giờ tan học của Trường Gia Long. Thằng học sinh Petrus Kư nào chẳng mơ được “mần quen” cùng một em áo dài.
    Phía bên hông cổng Trường Gia Long, trước cổng chùa Xá Lợi, “cạnh tranh” với những chiếc xe bán ḅ bía, gỏi đu đủ là những chàng áo trắng Petrus Kư đang gửi hồn qua cánh cổng thâm nghiêm có từ năm 1915 với cái tên thơ mộng “Trường nữ sinh Áo Tím”.

    Nghe kể lại, trường được thành lập do đề nghị của nghị viên Hội đồng quản hạt Nam kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của tổng đốc Phương và một số trí thức người Việt. Khóa đầu tiên (1915) trường tuyển 45 nữ sinh với đồng phục là áo dài tím. Những đời hiệu trưởng đầu toàn là người Pháp.

    Năm 1949, nữ sinh Trường Áo Tím cùng nam sinh Trường Petrus Kư tổ chức băi khóa kỷ niệm ngày Nam kỳ khởi nghĩa nên chính quyền đă đóng cửa trường.
    Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh, biểu t́nh dài ngày với sự ủng hộ của phong trào học sinh lúc ấy, trường được mở cửa lại.
    Đánh dấu sự kiện quan trọng này, sau bảy đời hiệu trưởng trường là người Pháp, lần đầu tiên trường có nữ hiệu trưởng là người Việt: bà Nguyễn Thị Châu.

    Năm 1953, trường Áo Tím đổi tên thành Trường nữ trung học Gia Long. Áo dài tím được thay bằng áo dài trắng với phù hiệu là bông mai vàng. Chương tŕnh giáo dục bằng tiếng Pháp được chuyển sang quốc ngữ. Biết đâu chính “mối t́nh” gắn kết tranh đấu của Áo Tím và sau đó Gia Long trong những năm về sau đă gắn kết “trai Petrus Kư, gái Gia Long” trong những mối t́nh thật và ảo của lứa tuổi học tṛ. Hăy mơ đi những chàng trai Petrus về “thiên đường” tuổi nhỏ dại của ḿnh!


    2. Khoảng giữa thập niên 1970, bài hát Con Đường T́nh Ta Đi của nhạc sĩ Phạm Duy làm xáo động những trái tim mới lớn với những lời ca mộng mị: “… Lá đổ để đưa đường/Hỡi người t́nh Trưng Vương”. Tôi không biết đó là lời cảm thán của chàng trai nào. Nhưng có lẽ thích hợp hơn xin hăy cho chàng trai ấy là người của Trường Chu Văn An.

    Như một mặc định “trai Petrus Kư, gái Gia Long” th́ nữ sinh Trường Trưng Vương lại là “của riêng” của những học sinh Chu Văn An mặc dầu hai trường cách trở về mặt địa lư một quăng đường khá dài. Trường chàng th́ ở tận nhà thờ ngă sáu, đường Minh Mạng, c̣n “thiên đường” của nàng th́ ở đối diện Sở thú – Thảo cầm viên, số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    Tội nghiệp cho nam sinh Trường Vơ Trường Toản cùng ăn chung xe gỏi ḅ với các nàng nhưng chỉ đứng xa ngắm những chàng trường Chu đón nàng mà hát câu cảm thán: “Trưng Vương hôm nay mưa vẫn giăng đầy trời/ Bóng người th́ mịt mùng/ Từng hàng me rung rung” (2) . Có lẽ “nhân duyên tiền định” của hai trường này đều xuất phát từ “người phương Bắc”.

    Học sinh Chu Văn An đa số là người miền Bắc và Trường Trưng Vương cũng vậy. Điều này cũng dễ hiểu v́ Trường Trưng Vương là ngôi trường có gốc gác từ Hà Nội. Theo “gia phả”, trường được thành lập từ năm 1925, trên con đường Đồng Khánh, phía nam hồ Gươm mang tên Trường Nữ trung học (College de Jeunes Filles), ngôi trường nữ trung học đầu tiên và duy nhất của nữ giới miền Bắc.

    V́ nằm ở đường Đồng Khánh nên c̣n được gọi là Trường Đồng Khánh. Đến năm 1948 trường được chuyển đến đường Hai Bà Trưng (Hà Nội) và đổi tên là
    Trường Trưng Vương. Năm 1954, một số giáo sư và học sinh di cư vào Sài G̣n và thành lập lại Trường Trưng Vương. Năm học đầu tiên phải học nhờ cơ sở của Trường nữ trung học Gia Long. Măi cho đến năm 1957, Trường Trưng Vương dời về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm (nguyên trước đó là Quân y viện Coste của quân đội Pháp).

    Bởi vậy ta không lấy làm lạ khi đây là một trong những ngôi trường mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp và được b́nh chọn là ngôi trường có kiến trúc đẹp nhất Sài G̣n. Nhờ là học sinh Trưng Vương nên mỗi lần làm lễ kỷ niệm Hai Bà, nữ sinh Trưng Vương được ưu tiên tuyển chọn làm Trưng Trắc, Trưng Nhị cưỡi voi trong lễ diễn hành.



    Có lần đi xem diễn hành trên đường Thống Nhất khi hai nàng học tṛ Trưng Vương ngồi trên voi “phất ngọn cờ vàng” đi ngang, tôi thấy thằng bạn có vẻ phấn khích. Tôi hỏi: “Mầy thích “ghệ” áo vàng hả?”. Nó trả lời buồn xo: “Không, tao thích con voi. Bây giờ tao ước ǵ ḿnh được làm con voi”. Rồi nó cảm thán nhại theo thơ của Nguyễn Công Trứ: “Kiếp sau xin chớ làm người/ làm voi nàng cưỡi, cái ṿi đung đưa”.
    Sau này tôi mới biết cô gái đóng vai Trưng Trắc – áo vàng đó đă cho chàng leo cây, “Trưng Vương vắng xa anh dần. Mùa thu đă qua một lần. C̣n đây bâng khuâng”. Ôi, tội nghiệp một thời mê gái!

    [img]bán "ḅ bía" by manhhai, on Flickr[/img]

    [img]SAIGON 1966 - B̉ BÍA - Vietnamese "Wrap & Roll" by manhhai, on Flickr[/img]

  8. #3848
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    XUÂN VÀ NGƯỜI LÍNH VNCH TRONG NHẠC VIỆT

    Lê Hoàng Thanh

    (Để tưởng nhớ đến những chiến sĩ VNCH đă hy sinh v́ tổ quốc)



    Dù ai buôn bán nơi đâu
    Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về.
    (Ca Dao)
    Vâng, đó là truyền thống của người Việt chúng ta từ xưa đến nay.
    Hể mỗi độ Xuân về là mọi người đều muốn sum họp với cha mẹ, gia đ́nh con cái và bạn bè quyến thuộc nói chung để cùng vui Tết, cho dù suốt năm phải xa gia đ́nh v́ sinh kế. Tuy nhiên vẫn có những người gánh chịu nhiều thiệt tḥi, phải dầm sương, ngủ ở ven rừng, bờ suối để trấn thủ biên thùy. Họ chỉ hưởng được chút hương vị Tết qua những món quà do thân nhân gởi đến, thiếu hẳn cái không khí Tết giống như ở hậu phương, thiếu hẳn tiếng trống tiếng kèn rộn ràng, không có những màn múa Lân ngoạn mục v.v…
    Nhưng họ là ai?. Họ chính là những người lính của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH). Những người đă anh dũng chiến đấu trong suốt gần 21 năm để bảo vệ miền Nam tự do, từ 1954 cho đến khi bị thượng cấp ra lệnh bắt buộc buông súng đầu hàng cuối tháng 4.1975. Nhiều người đă nằm xuống hay đă chết trong các trại tù được mệnh danh là „trại cải tạo“. Cũng có nhiều người c̣n sống, đang hiện diện trên đất mẹ hoặc đang định cư tại một đệ tam quốc gia nào đó trên thế giới. Để tri ơn những người lính VNCH nói trên, c̣n sống cũng như đă chết, người viết xin phóng tác một số bản nhạc viết về „Xuân và Người Lính“ thành bài tạp ghi này để kính tặng tất cả những người lính VNCH đă anh dũng chiến đấu bảo vệ miền Nam VN cho đến ngày 30.04.1975, cũng như vinh danh sự hy sinh cao cả của những chiến binh đă nằm xuống cho chúng ta được sống.
    Trước khi chính thức đi vào chủ đề của bài tạp ghi, người viết xin được mượn bài hát sau đây để giới thiệu đến quư độc giả là người lính VNCH tuy rất anh hùng, rất sắt đá trên chiến trường nhưng họ cũng là con người, là những chàng trai trẻ nên con tim của họ cũng chất chứa nhiều t́nh cảm, cũng biết rung rộng và v́ t́nh yêu quê hương đất nước nên họ sẳn sàng hy sinh t́nh cảm riêng tư để lên đường theo tiếng gọi non sông. T́nh cảm của những người lính được thể hiện rơ nét qua tác phẩm rất sôi động của Nhạc sĩ Y Vân:

    Anh là lính đa t́nh
    T́nh non sông rất nặng
    T́nh hải hồ ôm mộng
    T́nh vũ trụ ngát xanh
    Và mối t́nh rất êm đềm là t́nh riêng trong ḷng anh yêu em ...
    Có lúc muốn lấy hoa rừng, anh gửi về em thêu áo
    Và ngàn v́ sao trên trời, kết thành một chuỗi em đeoo
    Dù rằng đời lính không giầu,
    mà chắc không nghèo t́nh yêu ...

    Lính Đa T́nh (Y Vân)


    C̣n tiếp ...

  9. #3849
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Có thể nói, khi đề cập đến hay bàn về chiến tranh, hầu như ai trong chúng ta đều chán ngán. Nhưng hoàn cảnh đẩy đưa v́ cộng sản Bắc Việt (csBV) luôn nuôi tham vọng thôn tính miền Nam nên mới gây ra cảnh chinh chiến. Nếu nhà ai nấy ở, kẻ Bắc người Nam, mạnh ai nấy lo th́ làm ǵ có chuyện đổ máu xảy ra, theo ư tôi. Sau nhiều mùa Xuân tương đối thanh b́nh đi qua th́ phải nói Tết Mậu Thân 1968 là cái Tết mà dân miền Nam VN không bao giờ quên được, nhất là dân xứ Huế. CsBV đă xem thường hiệp ước đ́nh chiến trong ba ngày Tết, lợi dụng sự tin cậy của dân miền Nam và lợi dụng cơ hội biên thùy bị bỏ ngơ và các tiền đồn của các tỉnh hay thị xă không được canh gác cẩn thận như xưa nay v́ binh sĩ VNCH các cấp được nghỉ phép về quê ăn Tết với gia đ́nh vợ con, csBV đă ra lệnh tổng tấn công, tràn về thành phố đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Chúng đă dày nát nhiều tỉnh lị của miền Nam, nhẫn tâm giết hại không biết bao nhiêu người dân vô tội gây tang thương cho biết bao gia đ́nh trong khi mọi người đang vui mừng đón Xuân.

    Chiến chinh từ xưa đến nay, dầu xảy ra bất cứ ở đâu đều gây nên nhiều đau khổ, tang tóc. Chuyện cha xa con, vợ xa chồng, gia đ́nh ly tán là chuyện không thể tránh được. Bên cạnh những mất mát về vật lực cũng như tài lực, người dân và nhất là những người lính trận chẳng những đă hy sinh máu huyết của ḿnh, đă bị tổn thương và trở thành phế binh mà đôi khi c̣n phải bỏ mạng để cho bà con, thân nhân và đồng hương được sống. V́ thế mơ ước quê hương thanh b́nh là ước mơ của mọi người, từ quân cán chính cho tới phó thường dân, học tṛ… Nhạc sĩ Hoài Linh và Tấn An đă mượn lời ca tiếng hát chuyển đạt nỗi niềm của những chàng trai khóat áo chiến y vừa mới từ biên cương trở về thăm người yêu ở hậu phương với lời cầu chúc đầu năm chân thành, rất nồng nàn:

    Ngày đầu Xuân chúc non nước thanh b́nh,
    ngày mồng hai chúc cho lứa đôi ḿnh
    Và mồng ba anh chúc cho đôi mắt em xinh,
    Má em hồng cho nét Xuân măi trong ḷng anh.
    Từ ngoài biên anh vừa về đến, đôi lời tŕu-mến chân thành chúc em ...
    Đầu Xuân xin chúc quê hương yên b́nh thành đô đến nơi đồng xanh,
    Ư lành nước non vươn màu xanh mới đón Xuân thắm trong niềm vui.

    Đầu Xuân Lính Chúc ( Hoài Linh - Tấn An)


    C̣n tiếp...

  10. #3850
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ước mong quê hương không c̣n chiến tranh cũng là tâm trạng của cố nhạc sĩ đa tài Trần Thiện Thanh (TTT). Nhưng sự mong ước của nhạc sĩ TTT, một nhạc sĩ thuộc ngành tâm lư chiến dù, không ủy mỵ và ru ngủ như đă được thể hiện qua một số nhạc sĩ phản chiến thân cộng thời bấy giờ. Trần Thiện Thanh tế nhị hơn khi diễn tả tâm trạng ḿnh, tâm trạng của một người lính VNCH. Anh đă nhẹ nhàng thố lộ cùng người yêu:

    Hẹn em khi khắp nơi yên vui
    Mùa xuân ngày đó riêng đôi ḿnh
    Phút giây mộng mơ nâng cánh hoa mai
    Nhẹ rớt trên vai đầy, hồn chơi vơi
    Ngỡ giữa xuân vàng, dáng em sang

    (Đồn Vắng Chiều Xuân)


    C̣n tiếp..

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 11 users browsing this thread. (0 members and 11 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 26-03-2012, 08:51 PM
  2. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  3. Ở đâu không có Madison, ở đó có Little Saigon.
    By NguyễnQuân in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 10
    Last Post: 15-08-2011, 04:43 AM
  4. Ở ĐÂY CÓ ĐẤU TRANH LÀ Ở ĐÂY CÓ BỊ BẮT
    By hatka in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 0
    Last Post: 02-04-2011, 04:48 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 12-03-2011, 08:05 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •