Results 1 to 2 of 2

Thread: Bước Đường Gai Góc

  1. #1
    Member
    Join Date
    05-09-2010
    Posts
    154

    Bước Đường Gai Góc

    Bầu trời xám xịt, gió ở đâu mà gió lộng bốn bề, mưa không thành hột mà đan kín bầu trời một màng bụi nước…Gió Đông Bắc phải đến cấp 3, cơn gió rét buốt như có ngàn mũi kim nhọn châm chích vào da mặt, tôi nh́n thấy mặt thằng Minh xanh đen, thằng bạn tù đang cùng tôi sang mai đống đất nằm giữa sân trống trải, hai thằng phải sang cho hết bánh đất nầy để kịp có đất chạy máy chiều nay.
    Đội làm gạch bây giờ chỉ c̣n có 12 nhân mạng. Trung sĩ Từ làm cán bộ quản giáo thay thế thượng úy Đào Thường.Trước đây đội làm gạch trên 50 tù, cùng cấp bậc trung úy, cùng từ trại Mỹ Phước Tây chuyển ra đây. 50 trung úy người miền Nam, trừ Phan văn Ḥa và Hoàng Trọng Hanh là người miền Bắc. Hanh được chuyển qua đội rau của Phạm Thái. Ḥa th́ ở tại buồng làm trực sinh, v́ toàn trại Hà Tây (vào năm 1978) chỉ có đội gạch có hiện trường ngoài ṿng rào trại, hiện trường bên kia đường đối diện với cổng ra vào, cạnh đội nông nghiệp và đội rau xanh do nhóm tù h́nh sự đăm trách.Cách khoảng trăm thước là văn pḥng ủy ban nhân dân xă Mỹ Hương.
    Bởi nhân sự ít mà công việc vẫn như cũ, nên trong lao động hàng ngày anh em tù hết sức vất vả, một phần v́ thời tiết quá lạnh chưa quen được với đám dân miền Nam, một phần do ăn uống thiếu thốn quá, sức khỏe của hầu hết anh em đều giảm sút, dù mới có 3 năm tù và cũng là mùa đông đầu tiên trên đất Bắc.
    Bánh đất phải sang mai cho nhuần nhuyển, khi hoàn thành bánh đất dưới dạng h́nh chữ nhật khoảng 4m x 8m x 5tấc, dùng kéo cắt đất thành những cục vuông cho vào xe cải tiến đẩy tới pḥng máy chạy ra gạch mộc.Sang mai không nhuần nhuyển, cục gạch mộc ra khỏi họng máy nh́n là biết liền, bởi nó bị bộng, bị rổ. Nhớ lúc mới ra đội, quản giáo bảo tôi vào kho lấy kéo cắt đất, tôi vào t́m hoài không thấy kéo đâu cả…th́ ra kéo là một khung sắ tgần bằng ngón tay út,có h́nh chữ U, mỗi cạnh khoảng 3 gang tay, hai đầu chữ U là 2 mũi nhọn, có căng một sợi dây cước thật thẳng, khi sử dụng, một đầu cấm lút vào khối đất, dùng tay xoay đầu kia thành một góc 180 độ, thế là cục đất rời ra khỏi khối đất có thể tích 3 gang tay, mỗi cục đất cắt ra đều đặn bằng nhau.
    Ngày đầu mới ra ḷ gạch, anh em nh́n thấy đống đất đều lắc đầu ngao ngán, nh́n đất cao to gắp đôi ḷ gạch, chân đế gắp 4 cây rơm ở miền Nam, anh em cười bảo làm xong đống đất nầy th́ về.. Lại có ư kiến khác:
    -Chừng nào có Bao Công tới, chừng nào có Con Trốt hốt măo Bao Công, chừng đó Lư Thần Phi mới được giải oan…
    Rồi đống đất cao nầy cũng lần lượt biến thành gạch, loại gạch thẻ.Khi nguồn đất cạn kiệt, ḷ gạch cũng đóng cửa, tù chuyển qua lao động trồng rau xanh.
    Đất sang mai nhuần nhuyển được chỡ tới dàn máy nằm trong một nhà lều cất bằng sườn tre che giấy dầu, loại máy thô sơ, gồm một phểu ăn đất, mỗi lần ăn khoảng 3 tấc khối đất, đất xoay đều chạy ra ống máng có h́nh chữ nhật, có cần gạt tay, cắt dây đất ra mỗi lần thành 4 viên gạch, gạch ra có một anh đứng trước họng máy dùng tay bê xuống vĩ, một anh khác cho lên xe đầy ra sân phơi…, cục gạch mộc nặng khoảng 2,3 kilô, nắng phơi, mưa che, tối đậy cho đến khi cục gạch khô cứng th́ được chuyển vào kho chờ ngày đủ số chuyển chất vô ḷ…Chất vô và ra ḷ mới gian nan, gạch gánh theo chỉ tiêu, mỗi tù mỗi ngày phải gánh mấy ngàn viên gạch, cửa ḷ nằm cao hơn mặt đất khoảng 3 thước, đi lên bằng một con dốc thoai thoải, vào cửa ḷ lại phải xuống con dốc .. Ra được mấy ḷ gạch, anh em trông xơ xác đi nhiều.
    Gạch ra ḷ thành phẩm được chất thành từng kiêu, mỗi kiêu 200 viên gạch, gạch nầy được chuyển giao cho họp tác xă của xă, của huyện đổi lấy lương thực hay tiền mặt tùy từng khi.Viên gạch đặc ruột gần giống như viên gạch thẻ trong Nam, nung chín rồi vẫn rất nặng. Khi đội c̣n đủ tù số, tôi thuộc hạng yếu nên được phân công xếp gạch, cũng như lấy gạch khi ra ḷ chất cho anh em gánh..Một lần đi dở phên che gạch buổi sáng tôi nh́n thấy một con ếch to bằng bàn tay, đây là lần đầu tiên trong đời tôi bắt được con ếch, tay cầm chặc con ếch, tôi không biết phải làm sao đây, chặt đầu ếch? Tôi chưa dám, nhờ bạn làm giùm th́ phải chia phần… Tôi cầm con ếch mà ḷng cứ phân vân lưỡng lự, sau cùng cái thèm cái đói đă thắng, tôi run run cầm dao chặt mạnh xuống đầu con ếch, nh́n hai bàn tay ếch chấp lại, tôi thấy ḷng nao nao…Con ếch được tôi lột da nướng trên lửa than đá… Tôi ăn con ếch nướng, một cảm giác ngon chưa từng có…tôi cảm thấy như tôi khỏe ra dù h́nh ảnh con ếch chấp hai tay như van như lạy vẫn c̣n ám ảnh .. và h́nh ảnh nầy vẫn c̣n măi trong tâm trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại…cũng như vị ngọt, dai thơm ngon của đùi ếch nướng.
    Thời gian nầy tôi nằm kế bên Hậu ở từng trên, Hậu thọat nh́n trông rất vô tư…Dáng người vừa phải, không muốn nói là hơi ốm yếu,anh xuất thân khóa 23 Đà Lạt, cái ăn dù rất ít ỏi nhưng anh h́nh như không bao giờ phàn nàn, phát sao anh ăn vậy. Trại phát quần tà lỏn nhưng không có giây thun, anh mặc vận lên hai cục hai bên, mỗi lần anh đi lại, đồng hồ dù pin đă yếu nhiều vẫn lắc lư nh́n khêu gợi lắm. Anh cũng ít giao tiếp chuyện văn với các anh em khác, anh chỉ biết tên vài người nằm cạnh anh, chung tổ anh, gánh gạch anh gánh vừa sức anh, đội trưởng, quản giáo có bảo gánh thêm anh cũng thản nhiên như không nghe, việc anh anh cứ gánh Tôi nằm cạnh bên anh, có muốn bắt chuyện với anh cũng rất khó, hỏi ǵ anh trả lời nấy, rồi anh ngủ kḥ… Tánh anh tốt chẳng mít ḷng ai trong đội, trừ đội trưởng và quản giáo.Khi hết đất làm gạch, đội chuyển qua bàn giao đội rau xanh trước đây h́nh sự phụ trách.Thượng Úy Đào Thường không c̣n làm quản giáo mà thay bằng tên Trung Úy Bội, tên nầy c̣n trẻ hắc ám vô cùng, ngày nào cũng tập họp thuyết giảng.. Chỉ tiêu trồng rau rất nặng nề, nhất là mỗi khi thu họach. Đội chủ yếu là trồng rau muống, một vài khoảnh trồng dưa, trồng rau mùi, vành đai trồng bí đao…Thời kỳ nầy rất gian nan v́ có rất nhiều anh em rất tin vào chính sách khoan dùi của nhà nước, cố sức làm tốt để được cứu xét cho về sớm.Trung Úy Nguyễn Phú Cường khóa 1 Thẩm sát viên làm đội trưởng, thi hành đúng lệnh của quản giáo, ngoài ra c̣n vô số ăn ten, báo cáo ngầm báo cáo nổi lung tung, một trái ớt, một cọng rau không dám lận đem về, có lận được trái ớt về ăn cũng vất vả lắm, phải len lén nh́n trước ngó sau thảy ngay vào họng, trời đất, ớt mà làm như chuối nhai lần nguyên trái, tôi đă một lần chảy nước mắt mà không dám hít hà..!
    Đội rau nằm cạnh đội nông nghiệp, trước đây là đội làm ngói, anh em tù viên đều cùng cấp thiếu úy,phân chủ yếu dùng tưới rau là một hầm phân người, mỗi ngày có tù h́nh sự gánh ra từ các buồng, mổi ngày đi lao động có tám anh luân phiên gánh 8 gánh nước tiều, mỗi đầu gánh là 2 cái thúng, thúng đan bằng tre, lâu ngày sứt vành, rách bể, tù phải tự lấy đất trét bít mấy chỗ rách, gánh gánh không đă nặng rồi, đổ đầy nước tiểu, nước sóng sánh lao chao, vừa nặng vừa khó đi…Nước tiểu lấy từ các hố thông cầu sau mỗi buồng, con đường từ buồng ngủ ra tới hiện trường khoảng trên trăm thước, tôi rất ngán việc nầy, nhưng rồi cũng phải gánh như các anh em.. Tôi thường gánh khoảng một phần ba đoạn đường th́ làm bộ vấp té… Chịu dơ chút mà khỏe người…Bởi gánh ra tới nơi rồi c̣n phải lội xuống ruộng rau muống tưới đều, gặp anh chủ ruộng phe ta c̣n đở, ḿnh chỉ lội vài bước là tưới hết gánh, gặp mấy tay lấy điểm, bắt lội nguyên ṿng ruộng tưới cho đều, mùa hè c̣n đở tới mùa đông thật là gian nan…ruộng rau muống th́ đĩa lội đặc lềnh…ngày nào không bị đĩa hút máu là ngày đó không vui,.trời th́ lạnh thấu xương…Cha mẹ ở nhà xót xa cho thằng con tù tội cũng phải thôi!
    Đúng 3 năm vào tù, Hâu không thèm đi lao động nữa, và yêu cầu được thi hành hiệp định Ba Lê. Tôi c̣n nhớ tên quản giáo nghiến răng trả lời Hậu
    -Các anh thua bỏ mẹ mà đ̣i th́ hành cái đéo ǵ…Anh mà ngang bướng trại sẽ cùm anh mọt gông.
    Mấy tuần lễ đầu, đêm nào về buồng, đội trưởng đều bắt anh em họp đội, phê b́nh và đă thông tư tưởng cho anh Hậu.. Đă đói, đă mệt mà c̣n phải ngồi đồng, lắm anh vô tư, v́ quá mệt mỏi, chỉ ngồi chốc lát là cất cao tiếng ngái .. Anh Trần Thượng nguyên phân chi khu trưởng ở Mỹ Tho, anh có hỗn danh là Thượng đầu láng ( V́ đầu hói), thế là lại thêm màn mổ xẽ anh vô ư ngủ trong buổi họp…Đêm nào, buổi họp cũng kéo dài lê thê, cũng mấy tay lấy điểm thay phiên nhau đấu tố anh Hâu hết lời. Tôi nh́n thấy Hậu mặt tỉnh queo, dưới mắt Hậu, những tay mổ xẽ Hậu chỉ là trùng là dế,…Hậu bị cùm biệt giam 1 tuần, xă cùm viết kiểm điểm nhận tội, không bao giờ Hậu nhận tội ( Có tội đâu mà nhận) và lúc nào trong bản kiểm điểm cũng có câu
    -Chế độ Cộng Sản là chế độ dă man, mà Cộng Sản Việt nam càng dă man hơn nữa.
    Cuối cùng Trại chuyển Hậu qua đội Rau của Phạm Thái làm đội trưởng để ông “Đội Thái” ( anh em tù gọi Phạm Thái ) trị. Phạm Thái là một đội trưởng khét tiếng trại Hà tây. Lúc nào báo cáo, ông cũng đứng nghiêm thẳng người, trông rất giống thằnh lính bằng ch́, ông theo dơi từng ly từng tư mọi hành động, lời nói của tù viên. Hâu vẫn chẳng xem Đội Thái( đừng nói lái) ra ǵ, vẫn ở nhà không đi lao động. Bên đội nầy rất nhiều tay từng giữ những chức vụ cao, cũng như đă hưởng nhiều bổng lộc trong chế độ Sài G̣n, nhưng khi sa cơ, sống trong tù lại tỏ ra quá hèn nhác, chính những tay nầy cùng với Phạm Thái thay nhau đấu tố Hậu, Hậu bị nhốt kỷ luật, cùm hai chân, sau nữa tháng thả ra, tôi có gặp Hậu xuống bệnh xá khai bệnh, một thanh niên, một sĩ quan xuất thân vơ bị với tuổi đời mới ngoài 30 mà phải chống gậy, da xanh như tàu lá… Ở tuổi nầy, nếu đường đời bằng phẳng, Hâu ít ra cũng là một tiểu đoàn trưởng..Những năm đầu tại trại Hà Tây, thời Đổ Công Thành ( Quốc Gia Hành Chánh, phó quận h́nh như thuộc tỉnh Hà Tiên) làm trưởng ban thi đua… cảnh sống của anh em trong tù ngoài sự đói khát, lao động vất vă, c̣n phải chịu tai ách của lũ ăn ten.Công Thành tổ chức mạng lưới ăn ten dày đặc, hầu hết các anh trực sinh đều phài báo cáo t́nh h́nh trong đêm ….Tùy mức độ hiểu biết cùa các anh trực sinh mà lời báo cáo có nguy hại đến anh em trong buồng. Trực sinh dù sao cũng nhẹ nhàng hơn đi lao động bên ngoài, có nhiều anh không muốn làm an ten, nhưng v́ quyền lợi cũng đành phải báo cáo, nhưng chỉ báo những việc vô thưởng vô phạt, không nguy hại tới người bị báo cáo…
    Hậu được anh em c̣n máu quốc gia rất thương mến, nhưng hoàn cảnh khó khăn quá không ai dám tiếp xúc và giúp đở ǵ hết… Hậu qua đời tại bệnh xá dưới thời Bác Sĩ thạc sĩ Trần Vỹ, Hoa Đà có tái thế, với cách ăn uống quá đơn sơ và bệnh xá chỉ độc nhất một loại thuốc xuyên tâm liên th́… thầy của Trần Vỹ cũng bó tay.
    Ở đội Phạm Thái cũng có 3 anh bị đề nghị đày lên trại Cổng Trời đó là Trung úy Hoàng Trọng Hanh, Thiếu Tá Nguyễn Thái Quân ( anh Quân từng bị biệt giam vô thời hạn tại trại Mỹ Phước Tây, anh phục vụ tại đơn vị Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống) và Anh dân biểu thiếu tá không quân Tiếp .( khoảng năm 1982, anh chín Khương, phó đào Côn Sơn, chuyển từ trại Cổng Trời, về nằm cạnh tôi, anh có kể sơ cho tôi biết về cái chết của dân biểu Tiếp trong vụ vượt trại cùng với Cha Lễ trong một đêm trên bờ sông Mă, anh bị bắt và bị đánh tới chết cùng với mấy người bạn tâm phúc khác.
    Từ ngày trại Hà Tây cho tù được người nhà ra thăm nuôi, tin tức bên ngoài theo nhiều khe hở lọt tai tù…tin Mỹ sẽ can thiệp để anh em tù ra đi có trật tự đă làm nức ḷng tù nhân, một niềm tin được thắp sáng để anh em vin vào đó mà níu lấy sự sống chứ không c̣n thái độ bi quan như những năm tháng đầu,cán bộ quản giáo cũng tỏ ra chút ít dễ dăi với anh em trong việc lao động, nhờ tí quà cáp, tí tiền lẻ…qua trung gian anh đội trưởng dấm dúi cho. Người tù thăm nuôi đầu tiên của dội 3 rau xanh là anh Trần Công Hoan ( Hiện tạm cư tại Cali), anh Hoan xuất thân khóa 6/69 Thủ Đức, anh nằm trong đại đội bị 2 trái ḿn claymore nổ ở cầu Bến Nọc, đại đội nầy có rất nhiều sinh viên gốc người G̣ Công, khi nhập ngũ đă bắt tay nhau vào cùng đại đội, Hoan là trung úy thuộc hải quân vùng IV, ngày sập tiệm, dưới sự chỉ huy của Đại tá Mây, cả bầu đàn thê tử cho tàu cặp đảo tŕnh diện mấy tên du kích để được đầu hàng… Ba anh từ G̣ Công ra thăm, quà cáp cũng vừa phải, anh có được 200$ tiền tươi( Vé xe lửa từ Nam ra Bắc lúc đó khoảng 50$), số tiền khá lớn lúc bấy giờ. .Lúc đó anh đang chăm sóc miếng vườn quanh nhà lô của quản giáo, xới xới vun vun mấy luống rau mùi, cà rốt…tên quản giáo biết anh có tiền, nhờ Cường đội trưởng bắn tiếng mượn, dù cá nằm trên thớt anh khẳn khái từ chối… để rồi mấy ngày sau nhận sự vụ lệnh ra vùng một…Anh ra chăm sóc một miếng ruộng rau muống, anh than thở với tôi phải cố gắng làm sợ bị quản giáo trả thù... Trời hại mới chết… tôi thấy thật là đúng. Sau nầy tên Bội từ khó khăn trở nên phè phởn, Bội thu lợi từ việc mua giùm hàng cho anh em , năm đó ( 1979-80) sữa bột nhập cảng ở đâu nhiều quá, có lẽ từ các nước Âu Châu viện trợ cho VN. Sau mấy năm vắng mặt con em tù tội, nay được cho gặp, thân nhân trong Nam dù nghèo túng cũng phải vay mượn, góp nhóm chút ít vượt hàng ngàn cây số ra thăm con em, chồng …để nhỡ rủi một mai không thấy mặt, sẽ ân hận suốt đời...
    Từ chiếc xe đạp, Bội lên honda dame xanh… Hút thuốc liền miệng, nói cười vui vẽ, mất hẵn nét đằng đằng sát khí thuở nào, câu nói của Bội lúc mới về đội rau tôi c̣n nhớ
    -Các anh mà cải tạo ǵ, có bửa đầu các anh, rửa sạch óc cũng không bỏ được tư tưởng Mỹ Ngụy…Có lẽ trâu cột ghét trâu ăn, Bội mất chức quản giáo, Bội bịn rịn từ giă anh em.. vây mà cũng có nhiều anh tù trong đội tỏ ra cảm động thương mến Bội.Thời của Bội, tôi c̣n nhớ có một lần tan tầm, tiện tay đi gần giàn bí đao, tôi bẻ một trái non cho vào miệng, từ trong nhà lô, Bội đứng cách xa tôi cả trăm mét mà nó thấy, tôi bị nó xài xể, viết kiểm điểm, bị một đêm ngồi đồng, một lần tôi đang cuốc đất trở đất ruộng, Cường đội trưởng đến bên tôi:
    -Quản giáo kêu tôi ra đây bắt con chim đậu trên cuốc anh nè….
    Thời Bội mới làm quản giáo, có một lần mưa lũ ngập cả hiện trường, nhiều chỗ nước lên tới ngực.. Không c̣n đào cuốc ǵ được, Bội bắt anh em mỗi ngày phải nộp 500 kí cỏ về ủ phân xanh. Anh em phải tầm nghịt dưới nước vơ vét từ cọng cỏ, Cường đứng coi nghiệm thu, anh em gian nan cả mươi ngày vừa đói, vừa lạnh, vừa bị điă cắn, Anh Chín thùng, nguyên là c̣ mủ đỏ bị đĩa chui tọt vào họng súng luôn, về tới đội trước khi ngủ anh mới phát hiện.
    Thế Bội là hạ sĩ Hiệp, tên công an nầy c̣n trẻ, anh nầy lúc mới làm quản giáo, cũng thường núp ŕnh anh em lao động, đặc biệt về đội mấy tháng Hiệp thuộc hết hỗn danh của từng anh, Hiệp thích gọi anh em tù bằng hỗn danh như Sĩ C̣, Thượng đầu láng, Sơn nhí, Sơn mỏng…Có một lần trong vụ thu đông cuốc hốc trồng cải bắp, chỉ tiêu quá nặng, không thể nào tôi làm xong được, chiều đó tan tầm, Hiệp cho đội về trại, giữ lại 5 người gốm tôi, Sĩ C̣ ( tiểu đoàn trưởng sư đoàn 9, Ngà, chi đoàn trưởng thiết giáp, Đức, phó quận hành chánh quận Ḥa Đồng, Thượng đầu láng ( PCKT).. Khi nào Hiệp đứng gần th́ cuốc, Hiệp đikhỏi, tù lại chống cuốc chuyện tṛ, trăng lên, rồi Hiệp cũng phải dẫn về trại…Trong đội có nhiều anh thăm nuôi, người không có thân nhân cũng được gửi quà ké, nên dù không phải tỉa lông mũi, anh em cũng thấy dễ thở.. sau tên Hiệp là Đại Úy Văng, tên đại úy già, đầu đội nón cối, hàm răng cải mă, trông không khác ǵ tấm h́nh trên tấm bia ngày nào ở quân trường, anh em nh́n Văng đều có cảm giác khoái chí. Anh em không tiếc lời khen anh họa sĩ nào đă vẽ h́nh tên VC trên tấm bia quân trường.Bây giờ có dịp đối mặt với Việt Cộng mới thấy thật giống. Văng ăn ngủ tại nhà lô luôn.. Dù là quản giáo đội rau, Văng không bao giờ hái rau của đội ăn, Văng chỉ hái rau hoang, lấy lá bí lá bầu luộc làm thức ăn, tên công an già nầy có lẽ bị thất sũng, mới ra làm quản giáo trong khi tên Thượng Úy Nhận làm trại phó.
    Mỗi lần Văng ra hiện trường, vừa thấy bóngVăng, anh em thông báo cho nhau:
    - Bia lên
    Sau tên Văng là Trung Úy Thảo, Thảo tuổi trung niên,Thảo cũng dễ chịu, câu Thảo thường hay nói với anh em tù, mỗi khi nh́n thấy anh em tụ tập hút thuốc, ngồi trên bờ con lâu không xuống làm
    -Làm ǵ mà ngồi như c̣ núp băo thế, xuống làm đi..Thảo vừa nói hai tay vừa quơ lên trời
    Thảo về mấy tháng tôi thuyên chuyển qua đội chăn nuôi.
    Về đội chăn nuôi tương đối dễ chịu, đội nầy chia ra làm hai nhóm, một nhóm nuôi heo, lao động tại nhà lô đội, cán bộ quản giáo là Trung Úy Cúc, chị cán bộ nầy cũng dễ chịu, bên nuôi cá do Thượng úy Bạch Công Lại làm quản giáo, tên công an gốc Thượng nầy rất có t́nh người...tôi nằm trong nhóm nuôi cá, đội trưởng là Nguyễn Kim Giai, sĩ quan An ninh quân đội tiểu khu G̣ Công,anh em thường gọi tụi tôi là dân đội cá, chúng tôi trông coi 6 ao cá của trại, ao nuôi cá chép, trắm cỏ, cá trôi và cá mè, hàng ngày chúng tôi có nhiệm vụ cắt cỏ, lấy rong cho cá ăn, nhóm cá có 10 tù, mỗi 2 người một xe cải tiến, cứ lấy rong cỏ đầy xe về thả xuống ao cho cá ăn là xong việc, khi nào có khách đến thăm trại, thường là nhân viên bộ nội vụ đến trại làm việc, th́ toán cá phải xách lưới xuống ao đánh bắt cá... những ngày lễ lớn, nhất là ngày tết chúng tôi phải kéo cá dầm ḿnh dưới nước cả ngày để bắt cho đủ số ấn định, đủ cho anh em tù và cán bộ ăn trong dịp tết, mùa tết đất Hà Tây nhiệt độ thường trên dưới 5 độ C., mới ngâm ḿnh xuống nước là răng đă đánh bù cạp, vậy mà vùng vẫy đi lại một lúc cũng quên đi cái lạnh.. Những chị ra thăm nuôi trong những ngày cuối năm, nh́n chúng tôi lặn hụp dưới nước trong thời tiết buốt giá, nhiều chị đă không cầm được nước mắt, h́nh ảnh tuấn tú oai hùng của những sĩ quan trẻ ngày nào mà ngày nay...
    Ở đội chăn nuôi nầy có 5 tù gốc G̣ Công, C̣ Hên, tiểu đội trưởng Quân cảnh tư pháp G̣ Công, Lê Bích Lâu, an ninh quân đội quận Ḥa tân, Tôi và Giai ở toán cá, Phạm văn Quư thuộc phi đoàn Thần Phong ở toán heo , Quư, Sơn, Lâu, Giai đều là cựu học sinh Trung học G̣ Công...nên việc lao động, cũng dễ dàng , nặng nhẹ chia sớt nhau, trong t́nh anh em ḥa thuận rất vui vẽ...Nhóm G̣ Công chúng tôi cùng ăn chung mâm hàng ngày...
    Trung uư Cúc đi, Trung úy Liên đến thay, đây cũng là người Việt gốc thiểu số, tên nầy cao lớn đẹp trai, nhưng tính t́nh bủn xỉn đối với tù, không biết gia đ́nh tên nầy có ăn bom B52 hay không, trong công việc lao động hàng ngày nó luôn theo sát anh em, bắt khoan, bắt nhặc, lúc tên nầy coi đội xây dựng, trong một lần ăn nói hỗn hào với tù, Trần văn Minh, pháo đội trưởng G̣ Công, nhào tới định đập cho một trận, may nhờ anh em can kịp thời..
    Nhở những xe cải tiến, cắt cỏ ṿng sân trại, chúng tôi đi qua hiện trường của nhiều đội, Đội mộc, rèn, cưa xẻ, mỹ nghệ, xay xát làm trong rào doanh trại, qua mộc xin củi qua đội rau xin rau... Thằng Giai rất giỏi, ao đầy nước nó vẫn bắt được cá.. Múa đông đi ra ngoài trại, có lúc phải đi năm mười cây số, lên tới Thường Tín, mắt được nh́n nhiều cảnh lạ, h́nh ảnh ngôi làng trong tiểu thuyết Thanh Thủy được đọc thời c̣n đi học, nay được nh́n tận mắt. Trên đường di chuyển, gặp đám tang, Giai chỉ huy vào đội h́nh hàng ngang., cùng đứng nghiêm cùng chào tay. Những người dân, kể cả tên vơ trang đều nh́n chúng tôi bằng cặp mắt ngưỡng mộ, dân chúng rất có cảm t́nh với tù, họ thường chỉ cho chúng tôi nơi nào có nhiều cỏ, nhiều rong, bắt liên lạc, cho thuốc vơ trang hút, chúng tôi mang áo quần ra bán, mua đường( loại đường phên mà ngày trước tôi chưa hề trông thấy), trà về trại bán lại cho anh em, món đường phên được anh em chiếu cố gửi mua nhiều nhất, đi về vài chuyến trót lọt , rồi cũng có chuyến bị bắt, thực ra tụi an ninh cổng biết hết, có điều làm lơ hay là bắt.Trao đổi ngặt nghèo nhất là gửi thơ chui, mỗi lá thư phải trả cho dân 1$ ( 5 hào 1 kí lô gạo) ... Vụ nầy mà bị bắt dễ bị cùm chân biệt giam, anh em phải thật kỷ lưởng, v́ chưa tới đợt viết thơ, sao lại có nhiều người cậm cụi viết thư như thế nầy, tụi ăn ten biết được là phiền.Trả tiền công 1 đồng một lá công việc lại nguy hiểm, làm sao có lời đây, đêm tôi vô mùng, tôi xé khéo các thư ra, cứ 2 hay 3 ruột thư cho vào một phong b́, rồi viết rơ địa chỉ nhờ người nhận chuyển tiếp, trong cùng cảnh ngộ, người nhận nào cũng chuyển giúp, nên anh em rất tín nhiệm, cũng may, chuyển thư năm bảy lần đều trót lọt...
    Tù nào bắt cua cá, rắn dở th́ vớt rong, cho tù kia đi bắt cá...kẹt lắm cũng có con óc con rắn... nhờ vậy mà anh em đội cá dù ít có thăm nuôi mà vẫn no đủ, nhờ chất tươi nên sức khỏe có phần b́nh phục ..
    Cuối năm 1981, đội chăn nuôi giao lại cho h́nh sự trông coi, tụi tôi được phân chia về hai đội rau và đội xây dựng, tôi về đội ( trại có 3 đội rau, đội 3 là đội rau trẻ do Trung Úy Cường cảnh sát làm đội trưởng, đội rau sồn sồn mà chức vụ thường rất cao do anh Hải trưởng E vùng 2 làm đội trưởng và đội rau già, đa số là đảng phái do Quốc Vụ Khanh Phạm Thái làm đội trưởng. Tôi, Giai, Lâu, Điều văn Nghệ,T́nh,Củ, Nghĩa... về đội anh Hải, ở đội nầy tụi tôi là những tên cấp nhí ... đa số anh em trong đội là nhân viên Phủ đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo, sĩ quan cảnh sát cấp trưởng D, trưởng E, Trưởng F..
    Trung Tá Nguyễn Hữu Hải, có cách làm việc rất dễ chịu, vừa được ḷng quản giáo, vừa thuận ư anh em..Đầu năm 1982, những anh em từ đội chăn nuôi qua đây đều được thả, trừ tôi và Trung sĩ nhất cảnh sát đặc biệt T́nh c̣n sót lại..
    Từ ngày về đội nầy tôi rất nhàn nhă, các chú các anh xem tôi như em út trong nhà, tuổi đời, tuổi lính c̣n quá nhỏ mà phải chịu án quằn vai...
    Rồi trại Hà tây giải tán, tù chuyển qua trại Nam Hà, vào tháng 3 năm 1983, sau một tháng, hơn 500 anh em chuyển về Nam, tôi vẫn ở đội rau, Anh Hải về Nam, anh đội phó Lê Chí Tín( Phủ đặc ủy đặc trách sinh viên vụ) làm đội trưởng... Tháng 6 năm 1983, có trên 90 anh em được đọc tên thả, trong đó có tôi

    Tính từ ngày vô trại dến ngày ra khỏi trại, tôi chịu án 8 năm 4 ngày, qua 4 trại tù .
    Bây giờ trên xứ người, mười chín năm chưa lần về lại quê hương, ḷng tôi chua xót lắm, Ba tôi qua đời lúc tôi c̣n ở trại Hà-Tây, mẹ tôi mấ, lúc tôi qua Mỹ được 9 năm, tôi cũng không về được, trong đời có hai đại tang mà tôi không được đội khăn tang...
    Ngày ra đi theo diện HO, tôi đă nh́n thấy cảnh biệt ly rất rơ... Làm sao tôi có thể bước đi dưới lá cờ sao, lá cờ nhuộm máu của biết bao nhiêu chiến hữu, bao nhiêu dân lành vô tội, lá cờ của bọn cầm quyền chỉ biết hà hiếp dân, bọn lănh đạo luôn khum lưng quỳ mọp trước kia là Liên Sô, bây giờ là Tàu Cộng
    Sông có khúc, người có lúc, con đường tôi đi gian nan đă nhiều, ḷng tôi luôn tin sẽ có ngày tôi về lại, chân bước lại trên những con đường quen thuộc... Tôi sẽ đi thăm lại các trại tù xưa, những bạn rù đă rũ xác, oan hồn c̣n vương vấn đâu đây...Tôi nhớ tới Phan Chí Sĩ, người bạn cùng khóa, chung đội rau xanh, tuổi lính tuy nhỏ mà huy chương quá nhiều, có lẽ khóa tôi chỉ có nó là được gắn đệ ngũ đằng bảo quốc Huân chương.. khi mới vừa 6 tuổi lính. tôi nghiệp nó nằm xuống lúc tuổi đời mới ngoài 30..
    Cờ vàng rồi sẽ bay trên khắp nẻo đường đất nước, những đứa con của tổ quốc đă làm mất nước, sẽ trở về gặp nhau lại trên quê hương đầy t́nh người trong niềm hoan lạc vô biên...

    Viết tại Kỳ Đà Động quư đông năm 2010
    THỦY LAN VY

  2. #2
    Member
    Join Date
    05-09-2010
    Posts
    154
    CHUYỆN NHỚ TRONG ĐỜI
    *
    -Viết để nhớ những ngày trên lộ 7B…
    ( Con đường di tản quá dài, đầu đă tới sông Ba khúc đưôi c̣n tại Pleiku, tôi may mắn đi trong khoảng đường tương đối ít gian nguy…)


    Đầu năm 75, trung đoàn 45 thuộc sư đoàn 23 bộ binh được lệnh rời Hàm Rồng về lại Ban Mê Thuộc. Đại đội 201 CTCT đang tăng phái cho trung đoàn đóng tại Hội Quán Tây Nguyên cũng được lệnh lên đường tăng phái cho bộ chỉ huy Biệt Động Quân vùng 2 đang trú đóng tại B15,thuộc tỉnh Kontum, đơn vị tăng phái được chỉ định đóng quân tại kho gạo của tỉnh… Thế là anh em từ giă Hàm Rồng, từ giă các buôn làng thân quen vẫn thường ngày đến làm công tác dân sự vụ tâm lư chiến như làng La Sơn, Plei ô Ngo…tại Kon Tum đơn vị vẫn công tác như thường lệ đến các buôn làng thuộc quận Đắc Tô mới, làng Pa-ra-đi…để khám bệnh phát thuốc, hớt tóc … cho dân làng .Sáng đầu năm âm lịch cả đại đội tăng phái đều có mặt tại sân cờ bộ chỉ huy BĐQ để tham dự lễ thượng kỳ đầu năm. Đại Tá Tất chỉ huy trưởng đến tận hàng quân bắt tay từng sĩ quan tăng phái…
    Ngày 13-3-75, Anh Cải, đại đội trưởng lên bộ chỉ huy họp về cho biết là bộ chỉ huy BĐQ đă rời Kon Tum… Thế là anh em trong đơn vị tự động thu xếp gọn ghẻ chờ lệnh về Pheiku.. Tôi ngồi ghế trưởng xa trên chiếc Dodge có tất cả 13 người, xe lăn bánh lúc 13 giờ ngày 13-3-75…tôi cũng thấy hồi họp v́ con số 13 nầy, đoàn xe gồm 5 chiếc, 4 dodge,một jeep chậm chậm rời kho gạo hướng về cầu Đakpla…. Mấy chiếc loa phóng thanh của ty dân vận chiều hồi liên tục đọc đi đọc lại thông cáo của Đại Tá Hùng, tỉnh trưởng Kontum… Nội dung thông cáo là kể từ giờ phút nầy cấm tất cả các quân nhân ra khỏi tỉnh…
    KonTum vẫn rất yên lặng, không nghe một tiếng súng nổ, là đơn vị tăng phái nên quân cảnh gác cầu, chốt đường ra tỉnh không xét hỏi…. Con đường KonTum- Pleiku tuy xuyên núi nhưng tráng nhựa rất phẳng phiu… tuy nhiên khi xe gần tới Chư Pao anh em cũng cảm thấy hồi họp, gh́m tay súng sẳn sàng trong tư thế phản phục kích…Bởi ‘Một chiếc khăn tang một tấc đường” ( Quên tác giả)là đây. Rồi đoàn xe cũng b́nh an về tới hậu cứ đóng trong quân đoàn 2
    Pleiku lúc nầy thường xuyên bị pháo kích, phi trường Cù Hanh ăn đạn liên tục… Đêm 17 tháng 3 đặc công đánh vào quân đoàn nhưng chẳng gây thiệt hại ǵ đáng kể v́ vị trí quân đoàn trên cao, lực lượng pḥng thủ tinh nhuệ có M48 yễm trợ, thà đánh nhau ngoài mặt trận c̣n thấy dễ chịu hơn là ngồi chờ pháo…Đơn vị về đây chỉ tạm thời trực ứng chiến chờ lệnh. Là đơn vị CTCT trừ bị cho quân đoàn II, chúng tôi thường phải rày đây mai đó tăng phái cho các lực lượng trừ bị, hay các sư đoàn, tiểu khu thuộc quân đoàn 2, trung đội di chuyển bằng một chiếc xe dodge có cửa, kéo theo một cái rờ mọt.Trên xe chất chứa đủ vật dụng sinh họat thường ngày…nồi niêu soon chảo, gạo, mắm, muối, dầu lửa, bếp dầu…, nên việc ra đi trong cuộc di tản nầy trung đội chúng tôi không lấy ǵ làm bở ngở, không phải chịu cảnh thiếu ăn thiếu uống như nhiều đơn vị khác.Tôi nhớ hoài buổi sáng hôm ấy khi hay tin quân đoàn đă rút đi nhiều đơn vị… Ông Tiểu đoàn trưởng xuất thân khóa 14 VB, ra phi trường về Sài G̣n c̣n không quên phone về đơn vị ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó trông coi việc ứng chiến của đơn vị v́ ông đang… bận họp ở quân đoàn, mạng sống ai không quư, ông tiếc mạng của ông mà bỏ cả đàn em bơ vơ, về Sài G̣n ấm cúng bên vợ con..quân mà thiếu cấp chỉ huy..??Ông tiểu đoàn phó mới từ Sài G̣n đổi ra chưa tới 3 tháng nên rất khó thích ứng với t́nh h́nh, bởi không dám quyết định v́ cứ ngỡ xếp đi họp ở quân đoàn.Lúc bấy giờ quân đoàn chỉ c̣n lại tiểu đoàn 20 CTCT, cạnh bên là Truyền tin, thiết giáp… c̣n lại các ban pḥng đều vắng lặng như tờ. Bởi không có lệnh nên đêm đó quân nhân các cấp trong doanh trại tiểu đoàn đều ra sân nằm cạnh giao thông hào dù không có lệnh, có lẽ v́ sợ ngủ trong pḥng sẽ ngủ quên khi đơn vị di chuyển bất th́nh ĺnh, nằm ngoài sân, nh́n trăng sao với giấc ngủ chập chờn trong lo sợ…một đêm yên lành trôi qua… Sau khi hội ư với một số sĩ quan, Tiểu đoàn phó ra lệnh phá kho lương thực, nhờ vậy mà anh em có thêm được một số khẩu phần lương khô lọai C của Mỹ, không tiên liệu được đoạn đường sẽ đi qua nên bỏ lại gạo rất nhiều… Đoàn xe của tiểu đoàn( Gồm bộ chỉ huy, đại đội hành chánh và đại đội 201) trên mười chiếc, xe jeep tiểu đoàn phó dẫn đầu, đến xe các ban và nhóm xe đại đội 201 bọc hậu, cũng nón sắt, súng đạn cầm tay, đoàn xe chầm chậm tiến ra cổng…Điếm canh vẫn c̣n lính gác. Sáng hôm đó trời có chút sương, chút gió nhẹ lành lạnh trong cảnh trống vắng của quân đoàn,mấy chiếc M48 vẫn yên vị nơi cổng chính ,binh sĩ gác cổng vẫn giữ đúng tư thế, nhưng cảnh vật h́nh như mất vẽ sinh động, tạo cho anh em một không khí khá căng thẳng. Vẫn không biết đi về đâu, đi ngả nào,xe ngang qua trường Trung Học Pleime, phía sau là trại gia b́nh của tiểu đoàn, tôi ở trọ trong nhà của trung sĩ Hiếu nằm trong trại gia binh nầy, xe chầm chậm ngang qua mà không dám ngừng lại vào nhà lấy thêm hành trang, v́ sợ trể lạc đơn vị, đoàn xe tạm dừng trên con đường có dinh ông tướng… Anh em xuống xe đứng trên lề, dưới tàn những cây thông già cỗi, nh́n trên đường người qua lại tấp nập vội vàng dù trời c̣n lờ mờ tối…Tôi nh́n thấy một anh trung sĩ BĐQ tay cầm chai rượu Martin đi về hướng tôi, anh nh́n tôi cười cười:
    -Trung úy uống 1 nắp cho ấm ḷng, rượu nầy lấy ở nhà ông tướng…Tôi cầm chai rót uống liền 2 nắp rượu đầy… thấy ấm ḷng .Tuy có hơi lo lắng, vậy là ông tướng đă đi rồi.Tôi cũng mới từ tiểu đ̣an 50 CTCT thuyên chuyển ra đây gần 4 tháng nên cũng không rơ là dinh của ông tướng nào, có lẽ là dinh của Tư lệnh vùng. Xe cộ vẫn tiếp tục xuôi hướng Hàm Rồng, xe quân đội ngoài quân nhân c̣n có thêm gia đ́nh binh sĩ, thùng rương chất đầy ắp.
    Trời sáng tỏ, anh em trong đơn vị hầu hết đều chưa ăn sáng, tôi thấy một vài anh em lấy phần gạo sấy ngâm nước. Đại Úy Thiện( khóa 18 TĐ, (đă có nghị định thăng cấp thiếu tá nhưng chưa làm lễ gắn lon tân thăng) nh́n thấy một đoàn xe jeep quân cảnh chạy ngang, ông ra hiệu cho anh em lên xe nối đuôi đoàn xe quân cảnh, ngang qua rạp hát Diệp Kính quẹo trái về hướng Hàm Rồng.Với 2 bông mai trên ve áo, tôi không biết một chút ǵ về lộ tŕnh sẽ đi, chiếc trước chạy, chiếc sau chạy theo, tạo thành một đoàn xe rồng rắn không biết dài tới bao nhiêu cây số, khi bắt đầu nh́n thấy núi Hàm Rồng, tôi thấy đoàn xe rẽ mặt leo lên bờ lề, chạy băng đồng h́nh như đang chạy dưới chân một ngọn đồi thấp, bên đường có vài chiếc xe quân đội chết máy nằm rải rác, xe bắt đầu vào con lộ đá có dấu vết tráng nhựa loang lỡ, nhưng tương đối dễ chạy hơn lúc băng đồng. Tài xế chiếc dodge là hạ sĩ Đặng Giác, cũng trạc tuổi tôi, sức vóc khỏe mạnh có gia đ́nh nhà cửa ở KonTum, rất vững vàng ôm tay lái, tới thung lủng Hồng, một tấm bảng gắn trên hai trụ có khắc rơ chữ Valey Rose, một vài chiếc GMC bị lật, xác binh sĩ chết nằm rải rác khoảng trên 10 người… Đ̣an xe vẫn chạy với tốc độ chậm, bụi cát mịt trời, tuyệt không nghe tiếng súng, rải rác nhà dân bên đường, người lớn trẻ em ra sân nh́n đoàn xe chạy, mấy em trong xe tôi gốc miền Nam cười vui như những lần được về phép,Trung sĩ Bùi Ngọc Mỹ thằng em vẫn ăn cơm chung với tôi, với tay chuyển cho tôi một bịt cơm sấy với lon thịt ba lát khui sẳn, tôi không thấy đói nhưng vẫn phải ráng ăn, bởi tôi linh cảm con đường đi sẽ c̣n nhiều bất trắc lắm…Ḷng tôi cũng có chút vui khi được về Nam nhưng cũng ngổn ngang trăm mối, tại sao cả quân đoàn phải bỏ đi trong lúc chưa thấy bóng dáng một tên lính sinh Bắc tử Nam nào, tại sao ra đi mà không có lệnh lạc ǵ cả, lộ tŕnh để đi cũng hoàn toàn không biết, rồi tin chiến sự từ đài V.O.A, BBC, áp lực Cộng quân nặng nề trên nhiều mặt trận, Đài Quân Đội, đài Sài G̣n vẫn phát thanh những bản t́nh ca, vẫn ngọt ngào t́nh em hậu phương với người trai tiền tuyến… Đầu óc tôi rối mù… Thôi th́, mệnh số do trời..Bài học Hán văn thầy Bùi Cận dạy tôi học năm đệ ngũ tôi vẫn c̣n nhớ….Nhất trác, nhất ẩm, giai do tiền định… hơi đâu mà lo…Với máy C25 bên cạnh tôi mở máy liên tục liên lạc với các bạn cùng chung đơn vị: Thái tăng An, Như ,Chấn,Nguyễn Hữu Cải …
    Đến Phú Bổn, trời xế chiều, xe cộ tràn lan, đoàn xe đơn vị tôi dừng sát bên lề đường, tất cả xuống xe ngơ ngác nh́n chung quanh. Đă thấy hầu hết các sắc lính tại quân đoàn… Người ta dừng, ḿnh dừng lại chẳng lệnh lạc ǵ cả, trời chiều xuống dần, dù cuối tháng ba nhưng sương trời và gió tạo một cảm giác lành lạnh… Tôi thấy có một toán quân nhân , có máy truyền tin đi bộ quanh các con đường… Th́ ra là toán lính địa phương, Trung Tá Ḷ văn Bảo, t́nh trưởng và một số sĩ quan, tôi c̣n nhớ Trung tá Bảo dáng cao ráo, to con, gương mặt hiền từ chậm rải nói với anh em di tản:
    -Các anh em yên tâm t́m chỗ ngủ , tôi đă cho hai đại đội địa phương quân giữ an ninh… Tôi nghe lệnh mà trong ḷng thấy không an, quân đoàn tự dưng bỏ chạy …hai đại đội mà nhầm nḥ ǵ… thôi th́ ai sao ḿnh vậy …giày dép c̣n có số mà…
    Tôi cùng họa sĩ Thái Tăng An( Mỹ Thuật Huế)Bạn cùng khóa,khoát thêm áo jacket, hút thuốc vặt nh́n thiên hạ. Anh Nguyễn Hữu Cải( Đại đội trưởng, chết trong tù CS) họp anh em sĩ quan bên vệ đường, anh có được 1 mẫu bản đồ tiện tay xé được trong pḥng tiểu đoàn trưởng trước lúc ra đi, Anh chỉ sơ qua về lộ tŕnh sẽ đi…theo như dự đoán của anh… Tôi chẳng buồn quan tâm. Người ta đi đâu ḿnh theo đó, súng bắn trúng ai người đó chết hơi đâu mà lo cho mệt…. Trời tối hẳn, anh em đă cơm nước xong xuôi, Trung đội Chính Huấn của Trung úy Như( khóa 1/69)bắt đầu làm việc, chạy chung đơn vị có vợ chồng ca sĩ Xuân An của sư đoàn 23 tháp tùng theo. Anh em xếp thành ṿng tṛn, sẵn khẩu phần C với cà phê thuốc lá Mỹ…Tiếng đàn dạo lên, Xuân An cất giọng, đây là giọng ca xuất sắc nhất của quân đoàn 2 lúc bấy giờ…. Giọng ca ngọt ngào, lời ca phù họp với bối cảnh đă thu hút khá đông anh em đơn vị bạn đến nghe… Thái Tăng An và tôi nằm trên bờ đê cỏ:
    -Ê chạy giặc mà giống đi picnic quá mậy.
    Tôi cười đồng ư. Nằm nh́n sao trời, hút thuốc Lucky, uống cà phê nóng nghe nhạc sống … c̣n thua ai nữa. Người xe tuy đông, tuy ô họp mà đêm yên lặng lắm… Gịong ca của Anh Xuân An cao vút réo rắt ḷng người…”Bỏ làng ra đi mang theo tiếng nói con tim…”… Tuyệt nhiên không nghe một tiếng súng, thỉnh thoảng trên bầu trời có lóe sáng lên, một vài trái hỏa châu h́nh như từ chi khu bắn lên, các cô bé chính huấn của đại đội như Mỹ Chi, Phương Ḥa…cũng lần lượt góp tiếng hát ngọt ngào, trời đầy sương, ngập ngụa không khí núi rừng, những giọng ca ngân vang xa thu hút khán giả càng lúc càng đông, Tan buổi nhạc bất đắc dĩ, giấc ngủ chập chờn đến với mọi người, ngày mai rồi sẽ tới đâu???
    Trời chưa sáng mà mọi người cùng thức dậy, nước rửa mặt rất khó t́m, một số quân nhân thuộc một vài ngành tự động tháo bỏ phù hiệu như CSQG, ANQĐ, QC…, tiếng máy xe bắt đầu nổ, âm thanh thật ồn ào, khói xe bay mù mịt, một số xe từ từ lăn bánh về hướng quận Phú Túc, tiểu đoàn tôi cũng bắt đầu lên đường, c̣n giữ được đội h́nh lúc đi, nhiều chiếc xe jeep của đơn vị bạn bị bỏ lại v́ bị bề kết nước, bởi đoàn xe chạy, ngừng bất thường, thắng không kịp là ủi đít .Nắng dần lên, sương tan và trời bắt đầu nóng, khói xe và âm thanh động cơ, tiếng gọi nhau trong ánh nắng chói chang làm cho con người rất dễ mệt, Nhưng trong bước đường sinh tử mọi người đều cố gắng.Cho tới quá trưa đoàn xe tràn ngập quận Phú Túc, hàng ngũ rối loạn không c̣n thấy lối đi . Mọi người ngơ ngác nh́n nhau.Trong đoàn quân chẳng có một sĩ quan nào biết được lộ tŕnh cuộc di tản nầy, tôi thấy có vài sĩ quan mang cấp trung tá, dân theo lính cũng rất đông hầu như là nửa dân nửa lính, thương cho dân bám theo lính mà lính nào có được lệnh lạc ǵ đâu. Một chiếc trực thăng đáp xuống một khoảng đất trống nhỏ vào lúc giữa trưa.Tôi đứng cách xa trực thăng nhưng cũng nghe được tiếng anh em bàn tán
    -Tướng Cẩm tới thị sát có mang theo hai hạ sĩ quan quân cảnh với mục đích giải tỏa lộ tŕnh bị nghẻn.Tướng Cẩm hỏi xem ai là người có cấp bậc cao nhất ở đây.Tôi thấy có một vị trung tá lên tiếng.Tôi không nghe rơ được lời đối đáp nhưng cũng được thuật lại đại ư
    -Anh Trung Tá mà không chỉ huy được đoàn quân nầy
    - Tôi không có khả năng, Thiếu tướng xuống chỉ huy đi.
    Trực thăng mang tướng Cẩm bay đi, với rất nhiều cặp mắt ngơ ngác nh́n theo. Tội nghiệp hai anh quân cảnh xé vội phù hiệu rồi lẫn vào trong đám loạn quân….
    Rồi đoàn xe cũng bắt đầu di chuyển, đoàn xe quá dài nên người ở khúc nào chỉ biết chuyện ở khúc đó. Tiểu đoàn tôi có lẽ đi vào khúc giữa.Đường bắt đầu xấu dần. xe chạy với tốc độ thật chậm, chiếc nầy ủi đít chiếc kia là sự thường. Một vài xe chết máy v́ hết xăng, rất nhiều xe jeep chết máy bị đẩy vào b́a rừng… Số lượng người mất xe càng đông, xe nào c̣n trống có người quen th́ được cho lên, đa số ôm súng mang ba lô đi lếch thếch lẫn lộn với đám dân, giữa cái nắng tháng ba của vùng cao nguyên, hành trang và nắng gió làm cho người mau mệt, khi đă mệt rất dễ sinh quạu quọ.Xe qua những đám rừng thưa, lửa than đốt rừng c̣n cháy đỏ, Biệt Động Quân biên pḥng trong tư thế tác chiến đứng thành hàng hai bên đường bảo vệ cho đoàn quân di tản. Tôi nh́n thấy nhiều em binh sĩ Biệt Động Quân c̣n quá trẻ, súng cầm tay với lưởi lê tuốt trần hướng mắt nh́n về hướng rừng, quên đi sinh mệnh của ḿnh để giữ an toàn cho đoàn người di tản.Tôi đi chưa biết rồi sẽ tới đâu, riêng các em c̣n đứng đó không biết đến bao giờ, sự sống c̣n của anh em lấy ǵ bảo đăm, ḷng tôi rất cảm kích trước những con người biết tuân thủ kỷ luật quân đội.Cũng tại quận nầy, Anh Cải ra lệnh xe nào giữ hồn nấy cố gắng về tới nơi an toàn. Tôi ngơ ngác, nơi nào là nơi an toàn đây.??
    Một vài người hiểu rơ lối đi cho biết đoàn di tản đang tiến lần tới quận lỵ Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Ḥa, người đi bộ vẫn bước nhanh hơn xe đang chạy, trung sĩ Mỹ chỉ tôi
    -Ông xem ḱa, Ông thiếu tá đang ăn trái bầu sống…
    Tôi nh́n theo tay chỉ của Mỹ, mắt tôi nh́n thấy một quân nhân không rơ binh chủng v́ người đang mặc áo khoác, tay cầm trái bầu loại bầu có eo cổ giống như trong h́nh vẽ bầu cua cá cọp, ông bẻ ra từng miếng cạp ăn ngon lành. Đa số người di tản đến ngày thứ ba đă bắt đầu hết lương thực, v́ cuộc di tản xăy ra quá vội vàng không ai kịp chuẩn bị, riêng đơn vị tôi v́ thường xuyên đi công tác dân sự vụ nên lúc nào trên xe cũng tạm đầy đủ gạo thóc mắm muối…, Nắng bắt đầu ngă chiều mà đoàn xe vẫn đi chưa tới đâu, tôi mở tầng số máy C25,tôi rà đai bất cứ tầng số nào, có lúc liên lạc được với dân con gà( Sư đoàn 23) c̣n ở Phú Túc, có lúc liên lạc được với toán đă tới phi trường Củng Sơn, xe vẫn chậm ŕ lăn bánh, toán công binh chiến đấu của quân đoàn vẫn cưa cây, mở đường, mấy chú lính trong toán nấu nước ngâm gạo sấy, tôi ngồi trên nóc xe chân tḥng trên nắp đầu xe, vừa ăn cơm gạo sấy với thịt ba lát với chút muối tiêu vừa nh́n trời đang bảng lảng hoàng hôn, chút hơi lạnh của núi rừng phần nào xoa bớt cơn mệt mỏi, trời tối nhanh, muỗi rừng được dịp tunh hoành chit cắn, tiếng ồn ào dịu dần theo với bóng đêm tràn về… Xe tôi cũng vào tới phi trường Củng Sơn. Phi trường khá rộng, phi đạo lót vĩ sắt, tôi chỉ chỗ cho tài xế lái vào một khoảng đất trống, đầu xe hướng về cổng phi trường, khoát lên người chiếc áo jacket, quấn lên cổ chiếc khăn, kéo mủ lưởi trai sụp xuống, tôi vẫn c̣n thấy lạnh, muỗi bớt cắn v́ phần thịt da ít lộ ra ngoài, sương xuống mịt mờ chẳng mấy chốc mà người tôi đă thấy ướt nước, Tôi nằm trên đầu xe tay kẹp cây M16 sát người, thằng Mỹ đệ tử nằm kế bên cũng khư khư ôm cây AR15, trong thùng xe là đàn bà con nít ngủ ngồi, chú tài xế và anh toán phó trong cabin xe, c̣n lại rải rác trải poncho nằm cạnh xe. Sương nhiều quá không nh́n thấy sao trời, tôi nằm dù thật mệt mỏi nhưng dễ ǵ dỗ giấc ngủ, bây giờ mới hết tháng giêng âm lịch, mà tháng giêng là tháng ăn chơi, hiện tại tôi cũng ăn và đi lang thang, không chơi là ǵ…Tôi nhớ Sài G̣n vô cùng, tôi nhớ giảng đường 2, giảng đường 4, tôi nhớ mấy cây phượng bên hông trường, tôi nhớ tới mấy nhỏ bạn thân từ năm nhiệm ư,tôi trở lại giảng đường sau gần 4 tuổi lính, nhỏ Ngọc, nḥ Sang, Thơ, Hoàng Cúc,Dung Bải Xàu, Ngọc Hà G̣ Vấp, nhỏ mắt nâu , con nhỏ mà khi đi chung có dịp gặp người quen tôi vẫn thường giới thiệu là vị hôn thê, mới hôm Noel, tôi về phép kẹt phi vụ ở lại Sài G̣n cả tháng trời, Tôi ngoan ngoản như con mèo con trở lại lớp Việt Hán, lớp văn Minh Việt Nam, chăm chỉ hơn cả sinh viên thuần túy, tạm quên đi Phước Long đă vào tay Cộng Sản… Thanh An đang ăn đạn pháo tơi bời… Con bé đêm nay ngồi học bài không biết có nhớ đến tôi không, bé có hay biết ǵ về quân đoàn đang tháo chạy mà sĩ quan cấp úy như anh không biết một chút ǵ về lư do di tản cũng như lộ tŕnh di tản…Bên tai.tôi tiếng ngái đều đều của thằng Mỹ…, tôi nhớ.tôi chỡ bé vào quán biên thùy, dĩa tôm càng nướng, rau sống bánh hỏi, 33 khui rót vào ly nước vàng sóng sánh, tôi lột vỏ tôm gắp bỏ vào chén em không quên sớt tương xay vào một dĩa nhỏ…Tôi thiếp đi lúc nào không biết…
    -Dậy Trung úy có xe chạy rồi. Tiếng hạ sĩ Giác tài xế … Th́ ra tôi chưa tṛn được giấc mơ tại Phi trường Củng Sơn.Tôi bật dậy gon gàng, khóa an toản súng, móc túi lấy thuốc châm lửa
    - Thủng thằng chờ xe đi kha khá rồi ḿnh hăy chạy theo.Anh em lo ăn sáng cho chắc bụng, mấy ngày nay yên t́nh c̣n hôm nay chưa biết ra sao, nghe nói rời Củng Sơn là bắt đầu rời cao nguyên về đồng bằng, ḿnh sẽ di chuyển đến Sông Ba rồi vào Tuy Ḥa.Tôi nói sơ về lộ tŕnh rồi tạm làm vệ sinh buổi sáng bằng chút nước trong bi don, rất nhiều chú lính cũng như dân làm chuyện đệ tứ khoái ngay bên đít xe…cũng may ăn ít và không có rau rát nên đa số đều bị bón nếu không th́ mùi xú uế chịu sao cho thấu…
    Đoạn đường bắt đầu rời quận Củng Sơn thật là gay go, v́ có nhiều suối và công binh phải phá rừng mới có lối cho xe chạy, có con dốc 45 độ khoảng 30 thước, cuối dốc phải quẹo thẳng góc không th́ xuống suối, th́nh thoảng một vài trái đạn 60 ly rớt ven rừng, có lẽ đề lô giặc chưa điều chỉnh kịp tọa độ…Tin giây thép lạc dừa cho biết là sư đoàn Thép và Sao Vàng ngỡ quân đoàn rút về Quy Nhơn nên đă dàn quân phục kích trên quốc lộ 20, nay biết hướng di tản đă bắt đầu đuổi theo…Theo th́ theo v́ có muốn chạy mau cũng không thực hiện được.Cũng tin cho biết là sở kỷ thuật vùng 2 hợp với công binh chiến đấu mở đường dưới sự chỉ huy tổng quát của chuẩn tướng Tất tư lệnh Biệt Động Quân vùng 2 vừa tân thăng…Cả giờ chưa di chuyển được trăm thước, cát bụi theo gió bám đầy người …”Nếu chẳng quen nhau lung, đố nh́n ra được”, tôi mỉm cười khi nh́n thấy mặt đầy bụi của anh em mà nhớ thơ của Phan Khôi. Trời tối mịt xe tôi vẫn chưa thấy được bờ sông Ba… Xe tạm dừng trong ánh sáng le lói của từng bếp củi tạm nấu cơm bên đường, thực đơn của toán vẫn u như kỳ, gao sấy thịt ba lát muối tiêu….Trời lạnh, cơm nguội lạnh nuốt muốn ngay cổ….Đọan đường c̣n dài c̣n lắm gian nan, phải cố ăn mới có sức mà đi, b́a rừng có vài con suối có nước nên việc “nước’ tạm thời thong thả, rửa mặt rửa soon nồi thoải mái, tôi với Thái tăng An rủ nhau ra suối tắm, khoảng suối nhỏ nhưng nước trong uốn khúc bên gốc cây cổ thụ, cũng có khá đông người đang tắm… đang kỳ cọ tai bỗng nghe tiếng cười nho nhỏ…âm thanh con gái… th́ ra bên kia thân cây có 3,4 cô bé có lẽ là học sinh Trường Trung Học Pleime đang tắm, dưới ánh trăng tôi nh́n thấy rơ đường nét thiên nhiên qua áo vải ướt bó sát lấy người. Tuổi trẻ ai mà thấy cảnh nầy mà không say đắm nh́n…!!
    -Ê An, về Sài G̣n mày phải vẽ lại cảnh nầy nha An…Tao đặt tên tranh là “Thiếu nữ tắm trăng”. Về lại chỗ nằm,mở đài BBC, phóng viên của đài tường thuật cảnh di tản y hệt như những ǵ mắt tôi đă thấy, tai tôi đă nghe, tôi có cảm tưởng cha nội phóng viên nầy đang đứng lăng văng gần tồi, tôi c̣n nhớ một câu trong bài b́nh luận: cả quân đoàn di tản trong t́nh trạng bi đát tuyệt vọng như vậy mà Sài G̣n h́nh như không muốn biết tới….Từ những bản tin nầy anh em trong đoàn di tản tinh thần có xuống v́ không c̣n niềm tin ở Sài G̣n t́m cách mở đường tiếp viện… Thôi th́ thân ai nấy lo. Hầu hết các đơn vị đều phân tán không c̣n hệ thống chỉ huy nữa… Đơn vị tôi đă được lệnh tan hàng từ Phú Túc, toán nào tự lo cho toán đó, thực ra sống chết do trời, không có Đà lạt, Thủ Đức hay Đồng Đế ǵ cả …Có Tề Thiên Đại Thánh xuất hiện chưa chắc đă chỉ huy nỗi đoàn quân nầy…Dưới mắt tôi anh em quân nhân vẫn c̣n giữ được tác phong kỷ luật dù đang ở trong một thế cờ hết sức bi thảm.
    Tôi nh́n Trung Tá chỉ huy trưởng trường thiếu sinh quân vùng 2 đang dẫn đoàn quân nhi đồng di tản, đồng phục nghiêm ch́nh di chuyển theo hàng dọc, các em với nét mặt thật b́nh thản, vững vàng bước trên lộ tŕnh đầy chông gai…. Không biết các em đă đi bộ như thế từ bao giờ….Vị Trung tá quân phục c̣n tươm tất, thắc lưng mang súng colt, tay cầm gậy bước đi thoăn thoắt dù tuổi cũng đă khá cao…Ḷng tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi chỉ cho mấy em trong toán tôi nh́n, hành trang của các em TSQ trông nhẹ nhàng, chỉ một ba lô trên lưng cũng không lấy ǵ nặng lắm, vũ khí th́ em có em không…Các em không nói cũng không cười.Đoàn xe ùn tắc trên khoảng nầy mất mấy ngày, cứ mỗi lần bị pháo, đoàn xe lại rối lọan lên, mạnh xe nào nấy lũi vô rừng, cơm nước đang nấu dỡ dang ngă đổ tùm lum, trẻ con lạc cha mẹ khóc vang rân, tôi và thằng Mỹ ẵm từng em bỏ lên xe chờ yên pháo t́m cha mẹ chúng trả lại, bây giờ tiểu đoàn chỉ c̣n xe tôi lạc trong đoàn xe bạn, những xe chung đơn vị sau nhiều lần bị pháo đă thất tán…Ban ngày trời nắng, tôi với thằng Mỹ cầm súng vào trú nắng trong rừng, hoa bằng lăng trổ tím rất đẹp mắt, tụ năm tụ ba trên bờ suối nhiều thiếu nữ rất trẻ da rám nắng như mới từ biển Vũng Tàu về.
    Một hôm tôi và Mỹ đang lang thang trong rừng,tôi nh́n thấy hai quân nhân đang gối đầu trên rễ cây ngủ say sưa, lại gần mới biết là Thái tăng An, và nhà thơ Kim Tuấn, với bản nhạc nỗi tiếng “Từng bước chân âm thầm”, tôi dùng mũi giày lay An dậy
    -Ê, sao lại ngủ bờ ngủ bụi vậy tụi
    Thằng An ngáp dài…:
    -Đói cả ngày nay mà lười quá ngủ cho đă có chết cũng no con mắt. Thằng Mỹ nh́n 2 ông lười, nó chạy về xe lấy cơm sấy.Hai ông lười ăn xong tỉnh táo xin thuốc hút.Tôi cười cười nh́n Kim Tuấn:
    -Chạy giặc phải chạy cho lẹ chứ …Từng bước từng bước thầm hoài th́ làm sao tới bến được.
    .Rồi đoàn xe lết từng tấc cũng tới dược bờ sông Ba. Buổi sáng đầu tiên trên bờ sông Ba, sương mù dày đặc, mọi người lùm xùm trong áo jacket, có người khoát thêm poncho, có người chơi luôn cái mềm cho đủ ấm, ngồi chùm nhum trên từng xe hút thuốc…mắt mơ màng phần mệt mỏi phần lo lắng, muỗi cắn, sương lạnh, vắt đeo….Đường c̣n xa mà trước mặt sông lớn chắn ngang , ơi Sài G̣n, Sài G̣n đẹp lắm Sài G̣n ơi, con đường Cường Để, dốc cầu chữ Y, ngả tư B́nh Ḥa…liệu tôi có c̣n thấy lại hay không …?!
    Bài học chiến thuật của trường bộ binh Thủ Đức, bài cuối cùng tôi c̣n nhớ rất rơ: Lui Binh Cấp Tiểu Đoàn, thực tế tôi chưa từng tham dự cuộc lui binh cấp tiểu đoàn nào mà nay lại nằm trong trận lui binh tới cấp quân đoàn, sĩ quan cấp úy như tôi đành chịu phó mặc mạng sống do trời…
    Mặt trời lên, sương tan, cảnh vật trông rơ, công binh phát quang khoảng trống canh bờ sông, bên trái là cánh rừng thưa, qua bên kia bờ sông đi thêm trên cây số rừng thưa là tới đập Đồng Cam, đi dọc theo con lộ 7B nầy một bên là đập nước, tới một cánh đồng, xa phía trong là rừng, bên trái là triền đất kéo dài khoảng cây số tới rừng và những ngọn đồi, ngày xưa Đại Hàn xây nhiểu lô cốt trên những ngọn đồi nầy, con lộ nầy bỏ hoang từ ngày Mỹ rút, Một anh trung sĩ thuộc chi khu Củng Sơn nói sơ cho tôi biết về lộ tŕnh phía trước…
    Tôi lần ṃ tầng số trên máy C25, gặp một số anh em sư đoàn 23 c̣n ở Phú Bổn, c̣n đoạn đầu tôi không biết đă tới đâu, nước sông chỗ sâu nhất tới rún, Thiết giáp ṿng dây kéo từng chiếc quân xa, mất khoảng 10 phút mới qua tới bên kia bờ , chuyền xe được kéo phải chi trả ít nhất là 10.000$, giá trung b́nh thường là 20 ngàn, mười xe qua tới bờ chết máy hơn phân nửa, xe được kéo phải nổ máy đều, nếu máy tắt là nước vào ống bô kể như bỏ xe….
    Nơi khúc sông kéo xe là khúc cạn nhất, Công binh sẽ bắt cây cầu dă chiến tại đây, xe tôi đậu cách xa khúc sông nầy khoảng một cây số, cứ thế mà lết dần từng mét một, có đi tắm giặt cũng phải trực người ngồi ôm vô lăng, chứ xe trước nhít tới mà ḿnh dậm chân th́ xe sau sẽ hất xe ḿnh ra khỏi hàng
    Dưới ḷng sông Ba có rất nhiều cồn cát nổi cao lên khỏi mặt nước, cồn tṛn khoảng 10 mét vuông, trời càng trưa càng gay gắt nắng, mọi người xuống sông giỡn nước, nước sông Ba trong thấy đáy, mát vô cùng, tầm nghịch xong lên cồn ngồi, đàn bà con gái lúc đầu c̣n e thẹn, sau vài ngày rồi cũng dạn dĩ ra, cũng tầm nghịch bơi giỡn dưới sông, thỉnh thoảng một vài trái đạn 60 ly rót xuống, một điều hết sức may mắn là xe chen chút sát bờ mà đạn cứ rớt ùm xuống sông, Tôi nh́n thấy nhiều lần trái đạn rớt chui ngay cồn chui xuống sâu mới nổ hất tung những người ngồi trên cồn tung lên rớt xuống nước lũm chũm, hết hồn chút đỉnh chứ chẳng sao cả, mấy trái đầu c̣n sợ, pháo riết rồi quen, cứ an ủi bằng câu trời kêu ai nấy dạ, ba bốn ngày đầu tôi thấy ông trời vẫn chưa kêu ai…!
    Triệu chứng kiết lỵ đă thấy xăy ra cho nhiều người lớn tuổi v́ đoàn người quá đông mà phóng uế bừa bải, nước sông dù vẫn lặng lờ chảy nhưng đă bị ô nhiễm nhiều rồi, với lại khó nấu nướng món ǵ trọn vẹn v́ giặc pháo thường xuyên mà mỗi lần pháo là đoàn xe rối lọan, càn bừa chạy tránh đạn. Tôi đă thấy trên nhiều xe lô bồi nhiều người đàn ông tụt luôn quần ngồi chờ tháo dạ.. sau 3 ngày bệnh lỵ xuất hiện tôi thấy bụng tôi ngầm đau… rồi trong phân có lẫn máu. Mấy chú lính hết t́nh chăm sóc cho tôi, cố gằng rang gạo nấu lấy nước cho tôi uống, với một vài chén nước gạo rang mà tôi đi ng̣ai khoảng trên 20 lần trong ngày, tôi đă gầy mà bây giờ bị bệnh như vầy, mắt sâu má hóp, nh́n qua mặt nước dáng h́nh tôi trông thật thảm, đau như cắt ruột sao lại là đệ tứ khoái được đây??… Tôi thấy trong ḿnh tôi ră rời, ngồi không muốn vững, miệng đắng mà lạt nhách…Tôi nghĩ dại… có lẽ bên bờ sông Ba nầy tôi không c̣n dịp gặp lại người thân nữa. Buổi sáng quá đói và mất ngủ tôi thều thào gọi thằng Mỹ đến, tần mần tháo dây thẻ bài, tay móc bóp trao cho nó. Thằng Mỹ nh́n tôi có vẽ ngạc nhiên - -Nếu mày về được tới Sài G̣n, mang những vật nầy trao cho gia đ́nh tao, nói rơ cho nhà tao biết về cái chết của tao. Thằng Mỹ mắt đỏ hoe:
    -Vài bữa là hết ông đừng có lo…Ông nằm nghỉ để tôi bắt lửa nấu cho ông chén cháo.Không biết nhờ ân sủng nào mà trong t́nh trang suy sụp thể lực như vậy mà bệnh lỵ của tôi lại thuyên giăm và mấy ngày sau là tôi b́nh phục dù trong người rất yếu, dù chẳng có uống một viên thuốc nào
    Thuốc hút bắt đầu khan hiếm, một gói thuốc capstan giá thường là 400$ nay 2.000$ một gói mà t́m đỏ con mắt không ra, phần rỗi rảnh nên buồn miệng cứ hút luôn, xe lô bồi cạnh tôi có lẽ nh́n mặt tôi thấy có cảm t́nh sao đo.., một cô xẩm độ tuổi đôi mươi vứt qua cho tôi 1 cây thuốc bastos xanh, Tôi cám ơn rối rít, móc tiền ra trả nhưng người thiếu nữ gốc Hoa nầy khoát tay không nhận, c̣n nở một nụ cười thật tươi, một chút t́nh quân dân, t́nh em hậu phương…!
    Cứ thêm một ngày th́ lượng xe và người càng tăng dần…. Nhít qua nhít lại rồi đoàn xe cũng vào được đội h́nh hàng tám…Nh́n thấy cảnh chết máy của các xe kéo qua sông, với lại tiền không có nhiều nên đa số đành sắp hàng chờ cầu phao.Si Núc, lọai trực thăng vận tải bắt đầu chỡ vĩ sắt đáp cạnh bờ sông, dân lính ùng ùng tranh nhau lên phi cơ dù phi hành đ̣an hết sức ngăn cản… T́nh trạng nầy lặp đi lăp lại sau mỗi lần phi cơ đáp xuống, người ta tranh nhau lên quá tải, phi công sợ nặng nên cất cánh trước khi đóng bửng, một vài người lính đeo theo càng trực thăng, tôi cũng thấy nhiều lần phi cơ bắt đầu b́nh phi, bửng sau từ từ khép lại …có vài người sẩy tay rơi xuống trông như chim…Tôi nghe thuật lại rớt như vậy mà không có ai chết chỉ bị sứt tai găy gọng thôi…Cảnh trông thật kinh hồn hơn trên màn ảnh ci nê, những cảnh thực mà trong đời người khó có dịp trông thấy lại …
    -Gạo thóc vẫn là việc nan giải, nhiều bà Sơ đi t́m mua gạo để có cơm cho các em nhỏ, tôi lại trích phần gạo chia sớt với các em. Có một vài chị tới ngày sinh nở… mấy người thân chạy táo tác t́m người đở đẻ, poncho quay tạm che gió… rồi tiếng hài nhi khóc chào đời… ch́m lẫn trong tiếng súng đạn ầm vang. Phía bên kia bờ sông tiếng súng vẫn râm rang, phía sau hướng Củng Sơn cũng vang rền tiếng súng…T́nh thế …kẹt cứng… lưỡng đầu thọ VC
    Những ngày tôi lê lếch trên bờ sông Ba là những ngày đầu tháng hai âm lịch, Đêm mùng 6 tôi nghe đài BBC tả cảnh Sài G̣n, Bà Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đang chủ tọa lễ Hai Bà Trưng, người b́nh luận :… Sài G̣n hầu như không cần biết đến đoàn quân ră ngũ đang đi trên tử lộ cố t́m ngơ sống về Nam, người b́nh luận c̣n nói thêm…. Hầu hết các quân nhân đều tỏ ra bất măn với vị tổng tư lệnh Nguyễn văn Thiệu họ thề sẽ về tới Sài G̣n t́m hỏi tội ông ta tại sao đă bỏ rơi bao nhiêu sinh mạng đă phục vụ dưới quyền ông.
    Trong một vài buổi sáng có những chiếc trực thăng bay thấp trên đầu đoàn quân di tản. trên trực thăng rải xuống nhiều lọai thực phẩm: Cơm vắt đựng trong túi ny lon nhỏ, sữa họp, bánh ḿ ổ, ḿ gói, gạo sấy… với những tờ truyền đơn bươm bướm có in hàng chữ: Con đường các bạn đi c̣n dài, c̣n nhiều chông gai, chúc các bạn may mắn( tôi nhớ đại ư như vậy) ở dưới có in hàng chữ Cơ Quan Công Giáo Bác Ái, Nh́n cảnh thực phẩm rơi xuống, ḷng tôi bi hài trộn lẫn, Người ta dành nhau, những vắt cơm rơi trúng đầu không nói chi, họp sữa , tôi nh́n thấy nhiều lần rất may mắn là rơi trúng vai, người lính nhăn mặt biểu lộ cảm giác đau rồi cười khum xuống nhặt họp sữa. Tôi cũng thấy có nhiều chiếc trực thăng đáp xuống phía cách xa đoàn xe, họ thả vài người lính xuống rồi cất cánh, những người lính không quân nầy đi len lơi vào đoàn xe ra giá kiếm khách, h́nh như giá tối thiểu cũng phải 10.ngàn đồng( bằng ½ tháng lương chuần úy ). Những người lính nầy kiếm khoảng 10 người rồi cùng đến tọa dộ đă định sẵn, Cũng không thiếu những người thừa dịp ăn theo…Trong bất cứ t́nh huống nào, con người vẫn nghĩ ra cách làm tiền, dù cho đồng tiền đó có vương mùi máu… Những người c̣n ở lại đều có ư bất măn trước t́nh huynh đệ chi binh… tuy thế mà rất nhiều lần tôi không hề thấy một xạ thủ nào canh bắn trực thăng dù việc làm nầy rất dễ dàng , bắn vô tội vạ, Đồng lương lính quá thiếu thốn chăng? Thiếu thốn th́ ai lại không thiếu, sao lại nỡ để mất đi t́nh huynh đệ. Trước cảnh t́nh quá bi đát nầy, hơn 10 ngày không có cách ǵ qua sông, mà giặc phía sau đă gần kề, phía trước chưa mở xong đường máu, tôi nêu ư kiến với anh em trong toán
    -Trong hoàn cảnh nầy, tôi không ép anh em theo tôi, anh em cứ tự nhiên canh chừng trực thăng đáp xuống đu theo về trước, Tôi quay qua Mỹ:
    - Mỹ, mày ba lô gọn nhẹ đi đi, về ghé nhà tao, nói tao sẽ về sau..Thằng Mỹ sau mấy lần canh me cùng 2 chú lính đi thoát được… lại thêm mấy chú lính cùng tiểu đoàn chạy lạc gặp tôi xin tá túc, có thêm đông càng tốt. Một phụ nữ trạc 25 tuổi tay bế em bé khoảng 10 tháng tuổi, tay dắt 2 con thơ, từ 3 và 5 tuổi đến trước mặt tôi mếu máo xin được đi nhờ xe… Trên xe đa số là đàn bà con nít, vợ con anh em trong toán, thiếu phụ c̣n cho biết chồng là Trung úy Thiết Giáp bị thất lạc… Tôi ngần ngừ nh́n mấy mẹ con rồi quyết định cho lên ngồi trên cabin xe… Tôi nh́n thấy thái độ bất măn của mấy chị em ngồi phía sau xe…, họ ganh tỵ với người lạ sao lại được ưu đăi. Tôi làm lơ như không thấy…. Giúp được cho ai điều ǵ trong khả năng th́ cứ giúp. Tôi không nhớ rơ bao nhiêu ngày nhưng chắc hẵn là không dưới 10 ngày th́ cầu phao mới làm xong, giữa cầu h́nh như là 2 vĩ sắt bắt trên trái nổi v́ khi xe chay ngang qua, vĩ sắt ch́m xuống mặt nước khoảng 2 tấc.Mỗi lần sang sông chỉ một chiếc xe… Pháo địch tăng nhiều, phía đập Đồng Cam tiếng súng vẫn ầm vang, nhiều trái đạn chỉ cách cầu khoảng 10 mét, ḷng sông đầy cát nên khi đạn nổ chỉ có nước và cát văng xa… Có mấy lần tôi chỉ đứng cách trái pháo chừng 5, 6 mét, cát văng lên mặt, tay rát rạt, anh em thảo luận rồi đồng ư lần lượt mỗi hàng xe một chiếc qua cầu, Trong hàng cử một quân nhân có dáng “Ngầu” cầm súng trước trước đầu hàng xe, tám người canh cho xe qua cầu, khi xe của người gác nầy qua cầu th́ toán lại cử người khác, cho tới 4 giờ chiều th́ tôi được hàng xe đề nghị gác hàng xe với lư do trong hàng toàn lính trẻ, tôi có lon lá dễ ăn nói hơn. Đám đệ tử sửa lại nón sắt cho tôi, một cây AR15 với 2 băng đạn, Trung sĩ Khâm c̣n màu mè gắn lên dây ba chạc tôi 2 trái mini lựu đạn, Khâm cũng không quên bẻ bâu áo cho lộ 2 bông mai ra ngoài… Nó cười cười :Trông Ông cũng ngầu lắm……Nhịp độ pháo của giặc tăng dần, Délô của tụi nó trong hàng quân nên độ chính xác ngày càng thấy rơ, ḷng tôi thấy hồi họp lắm v́ xe tôi đă tiến dần lên, thứ 10, rồi thứ9…hạ sĩ Đặng Giác, nón sắt áo giáp, bên cửa xe treo lủnh lẳng cây M16 với 2 băng đạn, miệng ngậm điếu thuốc, tôi đi trước đầu xe hướng dẫn xe qua cầu, nước sông đă bắt đầu lớn, bấy giờ là 5giờ 20 chiều, trời lành lạnh và hoàng hôn đă đến, 2 bánh xe trước chạm vào vĩ sắt, nước ngập gần nửa bánh xe…
    Ầm ầm, hai trái đạn nổ cách trung tâm cầu khoảng 5 mét, cát bay mù mịt, tôi mở mắt nh́n qua làn bụi … Nhờ ơn trên không sao …Đề lô đang điều chỉnh gần chính xác cây cầu rồi… Tôi nh́n lên bờ thấy Chấn( khóa 3/68, cùng đơn vị)hàng xe xếp cách tôi khoảng 5 chiếc, đang đứng nh́n tôi hướng dẫn xe, xe lên dốc lên bờ….Tôi khoác vội nước sông rửa mặt, và tự nhiên thấy tối sầm lại, tôi vội ngồi xuống, thằng Khâm nhảy xuống xe xốc nách tôi lên xe… Có lẽ v́ ăn uống thất thường,v́ sau cơn đau kiết lỵ, v́ mất ngủ và v́ quá căng thẳng tôi bị suy nhược?
    Trời chiều xuống thật nhanh, đường rừng cũng tương đối bằng phẳng, rất nhiều xe tấp vào những gốc cây tạm nghỉ chờ sáng. Xe tôi cũng t́m một vị trí tương đối có nhiều xe chung quanh, tạm dừng chân. Trung sĩ Khâm trong toán chính huấn bắt được một con bọ chắc là của ai sút chuồng, vợ chồng Khâm bận rộn lo nấu nướng, một bao củ hành tây sấy khô , thực phẩm của Mỹ, tôi cũng không hiểu Khâm t́m nó ở đâu, với con dao Khâm khéo léo lột da con bọ, Khâm nh́n tôi cười mỉm:
    -Lọai nầy phải làm khô chứ không rửa nước, tôi sẽ xào mặn nó với hành tây, ớt khô và muối.
    Trời tối thật nhanh, muổi bắt đầu tấn công dữ dội. Vợ Khâm, cô ca sĩ chính huấn cũng vừa xong nồi cơm, mấy gia đ́nh chung xe cũng đă nấu xong cơm, bên ánh đèn pin, ánh sáng đủ tỏ soi chập chờn mặt mọi người… Mười mấy ngày nay mới được ăn cơm ngồi đàng hoàng, với cơm nóng đúng nghĩa.
    Đêm trong rừng lành lạnh, sau một đoạn đường ăn uống thất thường, bệnh họan húp cháo mấy ngày, hôm nay được ăn cơm nóng với thịt bọ xào củ hành, tôi ăn thấy ngon miệng làm sao, làm 4 chén mà miệng c̣n muốn ăn nữa… Tôi nhớ tới những bữa giổ, ngày tết, tiệc cưới nhà hàng, những tiệc nhậu ở Thanh Hải, Lưởng Nghi, Biên Thùy… Chưa có bữa ăn nào mà tôi cảm thấy ngon như hôm nay.
    Đêm nay trăng mười bốn lên sớm… Ánh trăng muôn thuở vẫn ngời sáng tuy có bị chút sương mù, tôi nh́n chung quanh, xe của các bạn đồng hành cũng đều cơm nước xong , mọi người đang chuẩn bị sửa soạn cho chỗ nằm, tôi nằm trong cabin với tài xế để tiện việc luân Cviệc rút bỏ quân đoàn.Cô bé mắt nâu chắc là lo cho tôi lắm, mẹ tôi và ba tôi có lẽ suốt ngày cầu nguyện cho tôi,người chị thứ năm của tôi đang ở Hàm Rồng, chồng chị phục vụ trong Sư đoàn 23, trung đoàn rời Hàm Rồng lên Ban Mê Thuộc, không biết bây giờ chị tôi và 2 cháu nhỏ ra sau… tàn điếu thuốc, mắt tôi nặng, giấc ngủ tôi biết sẽ đến rất dễ dàng… Tôi đâu có biết sau giấc ngủ nầy, ngày mai tôi và các bạn đồng hành sẽ phải đi trên con đường đầy máu và nước mắt… Gian nan rồi cũng qua, chỉ c̣n lại là kư ức, vui, buồn, thương, hận… đâu dễ ǵ trong một sớm chiều mà nhạt phai …
    Tôi ngồi đây, viết lại những ḍng chữ nầy, trong kư ức, h́nh ảnh năm xưa hiện rơ trước mắt, cuộc chiến nào mà không tàn khốc, tiếc cho quân đội miền Nam không thiếu anh hùng, không thiếu ḷng can đăm….Nhưng cơ trời vận nuớc… Nguyện cầu anh linh quân dân cán chính bỏ ḿnh trên lộ 7 sớm siêu thoát

    Viết tại Kỳ Đà Động Tháng 12-2005

    THỦY LAN VY

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Yêu Nước Đồng Nghĩa Với Phá Nước Của Người CSVN
    By TuyetNhiNguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 09-05-2012, 05:37 AM
  2. Replies: 12
    Last Post: 23-07-2011, 08:51 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 07-04-2011, 02:47 PM
  4. Replies: 7
    Last Post: 06-12-2010, 08:46 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •