Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 14 of 14

Thread: Mật thư tội ác của chủ-nghĩa Cộng-sản

  1. #11
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 5


    CÁC DIỄN BIẾN TỪ TAMBOV CHO ĐẾN KHI XẢY RA NẠN ĐÓI LỚN


    Đến cuối năm 1920, chính quyền bônsêvich gần như thành công. Đạo quân cuối cùng của Bạch quân bị đánh bại. Các toán quân của người Cosaque cũng chịu chung số phận. C̣n các đơn vị của Makno đang ở trên đường tháo chạy. Nhưng cuộc chiến giữa lực lượng quần chúng xă hội và chính quyền cộng sản vẫn c̣n tiếp tục. Cao điểm của trận chiến này xảy ra vào đầu năm 1921 của các đạo quân nông dân thoát ra khỏi gộng hiềm của nhà nước bônsêvich.
    Toàn tỉnh Tambov, một phần của tỉnh Volga [ Samara, Sarotov, Tsartsyne, Simbirk] và phía tây của Siberia nằm trong tay của quân nông dân. Nhà nước chỉ quản lư các thành phố.
    Các cuộc đ́nh công, phản đối, các cuộc nổi loạn của công nhân thợ thuyền xảy ra liên tục ở các trung tâm kỹ nghệ. Cuối tháng 2 năm 1921, các thuỷ thủ của căn cứ hải quân Kronstadt nằm ngoài khơi thành phố Petrograd nổi loạn. T́nh h́nh trở nên khẩn trương. Nhà nườc gần như không c̣n quyền lực điều hành.
    Trước nguy cơ bùng nổ, chính quyền đành phải lùi bước. Nhà nước cho ban hành các biện pháp nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của nông dân, là thành phần chiếm đa số và nguy hiểm nhất. Chính quyền hứa sẽ đ́nh chỉ lịnh trưng thu lương thực, thay vào đó là thuế trả bằng hiện vật.
    Tháng 3 năm 1921, họ cho thi hành Tân chính sách kinh tế chính trị.
    Mặc dù chính quyền có thay đổi chính sách nhưng các cuộc nổi loại của nông dân vẫn tiếp tục gia tăng. Nhiều tài liệu nằm trong văn khố hiện nay cho chúng ta thấy, mùa xuân năm 1921 không có ḥa b́nh . T́nh trạng căng thẳng kéo dài cho đến mùa hè 1922.
    Các toán thu mua lương thực vẫn tiếp tục lộng hành ở nông thôn. Việc lùng bắt các lănh tụ cuối cùng của phe xă hội cách mạng vẫn c̣n tiến hành. Công nhân thợ thuyền đ́nh công vẫn c̣n bị đàn áp dă man. Các cuộc t́m kiếm và tiêu diệt nông dân lẫn tránh trong rừng vẫn c̣n thi hành triệt để, dưới nhiều h́nh thức : xử bắn con tin, dùng đạn pháo binh chứa hơi ngạt bắn vào làng quê.
    Nhưng chính nạn đói năm 1921-1922 đă quy phục các thôn làng xáo động nhất. V́ vấn đề sống c̣n, nhân dân các làng quê này đă cương quyết nổi dậy chống lại các toán trưng thu của nhà nước. Nếu phải vẻ một bức tranh th́ chúng ta sẽ nhận ra tại các nơi năm trước thu mua nhiều, là những nơi có các cuộc chống đối lớn và bị đói kinh hoàng nhất.
    Một cách khách quan, chúng ta có thể nói rằng, nạn đói kém là đồng minh của chính quyền. Nhà nước cộng sản đă xử dụng Bỏ chết đói như là một vũ khí để đè bẹp sức kháng cự của nông dân, tiêu diệt Giáo Hội Chính thống và những người trí thức.
    Trong số các cuộc nổi loạn của nông dân chống lại chính sách trưng thu kể từ năm 1918, cuộc nổi loạn của nông dân ở tỉnh Tambov là quan trọng, được tổ chức chu đáo và do đó cầm cự lâu nhất.
    Vùng Tambov nằm phía Đông và cách Mạc Tư Khoa 500 cây số. Từ đầu thế kỷ thứ 20, vùng này là pháo đài của đảng xă hội cách mạng, là di sản của phong trào B́nh Dân Nga.
    Trong những năm 1918-1920, mặc dù bị đàn áp, nhưng vẫn c̣n nhiều lănh tụ hoạt động tích cực.
    Tambov được coi là vựa lúa quan trọng nằm sát Thủ Đô. Mùa thu 1918, hàng trăm đoàn trưng thu về công tác vùng này. Đến đầu mùa xuân 1919, các cuộc đụng độ không tổ chức bắt đầu nổ ra. Nhưng chẳng kéo dài được bao lâu. Chỉ tiêu trưng thu lương thực năm 1918 là 18 triệu thùng lúa ḿ . Qua năm 1920 chỉ tiêu tăng lên 27 triệu thùng. V́ phản đối nhà nước, không chịu tăng gia canh tác mà lại bi trưng thu nhiều hơn năm trước, nên nông dân sẽ phải nh́n đói nếu nộp hết số lúa để dành.
    Ngày 19 tháng 8 năm 1920 xảy ra nhiều cuộc xô xát ở Khitrovo giữa các toán trưng thu và nông dân. Chính quyền địa phương cũng thừa nhận h́nh thức làm việc bất nhẫn của các toan thu mua lương thực. Nhân viên của các toán này đă lạm dụng quyền hành khi thi hành công tác. Họ thu luôn cả các vật dung hằng ngày như gối, mền, nồi, chén, nĩa,.và nhất là làm ẩm ướt, úng lúa khi chuyên chở ra ga. Họ c̣n hà hiếp, đánh đập các người ǵa cả chỉ v́ những người này có con đào ngũ.
    Từ Khitrovo, các cuộc chống đối như lửa gặp rơm khô, lan tràn nhanh chóng. Cuối tháng 8 con số người tham dự chống đối nhà nườc lên đến 40.000 . Phần đông là các lính đào ngũ có mang theo vũ khí trốn về miền quê. Chĩa ba , cào cỏ, là vũ khí của một số người khác. Họ tấn công và tàn sát, hoặc đuổi đại diện của chính quyền. Nhiều nhất là ở ba vùng thuộc tỉnh Tambov. Lực lượng nông dân ở Tambov được chỉ huy bởi một lănh tụ thiện chiến, ông Alexandre Stepanovitch Antonov.
    Ông là nhà chính trị thuộc cánh Xă hội cách mạng thiên tả. Năm 1908 bị đày ra vùng Tây Bá Lợi Á cho đến cuộc cách mạng tháng 2 năm 1917. Ông đă từng ủng hộ Bônsêvich và đă từng được bổ nhiệm chỉ huy quân dân vùng Kirsonov, quê quán của ông. Tháng 8 năm 1918, ông ly khai Bônsêvich, trở thành lănh tụ các quân nhân đào ngũ. Các đơn vị của ông đă chận đánh các toán trưng thu của nhà nước khi đi công tác thu mua trong các vùng ông đang chiếm đóng. Khi cao trào nông dân chống đối lên cao, ông tổ chức quân đội có kỹ luật và tổ chức toán t́nh báo xâm nhập vào các đơn vị của nhà nước. Ông tổ chức các toán tuyên truyền, vận động nhân dân chống lại chế độ Bônsêvich. Ông đ̣i hỏi cho nhân dân có quyền tự do mua bán, chấm dứt chính sách trưng thu, tự do bầu cử, bỏ chế độ ủy viên, và giải tán tổ chức công an Tcheka.
    Song song với công tác bí mật của đảng xă hội cách mạng, ông c̣n thành lập tổ chức Liên đoàn công nhân lao động, một hệ thống ngầm của các lănh tụ nông dân vẫn c̣n bám trụ tại địa phương. Mặc dù có bất đồng quan điểm trong nội bộ, đă dẫn đến một lănh tụ ly khai, nhưng phong trào nông dân ở Tambov cũng đă thành lập được một cơ cấu quân sự , một mạng lưới t́nh báo, một cơ sở chính trị. Đó là một thành công to lớn mà từ trước đến nay lực lương nông dân chưa bao giờ có ngoài phong trào của Makhno.
    Tháng 10 năm 1920, chính quyền bônsêvich chỉ c̣n kiểm soát khu lỏm trong thành phố cấp tỉnh hay cấp quận. Hàng ngàn lính đào ngũ gia nhập lực lượng của Antonov. . Quân số lên đến 50.000.
    Ngày 19 tháng 10 năm 1920, khi nhận ra t́nh h́nh quá nghiêm trọng, Lenine thông báo cho Dzerjinski, chỉ huy trưởng ngành công an, phải mau chóng tiêu diệt các phong trào chống đối nhà nước ở Tambov để làm gương.
    Đầu tháng 11, lực lượng an ninh của chính phủ chỉ có 5000 quân. Nhưng sau khi đánh bại Tướng Bạch quân Wrangel, đơn vị an ninh lên đến 10.000, cùng với một vài đơn vị ít quân số của Hồng quân.
    Qua năm 1921, các cuộc chống đối làn tràn qua các vùng khác. Vùng Volga, gồm các tỉnh Samara,Saratov, Tsaritsyne, Astrakhan và luôn cả vùng Tây Siberia. T́nh h́nh cực kỳ nghiêm trọng. Nạn đói đang đe dọa tại các tỉnh, trước kia rất trù phú.
    Viên chỉ huy tỉnh Samara báo tin cho trung ương biết về các cuộc bao bây các kho chứa lúa của các toán trưng thu chờ chuyển về thành phố và tiếp tế cho chiến trường. Lính giữ kho phải nổ súng vào nông dân đang bao vây họ.
    Ở Saratov cũng đă xảy ra các vụ cướp lúa. Nông dân dùng súng của các lính đào ngũ lấy lại 3 triệu thùng lúa ḿ từ trong kho nhà nước. Nhiều toán Hồng quân giữ kho tan ră.
    Khi vùng trù phú Ukraine không c̣n ǵ để thu mua, Hồng quân kéo qua phía Đông, đến vùng Tây Siberia. Tại đây họ ra chỉ tiêu trưng thu số lượng mễ cốc cao bằng năm 1913. Nhưng v́ vùng này đă bị chiến tranh tàn phá nên không thể nào cung cấp đủ. Cũng như ở những nơi khác, nông dân Siberia nổi lên chống lại lịnh trưng thu.
    Từ tháng giêng đến tháng 3, chính phủ mất quyền kiểm soát. Đường xe lửa xuyên Tây Bá Lợi Á bị cắt đứt. Ngày 21 tháng 3, một đơn vị quân nông dân đánh chiếm thành phố Tobolsk . Đến ngày 30, Hồng quân chiếm lại.
    Ở thủ đô Mạc Tư Khoa , ở Petrogradt, vào đầu năm 1921, t́nh h́nh cũng chẳng khá ǵ hơn. Nền kinh tế bị đứng lại. Xe lửa ngưng hoạt động v́ thiếu than. Các công xưởng sản xuất ít lại v́ nhiên liệu. Số lượng lương thực tiếp tế cho thành phố giảm sút. Công nhân bỏ sở t́m việc làm thêm, tụ hợp tranh luận, hay về miền quê mua thêm thực phẩm. Nhiều xưởng bỏ hoang, ai muốn lấy ǵ th́ lấy, chẳng c̣n người quan tâm.
    Ngày 16 tháng giêng , công an báo cáo về trung ương : Bất măn lan tràn khắp nơi. Giới thợ thuyền và công nhân tiên đoán chính quyền sắp sụp đổ. chẳng c̣n ai muốn làm việc. Ăn không đủ no. Đ́nh công sẽ nổ ra rất lớn. Quân nhân ở thủ đô không c̣n tin tưởng. Họ có thể phản chúng ta bất cứ lúc nào. Phải áp dụng chính sách pḥng loạn.
    Ngày 21, chính quyền ra lịnh giảm bớt 1/3 khẩu phần bánh ḿ ở thủ đô, và cho thi hành ngay vào ngày hôm sau. Lịnh này không c̣n dựa vào khẩu hiệu phản cách mạng để kêu gọi ḷng ái quốc của tầng lớp dân lao động , v́ tàn quân của Bạch nga đă hoàn toàn tan ră.
    Quyết định giảm khẩu phần là hành động đổ dầu vào lửa.
    Cuối tháng giêng cho đến đầu tháng 3, các cuộc đ́nh công, các cuộc biểu t́nh tuần hành cứu đói, các cuộc chiếm đóng các công xưởng sản xuất diễn ra hằng ngày.
    Ngày 22-24 tháng 2 tại Mạc Tư Khoa cũng như tại Petrgradt công an đặc biệt ra tay đàn áp các đoàn biểu t́nh. Xô xát giữa đôi bên. Phía biểu t́nh tràn vào trại lính giải thích để gây cảm thông. Nhiều vụ nổ súng. Hàng trăm người chết , bị thương và bị bắt giam .
    Cuộc nổi loạn ở thàng phố Petrograd đạt đến cao điểm vào ngày 22 tháng 2 khi công nhân các hăng xưởng tổ chức bầu Hội Đồng Toàn Quyền của Công Nhân. Hội đồng thuộc khuynh hướng của đảng xă hội cách mạng và của người mensêvich. Trong bản tuyên ngôn thứ nhất, họ đ̣i hủy bỏ chế độ độc tài Bônsêvich. Họ đói bầu cử tự do các Sô Viết. Họ đ̣i tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, và đ̣i trả tất cả tù chính trị. Để đạt mục đích trên, Hội Đồng kêu gọi công nhân tổng đ́nh công. Nhiều đơn vị quân đội ủng hộ, tán thành yêu sách và tham gia vào cuộc biểu t́nh.
    Ngày 12 tháng 2, một toán công an nổ súng vào đám biểu t́nh, bắn chết 12 công nhân. Cùng trong ngày, hơn 1000 đảng viên đảng xă hội cách mạng bị bắt. Nhưng vụ đàn áp của công an không chận đứng sự phẫn nộ của quần chúng. Hàng ngàn lính chính phủ rời bỏ hàng ngũ chạy sang phía công nhân thợ thuyền. Màn kịch lật đổ chế độ phong kiến Nga Hoàng cách nay 4 năm, tháng hai năm 1917, nay lại tái diễn.
    Ngày 26 tháng 2, vào lúc 21 giờ, Zinoniev, lănh tụ Bônsêvich khu vực Petrograd gởi điện văn cho Lenine, bày tỏ sự hoảng hốt của ông: Công nhân thợ thuyền đă bắt liên lạc với lính trong trại. Chúng tôi đang chợ đợi quân tiếp viện từ Novgorod. Nếu viện binh không đến kịp, chúng tôi sẽ bị tràn ngập. .
    Qua ngày hôm sau, là ngày kinh hoàng của quân chính phủ. Các thủy thủ của chiến hạm đậu tại căn cứ hải quân Kronstadt nằm ngoài khơi Petrograd nổi loạn.
    23 giờ đêm ngày 28 tháng 2, Zinoniev gởi thêm cho Lenine một công điện nữa. Ông báo cáo với Lenine, hai chiến hạm Sebastopol và Petropavlovsk gởi tối hậu thư buộc nhà nước cộng sản phải trả lời. Ông cho biết t́nh h́nh công nhân thợ thuyền rất bất ổn.
    Các yêu sách của công nhân thợ thuyền chính là yêu sách của những người đă sống 3 năm trong chế độ độc tài cộng sản Bônsêvich. Ngoài các yêu sách về các quyền tự do, họ c̣n đ̣i b́nh đẳng trong khẩu phần lương thực. Họ c̣n đ̣i bầu ủy ban cứu xét các người bị bắt giam trong tù. Giải tỏa lịnh trưng dụng. Giải tán các đơn vị đặc quyền công an. Nông dân có quyền canh tác loại nào, nuôi gia súc nào họ thấy cần thiết.
    Ở Kronstadt t́nh thế biến chuyển dồn dập.
    Ngày 1 tháng 3, công nhân tổ chức một cuộc biểu t́nh vĩ đại. Có 15.000 người tham dự, một phần tư là lính hải quân và dân vùng Kronstadt.
    Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương bônsêvich, ông Mikhail Kalinine phải đích thân đến để cứu văn t́nh h́nh. Nhưng ông ta bị nhóm biểu t́nh đả đảo và bị đuổi đi. Ngày hôm sau một nhóm Bônsêvich chừng 2000 của tỉnh Krostadt đứng ra thành lập một Ủy ban cách mạng lâm thời và tiếp xúc với đ̣an biểu t́nh.
    Để bẻ găy phong trào chống đối, ngày 7 tháng 3, lực lượng công an được lịnh hành động dứt điểm cuộc nổi loạn. Trong ṿng 48 tiếng đồng hồ, công an bắt giam trên hai ngàn công nhân, cảm t́nh viên, đảng viên đảng xă hội cách mạng, và những người không đảng phái. V́ không có vũ khí chống cự nên họ bị bắt dễ dàng. Sau đó, chính quyền Bônsêvich và các toán công an tổ chức chu đáo tấn công căn cứ hải quân Krostadt. Tướng Toukhatchevki chỉ huy cuộc tấn công. Ông ta dùng khóa sinh của trường vơ bị và các toán công an trong chiến dịch dẹp loạn. Cuộc tấn công bắt đầu ngày 8 tháng 3. Sau 10 ngày giao tranh, căn cứ Kronstadt thất thủ. Trên 1000 người chết cho cả hai bên. Cuộc đàn áp tiếp diễn với tất cả mức độ tàn ác của nó. Quân thua trận bị bắn tại chỗ.
    Tài liệu mới đây cho biết từ tháng 4 cho đến tháng 6 có 2103 người bị án tử h́nh, 6459 tù chung thân khổ sai.
    Trước khi Kronstadt thất thủ, gần 8000 người trốn thoát theo con đường băng tuyết thuộc vịnh Phần Lan. Họ tụ tập ở Terijoki, Ino và Vyborg. Khi nghe lịnh ân xá, họ trở vê Nga. Nhưng họ bị lừa. Liền ngay khi trở về, họ bị bắt giam và bị đày đi lao động khổ sai ở đảo Solovski và Kholmogory. Trong số 5000 người bị đày đến nơi này, vào muà Xuân 1922 chỉ c̣n sống sót có 500 người.
    Trại khổ sai lao động Kholmogory nằm ven sông Dvina, là một trong những trại tàn bạo nhứt. Họ đưa tội nhân xuống thuyền, trói tay chân, và buộc cục đá vào cổ, rồi xô xuống sông.
    Đây là sáng kiến của chỉ huy trưởng công an Mikhail Kedrov. Ông ta áp dụng phương thức giết người này từ năm 1920.
    Một số lính nổi loạn ở Krostadt, các người Cosaque và nông dân vùng Tambov là nạn nhân của phương thức giết người dă man này trong năm 1922.
    Sau khi dẹp xong Kronstadt, nhà nước Bônsêvich dồn lực lượng vào công tác lùng bắt các đầu năo của các cuộc đ́nh công. Mặc khác, họ đ́nh chỉ các cuộc trưng thu và các cuộc đàn áp Tôn giáo.
    Ngày 28 tháng 12, chỉ huy trưởng công an Dzerjinski ra lịnh cho các công an địa phương bắt giam tất cả các thành phần trí thức, nhóm Mensêvich, đảng cách mạng xă hội. Bắt giam cả các công chức làm việc trong các uỷ ban phụ trách nông nghiệp và bộ phận tiếp tế.
    Nhóm xă hội ôn ḥa cũng bị truy nă cùng với đảng Mensêvich. Đảng này có ảnh hưởng lớn trong quần chúng. Từ tháng 3 đến tháng 6, cơ cấu trung ương đảng Mensêvich bị phá vỡ. Các uỷ viên bị bắt và đe dọa chuyển ra vùng Siberie. Các vị này tuyệt thực phản đối. Chính quyền tống 12 lănh tụ đảng Mensêvich ra khỏi nước Nga. Tháng 2 năm 1922 họ tới thủ đô Bá Linh của Đức. Hai lănh tụ nổi tiếng là ông Dan và Nikholaievski.
    Mùa Xuân 1921, chính quyền cộng sản bắt đầu cho sản xuất công nghiệp. Lúc bấy giờ mức sản xuất giảm 1/10 so với năm 1913. Qua chính sách quân sự hóa lao động, nhà nước bắt công nhân gia tăng năng làm việc.
    Trung tâm hầm mỏ cung cấp 80% thép và than đá cho toàn nước Nga là vùng Dombass. Tại vùng này , chính quyền áp dụng phương pháp độc tài để bắt công nhân làm việc.
    Cuối năm 1920, một trong những lănh tụ thân tín với Troski, ông Piatakov được chỉ định làm Tổng cục trưởng phụ trách hầm mỏ. Trong một năm, ông đă cho công nhân sản xuất gấp 5 lần so với mức sản xuất b́nh thường. Bất cứ công nhân nào vắng mặt đều bị ghép vào tội phá hoại, sẽ bị đưa đi lao động khổ sai hay bị xử bắn. Đả có 18 công nhân bị bắn trong năm 1921. Ông bắt công nhân đi làm luôn ngày chủ nhật, họ mới nhận đủ khẩu phần bánh ḿ hằng ngày. Ngoài ra họ chỉ nhận 1/3 hay 1/2 khẩu phần để sống qua ngày. Sau khi làm việc xong, họ phải tháo đôi giày của họ để lại cho toán khác mang , tiếp tục làm việc.
    Tổng cục trưởng hầm mỏ thừa nhận có nhiều lư do công nhân bỏ việc. Ngoài chuyện thiếu ăn trầm trọng, công nhân mắc bịnh v́ thời tiết quá lạnh, quần áo không đủ ấm. Nhất là bị ẩm ướt lâu ngày không có quần áo thay. Để giảm bớt miệng ăn, ngày 24 tháng 6, chính quyền ra lịnh đuổi một số người không có việc làm ra khỏi các trung tâm hầm mỏ. Bớt khẩu phần lương thực của thân nhân công nhân hầm mỏ. Tiêu chuẩn tiếp tế lương thực căn cứ vào năng xuất lao động. Đó là h́nh thức sơ khai của chính sách trả công theo sản phẩm.
    Các biện pháp trên hoàn toàn đi ngược lại các tư tưởng b́nh đẳng và bảo đảm tiếp tế lương thực mà nhiều công nhân hằng mơ tưởng. Họ bị nhóm người Bônsêvich lợi dụng. Đó là những phương pháp phản lại tầng lớp thợ thuyền, lại sẽ được áp dụng sau này vào năm 1930 dưới thời Staline. Nhà nước cộng sản bất chấp luật lao động. Họ chẳng quan tâm đến nghiệp đoàn. Chính sách lao động tàn bạo này không phải chỉ là sản phẩm của cuộc nội chiến dưới thời Lenine, mà nó là một báo hiệu trước chính sách sau này của trung tâm quyền lực chủ nghĩa Staline.
    Mùa Xuân 1921, chính phủ tiếp tục công tác b́nh định các vùng c̣n do nông dân chiếm đóng.
    Ngày 27 tháng 4, cục chính trị uỷ nhiệm cho Toukhatchevski đàn áp các toán nông dân phiến loạn của Antonov trong vùng Tambov. Một lực lượng quân số chừng 100.000 trong đó đơn vị chính là các toán công an, có pháo binh và không quân yễm trợ, đă tiêu diệt lực lượng đối kháng của Antonov. Các biện pháp thanh trừng, lưu đày, xử bắn, diễn ra thảm khốc tại vùng này sau khi quân chính phủ đánh tan phiến loạn. Họ dùng cả hơi ngạt trong các làng xa xôi mà họ nghi ngờ đă che chở các quân lính của Antonov.
    Ngày 11 tháng 6 năm 1921, Toukhatchevski và chủ tịch toàn quyền ủy ban hành pháp, ông Ovseenko cùng kư bản nhật lịnh số 171, cho thi hành các biện pháp sau đây:
    1./ Bắn tại chổ những ai không xưng tên khi bị xét hỏi.
    2./ Các ủy ban chính trị quận hay xă có quyền bắt các con tin hay đem xử bắn những người có vũ khí mà không chịu đem giao cho nhà nước.
    3./ Khi t́m thấy vũ khí ở nơi nào là những người ở đó sẽ bị hành quyết.
    4./ Gia đ́nh nào che chở lính phản loạn, sẽ bị bắt giam và đưa đi lao động khổ sai, biệt xứ. Tài sản sẽ bị tịch thu. Người lớn tuổI nhất trong nhà sẽ bị hành quyết không cần xét xử.
    5./ Gia đ́nh của các phiến loạn cũng bị ghép vào các phần tử phiến loạn. Nhà cửa bị tịch thu. Chủ gia bị xử bắn.
    6./ Nếu gia đ́nh quân nhân phiến loạn bỏ trốn, tất cả tài sản sẽ chia cho nông dân trung thành với chế độ.
    7./ Nhựt lịnh này phải được thi hành triệt để.
    Ngày 12 tháng 6, Tướng Toukhatchevski ra lịnh bắn đại bác có đầu đạn chứa hơi ngạt vào các vị trí của quân nông dân nổi loạn. Tàn quân phải di chuyển qua các vùng khác.
    Một số lănh tụ phản đối phương thức dùng hơi ngạt tấn cộng loạn quân.
    Tháng 7 năm 1921, công an cho thiết lập bảy trung tâm tập trung, chứa 50.000 bị bắt làm con tin mà phần đông là phụ nữ, thiếu nhi, và người ǵa. Họ là thân nhân của các nông dân, quân nhân đào ngũ. Tính trạng sức khỏe ở vào mức độ tồi tệ nhất. Bịnh tiêu chảy, chí rận, không đủ quần áo, thiếu ăn, diễn ra hằng ngày.
    Con số tử vong hàng tháng lên đến 15%.
    Ngày 1 tháng 9 năm 1921, từ quân số 40.000 trong cuộc nổi loạn tháng 2 , lưc lượng nông dân nay chỉ c̣n lối 1000 người có vũ khí. Đến tháng 11, loạn nông dân gần như tan ră. Một số bị lưu đày số khác bị án tử h́nh. Cuộc b́nh định của vùng Tambov được coi như hoàn tất.
    Nhưng tại các vùng quê ở Ukraine, miền Tây Siberiee, các tỉnh ven sông Volga à vùng Caucase vẫn c̣n các cuộc bạo động, ít ra cũng kéo dài đến cuối tháng 6 năm 1922. Mặc dù chính sách trưng thu đă hủy bỏ nhưng các h́nh thức sách nhiễu dân chúng vẫn c̣n tái diễn tại các vùng vừa mới b́nh định. Cho nên t́nh h́nh ở nông thôn vẫn c̣n ngột ngạt. Nhân dân và chính quyền không tin tưởng lẫn nhau.
    Sau đây là bản phúc tŕnh đề ngày 11 tháng 7 năm 1921 của chủ tịch đoàn của ủy ban toàn quyền gồm 5 thành viên, chỉ đạo các biện pháp áp dụng chống lại các tên phiến loạn ở Tambov.
    Các cuộc càn quét ở xă Koudrioukovskaia đă bắt đầu từ ngày 27 tháng 7 tại làng Ossinovski. Đó là nơi trú ẩn của loạn quân. Dân làng tỏ ra thờ ơ với các toán công an. Họ không chỉ điểm các nơi ẩn trú của lính nông dân. Họ trả lời không biết.
    Chúng ta bắt giữ 40 người làm con tin. Thông báo cho họ biết làng bị bao vây, trong ṿng 2 tiếng đồng hồ phải mang vũ khí ra nạp và phải tố cáo các quân phiến loạn. Dân làng hội hộp nhưng không có thái độ dứt khoát hợp tác với các toán tảo thanh càn quét. Có lẻ họ cho lịnh xử bắn của chúng ta chỉ là để hâm dọa. Nhưng khi 2 tiếng đồng hồ trôi qua, trước đám đông dân chúng tụ tập, chúng ta đă bắn tại chổ 21 con tin. Cuộc hành quyết diễn ra từng người có sự hiện diện của các thành viên của ủy ban toàn quyền, những người cộng sản, .. để gây ảnh hưởng trong quần chúng.
    Đối với làng Kareievska, một làng có nhiều tàn quân trú ẩn, với địa h́nh hiểm trở, chúng ta phá hủy toàn diện và xóa tên luôn trên bản đồ. Dân làng phải bị đưa đi lưu đày. Những gia đ́nh có con phục vụ cho Hồng quân th́ được đưa qua các làng lớn hay vào trú ngụ trong các căn nhà tịch thu của các gia đ́nh loạn quân.
    Ngày 3 tháng 7 năm 1921, chúng tôi hành quân vào làng Bogoslovka. Chưa có nông dân của làng nào mà cứng đầu và có tổ chức như vậy. Khi chúng tôi đặc câu hỏi, từ trẻ em tới người già đều ngạc nhiên trả lời : - Ở làng chúng tôi không có tên ăn cướp nào cả. Các ông đừng có nghĩ như vậy! Thỉnh thoảng chúng tôi có thấy họ di chuyển qua làng chúng tôi, nhưng chúng tôi không biết không biết có phải họ là những tên ăn cướp không ? Chúng tôi sống yên ổn. Chúng tôi không làm hại ai cả. Chúng tôi không biết ǵ cả...
    Ủy ban đă thi hành các biện pháp như đă xảy ra ở làng Ossinovski. Chúng tôi bắt giử 58 con tin. Qua ngày 4 tháng 7 chúng tôi xử bắn trước mắt dân làng 21 con tin. Ngày hôm sau 15. Chúng tôi đă loại 60 gia đ́nh của quân phá hoại tổng số lên đến 200 người. Cuối cùng chúng tôi đạt được mục đích. Dân làng chịu hợp tác truy lùng các tàn quân nông dân và chỉ điểm các hầm vũ khí.
    Các cuộc tảo thanh càn quét kết thúc vào ngày 6 tháng 7 năm 1921. Kết quả rất tốt đẹp. Tiếng vang ,tràn đến các làng bên cạnh. Những người lính nông dân trốn trong xă Volots cạnh đó đă ra đầu hàng.
    Kư tên : Chủ tịch ủy ban toàn quyền
    Siberie là vùng cung cấp một số lớn nông phẩm vào lúc nạn đói đe doạ trầm trọng nhất ở các tỉnh ven sông Volga.
    Để xúc tiến việc thu thuế vùng Siberie, Dzerjinski được biệt phái đến vùng này vào tháng 12 năm 1921 với tư cách là toàn quyền đặc biệt. Ông thiết lập một ṭa án lưu động. Ṭa án di chuyển từ làng này qua làng kia và xử án tù hay đưa đi lao động khổ sai đối với những ai không chịu đóng thuế. Các toán trưng thu, các toán thu thuế cùng với ṭa án lưu động đă gây ra biết bao tội ác.
    Viên chủ tịch ṭa án tối cao Nikolai Krylenko đă ra lịnh điều tra các hành động sách nhiễu của các tổ chức dưới quyền của viên chỉ huy ngàng công an, tướng Dzerjinski.
    Ngày 14 tháng 2 năm 1922, sau khi thanh tra vùng Omsk, ông viết phúc tŕnh: Hành động lạm quyền của các toán trưng thu không thể tưởng tượng được. Họ bắt nông dân không đóng thuế nhốt vào trong các nhà kho không có ḷ sưởi. Họ tra đánh nông dân bằng các roi da và hâm dọa xử bắn. Nông dân đóng thuế không đủ tiêu chuẩn th́ bị trói và bắt chạy khỏa thân qua các đường phố, rồi sau đó bị nhốt trong các nhà kho kông ḷ sưởi. Phụ nữ cũng bị bắt khỏa thân, ngồi trong các hố băng tuyết giá lạnh. T́nh h́nh trong các làng rất là căng thẳng.
    Một năm rưỡi sau, khi cho thi hành chính sách kinh tế chính trị, cơ quan công an chính trị, được coi như là nhân chứng đă làm một tờ phúc tŕnh như sau :
    Trong tỉnh Pskov, các số thuế được quy định trên 2/ 3 các vụ mùa thu hoạch. Bốn xă vơ trang nổi dậy chống lại chính sách thuế cao.
    Tỉnh Novgorod v́ thất mùa nên thuế giảm xuống 1/ 4 . Hai tỉnh Riazan và Tver bị đánh thuế 100%. Dân của hai tỉnh không c̣n lương thực. Họ phải đào rễ cây hay cắt cỏ để ăn, sống qua ngày. Nhưng ở đây chúng tôi không thấy các cảnh tự sát tập thể như ở Kiev khi nông dân không thể đóng thuế mà cũng chẳng có vũ khí để chống lại. Gần hơn một năm nay, nạn đói đe dọa liên tục, càng làm cho người dân bi quan hơn.
    Qua đến mùa Thu 1922, t́nh h́nh khả quan hơn. Sau hai năm sống trong cảnh đói kém, vụ mùa năm nay họ được phép giữ nông phẩm để ăn qua mùa Đông, với điều kiện vụ mùa Xuân phải đóng thuế trả từng phần. Năm đó số lượng ngũ cốc thu hoạch giảm rất nhiều so với 10 năm trước.
    Hạn hán không phải là lư do duy nhất dẫn đến sự giảm sút trong thu hoạch. Sự thiếu tổ chức, tŕnh độ hiểu biết về kỹ thuật nông nghiệp quá thấp, dụng thu quá thô sơ, lỗi thời là những nguyên nhân . Ngoài ra vấn đề chiến tranh, sự chống đối của nông dân trong chính sách nông nghiệp cũng là lư do làm chậm trễ các quá tŕnh sản xuất.
    Trong lời khai, họ có nói đến cái tại họa nhưng nêu đích danh. Đó là yếu tố chính của các vụ mất mùa: Chính sách trưng dụng.
    Các quan đầu tỉnh của các tỉnh bị nạn đói đe dọa nhiều nhất đă cùng nhau họp tại Mạc Tư Khoa trong tháng 6 năm 1921 đă quy trách nhiệm vào chính phủ và nhất là các toán trưng dụng. Chính các toán này v́ có quá nhiều quyền hành, đă lạm dụng, thi hành quá gắt gao cho nên làm cho nạn đói trầm trọng hơn. Ông Vaviline, đại diện cho tỉnh Samara giải thích rằng các ủy ban tỉnh phụ trách tiếp tế từ lúc khởI đầu trưng thu ước lượng con số quá cao.Họ thổi phồng con số trưng thu. Năm 1920, mặc dù mùa màn thất thoát, họ củng trưng thu hàng triệu thùng lúa ḿ. Tất cả lúa dự trữ, lúa giống điều bị tịch thu. Qua tháng giêng năm 1921, dân không c̣n bánh ḿ để ăn. Qua tháng hai, con số người chết v́ đói gia tăng. Vài tháng sau, trong tỉnh Samara không c̣n lực lượng chống đối nào nữa cả. Dân chỉ đến bao vây ôn ḥa các văn pḥng hành chánh Xô Viết hay văn pḥng đảng cộng sản. Họ chờ đợi các đoàn tiếp tế lương thực trong nhiều ngày.
    Chúng tôi không biết cách nào giải tán. Mỗi ngày, họ lăng ra chết tại trụ sở, chết như con ruồi. Có đến chín trăm ngàn người chết đói trong tỉnh.
    Đọc các bản báo cáo của công an địa phương, của cục t́nh báo quân đội, người ta biết được vụ thiếu lương thực xảy ra từ năm 1919. Từ đó, t́nh trạng thiếu lương thực mỗi ngày một tăng. Trong các bản phúc tŕnh nội bộ, các ủy ban nông nghiệp và tiếp tế đều có kê khai các vùng đang bị đói và các vùng sẽ bị đói. Vụ đói ở năm 1921 là do các cuộc trưng thu cuồng nhiệt của năm 1920. Cơ quan công an chính trị suy luận rằng chính nhờ nạn đói mới giảm được sự chống đối của quần chúng. Mặc dù chính phủ biết rằng chính cưỡng bách thu mua lương thực sẽ dẫn đến hậu quả không lường được, chính phủ không dùng biện pháp nào để ngăn chận nạn đói.
    Ngày 30 tháng 7 Lenine và Molotov gởi điện thư đến các bí thư tỉnh, vùng, ra lịnh họ gia tăng bộ phận thu mua và mở chiến dịch giải thích tầm mức quan trọng chính trị và kinh tế về việc đóng thuế để duy tŕ sức mạnh của đảng và nhà nước.
    Đứng trước chính sách thi hành triệt để tiêu diệt giai cấp nông dân, tháng 6 năm 1921, các nhà trí thức, chuyên viên nông nghiệp, kinh tế, giáo sư đại học đă đứng lên thành lập Ủy ban Chống Đói trong phạm vi của Hội Canh Nông Mạc Tư khoa. Các ủy viên đầu tiên là hai kinh tế gia Krondatiev và Prokopovitch, ông Ekaterina Kouskova, cựu Bộ Trưởng tiếp tế của Chính Phủ lâm thời, một nhà văn, một kư giả và một số chuyên viên nông nghiệp. Nhờ sự giới thiệu của Gorki, ủy ban được ông Levkamenev tiếp kiến vào trung tuần tháng 7. Lenine từ chối tiếp kiến ủy ban.
    Sau cùng ủy ban thuyết phục được một số nhân vật lănh đạo đảng về một số vấn đề. Các ủy viên trong ủy ban chống đói là những người rất có uy tín với Tây phương qua cuộc cứu đói năm 1891. Nay họ đứng ra vận động sự giúp đở của quốc tế. Ủy ban đ̣i một quy chế cho họ. Ngày 21 tháng 7 năm 1921 chính quyền bônsêvich cho hợp pháp hoá uỷ ban cứu đói dưới cái tên Ủy ban liên Nga cứu đói . Ủy ban này được phép mang dấu Hồng Thập Tự, và được toàn quyền t́m kiếm lương thực, thuốc men trong hay ngoài lănh thổ Nga. Họ được phép xử dụng các phương tiện chuyển vận đặc biệt để mang thực phẩm đến phân phối cho các nạn nhân của nạn đói. Họ tổ chức các quán cơm miễn phí. Họ có quyền liên lạc với các cơ quan ngoại quốc. Chưa bao giờ trong lịch sử nước Nga có được một tổ chức với nhiều quyền như vậy. Sự nhượng bộ này là do sự khủng hoảng kinh tế và xă hội trong khi nước Nga đang cho thi hành tân chính sách chính tri kinh tế. Chính quyền c̣n đang lo sợ .

  2. #12
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 5 (tt)

    Ủy Ban liên Nga liền bắt liên lạc với Giáo chủ Tikhon của giáo hội Chính Thống. Vị Giáo chủ cùng với các giáo sĩ thành lập ủy ban cứu trợ.
    Ngày 7 tháng 7 năm 1921, Giáo chủ gởi cho các tu sĩ của các nhà thờ ở Nga một bức thơ. Xác của những người chết đói là món ăn ngon nhất của những người sắp chết đói. Mà món ăn này cũng khó mà t́m cho ra. Cảnh người ăn thịt người đă diễn ra. Hăy ra tay cứu giúp các người anh em của chúng ta. Với sự chấp thuận của giáo dân, các Người có thể xử dụng các kho tàng của giáo đường để cứu các nạn nhân đang chết đói. Các vật dụng không có giá trị tâm linh như vàng ṿng nữ trang, các tượng thánh,v,v..
    Sau khi được Giáo hộ tiếp tay cứu trợ, Ủy ban liên Nga liên lạc với các cơ quan từ thiện quốc tế, như Hội Hồng Thập Tự , Hội Tân Giáo Ước [ Quaker ] , Hội người Mỹ cứu trợ [ ARA ]. Tất cả đều phản ứng tích cực. Nhưng than ôi, Ủy Ban Liên Nga sống không quá 5 tuần lễ. Đến ngày 27 tháng 8 năm 1921, sáu ngày sau khi kư hiệp đồng với đại diện Hội cứu trợ Mỹ ông Herbert Hoover, chính quyền cộng sản giải tán Ủy ban. Đối với Lenine, một khi các con tàu Mỹ chở lương thực rời bến là nhiệm vụ của Ủy ban liên Nga hoàn tất. Phần tiếp nhận là phần của người chính quyền , ông Kouskov kư tên nhận lănh. Đủ rồi.
    Chủ tịch ủy ban Liên Nga , ông Prokopovitch bị bắt giam ba tháng v́ tội phiến loạn . Một số uỷ viên của ủy ban bị tống ra nước ngoài. Một số khác bị đày đi sinh sống ở các vùng khác nhau, nơi đó không có hệ thống vận chuyển công công. Họ bi quản thúc và bị theo dơi hằng ngày. Chính quyền giải thích với dân chúng bằng cách công bố rằng: v́ Ủy ban không chịu làm việc nên phải giải tán. Chính quyền ra lịnh cho báo chí mạ nhục. Họ gọi các ủy viên là các cậu ấm , các tên lính của Nga Hoàng, muốn đi rong ra nước ngoài, ít chịu đi công tác ở các tỉnh. Qua báo chí, Chính quyền hạ nhục các nhà trí thức, các nhà từ thiện ít nhất hai lần trong một tháng.
    Tuân hành theo chỉ thị của nhà nước, báo chí phát động chiến dịch tố khổ một danh sách 60 nhà trí thức tên tuổi trong Ủy ban Liên Nga cứu đói. Báo Sự Thật số ra ngày 31 tháng 8 năm 1921 chạy tin Người ta không thể đùa bỡn với thần đói , Người ta đầu cơ trên sự đói kém , hay Ủy ban cứu trợ,.. .. bọn phản cách mạng .
    Khi có người nói rằng Ủy ban liên Nga đâu có làm ǵ phạm pháp, th́ Unschlicht là một phụ tá chỉ huy ngành công an trả lời: Phải rồi, họ chẳng làm ǵ phạm pháp. Nhưng các việc làm của họ thu hút quan tâm của xă hội. Sự việc này chúng tôi không chấp nhận. Như ông biết, khi ta đặt một nhánh cây vào ly nước, nhánh cây sẽ mọc rễ và nẫy mầm. Khi Ủy Ban liên Nga hoạt động, trong cộng đồng xă hội phát sinh ra nhiều chi nhánh khác. Chúng tôi phải rút nhánh cây ra và đập nát nó.. .
    Thay vào vai tṛ của Ủy ban liên Nga, nhà nước cộng sản dựng ra Ủy ban trung ương cứu đói. Đó là một cơ chế nặng nề, quan liêu, gồm các công nhiên viên nhà nước, các uỷ viên nhân dân không có khả năng, không có uy tín, thối nát và chỉ biết ăn hối lộ.
    Trong lúc có đến 30 triệu ngưới chết đói cần cứu giúp, Ủy ban chỉ có thể trợ cứu bất thường cho chừng 3 triệu, 1/3 trên tổng số nạn nhân. Các cơ quan từ thiện quốc tế, như Hội Hồng Thập Tự, Hội Quaker, Hội ARA, phụ lo cho chừng 10 triệu nạn nhân. Có ít nhất 1 triệu người chết đói trong những năm 1921-1922. Trong khi đó nạn đói lớn của Nga vào năm 1891 chỉ có 400 ngàn người chết ở những vùng ven sông Volga và vùng Kazakhstan. Lúc đó chính quyền và toàn dân cùng nhau tham gia vào công tác cứu trợ. Chỉ trừ ông luật sư trẻ Vladimir Lenine, đầu năm 1890 cư ngụ tại Samara là một người trí thức trong vùng đang bị nạn đói đe dọa trong năm 1891, không những không tham gia vào chiến dịch cứu đói, ông c̣n lên tiếng chống lại chính sách cứu trợ của chính quyền. Một người bạn của Lenine nhắt lại quan điểm của Lênine: Lenine nói trước quần chúng rằng nạn đói là cơ hội tốt cho sự ra đời lớp giai cấp vô sản. các người vô sản sẽ là những đạo t́ chôn cất giai cấp trưởng gỉa. Khi nạn đói hủy diệt hết các nông dân lạc hậu, chúng ta sẽ tiến dần đến mục tiêu. Đó là tiến đến Xă hội chủ nghĩa, một giai đoạn đến sau chủ nghĩa Tư Bản. Nạn đói sẽ phá hủy niềm tin của dân chúng vào Nga Hoàng và ḷng tin nơi Thượng Đế .
    Ba mươi năm sau, vị luật sư trở thành chủ tịch chính phủ Bônsêvich cũng lập lại mưu đồ của ông. Ông cho rằng nạn đói sẽ là phương tiện đánh chết kẻ thù. Kẻ thù lúc này là Giáo hội Chính Thống. Khi đàm thoại với ông Leonid Krassine về kế hoạch Điện Khí Hóa cho nước Nga, Ông nói, điện khí sẽ thay Thượng đế. Hăy để nông dân cầu nguyện điện khí. Như vậy nông dân sẽ tin phục vào quyền lực nhà nước hơn là tin vào thượng Đế.
    Từ khi thành lập Tân chính quyền, sự ban giao giữa nhà nước và Giáo hội càng ngày càng tồi tệ hơn.
    Ngày 5 tháng 2 năm 1918, chính quyền ra nghị quyết tách rời Giáo Hội ra khỏi nhà nước, ra khỏi nhà trường và quốc hữu hóa tất cả tài sản của Giáo Hội. Dưới thời Nga Hoàng, Chính Thống Giáo là quốc giáo. Để chống lại hành động vi phạm vào vai tṛ truyền thống của Giáo hội, Giáo chủ Tikhon đă gởi bốn bức thư đến giáo dân . Người Bônsêvich liên tục đả phá giao hội bằng cách bôi xấu tên thánh của các vị thánh. Họ tổ chức các cuộc hội hoa phản tôn giáo trong những ngày Thánh Lễ. Họ đ̣i biến Tu viện lớn Trinite Saint Serge gần thủ đô, thành viện bảo tàng vô thần . Các vị giám mục chống lại lời đề nghị của Bônsêvich đều bị bắt giam. Lenine lấy cớ nạn đói để tiêu diệt Tôn giáo.
    Ngày 26 tháng 2 năm 1922, trên các báo của nhà nước đăng một nghị định của chính phủ cho tịch thu lập tức tất cả các quư vật bằng vàng, bạc hay đá quư của các Thánh đường, Tu viện nếu những vật dụng này không dùng vào trong các cuộc hành lễ. Tất cả quư vật phải chuyển giao cho bộ Tài Chánh. Bộ này có quyền xử dụng trong công tác cứu trợ nạn đói.
    Các biện pháp tiến hành tịch thu tài sản Giáo hội bắt đầu vào tháng 3 và tiếp diễn sau đó với nhiều vụ đụng độ giữa các toán trông thu và các tín đồ trung tín. Vụ chống đối lớn xảy ra tại Chouia vào ngày 15 tháng 3 năm 1922. Đây là một thành phố nhỏ có nhiều nhà máy , nằm trong tỉnh Ivanovo. Quân đội nổ súng vào đám đông tín đồ bắn chết 10 người. Lăy cớ các cuộc chống đối của tín đồ, Lênine ra tay tiêu diệt tôn giáo.
    Trong một văn thư gởi cho các thành viên của Bộ chính trị đề ngày 19 tháng 3 năm 1922, với lời lẽ vô liêm sĩ, Lenine giải thích : Nạn đói là công cụ để đánh chết đầu năo của kẻ thù. Về biến cố ở Chouia, chúng ta phải quyết định ngay bây giờ v́ nó nằm trong chính sách đău tranh toàn diện của chúng ta. Cứ theo như các tin trên báo chí, chúng ta cần phải xét đến thái độ chống chính sách tịch thu tài sản của các tín đồ và nhất là lập trường của Giáo chủ Tikhon. Hiện ǵơ Giáo Hội của một trăm tên áo đen [ 100 Linh Mục ] đang tổ chức chống lại nhà nước. Tôi nghĩ rằng kẻ thù của chúng ta đă tính sai. Lúc này là lúc thuận lợi cho chúng ta hơn là cho bọn chúng. Sự thành công của chúng ta có thể lên đến 99%. Nó cho phép chúng ta đánh gục bọn đầu năo và chúng ta cũng cố địa vị cần thiết cho lúc này và cho vài thập niên về sau. Trong cái khung cảnh người ăn thịt người, người chết hàng trăm, hàng ngàn nằm ngỗn ngang, chúng ta phải thu hết nghị lực, phải hết sức dữ tợn, hết sức tàn nhẫn mới tịch thu tài sản của Giáo hội được. Chỉ có lúc này là lúc mà nông dân sẽ bỏ bọn Giáo sĩ, bọn tiểu tư sản, chạy về phía chúng ta. Chúng ta có thể cưỡng đoạt kho tàng trị giá cả trăm triệu Rúp. Nếu không có tài sản này, chúng ta không thể nào thực hiện được công tŕnh xây dựng kinh tế, hành chánh và pḥng thủ. Chúng đă sẽ không thể đứng vững được. Chiến dịch tịch thu phải được thi hành ngay lúc này. Chính v́ t́nh h́nh đói kém, dân chúng chẳng quan tâm đến t́nh cảm hay xúc động. V́ vậy tôi đi kến kết luận rơ ràng là phải đập tan bọn Giáo sĩ, bọn trăm người áo đen quyết liệt và tàn nhẫn. Tôi đề nghị chương tŕnh hành động của chúng ta như sau:
    Giao cho đảng viên Kalinine giải quyết cấp bách mọi vấn đề. Không cho Trotski xuất hiện trước công chúng hay trên báo chí. Gởi ngay một ủy viên thông minh và cương quyết của uỷ ban hành pháp trung ương đến Chouia. Không ra văn thư mà bằng khẩu lịnh cho bắt giam giáo sĩ càng nhiều càng tốt. Phải bắt ít nhất vài chục tiểu tư sản và thương gia và tố cáo họ đă tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các cuộc chống đối chính sách trưng thu tài sản giáo hội. sau khi thi hành nhiệm vụ, nhân viên thi hành phải báo cáo cho Bộ chính trị hay ít nhất cũng phải báo cáo cho hai thành viên của bộ. Căn cứ vào bản báo cáo, Bộ chính trị sẽ ra khẩu lịnh cho các cơ quan hữu trách Tư Pháp thi hành bản án các phần tử phản loạn trong biến cố ở Chouia. Xử bắn một số lớn của 100 tên áo đen cùng với các giáo dân ở thủ đô Mạc Tư khoa hay các trung tâm giáo dân khác. Chúng ta phải cho chúng một bài học ngay bây giờ để cho chúng không c̣n dám nghĩ đến một h́nh thức chống cự nào nữa trong vài chục năm sau .
    Căn cứ trên các bản phúc tŕnh hằng tuần của cơ quan công an chính trị, cao điểm của chiến dịch tịch thu tài sản Giáo hội xảy ra hồi tháng 3, tháng 4 và tháng 5 năm 1922. Trong số 1414 vụ chống cự, có 2691 Linh mục, 1962 nữ tu sĩ và 3447 nam tu sĩ ở các ḍng tu kín bị hạt sát. Nhà nước mở các vụ xử án tu sĩ công khai tại Mạc Tư Khoa, Ivanovo, Chouia, Smolenk, Petrograd. Theo chỉ thị của Lenine, Bộ chính trị đưa ra một số biện pháp. Từ ngày 15 đến ngày 20 bắt giam vị Giáo chủ và các Giám mục trong hội đồng Giáo hội. Trong ṿng một tuần lễ đưa ra ṭa án những người theo đạo Chính Thống tại Chouia. Xử bắn các người cầm đầu cuộc nổi loạn. Trong một báo cáo gởi về Bộ chính trị, Dzerjinski cho biết Giáo chủ và phe của ông ta có hành động rơ ràng chống lại lịnh tịch thu tài sản của giáo hội. Nhà nước có đủ chứng cớ để bắt giam Giáo chủ Tikhou và những thành viên phản động nhết của giáo khu. Việc bắt giam là một hành động hợp thời và hợp pháp. Linh mục nào chống lại lịnh tịch thu là kẻ thù của nhân dân.
    Ở Petrograd, có 76 giáo sĩ bị bắt giam trong các trại lao động khổ sai, 4 vị bị hành quyết trong đó có vị Tổng giám mục giáo phận Petrograd tên là Benjamin được bầu vào năm 1917. Vị Tổng Giám mục này rất gần dân. Ông kêu gọi Giáo Hội độc lập với nhà cầm quyền ở Petrograd.
    Ở Mạc Tư Khoa, có 140 Linh mục và giáo dân bị bắt lưu đày lao động khổ sai. Sau đó họ bị kết án tử h́nh. Giáo chủ Tikhon bị nhốt tại tu viện Donskoi ở Mạc Tư Khoa.
    Vài tuần lễ sau khi diễn đi diễn lại tṛ xử án, ngày 28 tháng 2, báo chí đăng tin xử lại vụ án Mạc Tư Khoa. 34 thành viên đảng xă hội cách mạng bị kết tội phản cách mạng và chống lại chính quyền Bônsêvich, là ban chỉ đạo cuộc nổi loạn ở Tambov , trong đó gồm luôn vụ mưu sát Lenine xảy ra ngày 31 tháng 7 năm 1918.
    Lenine cho áp dụng h́nh thức bị cáo hỗn hợp, như trong năm 1930 sau này Staline áp dụng. Nó gồm cả thành phần chính trị, mười hai thành viên của Ủy ban trung ương đảng xă hội cách mạng do Abrmham Gots cầm đầu và các người khiêu khích do chính quyền gài vô. Họ tố cáo các người cùng bị can và khai những lời tự thú của ḿnh. Theo nhận xét của bà Helene Carrere d Encause thuộc Hàn lâm viện của Pháp, là để thử nghiệm phương pháp tố cáo cho ăn khớp với nhau, có xuất xứ là một sợ thật. Cuộc chống đối của lực lượng xă hội cách mạng chống lại chính quyền bônsêvich từ năm 1918 sẽ đưa đến một nguyên tắc là mọi sự chống đối cuối cùng là đưa đến việc cộng tác với giới tư sản quốc tế.
    Chính quyền dàn cảnh các cuộc biểu t́nh của dân chúng ở bên ngoài các ṭa án, đ̣i xử tử h́nh các tên khủng bố.
    Ngày 7 tháng 8, có 10 đảng viên đảng xă hội cách mạng bị kết án tử h́nh. Nhờ các cuộc vận động quốc tế của một số nhà trí thức Nga trốn ra nước ngoài, cùng với t́nh h́nh căng thẳng ở nông thôn, nhà nước cộng sản tạm thời ngưng thi hành các bản án với điều kiện đảng xă hội ngưng các hoạt động chống lại nhà nước.
    Tháng giêng năm 1924, các bản án Tử h́nh giảm xuống án 5 năm lao động khổ sai. Nhưng các tù nhân sau 5 năm không được thả ra . Họ bị xử tử vào năm 1930 khi mà dư luận thế giới quên đi và t́nh h́nh trong nước không c̣n là mối lo cho chính quyền nữa.
    Kể từ 1 tháng 6 năm 1922, nhà nước cho ban hành bộ h́nh luật mới. Lenine theo dơi sự soạn thảo các điều khoản của bộ luật. Bộ h́nh luật mới cho phép dùng bạo lực chống lại kẻ thù chính trị. Bằng chứng của các vụ thủ tiêu nhanh chóng không c̣n giá trị trong thời chiến. Trong các bản dự thảo theo đề nghị của ông, đề ngày 15 tháng 3 năm 1922, Lenine bày tỏ ư kiến với viên chủ tịch nhân dân phụ trách Tư pháp Kourskii : Theo thiển ư của tôi, phải nới rộng tất tầm xét xử tội tử h́nh cho tất cả các hoạt động của bọn Mensêvich, bọn cách mạng xă hội. Ta hăy tạo ra một h́nh phạt mới. Đó là h́nh phạt tống ra các vùng xa xôi hay ra nước ngoài. Phải tu chính một số h́nh thức kết tội các hoạt động có liên quan đến bọn tư sản quốc tế.
    Hai ngày sau, Lenine chỉ thị thêm cho Kourskii.
    Đồng chí, tôi muốn thêm vào bản dự thảo một khoản bổ túc cho bản tân h́nh luật. Việc cần thiết là phải rơ ràng. Phải đặt ra một nguyên tắc cho đúng với đường lối chính trị, chớ không phải chỉ trong phạm vi hẹp ḥi của tư pháp. Các nguyên tắc này sẽ là nguyên do thúc đẫy các cuộc khủng bố. Thiết lập các nguyên tắc rơ ràng, không gian lận, không che giấu. Các điều khoản của h́nh luật càng cởi mở càng tốt. Chỉ có ư thức cách mạng hợp pháp mới tạo ra các điều kiện áp dụng cho các việc làm.

  3. #13
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 6


    TỪ CUỘC HƯU CHIẾN ĐẾN ĐOẠN QUANH LỚN


    Thời-gian 5 năm, từ đầu năm 1923 cho đến cuối năm 1927, cuộc đối đầu giửa chính-quyền Bôn-sê-vít và đảng toàn xă-hội đả tạm ngưng. Việc tranh-giành địa vị để thừa kế Lénine, qua đời ngày 24 tháng giêng năm 1924, sau một thời-gian bị tê-liệt v́ bệnh đứt gân máu ở nảo vào tháng 3 năm 1923, và trong khoảng tám tháng ông nằm liệt nên ông đả không tham-gia dược vào một hoạt-động chính-trị ǵ cả. Cơn bệnh của Lénine đưa mọi hướng hoạt-động của các lănh-tụ Bôn-sê-vít tấp trung vào việc t́m coi ai là người thứa kế để lănh-đạo Đảng và nhà nước. Nhờ vậy, mà trong ṿng 5 năm, xă-hội Nga có thời-gian để băng bó lại các đổ vở.
    Trong khoảng thời-gian 5 năm này, Xă-hội của người nông dân họ bao gồm gần 85% toàn thể các dân-số của nước Nga đả cố lập lại các cuộc trao đổi để thương-lượng các sản-phẫm của sức lao-động của chính họ và được sống theo sở nguyện, như theo định-thức đẽp-đẻ của nhà sử-gia lớn chuyên nghiên-cứu về thân phận của nông-dân Nga. Định-thức mà ông gọi là : Cuộc chuyễn vận trong ảo-tưởng của nông-dân . Các người Bôn-sê-vít đả đặt tên ảo-tưởng này là Eserovschina, nếu ta chuyển-nghĩa th́ gần như là : ( Tâm trạng xă-hội cách-mạng ), được căn cứ vào 4 nguyên-tắc và củng là căn-bản của mọi chương-tŕnh hoạt-động của giới nông-dân từ nhiều thập niên đả qua : Chấm dứt quyền sở-hữu của các vị điền-chủ và phân chia ruộng đất cho các nông dân tùy theo số nhơn khẩu của mỗi gia-đ́nh, quyền được tự do định-đoạt cách dùng các sản-phẫm do các nông-dân tạo ra với sức lao-động của họ, tự do mua bán và ở các vùng nông-thôn, họ tự-quản . Nông dân thay mặt cho các cộng-đồng làng xă với sự hạn chế hiện diện vào việc can-thiệp nôi bộ tại các làng xă của nhà nước Bôn-sê-vít. Chỉ lập một ban Sô-Viết cho vài làng và một tổ của Đảng Cộng-sản cho 100 làng.
    Được chính-quyền chấp nhận một phần nào đó, được tạm dung thứ v́ đó là một dấu hiệu lạc hậu trong một nước mà yếu tố của kinh-tế thị trường lại chính là nông dân, đả bị gián đọan từ năm 1914 đến năm 1922 vừa được khởi hoạt-động trở lại. Sau các vụ làm mùa, với thời-gian rảnh-rổi, các nông dân từ các làng quê đổ về các thành-phố để tỉm việc làm ḥng kiếm thêm lợi tức. Việc này đả có từ lâu dười chế độ Nga hoàng ; các ngành kỹ-nghệ của nhà nước không quan tâm đến việc sản-xuất các vật dụng cần-thiết cho việc tiêu dùng hàng ngày nhờ vậy các ngành nghề thủ công nghiệp nơi nông-thôn đả phát-triễn khả quan, nạn thiếu lương thực và đói kém đả bắt đầu bớt đi và các nông dân đả có cái ăn hàng ngày.
    Sự an-sinh trước mắt không che dấu được các mối bất đồng giửa chế độ Bôn-sê-vít và xă-hội Nga, v́ họ chưa quên các cuộc bạo động mà chính họ là nạn nhơn. Giá các nông-sản quá hạ và các bất măn của giới nông dân quá nhiều, giá các sản-phẫm công-nghệ th́ quá cao và lại rất ít ; có thể gọi là hiếm có v́ các sắc thuế quá nặng. Giới nông dân họ có cảm-tưởng họ là loại công dân hạng thứ hai, so với các người dân ở thành-phố và đáng kể là các người thợ công nhơn được coi là các người dân được ưu-đải. Nông dân đả than van rất nhiều về các việc lộng-quyền của các cán-bộ đại-diện căn bản của chế-độ Sô-viết ; các người này được đào-tạo từ môi-trường Cộng-sản chiến-tranh . Các cán-bộ này đả lạm dụng tuyệt đối các quyền-lực mà họ đả có được từ xưa những tập-tục và thói-quen hay từ những chính sách khủng-bố và đàn áp từ những năm 1918 cho đến 1923. Các cơ-quan hành-chánh, tư pháp và cảnh sát đều bị hư-hỏng v́ nạn say rượu ; nạn đ̣i hối lộ công khai, nạn quan liêu và các tư cách bất nhă đối với toàn thể các nông dân. Bản phúc-tŕnh dài của cơ-quan Cảnh-sát chính-trị vào cuối năm 1925 đả nh́n-nhận về : t́nh-trạng hợp-pháp của xă-hội chủ-nghĩa ở nông-thôn đả xác-nhận các tệ đoan kể trên.
    Mặc dù các lănh-tụ Bôn-sê-vít củng là các người đại diện cho chính-quyền Sô-viết đả lên án các tệ đoan xảy ra ở nông-thôn nhưng họ vẫn lo sợ đề pḥng là nơi có thể phát-xuất các điều bất lợi và có thể coi là nguy-hiễm có thể đe dọa đến quyền-lực của họ. Họ coi nơi đây là nơi : chứa đựng các phần tử koulaks, các người xă-hội cách-mạng, các linh-mục, các vị cựu địa-dhủ chưa bị thủ-tiêu. Đây là tất cả các lời được biểu lộ trong một bản phúc-tŕnh của viên chỉ-huy cảnh-sát chính-trị ở Toula. Và các tài liệu của ngành t́nh báo nơi cơ-quan Guépou (tên mới của cơ-quan này thay thế cho tên Tchéka ), củng báo cáo là các giới thợ công-nhân củng cần phải kiễm-soát gắt gao. Giới thợ công-nhân được phục-hồi sau những năm xảy ra nội chiến, cách mạng . Họ vẫn c̣n ǵử được các mội liên-lạc với giới nông thôn thù-nghịch chính-quyền. Các người điềm chỉ đả hiện-diện rất nhiều trong các xí-nghiệp, theo dỏi từ các lời nói đến các hành động của các người thợ công nhơn, coi họ có đi sai hướng chỉ định của chính-quyền hay không. Các Khí sắc nông dân được chỉ cho những người công-nhân đả trở về làm việc trở lại sau những ngày nghỉ hàng năm mà trở về làng quê, giúp thân nhân của họ làm việc trong những ngày mùa . Những bản phúc-tŕnh của các cơ-quan cảnh-sát đả phân-tích tỉ-mĩ các phần-tử chống đối trong giới công-nhân, thường nằm trong hệ-thống tiểu tổ của xă-hội cách-mạng và các phần tử lạc hậu về chính-trị này thường xuất phát từ nông-thôn , được coi là các phần tử hiểu biết về chính-trị.Những sự đ́nh công và ngưng làm việc thường xảy ra trong các năm này, v́ số người thất-nghiệp lên rất cao. Cuộc sống hàng ngày được cải-thiện phần nào cho những người có việc làm. Tất cả đều được phân tích kỹ và các người cầm đầu đều bị bắt.
    Ngày hôm nay chúng ta được tham khảo các tài-liệu chính-trị nội bộ của cơ-quan cảnh-sát , đả cho ta biết là sau nhiều năm cơ quan này phát-triễn quá mau đả bắt đầu gặp các khó-khăn v́ việc tạm ngưng chương-tŕnh tự-nguyện Bôn-sê-vít để biến đổi cải-cách xă-hội. Trong 2 năm 1924-1926, Dzerjinski đả phải đấu-tranh nhiều với một vài lănh-tụ Bôn-sê-vít v́ các vị này đả đ̣i giăm bớt nhân số của các cơ quan Tchéka v́ với việc thay đổi t́nh-h́nh được coi như tạm yên. Do vậy, con số nhân sự này được coi là quá nhiều không c̣n thích ứng nửa. Và đây là lần thứ nhất mà sự việc giăm nhơn sự xảy ra rất mạnh bạo. Đến năm 1953 mới lại xảy ra lần thứ hai việc giăm nhơn-viên nghành cảnh-sát chính-trị. Năm 1921 cơ-quan Tchéka có 105.000 nhơn-viên dân chính và 180.000 nhơn-viên quân-sự đặc-biệt, bao gồm luôn các lực-lượng biên-giới, các toán Tchéka phụ-trách an-ninh cho các cơ-quan xe hỏa ( đường sắt ) và các toán canh gác các trại tập trung. Qua đến năm 1925, cơ quan này chỉ c̣n lại 26000 nhơn viên dân chính và khoảng 60000 ngàn nhơn-viên quân sự. Công thêm với các con số này c̣n có thêm lối 30000 người điềm chỉ , so với con số người loại này vào năm 1921, với các tài-liệu tham-khảo các con số này không được biết rỏ. Tháng chạp năm 1924, trong thơ của Nikolai Boukharine gởi cho Feliks Dzerjinski, ông đả viết : Chúng ta cần phải chuyễn qua giai đoạn tự do hơn của chính-quyền Sô-Viết : Bớt đàn áp, các việc làm phải hợp pháp, mở nhiều cuộc bàn cải, cho tản quyền về các địa phương và lẽ dỉ nhiên phải dưới sự chỉ-đạo của đảng Cộng-Sản. Vài tháng sau đó, ngày 1 tháng 5 năm 1925 Chủ-Tîch Ṭa-Án Cách-Mạng, Nikolai Krylenko người đả chủ-tọa cuộc xữ-án trá h́nh tư-pháp (mascarade) của cuộc xữ-án các người cách-mạng, đả gởi một bản phúc-tŕnh dài lên bộ-chính-trị đảng Cộng-sản Nga, ông đả chỉ-trích các việc lạm dụng của cơ quan Guépou đả có những hành-động vượt quá mức giới-hạn đối với các sắc-luật mà họ có trọng-trách phải thi-hành. Năm 1922-1923 đả có nhiều sắc-luật được ban ra với tác-dụng hạn chế các khả-năng của cơ-quan Guépou về các việc liên-quan đến : Gián-điệp, Ăn cướp,Tiền giả và Phản cách-mạng . Đối với các tội-ác kể trên, cơ-quan Guepou sẽ là Ông Tơa duy nhất và với tập đoàn đặc-biệt của họ, họ có thể tuyên-án, lưu-đày hay cưởng-bách cư ngụ để dễ bề kiễm-soát cho tới 3 năm, cho đi tập trung vào các trại lao-động cưởng-bách hay tối đa là án tử-h́nh. Năm 1924, trong số 64000 hồ sơ được cơ-quan Guépou phụ-trách th́ 52000 hồ sơ được chuyễn qua các ṭa-án thường. Các cơ-quan tư-pháp của Guépou đả lưu lại 9000 hồ-sơ , một con số quá cao so với hiện-t́nh chính-trị được coi như là ổn-đînh. Ông Nikolai Krylenko nhắc lại : : Các điều-kiện sinh-sống của các người bị đüa đi đày ở các vùnghẻo lánh tại Sibérie, không được cấp phát một đồng tiền nào, các người này đả sống quá thê-thăm. Trong số này có các sinh-viên tuổi từ 18-19 và các người già 70 tuởi. Thành-phần nhiều hơn hết là các thành-viên củaGiáo-hội và các phụ-nữ già, họ đưu thuộc vào thành-phần nguy hiễm cho xă-hội và Nikolai Krylendo cũng đề-nghị giới hạn việc dùng danh-từ phản cách mạng , danh-từ này chỉ được dùng riêng cho các đoàn-viên các đảng chính-trị, đại-diện của các quyền lợi kinh-tế của các người trung-lưu trưởng-giả để hầu tránh được việc lạm dụng quá độ các từ này trong các ngành nơi cơ-quan Guépou.
    Đứng trước các sự chỉ-trích trên, Dzerjinski và các viên phụ-tá của ông đả gởi lên các vị lănh-tụ Bôn-sê-vít là những người chỉ-huy cao cấp của Đảng, và riêng cho Staline, nhiều bản báo-cáo báo động về các rắc-rối nó kéo dài trong nước Ba-Lan, các nước Baltes, nước Anh, nước Pháp và nước Nhật.
    Về bản phúc-tŕnh các hoạt-động của cơ-quan Guépou trong năm 1924 gồm có :
    - Bắt giam 11.453 tên ăn cướp trong số này đả hành-quyết 1858 tên tại chổ.
    - Điều tra 926 người ngoại-quốc và trong số này đả trục-xuất 357 người ra khỏi nước Nga và bắt giam 1542 tên tội phạm làm Gián-điệp .
    - Đả hành-quân 81 lần chống lại các nhóm vô chính-phủ và bắt giam 266 người.
    - Được điềm chỉ và phá vở một mưu toan nổi-loạn của Bạch-quân ở Crimée, và đả hành-quyết 132 người trong khuôn-khổ của cuộc mưu-toan nổi dậy này.
    -Đả thanh-toán 14 tổ-chức men-sê-vít và bắt giam 540 người, sáu tổ-chức cách-mạng xă-hội thiên-hữu và bắt giam 152 người, bảy tổ-chức xă-hội cách-mạng thiên-tả và bắt giam 52 người, 117 tổ-chức các người trí-thức đủ loại và bắt giam 1360 người, hai mươi bốn tổ-chức bảo-hoàng và bắtgiam 1245 người, 85 tổ-chức đạo và giáo phái cùng bắt giam 1765 người, và 675 nhóm người koulaks bắt giam 1148 người.
    - Trong 2 cuộc ruồng bắt lớn diễn ra vào tháng 2 và tháng 7 năm1924 và trục-xuất ra khỏi các thành-phố Moscou và Léningrad khoảng 4500 tên ăn-trộm, các tên tái phạm, các tên đả theo kế-hoạch nepmen (NEP-các tiểu-thương và các tên thầu khoán nhỏ)
    - Đả cho kiễm-soát và theo-dỏi chặt-chẻ từ mỗi cá nhân, có 18200 người bị xếp vào thành phần nguy-hiểm cho xă-hội.
    - Đả cho canh chừng 15.501 xí-nghiệp và cơ-sở hành-chánh.
    - Đả đọc và kiễm-duyệt 5.078.114 thư từ và các văn thư liên-lạc đủ loại.
    Với các việc làm kể trên đây, với các con số được coi là chính-sác đả nói lên sự lố-bịch trơ-trẻn của chế-độ thư lại, vậy có-thể đáng tin hay không ? Và nằm trong kế-hoạch về ngân-sách của cơ-quan Guépou cho năm 1925 đả nói lên sự kiện là cơ-quan này sẽ không bớt hay là nới tay về việc pḥng vệ và bảo vệ , đây là nhiệm vụ chính-trị chánh của cơ-quan cảnh-sát và tương xứng với ngân-sách được cấp phát. Các dữ-kiện này là tư liệu quư giá đối với các sử-gia , v́ ngoài các con số nêu trên việc hành-sự chuyên-quyền đủ loại tự nó đả nói lên được việc hành sự thường-trực đối với các kẽ thù có tiềm năng, cơ-quan Guépou có một vài hệ-thống bớt hoạt-động nhưng vẩn được đặt trong t́nh-trạng sẳn-sàng hành-động.
    Mặc dầu ngân-sách bị cắt giảm và củng do các lời chỉ-trích không có kết-quả của các viên lảnh-tụ Bôn-sê-vít, các hoạt-động của cơ-quan Guépou c̣n được khuyến-khích bởi các điều mà luật h́nh-sự được sửa đổi cho thêm cứng rắn hơn. Căn cứ trên : Các nghuyên-tắc căn-bản nơi h́nh-luật củ Liên-Bang Sô-Viết, được chấp thuận ngày 31 tháng 10 năm 1924 và Bộ luật mới về H́nh-luật được ban hành năm 1926, đả mmỏ tầm giải-thích rộng-rải hơn những tội ác bị coi là phản cách-mạng và xếp thành luật các người bị coi là nguy-hiễm cho xă-hội mọi hoạt-động dù không nhắm thẳng vào việc lật đổ hay làm suy yếu chính-quyền Sô-Viết và bị coi là phạm nhân đả vi-phạm vào các quyền-lợi đạt được về chính-trị và kinh-tế của cuộc cách-mạng vô-sản. Như vậy đạo luật này sẽ trừng-phạt mọi trường hợp bất-chính và cả các mưu-toan hay ư đồ có dính líu đến các trường-hợp sẽ xảy ra.
    Củng bị xếp loại và coi như thành phần nguy hiểm cho xă-hội tất cả các cá nhân nào đả làm một hành-động nguy-hiễm đói với xă-hội hay là có dính líu hoặc liên-quan đến các giới tội ác hay trong quá khứ đả có một hành-độngnào bị coi là một hiễm nguy. Các người bị chỉ đînh tùy theo các tiêu-chuẩn rất là co giản có thể bị lên án mặc dầu thiếu các bằng chứng là thủ-phạm. Và h́nh luật này c̣n giải-thích rỏ-ràng là ṭa-án có thể cho thi-hành các biện pháp để bảo vệ xă-hội, các người đả bị coi là thành-phần nguy hiểm cho xă-hội v́ đả vi-phạm một khinh tội được xác-định, hay trong trường-hợp bị truy-tố đả phạm phải một khinh tội được xác-định và được ṭa-án phán xét là vô tội vẫn bị coi là nguy-hiểm cho xă-hội . Tất cả các khuynh-hướng được coi là luật h́nh sự của năm 1926 có điều phi-thường, số 28 với 14 phụ chương xác-định các tội danh phản cách mạng đả củng cố căn-bản hợp pháp của các cuộc khủng-bố của chế độ. Ngày 4 tháng 5 năm 1926, Dzerjinski đả gởi một văn thư cho phụ tá của ông là Iagoda, trong văn thư này ông ta nói về một chương-tŕnh rộng lớn để chống lại các sự đầu cơ , đả phân-tích các ranh giới của chính-sách NEP ( tân chính sách kinh-tế chính-trị do Lénine đề ra ) và tinh-thần cuộc nội-chiến thường trực của các người lănh-đạo cao cấp của chế độ, như sau :
    ..Cuộc chiến chống lại các sự đầu cơ có một tính cách quan-trọng cho ngày hôm nay. Chúng ta cần quét sạch ra khỏi thành phố Moscou các phần tử ăn bám và các bọn đầu cơ. Tôi đả ra lịnh cho Pauker thu-thập tất cả các tài-liệu hiện đang có về việc lập phiếu cá nhơn của mổi người dân cư-ngụ tại Moscou để giải-quyết vấn đề này. Cho đến ngày hôm nay, tôi chưa nhận được ǵ cả. Đồng chí có nghỉ rằng chúng ta phải cho thành lập một bộ đặc-biệt để di dân đi khẩn khoang và ngân-sách đặc-biệt này sẽ cho các số tiền mà chúng ta đả tịch-thâu, để đài thọ cho công-tác này. Chúng ta sẽ đưa các phần-tử ăn bám này và gia-đ́nh của họ đến cư-ngụ ở các thành-phố hẻo-lánh và khổ-cực này ở những vùng xa-xôi của đất nước Nga, theo một kế hoạch đả được soạn-thảo trước và được sự chấp-thuận của chính-phủ. Chúng ta cần quét sạch các thành-phố nơi có nhiều trăm ngàn người ăn bám và đầu cơ , họ đang sống sung-túc. Các tên ăn hại này đang lủng-đoạn và tiêu-diệt chúng ta. V́ bọn chúng là thủ-phạm đả tạo nên sự khan hiếm các vật dụng kỹ-nghệ sản-xuất và các hàng-hóa để cung-cấp cho các người nông dân. V́ chúng giá cả đả leo thang và đ̣ng tiền Rúp đả mất giá ? Cơ quan Guépou phải ra tay hành-động liền để giải-quyết vấn đề này với tất cả các nghị-lực của cơ-quan."
    Trong các đặc-điễm khác của chế-độ h́nh-luật Sô-viết có nói đến sự h́nh-thành của hai hệ-thống phân biệt truy tố tội phạm : Một là Tư Pháp, Hai là Hành-Chánh. Và có hai chế độ lao từ : Một do Bộ Nội-Vụ và Một do cơ quan Guépou đảm-trách. Các nhà tù đả có sẳn một hệ-thống củ để giam các tội-phạm bị kết-án do các thủ-tục tố-tụng thường dùng, c̣n có một hệ-thống các trại tập-trung cưởng bách lao-động do cơ-quan Guépou quản-lư để giam-cầm các tội phạm bị kết-án do các thủ-tục tố-tụng đặc-biệt của ngành cảnh-sát chính-trị để xử tất cả các loại tội trạng thuộc về : Phản cách-mạng dưới mọi h́nh thức, các tên đại cường đạo, làm tiền giả và các tội của các nhơn viên cành-sát chính-trị gây ra.
    Năm 1922, chính-phủ đề-nghị lập một trại tập trung lớn ở đảo Solovki, năm ḥn đảo trên Bạch-Hải nằm ngoài khơi vùng Arkhangelsk, và một ḥn đảo lớn có một tu-viện lớn của Giáo-hội Chính-thống Nga. Sau khi đả đuổi các tu-sĩ ở đây đi nơi khác, cơ-quan Guépou đả tổ-chức ở quần đảo nhiều trại tập-trung được mang danh là SLON ( Trại đặc-biệt ở Solovki ). Các số tù nhơn đầu tiên được lấy ra từ các trại ở Kholmogory và ở Pertaminsk đả đến Solovki vào đầu tháng 7 năm 1923. Đến cuối năm con số các tội nhơn lên đến 4000 người và sang đến năm 1927 con số lên đến 15000 người và cuối năm 1928 là 30000 người.
    Một đặc-điễm của các trại ở Solovki là họ áp dụng chế độ tự-quản ngoài viên giám-đóc và vài nhơn viên có trách-nhiệm, tất cả các dịch-vụ của các trại đưu do các phạm nhơn đảm nhận. Các phạm nhân này là cựu cộng-tác-viên và cựu nhơn-viên của cơ-quan Cảnh-sát chính-trị. Các hành-động của các loại người này đả đüa đến một kết-quả là việc chuyên quyền toàn bộ về việc tự quản-trị và làm tăng thêm các đặc-quyền hưởng lợi, được thừa hưởng rộng-rải dưới chế độ củ, v́ các tù nhơn được hưởng quy chế là tù nhơn chính-trị.
    Với chính-sách NEP, cơ-quan hành-chánh của Guépou đả phân loại ra ba hạng tù phạm.
    Hạng thí nhất bao gồm các tù-phạm thuộc về chính-trị, riêng biệt cho các cựu đảng-viên của đảng Men-sê-vít, xă-hội cách-mạng và vô-chính-phủ , các tù phạm này đả đ̣i được ở Dzerjinski và được hưởng một chế-độ chính-trị khoan hồng v́ Dzerjinski củng đả là tủ-phạm chính-trị và đả ở tù 10 năm luôn cả thời-gian bị đưa di lưu-đày. Họ được hưởng một khẩu-phần ăn gọi là khẩu phần chính-trị , được quyền giử một vài vật dụng dùng cho cá nhân, có quyền được nhận báo chí của thơn nhơn gởi vào và không bị bắt buộc làm các việc khổ sai. Đến cuối thập niên 20, quy chế này bị bải bỏ.
    Hạnh hai là hạng đông tù phạm nhiều hơn các hạng khác gồm có các thành phần phản cách-mạng : đoàn-viên các đảng không thuộc phe xă-hội hay vô chính-phủ, các thành-viên của giáo-hội, các cựu sĩ-quan của Nga Hoàng, các cựu công-chức, các người Cosaque, các người đả tham dự vào cuộc nổi loạn ở Kronstadt và ở Tambov, và tất cả các người bị tuyên án theo điều luật số 58 của luật h́nh-sự.
    Hạng thứ ba gồm các tù phạm thuộc luật thường phạm như : ăn cướp, làm tiền giả do các ṭa án Guépou kết-án và những cựu nhơn viên của cơ-quan Tchéka mang các tội loại thường phạm và vi phạm các tội của cơ-quan này.
    Những người Phản cách-mạng bị giam chung với các người này và những người tù phạm thuộc loại luật thường phạm họ tác yêu, tác quái trong trại giam, các người phản cách-mạng phải chịu đựng rất nhiều sự chuyên-chế hoàn toàn, khổ-cực, phải chịu đói v́ phần ăn của họ đả bị những người kia cướp đoạt, với thời tiết quá lạnh vào mùa Đông và qua mùa Hè phải chịu đựng nạn muổi cắn v́ vùng này có quá nhiều ao, hồ. Một h́nh-thức tra tấn thường diễn ra ở nơi dây là bắt các nạn-nhơn ở nơi đây cởi bỏ tất cả quần áo và trói họ lại rồi bắt đùng cả đêm ở ngoài rừng để cho muổi chích. Khi bị bắt buộc phải di chuyển từ trại này qua trại khác, các tù phạm xin được trói hai tay về phía sau lưng, và đó là điều được ghi ở trong bản điều lệ của trại-giam. Đó là cách duy nhất tự-vệ của tù phạm, để khỏi phải bị giết v́ lư do muốn tẩu thoát. Và sau khi đả hạ-sát một tù phạm chỉ cần một báo cáo cộc lốc như vậy. Nhà văn có danh ở trong đám các tù phạm tại Solovki tên Varlam Chalamov, ông thuộc loại các tù phạm về chính-trị và đả viết lên các thăm trạng xảy ra ở nơi này.
    Và với các kinh-nghiệm khai-thác sức lao động khổ-sai của các người từ ở Solovki của cơ-quan Guépou trong những năm nội-chiến, và phương-pháp xữ dụng h́nh-phạt khổ-sai lao-động đả phát-triển triệt để vào các năm 1929. Trong thời-gian từ khi các trại này được thiết-lập, các tù phạm được xữ dụng rất ít vào các việc làm sản-xuất ở trong ṿng các trại, cho đến năm 1925. Bắt đầu từ năm 1926, ban biám-đóc của trại tù ở Solovki đả kư các khế-ước để sản-xuất với các cợquan quốc-doanh và khai-thác hợp-lư nguồn lao-động khổ-sai này thành được một nguồn lợi và không giống như các năm 1919-1920 khác với lư-thuyết khi các trại tập trung đầu tiên được thành-lập là : Lao-động sửa sai và để tái cải-huấn các tù-phạm . Được tái tổ-chức dưới danh-xưng USLON ( Direstion des camps spéciaux du Nord ), Ban lănh-đạo các trại-giam đặc-biệt ở miền Bắc. ; các trại-giam đặc-biệt Solovki được thiết lập thêm rất nhiều nằm rải-rác trên lục địa và khởi đầu ở các vùng ven Bạch Hải. Năm 1926-1927 nhiều trại mới được thiết-lập ở cửa sông Petchora, ở vùng Kem và ở nhiều vùng đất độc ở các ven biển không có người sinh-sống, và đi vào phía sâu trong các vùng này có toàn là những khu rừng gổ để khai-thác. Các tù nhân phải được thực-hành một kế-hoạch và chương-tŕnh sản-xuất và phải thực hiện đủ số cây gổ được hạ xuống và đúng thời hạn chỉ định. Các chương-tŕnh sản-xuất với chỉ số gia-tăng việc cung cấp gổ cho các cơ-quan quốc doanh nên cần thêm một số tù-phạm, và số tù phạm này gia-tăng rất mau và rất nhiều. V́ yếu tố kể trên, bắt đầu từ năm 1929, tất cả các người tù phạm nào bị kết án trên 3 năm đều bị đüa đi về các trại lao-động khổ-sai để tham-gia vào việc sản-xuất và cung-cấp cây-gổ cho các khế-ước đả được kư kết. Biện pháp này đả làm phát-triễn thêm các trại lao-động khổ-sai. Đây là nơi mà có thể nói là pḥng thí nghiệm về lao động khổ-sai, các trại tập trung đặc-biệt ở quần đảo Solovki là khuôn-khổ của một bán đảo khác đang được thai nghén một quần đảo bao la nằm trên toàn một lục địa đó là : Quần đảo Goulag
    Hàng năm cơ-quan Guépou lên án vài ngàn người bị đüa đi đày vào các trại tập trung lao động khổ sai hoặc là bị quản thúc tại gia hoặc cưởng bách đi ở các nơi cư-ngụ khác. đó là các hoạt-động b́nh-thường của cơ-quan này. Ngoài ra họ c̣n mở các cuộc hành quân lớn đàn-áp với các chỉ tiêu đặc biệt. Trong những năm từ 1923 đến 1927 t́nh thế tạm lắng yên, nhờ chính sách NEP tại nước Nga, th́ trên thực tế những nước ở các vùng Liên-Trung-Á và ở Trung-Á ( Transcaucasie và Asie centrale ). Các cuộc hành quân lớn để đàn-áp các phần tử chống đói đả diễn ra với từng giai-đoạn đàn-áp rộng lớn và đẩm máu. Các nước và các sắc dân ở các vùng này đả chống đối lại dữ-tợn các cuộc chinh phục của người Nga hồi thế kỹ 19 và đả bị các người Bôn-sê-vít tái chiếm lại : Xứ Azerbaidjan bị tái chiếm vào tháng 4 năm 1920, Xứ Arménie bị tái chiếm vào tháng 12 năm 1920, xứ Géorgie bị tái chiếm vào tháng 2 năm 1920, xứ Daguestan vào cuối năm 1921, xứ Turkestan với Boukhara vào mùa Thu năm 1920. Họ tiếp tục chống cự lại mảnh liệt với việc Sô-viết hóa. Tháng Giêng năm 1923 Peters, ủy-viên toàn-quyền chỉ huy các cuộc hành quân tái chiếm các vùng nói trên đả báo cáo : Chúng tôi chỉ kiễm-soát các thành phố lớn ở vùng Turkestan. Từ năm 1918 cho đến cuối năm 1920 và trong một vài vùng được kéo dài cho đến năm 1935-1936, một phần lớn của vùng Trung-Á, trừ các thành phố lớn, c̣n do các người basmatchis kiễm-soát. Danh từ batmaschi ( ăn cướp , tiếng của sắc tộc Ouzbek ), mà người Nga dùng để chỉ cho tất cả các sắc-tộc Ouzbeks, Kirghiz, Turkmènes, các sắc-tộc này hoạt động riêng rẻ ở nhiếu vùng khác nhau.
    Tụ điễm chính của cuộc nổi loạn là ở các vùng thung-lũng Fergana. Sau khi tái chiếm được Boukhara vào tháng 9 năm 1920, Ḥng quân phải đương đầu với các cuộc nổi loạn lan tràn về các vùng phía Đông và phía Nam của cựu tiểu quốc Boukhara và các vùng phía Bắc của các đồng cỏ Turkmènes. Các chiến sĩ Basmatchis gồm có các sắc dân đả định cư cùng với các sắc dân du-mục. Đầu năm 1921, bộ tham mưu của Ḥnh-quân đả ước lượng số người đả chống lại họ lên đến 30000 người có vơ-trang. Các người chỉ-huy các cuộc nổi loạn này không được đ̣ng nhất. Có nơi th́ là những thân hào của các làng xă, các tù-trưởng hay là các vị lănh đạo tôn-giáo truyền thống và củng có các người quốc-gia Ḥi-giáo họ không thuộc các sắc dân nói trên như : Ông Enver Pacha, cựu Bộ-Trưởng-Quốc-Pḥng của Thổ-Nhỉ-Kỳ đả tử-trận vào năm 1922 lúc giao-chiến với các lực lượng vũ-trang của cơ-quan Tcheka. Các cuộc nổi loạn của các toán quân basmatchis chỉ có tính cách bất giác, tự nhiên chống lại các người bất-trung ( danh từ của Hồi-giáo chỉ vào những người không cùng đạo ), bọn áp bức người Nga kẽ thù củ tái xuất hiện dưới h́nh thức mới v́ các kẽ thù này cướp đoạt đất đai, các súc vật của họ mà lại c̣n phạm vào thế giới tâm linh của các người Hồi-Giáo. Trận chiến-tranh b́nh-đînh này có tính chất thuộc địa và các người basmatchis đả chống cự lại ṛng rả 10 năm, đối đầu với các đạo quân của Ḥng-quân và các lực-lượng đặc biệt của cảnh-sát chính-trị dưới sự chỉ huy của Bộ Đông Phương của cơ-quan Tcheka. Đến ngày hôm nay, rất khó mà ước lượng dù với con số phỏng chừng, số nạn nhơn của các trận chiến đả xảy ra ở các vùng kể trên.
    Khu vực lớn thứ hai do Bộ Đông Phương của cơ-quan Tcheka ( Guépéou ) là vùng Transcaucasie. Trong ṿng 5 năm bắt đầu từ năm 1920, các vùng đất Daguestan, Géorgie và Tchéchénie đả bị đàn áp củng như các vùng ở Trung-Á. Vùng đất Daguestan đả chống cự lại đến cuối năm 1921. Dưới sự lảnh đạo của cheikh Uzun Hadji ( lảnh tụ tôn-giáo ) của hội đạo Ḥi-giáo của các người Nakchbandis, họ đả chủ-động các người sơn-cước và cuộc chiến đău mang tính cách một cuộc thánh-chiến chống lại những người Nga Xâm lăng. Cuộc chống cự kéo dài suốt một năm và có vài vùng chỉ được b́nh-đînh vào năm 1923 sau khi các người Bôn-sê-vít cho phi cơ oanh-tạc các khu vực rộng lớn và tàn sát các người dân thường.
    Sau 3 năm sống độc lập với một chính phủ Men-sê-vít, vùng Géorgie đả bị Ḥng-quân chiếm đóng vào tháng Giêng năm 1921. Alexandre Miasnikov, thơ-kư của ũy ban Bolchevique của vùng Transcaucasie đả tuyên bố đây là một vụ khó khăn . Đảng Bôn-sê-vít địa phương chỉ quy tụ được lối 10000 đảng viên trong thời gian suốt 3 năm dưới chính-phủ Men-sê-vít. Họ phải đương đầu với một từng lớp trí thức và cựu quư tộc gồm có gần 100000 người, các số người này thuộc loại chống Bôn-sê-vít. Thêm vào c̣n có một mạng lưới mạnh mẽ người men-sê-vít bởi v́ đảng Men-sê-vít vào năm 1920 đả có 60000 đảng viên. Mặc dầu dưới sự chỉ huy của một uỹ-viên của cơ-quan Tchéka Lavrenti Beria mới có 25 tuổi, một người sẽ có được tương lai quan-trọng, cuộc đàn áp đả diển ra với sự tàn ác quá sức tưởng-tượng v́ cơ quan Tcheka ở đây được quyền tự-trị, không chịu sự chi phối của trung-ương ở Moscou. Các người Men-sê-vít bị lưu đày vào cuối năm 1922 đả hợp tác với các tổ chức chống Bôn-sê-vít khác, tổ chức một Uỹ Ban Bí Măt dành độc-lập cho vùng Géorgie để nổi loạn. Khởi loạn được bắt đầu vào ngày 28 tháng 8 năm 1924 ở tỉnh nhỏ Tchiatoura, và trong ṿng 5 ngày sau đó cuộc nổi loạn lan tràn ra khắp 25 địa hạt ở vùng Gourie, và số đông các người nông dân đả tham dự cuộc nổi loạn này. Cuộc nổi loạn này đả bị dẹp tan trong ṿng một tuần lễ v́ các lực lượng Hồng-quân có quá nhiều lính và họ lại có thêm phi-cơ oanh tạc và pháo-binh yễm trợ. Sergo Ordjonikidze, đệ nhứt bí thư của Ủy ban Đảng bôn-sê-vít vùng Transcaucasie và Lavrenti Beria lấy cớ về cuộc nổi loạn này để : Thanh toán một lần cho dứt khoát các người Men-sê-ví và các quư-tộc gốc người Géorgie. Với các con số ghi trên các văn thư vừa được cho phép tham khảo, 12578 người đả bị xử bắn trong thời-gian từ ngày 29 tháng 8 năm 1924 cho đến ngày 5 tháng 9 năm 1924. Tính rộng lớn của cuộc đàn áp này đả làm Bộ-Chính-Trị của đảng Bôn-sê-vít súc động. Ban lănh đạo của Bộ-Chính-Trị liền kêu gọi Đảng bộ địa phương trở về trật tự, và ngưng các cuộc tàn sát một số lớn v́ không tương ứng cùng với cuộc nổi loạn, đùng hành quyết các người chính-trị mà không được ũy ban trung-ưöng cho phép. Nhưng các vụ hành quyết đon giản tiếp tục trong nhiều thang. Vào cuộc họp toàn đảng của Ũy Ban Trung Ương ở Moscou vào tháng 10 năm 1924, Sergo Ordjonikidze, đả báo cáo Có lẽ chúng tôi đả hành động hơi quá đáng, nhưng không thể không có một cái ǵ cả .
    Một năm sau các cuộc đàn áp tháng 8 năm 1924 chống lại các người nổi loạn ở Géoegie, chế độ lại cho thi hành một cuộc hành quân lớn để b́nh đînh ở vùng Tchétchénie, nơi đây ai củng nói là chính quyền So-viết không có nơi đây . Từ ngàby 17 tháng 8 đến ngày 15 tháng 9 năm 1925, trên 10 000 Ḥng quân dưới sự chỉ huy của tướng Ouborecitch, với sự yễm trợ nơi cánh quân lực lượng đặc biệt của cơ quan Guépou, bắt đầu tước vỏ khí các thân binh người Tchetchène. Cả chục ngàn vũ khí đả bị tịch thu và 1000 tên ăn cướp đả bị bắt giam. Trước sự kháng cự của dân chúng viên chỉ huy Guépou tên Ounchlicht, đả nh́n nhận là phải kêu pháo binh nặng và phi cơ oanh-tạc các tổ kháng cự của bọn ăn cướp . Cuộc b́nh đînh ở vùng này được diễn ra vào thời điễm mà người ta gọi là cực điễm của chính-sách NEP , trong bản phúc-tŕnh Ounchlicht đả viết : Qua các kinh nghiệm chiến đău chống lại bọn basmatchis ở Turkestan, chống lại bọn ăn cướp ở Ukraine, ở tỉnh Tambov và các nơi khác, các cuộc đàn áp dùng quân lực chỉ có hiệu lực với cách là phải được Sô-viết hóa ở tại các nơi này và cần đi xâu vào các vùng hẻo lánh xa-xôi .
    Cuối năm 1926,sau cái chết của Dzerjinski, cánh tay mặt của ông là Viatcheslav Rudolfovitch Menjinski, người gốc Ba-Lan củng như Dzerjinski, đả được Staline cất nhắc lên làm chỉ-huy cơ-quan Guépou. Lúc này Staline đang âm-thầm mưu toan chống lại Trotski và Boukharine. Tháng Giêng năm 1927, cơ-quan Guépou được lịnh thi-hành mau lẹ việc lập các phiếu cá nhơn các thành phần nguy-hiễm đối với xă-hội và chống lại sô-viết , ở các thôn quê. Trong ṿng một năm con số người bị ghi vào các phiếu từ khoảng 30 000 tăng lên 72 000 người. Đến tháng 9 năm 1927, cơ-quan Guépou đả cho phát động trong nhiều tỉnh, nhiều đợt bắt giam các người koulaks và các phần tử nguy hiểm đối với xă-hội . Các đợt lùng bắt này được coi là cuộc thí-nghiệm đầu tiên hay là các cuộc thực-tập dự bị cho cuộc bố ráp lớn để thi-hành kế-hoạch giải-thể các người koulaks , sẽ được phát động vào mùa Đông 1929-1930.

  4. #14
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Phần 1. Chương 6 (tt)

    Năm 1926-1927, cơ-quan Guépou củng tích cực hoạt-động trong việc lùng bắt các người chống đối chế độ cộng-sản và gán cho các người này danh-từ thân Zinoviev hay là trốt-kít. Việc thực thi làm phiếu cá-nhơn để theo dỏi các người chống cộng đả được bắt đầu sớm hơn vào các năm 1921-1922. Tháng 9 năm 1923, Dzerjinski đả đề-nghị siết chặt lại ư-thức chủ-nghỉa của Đảng. Các người cộng-sản phải cam-kết báo cho cơ-quan cảnh-sát chính-trị mọi tin-tức mà họ biết về sự hiện-diện của các thành-phần sai-lệch, xét lại ở trong ḷng Đảng. Đề nghị này bị một sự phản đối của một số lảnh tụ, trong đó có Trotski. Nhưng thói quen cho canh chừng các người chống đối đả được phổ biến rộng rải các năm sau đó. Cuộc thanh-trừng ( purge ) của tổ-chức cộng-sản của thành-phố Léningrad, do Zinoviev chỉ huy ; xảy ra vào tháng Giêng và tháng 2 năm 1926 đả làm liên lụy nhiều vào cơ-quan Guépou. Các người chống đối không những bị đuổi ra khỏi đảng và vài trăm người trong số này bị bắt buộc đi lưu đày ở các thành-phố xa-xôi và số phận của họ rất là bấp bênh v́ không một ai giám cho họ một việc làm để kiếm sống. Đến năm 1927, cuộc lùng bắt các người bị liệt vào danh sách là trốt-kít, có độ vài ngàn người, đả huy động trong nhiều tháng vào một phần các cơ sở của cơ quan Guépou. Tất cả những người này đả bị ghi tên vào các phiếu cá nhơn, hàng trăm người trốt-kít đang hoạt động bị bắt đưa đi đày ở nơi khác bằng các biện pháp hành chánh. Vào tháng 11 năm 1927, các lănh tụ Bôn-sê-vít chống đối lại Staline là : Trotski, Zinoviev, Kamenev, Radek, Rakovski, đều bị khai trừ ra khỏi Đảng và bị bắt giam. Tất cả mọi người nào từ chối làm tờ tự kiễm thảo công khai, đều bị đưa đi lưu đày. Ngày 19 tháng Giêng năm 1928, báo Prava đả loan tin Trotski và một nhóm 30 người chống đối, bị đày đi Alma-Ata. Một năm sau Trotski bị trục xuất ra khỏi Liên-Bang Cộng-ḥa Sô-viết. Việc biến đổi một nhân vật chính tạo ra cuộc khủng bố Bôn-sê-vít , thành ra một người phản cách mạng là một chặn đường mới được vượt qua, với trách nhiệm của người hùng mới của Đảng : Staline.
    Đầu năm 1928, sau khi loại trừ phe Trotski chống đối lại chủ trương của phe Staline, đa số đảng viên của Bộ Chính-trị của Trung-Ương Đảng Cộng-sản Sô-viết đả quyết đînh chấm dứt cuộc hưu chiến chống lại toàn xă-hội Nga v́ xă-hội này trên con đường tiến-triễn đả đang đi khác với những kế-hoạch của người Bôn-sê-vít mong muốn đạt được.
    Củng giống như những ǵ đả xảy ra ở 10 năm về trước, kẽ thù chính vẫn là giới nông dân mà các người Bôn-sê-vít coi là một khối người không thể kiễm-soát được, chống đối họ và vô kỹ-luật. Và khởi điễm của cuộc nội-chiến thứ hai chống lại toàn khối các người nông dân như sử gia Andrea Graziosi đả nhận định và lần này các diễn tiến sẽ khác hơn lần trước. Tất cả các sáng kiến đều do nhà nước phát động, các thành phần xă-hội không c̣n có khả năng để phản ứng và các cuộc chống đối chỉ yếu dần đi không c̣n gây được một ảnh hưởng ǵ cả.
    Sau các tai biến xảy ra trong những năm 1918-1922, nên nông nghiệp đả có thể coi như là toàn thể phục hồi ; những người nông dân bị coi như là các kẻ thù của chế độ đang suy yếu toàn thể và nhà nước đả trở thành mạnh hơn vào những cuối năm của thập niên 20. Chính quyền đả nắm vững t́nh thế và hiểu biết những việc ǵ đả diển ra ở các làm xóm, việc thiết lập các phiếu cá nhơn các người bị xếp vào loại thành phần nguy hiễm cho xă-hội cư ngụ ngoài các thôn làng . Các yếu tố này đả cho phép cơ-quan Guépou hành động hữu-hiệu khi họ cho thi hành các cuộc bố ráp (rafles) đầu tiên trong chiến dịch giải thể người koulak , việc tiêu diệt lũy tiến và thực sự các người nông dân chống đối bị gán cho từ ăn cướp , tước đoạt các vũ khí của các người nông dân và việc trưng binh khi cần trong các cuộc hành quân. Với con số người phục ṭng chịu lịnh trưng binh và việc phát triễn một hệ thống bao vây và kiễm soát các trường học. Căn cứ trên các văn thư liên lạc giửa các người lảnh đạo bôn-sê-vít và các bài viết bằng chử viết tắt tóm tắc các lời phát biểu của các người này, dưới sự giám sát của Staline, và củng có khi với sự hiện diện của các người chống đối là : Kamenev, Rykov và Boukharine họ củng đả đo lường được các hậu quả mà xă-hội sẽ phải gánh chịu khi các cuộc tấn công đầu tiên được phát động vào năm 1928, vào toàn thể khối nông dân. Boukharine đả viết xong một văn thơ gởi cho Staline : Tôi báo trước cho đồng chí là sẽ xảy ra một cuộc chiến ở nông thôn. Nhưng Staline đả sẳn-sàng chấp nhận , dù phải trả với mọi giá và lần này chế độ sẽ chiến thắng.
    Việc thu mua các sản phẫm nông nghiệp vào năm 1927 đả gặp cơn khủng hoảng ; Staline viện cớ này và củng là điều ông mong muốn. Tháng 11 năm 1927, số lượng nông sản do các cơ-quan thu mua của nhà nước, đả ít đi quá mức và qua đến tháng 12 th́ số lượng này đả tụt xuống một cách thê thăm. Đến qua tháng Giêng năm 1928, mặc dầu được mùa, các cơ-quan thu mua chỉ thâu đạt được có 4.800.000 tấn nông sản thay v́ năm trước đả thâu đạt được 6.800.000 tấn. V́ giá mua quá hạ do nhà nước định giá, ngược lại giá các sản-phẫm kỹ-nghệ do nhà nước cung cấp lại quá cao và khan hiếm. Các cơ-quan thu mua của nhà nước bị xáo-trộn v́ có tin đồn là sẽ xảy ra nội chiến và toàn thể khối các người nông dân đều bất mản v́ cuộc khủng hoảng này. Với các diễn tiến trên Staline coi đó là cuộc đ́nh công của người koulak .
    Nhóm các lảnh tụ phe Staline viện cớ v́ các diễn biến ở trên, để lập lại các tổ trưng dụng và cho thi hành nhiều biện pháp đàn áp đả được thực-hiện vào thời chiến-tranh của cộng-sản đả xảy ra mấy năm về trước. Staline đích thân đi thăm vùng Sibérie. Các người lảnh tụ khác : Andreiev, Mikoian, Postychev hay Kossior, đi tham quan các địa phương sản xuất nhiều nông-sản, các vùng đất đen là vùng Ukraine và phía Bắc vùng Caucase. Một văn thơ của Bộ Chính-Trị của Trung-Ương Đảng Cộng-sản đề ngày 14 tháng Giêng năm 1928 gởi cho các chính-quyền địa-phương, ra lịnh cho họ phải bắt giam những người đầu cơ , các người koulak và các người phá rối thị trường cùng chính sách giá cả . Và củng giống thời-gian năm 1918-1922, chính-sách trưng dụng được áp dụng, các viên toàn quyền được phái đi, cùng các phân đoàn lảnh-tụ cộng-sản, về các vùng nông-thôn để thanh-trừng các chính-quyền địa phương bị coi là quá dể dải đối với các người koulak. Các vị toàn quyền này hứa với các người nông dân rằng nếu họ tố cáo các nơi cất giấu các nông sản, họ sẽ được thưởng cho một phần tư các nông-sản giấu diếm được tịch thâu từ các người nông dân đả dấu.
    Để trừng phạt các người nông dân cứng đầu nhiều biện pháp đả được nghỉ ra. Nếu họ không chịu giao nạp số nông-sản mà họ bị bắt buộc phải giao nạp cho các tổ thu mua và được trả rẻ hơn từ 4 đến 5 lần so với giá trên thị trường, th́ họ sẽ bị phạt như sau thay v́ phải nạp cho đủ số 1 tấn được chỉ định ; họ sẽ bị phạt là phải nạp từ 2, 3 hoặc 4 tấn. Điều 107 bộ H́nh-luật Sô-viết đả dự định là sẽ bị kết án ba năm tù giam mọi hành động làm giá cả gia tăng đả được áp dụng bừa bải. Và sau hết là các sắc thuế dành cho các người koulak đả được tăng lên gấp 10 lần trong ṿng 2 năm. Người ta ra lịnh cấm họp chợ , biện pháp này không có ảnh hưởng đến các người nông dân khá giả. Trong ṿng vài tuần lể, các biện pháp kể trên đả làm tan vở t́nh thế tạm ngưng đấu tranh được diễn ra từ các năm 1922-1923 để giảm đi các mối xung khắc giửa chế độ với các nông dân. Các cuộc trưng dụng và các biện pháp đàn áp chỉ tạo thêm các đổ vở cho cuộc khủng hoảng ; liền khi ấy chính quyền đả dùng vũ-lực và các tổ thu mua chỉ thu được một số nông-sản kém hơn một ít số nông sản đả thu mua được vào năm 1927. Để phản ứng lại, người nông dân đả tự giăm bớt diện tích canh-tác trồng các ngũ cốc.
    Cơn khủng hoảng thu mua đả xảy ra vào mùa Đông 1927-1928 đả đóng một vai tṛ quyết định cho các diển biến của đời sống xă-hội về sau : Và v́ thế, Staline sau khi đả nghiên cứu nhiều bài kết luận về việc phải cho thành lập các pháo đài của chủ-nghỉa xă-hội ở các vùng nông thôn, các hợp tác xă sản xuất nông-nghiệp ( kolkhozes ) và các nông trại lớn sản xuất nông nghiệp ( sovkhozes ) và tất cả đều là tài sản của nhà nước, thi hành tập thể hóa nền nông-nghiệp để dể bề kiễm soát các sản lượng nông sản sản xuất ra và kiễm soát các người sản xuất ra các nông sản để khỏi phải chịu các luật của kinh tế thị trường. Và sau hết là để trừ bỏ các người koulak và tiêu diệt họ như là một giai cấp.
    Năm 1928, chế độ củng chấm dứt t́nh-trạng tạm ngưng đấu tranh đối với một giai cấp xă-hội khác, các người spetzy các chuyên viên trung lưu trưởng giả xuất phát từ giới trí thức của chế độ củ, v́ vào các năm cuối thập niên 20, họ c̣n được lưu dụng ở các chổ quan trọng ở các xí-nghiệp quốc doanh và các cơ-quan hành chánh. Nhơn cuộc họp các lảnh tụ của Ủy Ban Trung Ương Đảng vào tháng 4 năm 1928, ủy ban này đả ra một thông báo là vừa khám phá ra một âm mưu phá hoại kỹ-nghệ ở trong vùng Chakhty, một vùng mỏ than ở Donbass, xảy ra tại đại xí nghiệp hổn hợp gan thép Donougol c̣n lưu dụng nhiều chuyên viên trung lưu trưởng giả và đại xí-nghiệp này c̣n có nhiều liên-lạc tài chính với các giới tài chính phương Tây. Vài tuần lể sau, năm mươi ba người bị cáo, phần lớn là các kỹ-sư và các chuyên viên điều-khiển xí-nghiệp, bị đưa ra trước ṭa án có sự hiện diện của công chúng và là phiên ṭa đầu tiên từ khi có những vụ xữ án các người xă-hội cách mạng vào năm 1922. Mười một người bị cáo bị lên án tử h́nh và 5 người đả bị hành quyết. Các cuộc xử án gương mẫu này, được các báo chí đăng đi, đăng lại rất lâu đả nêu lên các huyền thoại của chế độ, đó là các tên phá hoại, tay sai ăn lương của ngoại bang và huyền thoại này nó động viên các lănh tụ cùng các người điềm chỉ của cơ-quan Guépou. Để giải-thích mọi thất bại về kinh tế, và luôn để trưng dụng các chuyên viên mới cho các văn pḥng mới lập của ngành xây dựng đặc biệt của cơ quan Guépou được biết với danh xưng là : Charachki. Cả ngàn người kỹ-sư và chuyên viên bị kết án phá hoại đả thọ án của họ ở các nông trường và ở các xí nghiệp hàng đầu. Những tháng sau cuộc xử án ở Chakhty, ngành phụ trách kinh tế của cơ quan Guépou đả tạo ra nhiệm vụ xử án tương tự ở Ukraine. Riêng ở đại xí nghiệp luyện kim Iougostal ở vùng Dniepropetrovsk, đả có 112 người chuyên viên bị bắt vào tháng 5 năm 1928. Không riêng ǵ các chuyên viên điều khiển các xí nghiệp là nạn nhơn của các chiến dịch chống các chuyên viên được phát động vào năm 1928. Nhiều giáo sư và sinh-viên bị đuổi ra khỏi ngành giáo dục cao đẳng v́ họ thuộc thành phần xă hội ngoại lai trong nhiều đợt thanh-trừng được phát động tại các trường đại học để thăng trật trong một đợt các người trí-thức Đỏ và vô sản .
    Với lối hành sự cứng rắn hơn các cuộc đàn áp và các khó khăn về kinh tế của những năm sau cùng của chính sách NEP, thêm vào nạn thất nghiệp gia tăng, các tệ đoan xă-hội củng nhiều hơn khiến các khinh tội củng gia tăng. Các vụ tuyên án về tội phạm h́nh đả gia tăng một cách ngoạn mục : 578 000 vụ vào năm 1926, 709 000 vụ vào năm 1927, 909 000 vụ vào năm 1928 và 1 178 000 vụ vào năm 1929 !.. Các nhà tù bị đầy nghẹt các tù phạm v́ khả năng chứa các nhà tù này chỉ có thể chứa tối đa lối 150 000 người. Để giải tỏa các nhà tù và để thích ứng với số tù nhân gia tăng, vào năm 1928 chính phủ đả đưa ra hai quyết nghị quan trọng. Quyết-nghị thứ nhất là ban hành đạo luật ngày 26 tháng 3 năm 1928 : đối với các tội phạm nhẹ, các người bị án sẽ được giam trong một thời gian ngắn sau đó, phải đi phục vụ cải tạo không lănh lương ở các xí nghiệp, các công trường xây dựng hay là khai thác lâm nghiệp . Quyết-đinh thứ hai là đạo luật được ban hành vào ngày 27 tháng 6 năm 1929, và đả có nhiều kết quả rộng lớn : Tất cả các phạm nhơn bị kêu án trên ba năm tù giam, sẽ bị chuyễn đi phục vụ ở các trại tập trung lao động khổ sai ở các vùng phía Đông và các vùng nơi phía Nam để khai thác các tài nguyên thiên-nhiên của đất nước , ư đồ này đả được dự tính từ nhiều năm trước. Cơ quan Guépou đả hoạch định một chương-tŕnh lớn khai-thác cây gổ để xuất cảng ; v́ lẻ trên cơ-quan Guépou đả đ̣i hỏi nhiều lần Nha Đặc Trách các nhà tù phải cung cấp thêm các tù nhơn để chuyển qua các trại đặc biệt ở Solovki, v́ năm 1928 con số tù ở nơi này chỉ có 38 000 người, không đủ để đăm trách cho đạt được con số cây gổ mà cơ-quan Guépou đả đưa ra quá cao.
    Công việc sửa soạn cho kế hoạch 5 năm đả đặt lại trật tự vấn đề phân phối nhân công và khai thác các vùng hẻo lánh khó sống nhưng lại có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Dưới diện này các người nhơn công không dùng đang nằm trong các nhà tù, nếu được khai thác đúng độ có thể sẻ là một nguồn lợi tức mới nếu việc kiễm soát và quản lư đúng đắn là thêm một nguồn lợi tức, có ảnh hưởng cùng có thêm quyền lực. Các người lảnh đạo cơ-quan Guépou, và riêng Menjinski và viên phụ tá là Iagoda, được Staline ủng hộ đả đ̣ng ư thức được các thành quả của việc này. Qua mùa hè năm 1929, họ cho phát động một kế hoạch quá cao để khẩn hoang một vùng rộng lớn gồm có 350 000 cây số vuông . Các khu rừng ( taiga ) ở vùng Narym-Sibérie thuộc về miền Tây. Họ không ngừng đ̣i thi hành đạo luật ngày 27 tháng 6 năm 1929, và năm trong khuôn khổ các dẩn giải trên mới nảy sinh ra ư-nghỉa tạo ra cuộc giải thể các người koulak v́ theo quan niệm của các giới chính thức là các người koulak sẽ chống lại việc tập thể hóa nền nông nghiệp.
    Nằm trong khuôn khổ nội bộ của Đảng Cộng-sản Nga, Staline và các người đứng về phía của ông, đả cần một năm để thuyết-phục các thành viên khác hưởng ứng kế hoạch của ông. Chính sách cưởng bách tập thể hóa nền nông-nghiệp, chính sách giải thể các người koulak , gia tăng tốc độ phát-triển kỹ-nghệ, ba chính sách kể trên nằm trong một chương-tŕnh dính liền với nhau, để biến đổi một cách phủ phàng nền kinh tế và xă-hội. Chương-tŕnh này củng đưa đến việc dứt bỏ các cơ-cấu của nền kinh-tế thị-trường và việc khai-thác các tài nguyên thiên-nhiên ở các vùng hẻo lánh khó sống bằng sự cưởng bách lao động đối với cả triệu người bị phóng truất - bị đày , các người koulak bị giải thể, các cuộc tịch thâu điền địa của nông dân và các nạn nhơn khác của cuộc cách mạng thứ hai này.
    Các người chống đối đường lối của chính sách do Staline đề ra là Rykov et Boukharine. Hai người này coi việc tập thể hóa nền nông nghiệp là trở về thời bốc lột quân sự-phong kiến các người nông dân ; việc làm này sẽ đüa trở lại cuộc nội chiến phát động khủng bố, sự hổn độn sẽ xảy ra và sau đó là nạn đói kém sẽ xuất hiện. Sang đến tháng 4 năm 1929, các phe chống đối bị khai trừ ra khỏi Đảng. Trong mùa Hè năm 1929, các phần tử hữu huynh bị đả kích hàng ngày trên các báo chí và một chiến dịch báo chí mảnh liệt tố cáo rằng họ đả hợp tác với các phần tử tư-bản và thông lượng với các bọn trốt-kít. Bị hoàn toàn thất sủng, các đảng viên chống đối công khai đả làm bản tự kiễm thảo vào tháng 12 năm 1929 tại cuộc họp các lảnh tụ của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng-sản Nga.
    Trong lúc ở trên các lớp đảng viên đang bàn thảo để coi ai theo, ai chồng lại về vấn đề hủy bỏ chánh sách NEP do Lénine chủ xướng, th́ Sô-viết đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế mỗi ngày mỗi trầm trọng thêm lên. Các thu hoạch về canh nông của năm 1928-1929 đả giăm sút một cách thê thăm. Mặc dầu đả dùng nhiều biện pháp cưởng chế đối với đoàn thể các người nông dân như : phạt tiền rất nặng, bỏ tù những người nào từ chối bán các sản phẫm của họ cho chính quyền, chiến dịch thu mua các nông sản của mùa Đông 1928-1929 chỉ thu mua được một số lượng nông-sản ít hơn năm trước và v́ vậy đả tạo ra một bầu không khí căng thẳng ở các vùng nông thôn. Cơ quan Guépou để kiễm kê, từ tháng Giêng năm 1928 cho đế tháng 12 năm 1929, đả xảy ra trước khi có việc cưởng bách thu mua. Có 1300 vụ quần chúng biểu t́nh và bạo động đả xảy ra ở các vùng nông thôn tạo đến việc có cả chục ngàn người nông dân tham gia và bị bắt giam. Một con số khác đả nói lên t́nh h́nh của nước Nga vào thời ấy : năm 1929 vào tháng 2 đả có 3200 cán bộ của chế độ Sô-viết đả là nạn nhơn của các vụ bạo động ? Củng vào tháng 2 năm 1929, các thẻ tiếp tế lương thực đả lại được tái cấp phát . Các thẻ tiếp tế này đả được hủy bỏ khi nhà nước cộng-sản Sô-viết thi hành chính sách NEP v́ để đáp ứng với việc khan hiếm thực phẫm khi các Ủy Ban Sô-viết ra lịnh đóng cửa các cửa hàng tiểu thương và các nhà tiểu công-nghệ lại bị coi là xí-nghiệp tư-bản.
    Đối với Staline, t́nh h́nh nguy kịch của nền canh nông là do các hành động của các người Koulak, và các thành phần chống đối khác, họ đang Âm mưu-đánh bằng ḿn vào chế độ sô-viết. Sự việc đả rỏ ràng để chọn lựa : Các tên tư-sản nông-thôn hay các khu tập thể hóa nông-nghiệp tên gọi là Kolkhozes. Tháng 6 năm 1929 chính phủ cho phát động toàn diện một kế-hoạch tập thể hóa toàn bộ nông dân ; mục tiêu của kế-hoạch 5 năm này, là được xét lại để tăng lên, đả được Đại hội thứ 16 của Đảng Cộng-sản chuẩn y. Kế-hoạch này dự định sẽ tập thể hóa 5 triệu trung tâm, tức khoảng 20% các cơ sở sản-xuất, từ nay cho đến ngày kết thúc kế-hoạch 5 năm. Qua đến tháng 6 người ta loan báo riêng cho năm 1930 sẽ có 8 triệu trung tâm, rồi sang đến tháng 9 con số này lên đến 13 triệu trung tâm. Mùa Hè năm 1929, chính quyền đả động viên vài chục ngàn người đảng viên cộng-sản và các đoàn viên các nghiệp đoàn, các thanh niên cộng-sản ( les komsomols ), các công nhơn và các sinh-viên, tất cả đều được đưa đi về các vùng thôn quê, những nơi sản xuất ra lương thực và đặt tất cả dưới sự hướng dẫn của các đảng viên địa phương và cơ quan Guépou. Áp lực vào các người nông dân gia tăng lên ; các tổ chức địa phương của Đảng thi đua để tranh các thành tích kỷ lục về việc tập thể hóa . Ngày 31 tháng 10 năm 1929, báo Pravada loan báo đả hoàn thành toàn bộ việc tập thể hóa không giới hạn các phong trào. Một tuần lể sau, nhơn dịp kỷ niệm lần thứ 12 củ cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917, Staline đả viết một bài báo phi thường dưới tựa đề : Khúc quanh lớn căn cứ các điều sai lầm căn bản và nhận định : Các người nông dân đả quay trở về các khu Tập thể hóa khai thác nông-nghiệp Kolkhozes . Chính sách NEP của Lénine đă bị cáo chung.

    Xem tt >> http://www.viet.no/forum/viewtopic.php?t=1295 &postdays=0&postorde r=asc&start=10

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •