Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 12

Thread: Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 1)

  1. #1
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 1)


    Lời giới thiệu: Mục “Hồ sơ” báo Việt Tide tuần này xin bắt đầu đăng tải tài liệu CIA được xếp loại “bài nghiên cứu” (“A Research Paper”) mang tựa đề “Tranh chấp biên giới Hoa-Việt.”

    Tài liệu này tiết lộ và phân tích nhiều xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam từ năm 1978 – những xung đột mà ngày nay chính quyền cộng sản tại Hà Nội đang tảng lờ như không có.
    Tác giả nghiên cứu này là National Foreign Assessment Center (tạm dịch Trung tâm Quốc gia Đánh giá Ngoại bang). NFAC là tên gọi mới của Cục T́nh báo (Directorate of Intelligence) sau 1977, là bộ phận trong CIA chuyên phân tích và tổng hợp thông tin lấy được từ các nguồn t́nh báo. Đến năm 1981, NFAC lại được đổi lên trở về với tên gọi ban trước là Directorate of Intelligence.

    Hồ sơ được đóng dấu Tối Mật (“Top Secret”), đề ngày 5 tháng 3, 1979 – tức vài tuần sau khi Trung Quốc xua quân vượt biên giới Việt Nam trong ư định “dạy cho Việt Nam một bài học.” Hồ sơ này được bạch hóa vào tháng 6, 2002.

    Hồ sơ này tuy đă được bạch hóa, nhưng vẫn c̣n nhiều phần bị xóa đi chưa được công bố hoàn toàn. Trong bản dịch này, những phần bị xóa được ghi bằng dấu “#####”.

    Đặc biệt, ngay cuối tựa của tài liệu này đă có một hay vài chữ bị che lại. Ở cuối nhiều đoạn văn, cũng có một khúc ngắn bị che; người đọc có thể tạm đoán rằng những nguồn trích dẫn cho các đoạn văn là các tài liệu vẫn c̣n trong ṿng bí mật.
    Làng Ba Chúc và Huyện Tịnh Biên được khoanh màu đỏ. Biên giới Việt Trung

    Trong bản dịch dưới đây, những lời trong dấu ngoặc vuông [ ... ] là chú thích thêm của dịch giả.

    Hồ sơ này mở đầu bằng một trang rưỡi “Các đánh giá chính” và sau đó là mục lục và phân tích chi tiết.

    Tranh chấp biên giới Hoa-Việt #####

    Bài nghiên cứu

    Thông tin dùng trong báo cáo này cập nhật đến ngày 5 tháng 3, 1979

    Các đánh giá chính

    Cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào phía bắc Việt Nam có khuynh hướng che lấp sự thật là tranh chấp biên giới Hoa-Việt có động lực của riêng nó và đă là vấn đề quan trọng giữa hai nước này từ lâu nay, trước khi mâu thuẫn Việt Nam – Campuchia nổ tung thành chiến tranh công khai. Sự bất đồng ư kiến về một vài đoạn biên giới ngắn (cũng như về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) được giữ trong những đường dây trao đổi kín sau khi chiến tranh chấm dứt tại Đông Dương. Nhưng rồi những cuộc thảo luận kín bị thất bại vào cuối năm 1977 và vấn đề này trở thành một phần trong một cuộc tranh chấp chính trị rộng lớn hơn. (#####)

    Ở cả hai bên, những phản ứng theo cảm tính đối với những biến cố mới đă thay thế cho sự tính toán tỉnh táo về thiệt hại cho lợi ích quốc gia trong trường hợp mất b́nh tĩnh. Đụng độ tại biên giới trở thành yếu tố quyết định khiến những phản ứng thiếu thận trọng này càng leo thang hơn.###

    Một vài xung đột nhỏ, không vũ trang (hầu hết là ẩu đả) dọc đường biên giới Hoa-Việt trở thành đụng độ quân sự cấp bách sau hai biến cố quan trọng trong năm 1978:

    * Những lời cáo buộc về người gốc Hoa bị ngược đăi và muốn từ Việt Nam thoát thân vào Trung Quốc. V́ vậy cuộc giao tranh vũ trang đầu tiên năm 1978 tại vùng biên giới đă diễn ra v́ vụ người tỵ nạn muốn vượt biên vào Trung Quốc.
    * Những lời cáo buộc về việc Việt Nam xây dựng tuyến pḥng thủ biên giới. Cuộc giao tranh vũ trang lần thứ nh́ và thứ ba năm 1978 diễn ra khi phía Trung Quốc phá hủy hàng rào, cọc đánh dấu, và băi ḿn trên tuyến [pḥng thủ] này.

    Phía Trung Quốc giận dữ v́ Hà Nội đă cả gan thay đổi hiện trạng [nguyên văn: status quo] tại biên giới, và cho rằng nếu im lặng chấp nhận những thay đổi này th́ sẽ trở thành tưởng thưởng cho Hà Nội và sẽ dẫn đến nhiều vi phạm khác tại biên giới.###

    Cụ thể, hành động của Hà Nội xây dựng tuyến pḥng thủ (phía Hà Nội tuyên bố là để bảo vệ chống sự xâm nhập của biên pḥng và gián điệp Trung Quốc) làm thay đổi luật chơi của cuộc tranh chấp chính trị. Bằng hành động này, Hà Nội đă đi thêm một bước từ đấu khẩu bằng miệng đến đơn phương đánh mốc gần như tất cả mọi đoạn trên một biên giới mà trước đây tương đối mở và chỉ được đánh mốc sơ sài. Trung Quốc cho rằng việc cắm mốc khiến Việt Nam được lợi thế về đất đai và đằng nào th́ cũng không có sự đồng thuận của Trung Quốc. Về phía ḿnh, Việt Nam tức giận khi Trung Quốc phá hủy những hàng rào do họ dựng nên mà, theo họ, nằm “trong lănh thổ Việt Nam.” Cứ như vậy mà t́nh trạng đă sẵn sàng để một Trung Quốc vũ trang đối đầu với một Việt Nam vũ trang.###

    Bắc Kinh, là phía lớn hơn và mạnh hơn, leo thang cuộc tranh chấp bằng cách chỉ thị cho biên pḥng, vào tháng 12, bắt đầu tuần hành lên phía trước và “nổ súng” vào chốt và nhân sự biên pḥng của Việt Nam. Một cuộc leo thang thứ nh́ sau đó đă tiếp theo vào giữa tháng 1 khi Bắc Kinh bắt đầu đưa bộ đội chủ lực Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA [viết tắt theo tiếng Anh People’s Liberation Army]) thay v́ lính biên pḥng để thăm ḍ và trinh sát; số người và mức độ thâm nhập vào vùng đất Việt Nam cho là của họ cũng tăng lên. Cùng lúc đó, phía Trung Quốc báo cho Việt Nam biết về bản chất và mức độ của sự gia tăng [quân sự] phía bắc biên giới.###

    Mặc dù đối đầu với những cuộc tấn cộng của quân chủ lực PLA ở biên giới và biết về sự tập trung quân đội Trung Quốc gần đó, phía Việt Nam từ chối không chùn bước. Họ giữ vững vị trí của ḿnh và c̣n đánh trả. Tới giữa tháng 1, phía Trung Quốc dường như đă cho rằng chính sách cảnh cáo và hăm dọa đă không có hiệu lực.###

    Tổng cộng vùng đất Việt Nam “chiếm đóng” không phải là lớn – khoảng 60 km vuông. Nhưng việc Việt Nam tự cho là có thể tùy tiện tự nhận bất kỳ một chút đất nào của Trung Quốc là điều phía Trung Quốc không chấp nhận được. Và, mặc dù chỉ có khoảng 300 người Trung Quốc bị chết và bị thương, chính sự thách thức công khai của phía Việt Nam đă khiến bất kỳ một chút tổn thất nào cũng không chấp nhận được [đối với Trung Quốc].###

    Bắc Kinh kết luận rằng sự ngạo mạn quân sự của các lănh tụ Việt Nam nếu để yên sẽ tiếp tục trở thành một sự “kiêu căng” nguy hiểm. Ở một khía cạnh căn bản nào đó, cuộc xâm lăng của Trung Quốc là một cố gắng phá vỡ h́nh ảnh Hà Nội tự vẽ cho ḿnh là vô địch bất bại.###

    Campuchia là yếu tố xúc tác chính trong suy nghĩ của Trung Quốc. Tranh chấp biên giới Hoa-Việt leo thang trong bối cảnh Việt Nam chiếm đóng Campuchia và Trung Quốc đă không có khả năng bảo vệ chư hầu của họ tại đó. Nói tóm lại, hai yếu tố – hành động của Việt Nam chống Campuchia và việc Hà Nội không chịu có thái độ ít thách thức hơn ở biên giới Hoa-Việt – trở thành đưa đẩy hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy Bắc Kinh phải cố gắng “trừng phạt” Việt Nam bằng quân sự qua việc tràn vào phía bắc.###

    Bắc Kinh đă ra ư rằng quân lực Trung Quốc rồi ra sẽ rút về đường biên giới mà Trung Quốc (chứ không phải Việt Nam) công nhận. Nếu điều này là quyết định tối hậu của Trung Quốc, và nếu Hà Nội từ chối không đàm phán cho một hiệp ước biên giới, tương lai sẽ thấy một thời gian dài có căng thẳng và mâu thuẫn biên giới.###

    [Tài liệu này, sau phần “Các đánh giá chính” đến trang Mục lục như sau]
    Mục lục:

    Các đánh giá chính

    Lời mở đầu

    I. Những nỗ lực chính trị để tránh gia tăng bất đồng

    II. Bất đồng về nạn kiều gia tăng thành bất đồng về lănh thổ

    III. Trung Quốc dọa dẫm Hà Nội: Máy bay do thám

    IV. Hà Nội chuẩn bị “chiến tranh”

    V. Tuyến pḥng thủ biên giới của Việt Nam khiến căng thẳng leo thang

    VI. Tiếp tục leo thang: Trung Quốc bắt đầu tháo gỡ hàng rào

    VII. Bắc Kinh gia tăng cảnh cáo đối với nạn nhân bị bắn chết

    VIII. Trung Quốc bắt đầu “trừng phạt”

    IX. Trung Quốc thất bại trong chính sách uy hiếp

    ######
    ######

    [Sau trang mục lục là nguyên một trang vẫn c̣n trong ṿng bảo mật và bị xóa trắng. Trang này có lẽ là liệt kê phần phụ lục, v́ ở cuối tài liệu này lại có bốn trang cũng bị xóa trắng.]

    (C̣n tiếp)

    Vũ Quí Hạo Nhiên

  2. #2
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 2)




    Hành động quân sự của Trung Quốc chống Việt Nam có khuynh hướng che lấp sự thật là tranh chấp biên giới Hoa-Việt có động lực của riêng nó và đă là vấn đề song phương quan trọng giữa hai nước này từ lâu nay, trước khi mâu thuẫn Việt Nam – Campuchia nổ tung thành chiến tranh công khai.


    Lời mở đầu

    Sự tranh giành chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở ngoài khơi là một vấn đề gây nhiều tranh căi, nhất là từ khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ trong tay miền Nam Việt Nam năm 1974. Biên giới trên đất liền có vẻ ít nhạy cảm chính trị hơn, nhưng vẫn là nơi xảy ra nhiều đụng độ nhỏ trong hơn 20 năm, ngay cả vào thời gian hai bên là đồng minh trong chiến tranh. Tự nó, cuộc tranh căi về lănh thổ rơ ràng đă khiến mối quan hệ hai nước bị lạnh nhạt, và với mối quan hệ ngày càng xấu đi trong các lănh vực khác, nó [tranh chấp lănh thổ] trở thành chủ đề chính trong cuộc đụng độ lớn đă xảy ra.###

    Sự gia tăng mức độ tranh chấp tại biên giới phải được nh́n qua lăng kính của mối quan hệ ngày càng xuống dốc giữa Trung Quốc và Việt Nam từ sau khi chiến tranh tại Đông Dương kết thúc năm 1975. Một cuộc tranh giành ảnh hưởng ngầm tại Đông Nam Á gần như bảo đảm rằng những vấn đề được d́m đi trong chiến tranh sẽ nổi bật lên và gây căng thẳng trong giai đoạn hậu chiến.###

    Đă có giai đoạn [hai bên] hành động b́nh tĩnh và theo lư trí, mặc dù phía Trung Quốc ngày càng khó chịu với việc Việt Nam thiên về Liên Xô, và phía Việt Nam bất b́nh với việc Trung Quốc rơ ràng muốn đè bẹp tầm ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực – một mục tiêu thấy rơ trong việc Trung Quốc đỡ đầu cho Campuchia, nước láng giềng độc lập và khó chịu của Việt Nam. Tuy nhiên, mọi sự kiềm chế đă chấm dứt qua cuộc chiến Campuchia, đă khiến cho Việt Nam ngày càng tức giận với việc Trung Quốc ủng hộ cho nhà cầm quyền Phnom Penh. Và Trung Quốc đă rất giận dữ với kiểu đối xử của Việt Nam với cư dân gốc Hoa – những nạn nhân kép, vừa bị kỳ thị lại vừa bị đánh tư sản – và quan trọng hơn nữa là trong cái họ thấy là sự ràng buộc thân thiết giữa Hà Nội với Moscow.###

    Có một điều có thể chứng minh được, là cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều không muốn cuộc tranh chấp biên giới vượt quá t́nh trạng hiện tại. Phía Trung Quốc phải lo tới Liên Xô trong lúc đánh với Việt Nam; phía Việt Nam vừa đánh Trung Quốc vừa phải đánh Campuchia. Trung Quốc đang lo ngại có thể sẽ phải chiến tranh hai mặt; Việt Nam đă phải chiến tranh hai mặt rồi. Nhưng t́nh cảm quốc gia chủ nghĩa của cả hai bên dâng lên quá cao đế có thể ngăn được một trận chiến biên giới dù không bên nào muốn.###

    I. Những nỗ lực chính trị để tránh gia tăng bất đồng

    Cho tới gần đây cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đề không có lư do ǵ đề lo ngại có một cuộc chiến tranh biên giới. Cả hai phía vào năm 1957 đă đồng ư xếp qua một bên [nguyên văn: keep on the shelf, nghĩa đen là để yên trên tủ] các bất đồng về biên giới, và đường biên giới tiếp tục có những đoạn rất dài giữa các cột mốc cách xa nhau mà không có đánh dấu ǵ cả. Ngay cả khi xích mích gia tăng trong vấn đề lănh thổ, sau khi cộng sản chiến thắng tại Đông Dương năm 1975, chuyện này vẫn được giữ kín trong các đường liên lạc riêng tư. Được biết, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào tháng 9, 1975 tại Bắc Kinh đă đồng ư bắt đầu bàn thảo chi tiết và riêng tư qua một “ủy ban đặc nhiệm” với các đặc sứ chứ không dùng nhân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh. Những cuộc thảo luận quan trọng giữa Trung Quốc và Liên Xô đă chỉ diễn ra khi có đặc sứ từ Moscow được cử đến Bắc Kinh, và hai bên dự kiến làm việc theo cùng phương thức như vậy cho cuộc đàm phán Hoa-Việt.###

    Thế nhưng có vẻ như “ủy ban đặc nhiệm” đă không nhóm họp lần nào. Hai bên cố gắng thử lại vào năm 1977, và Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền ####### qua lại giữa Hà Nội và Bắc Kinh ############## giúp hai bên tiếp tục bàn thảo ở cấp cao về vấn đề biên giới. Có vẻ như phía Trung Quốc sẵn sàng xử sự hợp lư, như phản ảnh qua lời tuyên bố của một viên chức Trung Quốc vào thời đó, nói rằng khác với việc thảo luận về biên giới với Liên Xô và Ấn Độ, Trung Quốc đă nhượng bộ với nhiều nước “nhỏ hơn,” ngụ ư rằng Việt Nam sẽ được xếp vào loại [nhỏ hơn] đó. ### Những cuộc gặp gỡ ### ở mức thứ trưởng, tuy nhiên, đă chấm dứt vào đầu năm 1978 và vấn đề biên giới bị bỏ ngỏ.###

    Vào lúc đó, mức độ tranh chấp ngoài biển tiếp tục gia tăng khiến hai bên càng cứng ngắc hơn trong mọi đề tài liên quan đến lănh thổ. Lập trường của Trung Quốc là Phạm Văn Đồng vào thập niên 1950 đă công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc chiếm năm 1974) và quần đảo Trường Sa (Việt Nam chiếm năm 1975) thuộc về Trung Quốc, nhưng Hà Nội vẫn cứ đặt vấn đề mà Bắc Kinh th́ muốn không nhắc tới. Một bất đồng khác về lănh hải đă diễn ra gần đây khi Hà Nội đ̣i chủ quyền đối với “hai phần ba” Vịnh Bắc Bộ, theo lời Trung Quốc. Hà Nội dường như đ̣i hỏi rằng đảo Bạch Long Vỹ [tiếng Anh là Nightingale Island] – nằm ở khoảng giữa đất liền Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc trong vịnh – là điểm gốc để đo đường ranh giới 12 hải lư. Bắc Kinh bác bỏ đ̣i hỏi này, và phi cơ Trung Quốc bay trên không phận của vùng phía Việt nam cho là hải phận Việt Nam.###

    Bất kể những xích mích này và sự khó chịu của Trung Quốc khi Việt Nam thiên về phía Liên Xô, cả hai bên đă tránh không giao tranh hay đấu khẩu công khai. Chỉ với những biến cố tương đối gần đây đă đẩy mức độ thù địch lên cao đến mức hai chính quyền tranh chấp công khai và quay sang chiến đấu quân sự.###

    Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 3)


    Trận chiến vũ trang đầu tiên năm 1978 là kết quả trực tiếp của việc người Hoa, hốt hoảng và bị ngược đăi, bỏ chạy ra khỏi Việt Nam vào Trung Quốc.

    I. Bất đồng về nạn kiều gia tăng thành bất đồng về lănh thổ

    Khi những nhóm người tỵ nạn đang muốn vượt biên giới, họ bị lực lượng an ninh Việt Nam đuổi theo. Phía Việt Nam bị biên pḥng Trung Quốc nổ súng bắn ngày 3 tháng 2, 1978 (gần Đồng Văn, tỉnh Hà Tuyên [tỉnh cũ, gồm Hà Giang và Tuyên Quang gộp lại]) và ngày 15 tháng 2 (gần Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh); 30 người Việt Nam bị giết. ################# Sau khi Việt Nam ra quyết định “xă hội hóa” vào tháng 3, 1978, người Hoa bắt đầu băng qua biên giới vào miền nam Trung Quốc với số đông rất lớn và không xử lư nổi, và tới ngày 12 tháng 7, Trung Quốc bất ngờ thay đổi chính sách và từ chối không nhận người nạn kiều nữa. Bắc Kinh che giấu chính sách gần như bế môn này bằng cách đ̣i hỏi người nạn kiều phải có giấy tờ do Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội cấp và có giấy xuất cảnh của Việt Nam. Hơn nữa, Trung Quốc lại muốn giấy tờ nói rơ là người nạn kiều đă bị “đàn áp” tại Việt Nam. Chính sách ngăn chặn này tạo t́nh trạng đối đầu căng thẳng tại các trại tỵ nạn bên phần đất Việt Nam ở biên giới ở ba cửa khẩu do Bắc Kinh chỉ định.###

    Phía Việt Nam không kiềm chế như phía Trung Quốc. Họ ép người nạn kiều phải băng biên giới vào Trung Quốc bất kể nguy cơ giao tranh vũ tranh, và sau đó tấn công các viên chức Trung Quốc. Chính sách Trung Quốc thời đó dường như là chỉ dùng người không vũ khí và không quân phục để đối đầu với nhân sự vũ trang của Việt Nam, giữ biên pḥng vũ trang ở xa những điểm này. Tường tŕnh của phía Việt Nam về những vụ đụng độ nhẹ hôm 1 và 8 tháng 8 ở hai cửa khẩu cho thấy biên pḥng vũ trang Việt Nam được dùng chống lại viên chức dân sự Trung Quốc.###

    Tường tŕnh của phía Trung Quốc về một vụ nghiêm trọng hơn vào ngày 25 tháng 8, mặc dù viết theo lối có lợi cho họ, tŕnh bày một cách đáng tin rằng lính Việt Nam có vũ trang đă đối đầu với viên chức Trung Quốc không vũ khí. Sự việc xảy ra tại cửa ải Hữu Nghị Quan ở biên giới giữa Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, và Pingxiang [Bằng Tường] tỉnh Quảng Tây. Bộ đội và công an Việt Nam tràn vào trại tỵ nạn phía bên Việt Nam, đánh và đâm vào người Hoa trong trại, ép hơn 2,500 người phải băng qua bên kia biên giới. Sau khi trục xuất người nạn kiều, lính Việt Nam đánh chín “nhân công không vũ khí bảo vệ biên giới” ở phần đất Trung Quốc của cửa ải, nhưng “tuân thủ nghiêm ngặt chỉ thị của cấp trên, nhân sự phía Trung Quốc không đánh trả mà chỉ phản đối mạnh mẽ bằng lời.” Tường tŕnh của phía Hà Nội nói tới quân lính Trung Quốc “mặc thường phục” và công nhận rằng người Việt Nam liên quan trong vụ này là “bộ đội.”###

    Mặc dù phía Trung Quốc vào tháng 8 có vẻ chỉ dùng nhân sự không vũ trang tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan và rất có thể là tại hai cửa khẩu c̣n lại, ở những chỗ khác dọc biên giới họ tiếp tục dùng biên pḥng vũ trang để tuần tra. Đă có đụng độ giữa biên pḥng hai nước, kể cả “căi cọ và ẩu đả” giành lănh thổ ######### điều này trở thành tập quán trong hơn một năm. Nhưng đây là những sự kiện không nổ súng. Vào tháng 8 không có thiệt mạng v́ súng đạn. Vào tháng 9 chỉ có một vụ bắn nhau khi thủy thủ một tàu Trung Quốc giết chết một ngư dân Việt Nam trong vùng biển tranh chấp. Giao tranh vũ trang đă không diễn ra tại biên giới cho tới tháng 10.###

    Sự việc ngày 25 tháng 8 tại Hữu Nghị Quan cũng có tầm quan trọng nữa là rồi ra nó trở thành một trong những nguồn tranh chấp về lănh thổ. Sau sự việc đó, quân đội Việt Nam dựng rào kẽm gai quanh cửa khẩu và xây lô cốt đại liên ở gần đó. Hơn 200 quân được điều lên đóng trên đồi Punien (Ponien), là đất phía Trung Quốc giành là của họ. Vấn đề nạn kiều dần dần được thay thế bằng vấn đề lănh thổ. Tới ngày 26 tháng 9, khi Bắc Kinh rút đoàn đàm phán ra khỏi Hà Nội, ngưng mọi thảo luận về vấn đề nạn kiều, th́ nhiều điểm trên biên giới đă thành đất tranh chấp, và cả hai bên đều khiếu nại về những vụ “xâm phạm đất đai.”###

    [Chú thích của dịch giả: Không rơ tên tiếng Việt của đồi Punien. Theo miêu tả của một nhà báo trong nước, từ phía Lạng Sơn lên Hữu Nghị Quan có hai con đồi. Đồi bên trái hiện mang tên Lê Đ́nh Chinh, nay vẫn thuộc Việt Nam; đồi bên phải trước 1979 phía Việt Nam có đóng, sau 1979 Trung Quốc chiếm, đồi có tên là điểm cao 371. Không rơ đồi nào là đồi Punien.]

    III. Trung Quốc dọa dẫm Hà Nội: Máy bay do thám

    Phản ứng với việc Hoa kiều phải bỏ đi hàng loạt, ngay từ những ngày đầu phía Trung Quốc đă thử dọa dẫm các lănh tụ Việt Nam và ép họ phải ngưng ngược đăi người gốc Hoa bằng biện pháp khiêu khích, cho phi cơ bay do thám trên lănh thổ Việt Nam ở phái bắc và, đôi khi, trên vùng biển phía Việt Nam cho là của họ trên Vịnh Bắc Bộ gần các thành phố Việt Nam ven biển. Cùng lúc đó, phía Trung Quốc cho chuẩn bị pḥng thủ tại biên giới.###

    Bắt đầu vào tháng 5 và tiếp tục suốt mùa hè và thu 1978, khu trục cơ Trung Quốc xâm nhập ############# vào không phận Việt Nam. Mặc dù một “viên chức cao cấp Việt Nam” than phiền với báo chí quốc tế vào ngày 19 tháng 5 là những chuyến bay do thám của Trung Quốc là “lỗi lầm cố ư,” Hà Nội không chính thức phản đối, với hy vọng là Bắc Kinh sẽ tự ngừng lại. Nhưng sau vụ xâm nhập thật sâu vào không phận Việt Nam ngày 8 tháng 7, khi ba khu trục cơ Trung Quốc băng qua biên giới ################ vào Việt Nam, Hà Nội buộc phải chính thức đưa văn thư ngày 10 tháng 7 phản đối các chuyến bay do thám. Một viên chức Trung Quốc từ chối không nhận văn thư, và vào ngày 16 tháng 7 bốn khu trục cơ Trung Quốc xâm nhập không phận phía bắc Việt Nam. ######### [xóa 4 hàng]

    Chính sách chung của Hà Nội là giữ phi cơ của họ ở xa vùng biên giới và tránh phản ứng trên không đối với các chuyến bay do thám. Phải đến ngày 14 tháng 9, khi hai khu trục cơ Trung Quốc bay sát vùng biên giới tiếp giáp hai tỉnh phía bắc là Cao Bằng và Lạng Sơn, Việt Nam, dường như là lần đầu tiên, gởi khu trục cơ của họ lên trong phản ứng pḥng ngự. #### [xóa 1 hàng] Việt Nam có phi cơ tối tân hơn và rất có thể là có phi công điêu luyện hơn, nhưng quan ngại là Không quân Trung Hoa có nhiều máy bay hơn và muốn giới hạn tranh chấp trong vùng đất liền, cụ thể hơn là trong phạm vi lực lượng biên pḥng. Leo thang lên không và ra biển sẽ khiến cuộc tranh chấp với Trung Quốc cao hơn mức chấp nhận được. Mặc dù Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong diễn văn Quốc Khánh ngày 2 tháng 9 chỉ trích Trung Quốc xâm phậm không phận và hải phận Việt Nam, ông nhấn mạnh hơn về những hành động của Trung Quốc tại “nhiều vùng biên giới ... nơi Trung Quốc có thể bất cứ lúc nào có hành động thù nghịch và phá hoại chống chúng ta.” Trước ngày Trung Quốc xâm lăng 17 tháng 2, 1979, không hề có cuộc giao tranh không quân hay hải quân nào, mặc dù phía Trung Quốc rơ ràng là sẵn sàng leo thang chiến cuộc lên trên không từ tháng 5, 1978.

    (Còn nữa)

  3. #3
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 4)




    Lo ngại về gián điệp và biên pḥng Trung Quốc xâm nhập và phá hoại trở thành ưu tư cấp bách cho Hà Nội, và mối lo ngại này đưa đến quyết định dựng hàng rào tại nhiều đoạn dài trên biên giới. Phía Việt Nam tin rằng một cuộc tập trung lực lượng rất lớn của Trung Quốc đă diễn ra tại miền nam Trung Hoa và họ cần phải chuẩn bị cho khả năng Trung Quốc tấn công ồ ạt. Hoàng Tùng, một ủy viên trung ương đảng và Tổng biên tập báo Nhân Dân, nói với #### hôm 17 tháng 9 [năm 1978] rằng:


    IV. Hà Nội chuẩn bị “chiến tranh”

    Lo ngại về gián điệp và biên pḥng Trung Quốc xâm nhập và phá hoại trở thành ưu tư cấp bách cho Hà Nội, và mối lo ngại này đưa đến quyết định dựng hàng rào tại nhiều đoạn dài trên biên giới. Phía Việt Nam tin rằng một cuộc tập trung lực lượng rất lớn của Trung Quốc đă diễn ra tại miền nam Trung Hoa và họ cần phải chuẩn bị cho khả năng Trung Quốc tấn công ồ ạt. Hoàng Tùng, một ủy viên trung ương đảng và Tổng biên tập báo Nhân Dân, nói với #### hôm 17 tháng 9 [năm 1978] rằng:

    “Gần đây, Trung Quốc đă tập trung quân đội như chưa từng thấy tại vùng đất phía nam. Chúng tôi đă có thông tin rằng họ đang củng cố vị trí. Không ai dám chắc chắn rằng Trung Quốc sẽ không tấn công Việt Nam. Trong lúc chúng tôi dành toàn bộ nỗ lực để tránh chiến tranh, chúng tôi đồng thời chuẩn bị toàn diện để đối đầu với Trung Quốc.”

    Rơ ràng là phía Việt Nam có cái nh́n quá đáng đối với sự tăng cường ít ỏi của Trung Quốc về an ninh biên giới. Cách nh́n này có lợi cho Việt Nam để gây thiện cảm với các nước khác bằng cách nói lại những quan điểm này cho người ngoại quốc nghe. Tuy nhiên, vẫn thấy rằng dự tính của họ là dự tính cho t́nh trạng xấu nhất và chuẩn bị cho khả năng một cuộc tấn công ồ ạt từ Trung Quốc. Họ từ chối không loại bỏ khả năng chiến tranh.###

    Họ bắt đầu chuẩn bị nhân viên dân sự cũng như quân đội. Vào cuối tháng 8 đầu tháng 9, các chính ủy viên đă tuyên truyền cho dân chúng ở miền nam Việt Nam dùng giáo án của Trung ương Đảng ###########. Được biết những điểm chính là:

    * Trung Quốc là kẻ thù chính và cấp bách của Việt Nam.
    * Việt Nam sẽ đánh bại Trung Quốc v́ Việt Nam có 50 triệu người, có lănh đạo Cộng sản anh minh, và có sự ủng hộ của các nước xă hội chủ nghĩa.
    * Đàm phán Trung Quốc không phải nghiêm túc mà chỉ là h́nh thức câu giờ.
    * Hai khẩu hiệu chính của Việt Nam là “Chuẩn bị chiến tranh bảo vệ tổ quốc” và “Gia tăng sản xuất ủng hộ tiền tuyến.”

    ###############
    ###############
    [ở đây xóa mất 9 hàng]

    Những lời tuyên truyền đầy hận thù chống Trung Quốc và những lời gợi ư tràn trề về một cuộc chiến không thể tránh khỏi, rất có thể phản ảnh dự kiến đầy bị quan của Hà Nội về ư đồ quân sự của Bắc Kinh. Một quan sát viên phương Tây ############ ############ [xóa hơn 1 hàng] vào cuối tháng 8 lưu ư về những bằng chứng rộng răi là Việt Nam đă nâng cao cuộc chuẩn bị quân sự. ############ ############ [xóa 5 hàng] Trong số các viên chức Việt Nam ông ta gặp dường như đều tin rằng Trung Quốc có âm mưu thù nghịch về lănh thổ Việt Nam, và nhiều người trong số họ bảo rằng, “Chúng tôi đă đánh bại Pháp, chúng tôi đă đánh bại Mỹ, và bây giờ chúng tôi sẽ đánh bại Trung Quốc.” Cảm tưởng chung của ông là các viên chức Việt Nam cho rằng chiến tranh với Trung Quốc là “không thể tránh khỏi,” và ông bàn thêm, “Hơn nữa, họ (người Việt Nam) cũng muốn đánh lắm.”###

    Ngược lại, mặc dù phía Trung Quốc khi đó đang tiến hành một số việc chuẩn bị dân chúng phía nam Trung Hoa cho cuộc tranh chấp biên giới c̣n tiếp diễn, họ không nhấn mạnh nguy cơ chiến tranh. Những lời tuyên bố của Trung Quốc với người ngoại quốc giảm thiểu nguy cơ này. ############## ############## ############## [xóa hơn 8 hàng]

    Phía Trung Quốc, là phía lớn hơn và mạnh hơn, rơ ràng là có thái độ nhàn hạ về t́nh trạng tại biên giới, hơn là phía Việt Nam. Phía Việt Nam có lẽ đă tính trước rằng việc họ sắp sửa lấn chiếm Campuchia có thể khiêu khích Trung Quốc trả đũa và tấn công trên diện rộng. Nhưng thay v́ rụt lại, họ quyết định không thay đổi và chuẩn bị đối đầu với hậu quả.###

    [Chú thêm của blogger Hạo Nhiên: Biết chiến tranh rất có thể sẽ xảy ra, Hà Nội đă chuẩn bị mọi thứ tuyên truyền, chính trị, đào hào, dựng hàng rào tre, v.v. -- chỉ có trừ việc đưa quân lên biên giới phía bắc là không làm thôi!]

    V. Tuyến pḥng thủ biên giới của Việt Nam khiến căng thẳng leo thang

    Phía Việt Nam từ tháng 7 đă đủ bị báo động với các hành vi của Bắc Kinh và bắt đầu đặt rào (dùng cọc tre và kim loại, dây kẽm gai, và gài băi ḿn) ở hầu hết toàn bộ đường biên giới Hoa-Việt, chỉ trừ những đoạn bị trở ngại vách núi hay sông ng̣i. Có cả những làng dọc đường biên giới dài 1,285 km được giao nhiệm vụ làm hàng ngàn cây cọc. Công sự được xây, hào được đào và đạn dược được chuyển vào. Mức độ tuần tiễu của bộ đội PAVN [viết tắt theo tiếng Anh People’s Army of Vietnam tức Quân đội Nhân dân Việt Nam] cũng như của bộ đội biên pḥng, công an, và dân vệ vũ trang gia tăng. Hà Nội do sợ gián điệp và biên pḥng xâm nhập nên dẫn tới việc thiết lập những vùng trống – là những đoạn biên giới kể cả các làng mạc chung quanh, trong đó đuổi hết người Hoa đi và được xây kiên cố. Tới tháng 10, Việt Nam đă thiết lập được một tuyến pḥng thủ mà, mặc dù thô sơ, phía Trung Quốc cho là một sự khiêu khích.###

    Tuyến này thay đổi đáng kể bản chất và tầm mức của tranh chấp biên giới. Quan trọng hơn cả, nó sản sinh ra bất đồng về chủ quyền tại nhiều nơi dọc đường biên giới mà trước đó không hề có bất đồng. Trước đó, đường biên giới được định nghĩa tạm bợ bằng những mốc đá đặt tại chân núi, thung lũng và những vùng thấp dọc biên giới. Trên lư thuyết, đường biên giới gồm những đường thẳng giữa các mốc này, nhiều mốc cách xa nhau, có khi tới 20 km. Không hề có ǵ xác định đường biên giới trên mặt đất giữa những cột mốc này, và Việt Nam khi xây tuyến pḥng thủ đă tùy nghi đặt rào, cột, và băi ḿn, gần như chắc chắn theo hướng có lợi cho Việt Nam về lănh thổ. Những khiếu nại của Bắc Kinh về việc Việt Nam “lấn chiếm” vào phần đất Trung Quốc với độ sâu từ “hàng chục và hàng trăm mét” tới cả “nhiều kilô mét” có vẻ đáng tin.###

    Sự “ngạo mạn” của Việt Nam cũng thấy được qua việc đơn phương xây một con đập trên thượng nguồn sông Chảy (phía bắc Lào Cay) [Phía Trung Quốc gọi sông Chảy là sông Đổ-Chú.], khiến cho 90 phần trăm lưu lượng chạy về phía Việt Nam trong ba ḥn cù lao trên sông, để lại phía Trung Quốc nông cạn không đủ để lưu thông.###

    Vùng quan trọng nhất trong những vụ Việt Nam bị tố cáo là xâm nhập [vào đất Trung Quốc] là ở khu vực đông bắc [Việt Nam], gần Hữu Nghị Quan phía bắc Lạng Sơn, và ở khu vực tây bắc, phía bắc Lào Cai. Ngoài ra, có một dải lănh thổ rộng khoảng 300m bên kia ranh giới Trung Quốc, tại chỗ giao thoa đường sắt đông bắc tại Hữu Nghị Quan, được nhân viên Trung Quốc bảo tŕ từ năm 1955 với sự đồng ư của Việt Nam, đă trở thành nơi Việt Nam sách nhiễu, khiến Trung Quốc phải đóng cửa đường sắt từ ngày 22 tháng 12, 1978. ################# [xóa 2 hàng]

    Ở phần ḿnh, phía Việt Nam có vẻ cũng có lư do chính đáng để khiếu nại. Ngay từ giữa năm 1977 họ đă giảng cho cán bộ về chính sách của Trung Quốc di dời cột mốc biên giới về phía nam vào trong lănh thổ Việt Nam tại nhiều điểm trên đường biên giới. Phía Trung Quốc cũng có chính sách dùng lính biên pḥng để hộ tống nông dân vào canh tác trong lănh thổ Việt Nam nhận là của ḿnh.###

    Dù ǵ đi nữa, bước leo thang chính yếu, là việc Việt Nam xây dựng tuyến pḥng thủ, ép buộc Bắc Kinh phải lên tiếng tranh lại những phần đất Việt Nam từng giành từ lâu cũng như mới giành đây, chứ không để cho Hà Nội đơn phương đánh mốc theo hướng có lợi cho [Việt Nam] một đường biên giới xưa nay để ngỏ. Phía Trung Quốc trước đó đă không muốn sa lầy trong một cuộc chiến tranh biên giới mà có thể, như tranh chấp biên giới với Ấn Độ và Liên Xô, gây khó khăn vĩnh viễn cho quan hệ chính trị. Họ đă từng hy vọng có thể uy hiếp Việt Nam trong vấn đề nạn kiều và thúc ép họ [Việt Nam] phải ngưng giành đất đai của Trung Quốc. Nhưng hành vi của họ [Trung Quốc] là giữ bản chất và tầm mức của những tranh chấp này trong ṿng giới hạn; họ không muốn một cuộc chiến tranh, và họ tiếp tục giữ liên lạc tại địa phương giữa các đại diện biên pḥng. Mặc dù từ 14 tháng 7 phía Việt Nam đă bắt đầu đào một số hào trong vùng Hữu Nghị Quan, một vùng nhạy cảm, và sau đó đến ngày 14 tháng 9 đă mở rộng việc đào hào ra hầu hết các đồi gần lối vào phía nam cửa ải, phía Trung Quốc không có hành động nào giống vậy bên phần đất của họ. Tuy nhiên, đến lúc đối diện với nhiều tranh giành mới, Bắc Kinh thay đổi chính sách kiềm chế tại biên giới.###

    Tổng cộng lại, vùng đất bị Việt Nam “chiếm đóng” không lớn. Nhưng việc Việt Nam tự cho là có thể tùy tiện tự nhận bất kỳ một chút đất nào của Trung Quốc là điều phía Trung Quốc không chấp nhận được. Tương tự, số người Trung Quốc bị phía Việt Nam giết là nhỏ. Nhưng sự thách thức công khai của phía Việt Nam đă khiến bất kỳ cái chết nào cũng không chấp nhận được [đối với Trung Quốc].###

    Kết luận của Bắc Kinh là với sự ngạo mạn quân sự của các lănh tụ Việt Nam, nếu để yên sẽ tiếp tục là một sự “kiêu căng” nguy hiểm. Cuộc xâm lăng của Trung Quốc ngày 17 tháng 2, 1979 là một cố gắng phá vỡ h́nh ảnh Hà Nội tự vẽ cho ḿnh là vô địch bất bại, như Đăng Tiểu B́nh công bố. (*) Phía Trung Quốc đă quyết định như thế nhưng chỉ sau khi đă cố gắng dùng những biện pháp ít khắc nghiệt hơn để ngăn cản Hà Nội.###

    ____________________ _______________

    (*) [Chú thích trong nguyên bản] Nói với truyền thông Mỹ tại Bắc Kinh hôm 27 tháng 2, 1979, họ Đặng tuyên bố rằng trong quá tŕnh dạy cho Việt Nam một bài học, huyền thoại một Việt Nam vô địch bất bại và điều họ khẳng định là cường quốc quân sự thứ ba thế giới “đă bị phá vỡ.” (Washington Post, 28 tháng 2, 1979)###

    [Chú thích thêm của dịch giả: Trong phần này CIA có nhắc tới sông Chảy tức sông Đổ Chú. Học giả chuyên nghiên cứu về biên giới Việt-Trung ông Trương Nhân Tuấn có trích tài liệu thế kỷ trước viết về tranh chấp biên giới ở vùng sông Đổ Chú vào thời Tự Đức như sau:

    “Đất cũ của chúng ta được thực sự trả lại với sông Đổ-Chú là giới-hạn. ... Tả-Thị-Lang Nguyễn-Huy-Nhuận và Tế-Tửu Nguyễn-Công-Thể được gởi lên Tuyên-Quang để nhận lại đất đai được trả và xác-định giới-hạn vùng đất nầy. Thổ-ti Khai-Hóa gian-dối chỉ-định một con sông khác và cho đó là sông Đổ-Chú để nhằm mục-đích giữ lại những làng-xă thuộc vùng Bảo-Sơn. Công-Thể biết được âm-mưu liền lặn-lội đi vào núi rừng, cực-kỳ khổ-sở, đi thăm tất-cả các mỏ bạc và mỏ đồng và cuối cùng t́m được vị-trí thực-sự của con sông Đổ-Chú. Người ta dựng lên các bia đá ngay tại địa-điểm giới-hạn biên-giới giữa hai nước. Vấn-đề tranh-chấp biên-giới chính-thức được kết-thúc.”]

    Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ cuối)



    Quyết định của phía Trung Quốc dùng vũ lực để thách đố việc Việt Nam đơn phương đánh dấu đường biên giới có lẽ đă được đưa ra vào cuối tháng 9, khi họ đă thu thập được bằng chứng rơ ràng về sự “xâm nhập” qua việc xem xét bản đồ do các tổ biên pḥng vẽ vào tháng 9.

    VI. Tiếp tục leo thang: Trung Quốc bắt đầu tháo gỡ hàng rào

    Quyết định của phía Trung Quốc dùng vũ lực để thách đố việc Việt Nam đơn phương đánh dấu đường biên giới có lẽ đă được đưa ra vào cuối tháng 9, khi họ đă thu thập được bằng chứng rơ ràng về sự “xâm nhập” qua việc xem xét bản đồ do các tổ biên pḥng vẽ vào tháng 9. Phó Thủ tướng Lư Tiên Niệm [Li Xiannian, đến năm 1982 kế nhiệm Lưu Thiếu Kỳ làm chủ tịch nước] #### nói với nhân sự ############## ngày 1 tháng 10 rằng cuộc tranh chấp đă vượt qua khỏi tầm có thể ḥa giải được và t́nh h́nh sẽ chả tốt ǵ hơn cho dù Trung Quốc có “nhượng” cả hai tỉnh biên giới cho Việt Nam đi nữa. Trung Quốc, ông nói, bây giờ đang chuẩn bị cho một thử thách xấu xa và kéo dài. Đặng Tiểu B́nh nói với một người khách ############ hôm 8 tháng 10 rằng Trung Quốc đă “bỏ cuộc” với Việt Nam rồi, nhưng hy vọng tránh được chiến tranh vũ trang; nếu phía Việt Nam muốn đánh, họ “sẽ gặp điều không hay.”########

    Những đánh giá bi quan của họ Lư và họ Đặng gợi ư rằng mặc dù đến cuối tháng 12 Trung Quốc mới bắt đầu tập trung lực lượng, phía Trung Quốc đă chủ động tính tới chuyện “trừng phạt” Hà Nội từ trước đó rồi.#######

    Tới đầu tháng 10, Bắc Kinh đă bắt đầu chính sách đưa biên pḥng vũ trang và dân vê tới phá hàng rào và băi ḿn. Mặc dù những vụ đụng độ vẫn chỉ giới hạn trong những hành vi đấm nhau, lấy gậy đập nhau, ném đá, và mắng chửi, nhưng sân khấu đă sắp sẵn để nhân sự vũ trang của Trung Quốc vũ trang chạm trán và thách thức nhân sự vũ trang của Việt Nam trong những vụ bắn nhau lẻ tẻ. Vào tháng 9, phía Trung Quốc mới chỉ cho lính biên pḥng và công an cửa khẩu cảnh cáo phía Việt Nam “Đây là đất Trung Quốc”; tới ngày 9 tháng 10, phía Trung Quốc đă cho biên pḥng “phá hủy hàng rào và rút cột mốc.” Từ đó, chỉ bước một bước nhỏ là leo thang đến việc biên pḥng Trung Quốc bắn hai biên pḥng Việt nam và bắt cóc một cán bộ Việt Nam hôm 13 tháng 10 tại xă Pha Long, huyện Mường Khương tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đó là lần đầu tiên kể từ tháng 2, 1978 có vụ bắn thiệt mạng biên pḥng Việt Nam.###

    Mức độ phẫn nộ của Hà Nội đối với vụ nổ súng này được phản ảnh trong một loạt bài phê b́nh trên báo chí. Sự cứng rắn của phía Bắc Kinh trong chính sách biên giới được miêu tả chi tiết trên báo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam:

    “Nhà cầm quyền Trung Quốc... đă đi từ bước chỉ dùng gậy gộc mă tấu để khiêu khích các chốt biên pḥng Việt nam và uy hiếp dân pḥng và biên pḥng trong lănh thổ Việt Na, tới giai đoạn đưa côn đồ có vũ khí vào phục kích và thảm sát cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vùng biên giới.”

    Phía Trung Quốc chờ hai tuần trước khi trả lời phản đối chính thức của Việt Nam. Ngày 26 tháng 10, họ chính thức phản đối rằng hành động của Việt Nam – như việc dựng hàng rào và những tuyến pḥng thủ, ném đá và làm bị thương nhân sự Trung Quốc – vẫn c̣n tiếp diễn, nhưng về vụ nổ sung, họ chỉ nói rằng phía Việt Nam đôi khi bắn súng “chỉ thiên” và “một cách hăm dọa.” Văn bản không nói ǵ đến vụ giết và bắt cóc người ngày 13 tháng 10. Thiếu sót này cũng như sự tŕ hoăn khi công bố văn bản trả lời cho thấy tố cáo của phía Việt Nam là chính xác. Bắc Kinh hy vọng giữ được bề ngoài ḥa hoăn bằng cách tránh không b́nh luận trên báo chí về vụ này, thay vào đó để cho tùy viên tại Hà Nội và viên sĩ quan chỉ huy đồn biên pḥng trả lời bằng những “tuyên bố mập mờ” mỗi khi phía Việt Nam phản đối.###

    Phía Trung Quốc vẫn chưa chuyển qua chính sách cho bắn súng, và vụ sát nhân ngày 13 tháng 10 đă không lập lại bất cứ chỗ nào khác trên biên giới mặc dù biên pḥng vẫn tiến hành phá hủy hàng rào biên giới của Việt Nam. Thật vậy, sự việc ngày 25 tháng 8 trong đó Hà Nội tố cáo hai nhân viên công an Việt Nam bị giết, nhưng không phải v́ bị bắn, và sự việc ngày 12 tháng 9 trong đó Hà Nội tố cáo một ngư phủ bị bắn chết, là những sự việc cô lập trong trên một đường biên giới dài. Nếu một trong hai bên có ra lệnh cho biên pḥng và dân pḥng được phép nổ súng, đă có rất nhiều vụ hơn, trong b́nh diện rộng hơn, và với thời gian kéo dài lâu hơn. Khi vụ kế tiếp diễn ra, rơ ràng là nhân sự Trung Quốc không được lệnh nổ súng mặc dù bị bắn trước.###

    Phía Trung Quốc tường thuật chi tiết hơn phía Việt Nam về vụ nhân sự vũ trang Việt Nam giết sáu công nhân nông trường và dân pḥng vũ trang Trung Quốc trong vùng Dinghaoshan thuộc huyện Tĩnh Tây tỉnh Quảng Tây (Jingxi, Guagxi / Tinghaoshan, Ching-his, Kwangsi) ngày 1 tháng 11 [năm 1978]. Bắc Kinh thừa nhận là những công nhân nông trường và dân pḥng vũ trang này đang thực hiện việc “tháo dỡ vật chướng ngại và cọc tre dựng bất hợp pháp, và san lấp hào cũng đào bất hợp pháp, bởi phía Việt Nam bên trong lănh thổ Trung Quốc” – khi xảy ra căi cọ giữa đôi bên. “Nhân sự vũ trang” Việt Nam, có lẽ là dân pḥng, rút về bốn chốt canh và, khi “viên chỉ huy” là một “công an Việt Nam” ra lệnh, nă súng vào người Trung Quốc bằng đại liên, tiểu liên và súng trường. Mười hai người Trung Quốc bị thương và tám người vị bắt cóc. Dân pḥng Trung Quốc đă “tự kiềm chế và không hề bắn trả một phát nào.” Biên pḥng Trung Quốc khiếu nại với biên pḥng Việt Nam, và [Việt Nam] hẹn gặp mặt vào ngày 2 tháng 11, nhưng đến giờ hẹn phía Việt Nam bất ngờ hủy cuộc họp, chuyển vụ việc lên cấp trên. Ngày 3 tháng 11, Bộ Ngoại giao Việt Nam báo cho Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội rằng sáu người trong số người Trung Quốc bị bắt cóc đă chết “trên phần đất Việt Nam.”

    Nội trong 48 tiếng sau vụ 1 tháng 11, chính quyền Việt Nam đưa hết tất cả phóng viên ngoại quốc thường trực trong nước tới nơi xảy ra sự việc và chỉ ra rằng sáu thi thể người Trung Quốc chỉ nằm cách trạm công an 18 mét và cách biên giới Trung Quốc 275 mét, và họ đều mang súng trường của Trung Quốc. Tường thuật của phía Việt Nam nhấn mạnh là “một phóng viên AFP tại Việt Nam, sau khi đến thăm hiện trường, tường tŕnh lại rằng khu vực xảy ra giao tranh nằm sâu trong lănh thổ Việt Nam, cách biên giới 400 mét về phía nam.” Thực ra, sáu người Trung Quốc đều mặc thường phục và có hai người bị bắn từ phía sau. Có lẽ họ đă bị bắt cóc rồi sát hại, mặc dù tường thuật của Hà Nội cho rằng họ đang “xông về phía trước” đột nhập lănh thổ Việt Nam, vừa xung phong vừa nă đạn.###

    [Chú thích thêm của dịch giả: Đoạn trên có nhắc đến vụ giao tranh diễn ra trong huyện Tĩnh Tây tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Ngày nay, thác Bản Giốc, mà Trung Quốc gọi là thác Đức Thiên, nằm trong địa giới huyện Tĩnh Tây.]

    VII. Bắc Kinh gia tăng cảnh cáo trong những vụ bắn giết

    Bắc Kinh phẫn nộ trước việc họ cho là một sự ám sát tàn nhẫn và lần đầu tiên đưa ra lời cảnh cáo nghiêm trọng đối với Hà Nội. Văn thư Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 7 tháng 11 khẳng định rằng chỉ nhờ vào sự “kiềm chế và nhẫn nại” của Trung Quốc mà không có sự việc nghiêm trọng nào xảy ra tại biên giới, và lần đầu tiên Bắc Kinh dùng chữ “cảnh cáo” để truyền đạt thông điệp của họ:

    “Chính phủ Trung Quốc cảnh cáo nhà cầm quyền Việt Nam một cách hết sức nghiêm trọng rằng họ không nên nh́n sự kiềm chế và nhẫn nại của Trung Quốc như một nhược điểm và nhịn nhục. Nếu nhàm cầm quyền Việt Nam cố t́nh bám vào đường lối hiện nay và tiếp tục gia tăng khiêu khích chống Trung Quốc và xâm nhập qua vùng biên giới Hoa-Việt, họ sẽ phải gánh chịu tất cả mọi hậu quả gây ra.”

    Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục chính sách dựng thêm hàng rào và đặt thêm băi ḿn, và Trung Quốc tiếp tục phá hủy chúng. Nhưng trong tháng 11 không c̣n một vụ nổ súng sát hại dân quân hay biên pḥng nào nữa.###

    Đến tháng 12, tuy nhiên, đă có hai người chết v́ bị phía Việt Nam bắn. Trung Quốc công bố hai bản cảnh cáo với lời lẽ được cân nhắc cẩn thận, bản thứ nh́ nặng hơn bản thứ nhất, và cả hai đều nặng hơn bản cảnh cáo ngày 7 tháng 11.###

    Lời cảnh cáo ngày 13 tháng 12 nằm trong công văn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đề ngày đó và khiếu nại rằng vào ngày 9 tháng 12 một “chiếc thuyền vũ trang của Việt Nam” bắn vào một chiếc thuyền đánh cá Trung Quốc làm chết một và bị thương hai ngư phủ trong vùng biển duyên hải Trung Quốc gần Đông Hưng (Dongxing), Quảng Tây.

    “Chính phủ Việt Nam nên hiểu rằng sự kiềm chế và nhẫn nại của Trung Quốc trước những hành động khiêu khích vũ trang và xâm lấn lănh thổ Trung Quốc là có giới hạn. Nếu nhà cầm quyền Việt nam c̣n bám lấy đường lối này và tiếp tục xâm phạm lănh thổ và chủ quyền Trung Quốc, và gây sự kiện đổ máu, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về hậu quả gây ra.” (nhấn mạnh thêm [của CIA])

    Viên chức ######## của Việt Nam tuyên bố ####### rằng đây là công văn phản đối nặng lời nhất từ khi mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc xuống dốc. Công văn này được cho là có thêm thẩm quyền qua lời tuyên bố của Lư Tiên Niệm [Li Xiannian, khi đó là phó thủ tướng, đến năm 1982 kế nhiệm Lưu Thiếu Kỳ làm chủ tịch nước Trung Quốc] với cựu Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Chatichai cùng ngày: “Sự kiềm chế của Trung Quốc là có giới hạn và nhà cầm quyền Việt Nam đang mơ ngủ nếu họ nghĩ rằng chúng tôi yếu đuối và có thể bị hiếp đáp.”###

    Lời cảnh cáo ngày 25 tháng 12 nằm trong một bài xă luận trên tờ Nhân dân Nhật báo của Bắc Kinh; bài này tóm tắt những vụ tranh chấp lănh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm vừa qua, và tố cáo rằng những hành động của Việt Nam “hiếp đáp Trung Quốc đă lên đến mức không chấp nhận được”:

    “Nhà cầm quyền Việt Nam đă đi quá xa trong đường lối chống Trung Quốc. Sự kiềm chế và nhẫn nại của nhân dân Trung Quốc là có giới hạn. Trung Quốc chưa bao giờ hiếp đáp và sẽ không bao giờ hiếp đáp nước nào khác, như cũng sẽ không để cho ḿnh bị ai khác hiếp đáp. [Trung Quốc] sẽ không tấn công nếu trừ khi bị tấn công. Nhưng nếu bị tấn công, [Trung Quốc] chắc chắn sẽ đánh trả. Trung Quốc nói ǵ là làm nấy.

    Chúng tôi muốn cảnh cáo nhà cầm quyền Việt Nam là nếu họ, được bạo dạn nhờ sự ủng hộ của Moscow, muốn chiếm một dặm sau khi giành được một li, và tiếp tục hành động theo kiểu buông lỏng như này, họ sẽ nhất quyết gặp phải sự trừng phạt đích đáng. Chúng tôi đă lên tiếng tại đây và bây giờ. Sau này đừng trách chúng tôi đă không báo trước rơ ràng.” (nhấn mạnh thêm [của CIA])

    Đó là lần đầu tiên Bắc Kinh công khai dùng chữ “trừng phạt,” mặc dù bài xă luận này cũng như những lời tuyên bố công khai và riêng tư sau đó của Bắc Kinh vẫn c̣n mập mờ về h́nh thức và mức độ trả đũa của Trung Quốc. Lời cảnh cáo này tung ra sau khi chín dân quân và thường dân Trung Quốc bị giết bởi “nhân sự vũ trang Việt Nam” trong một cuộc giao tranh ở Xilu (Hsilu), tỉnh Quảng Tây, hôm 23 tháng 12. Công văn của Bắc Kinh về cuộc giao tranh này lần đầu tiên trong cuộc tranh chấp biên giới tuyên bố rằng “dân quân Trung Quốc đă buộc phải bắn trả để tự vệ và giết chế ba tên xâm nhập vũ trang Việt Nam ngay tại chỗ.” Điều này ngụ ư rằng trong những sự việc tại biên giới, chính sách của Trung Quốc đă thay đổi, từ kiếm chế chuyển sang đáp trả. Trên thực tế, chính sách của Trung Quốc c̣n vượt qua mức đó nữa: chỉ thị mới, được đưa ra cho lực lượng Trung Quốc tại biên giới, ra lệnh đừng để cho phía Việt Nam ra tay trước.###

    Để biện minh cho chính sách quân sự cứng rắn hơn, phía Trung Quốc nỗ lực thuyết phục quốc tế rằng Việt Nam là kẻ gây ra rối loạn trong khu vực. Lời cảnh cáo ngày 25 tháng 12 – được ra cùng ngày Việt Nam khởi động tấn công vào Campuchia – tuyên bố rằng có một mối “quan hệ hữu cơ” giữa tranh chấp Việt-Trung và cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia, là trong cả hai sự kiện, Việt Nam là phía khiêu khích.###

    VIII. Trung Quốc bắt đầu “trừng phạt”

    Lời cảnh cáo của Bắc Kinh ngày 25 tháng 12 về một sự “trừng phạt” trong tương lại mởi đầu cho một chính sách mới tại biên giới. Bằng chứng cho thấy rằng trong khoảng từ ngày 13 tới 23 tháng 12, sau những vụ giết hại người Trung Quốc và dấu hiệu cho thấy sắp có xâm chiếm Campuchia, đă quyết định cho nhân sự Trung Quốc được phép:

    * Nổ súng, không chỉ để bắn trả, mà mỗi lần thấy nhân sự Việt Nam.

    * Chủ động tuần hành công kích về phía trước đến tận, và vượt khỏi, trạm biên pḥng Việt Nam.

    Hỏa lực Trung Quốc – đến lúc này đă leo thang tới hỏa tiễn và súng cối cầm tay – cũng được chỉ thị dùng để bắn những trạm gác này, nhiều trạm cũng chỉ mới xây.

    * Ngày 28 tháng 12, ###### [xóa nửa câu] phía Trung Quốc huy động nhiều toán quân nhỏ tấn công các trạm biên pḥng.

    #############
    #############

    #############
    #############
    [xóa hai đoạn, mỗi đoạn bốn ḍng]

    Phía Việt Nam trong công văn ngày 1 tháng 1979 tố cáo công khai rằng “trong những ngày cuối năm 1978” quân lực Trung Quốc đă bắt đầu “nổ súng” và nhân sự và trạm biên pḥng Việt Nam.###

    Biên pḥng và dân quân Trung Quốc đă được dùng trong giai đoạn đầu tiên của chính sách mới này. Tuy nhiên, tới giữa tháng 1, các đơn vị chính quy PLA [viết tắt theo tiếng Anh People’s Liberation Army – Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa] dường như được điều về và chịu trách nhiệm chính trong những công tác này. [Trung Quốc] đă dùng những toán quân lớn hơn và dường như chỉ thị được đưa ra để thâm nhập vào sâu hơn trong vùng biên giới Việt Nam, lúc đầu chỉ đến tối đa 1 km, sau đó tới nhiều km, sâu hơn vùng hoạt động trước. Bắc Kinh đưa con số thiệt hại trong lực lượng biên pḥng từ ngày 23 tháng 12 tới 15 tháng 1 là 4 bị giết, 4 bị thương. Con số của Hà Nội đưa ra về số quân biên pḥng bị giết từ ngày 14 tới 17 tháng 1 là bảy người. Do đó, cho tới giữa tháng 1, đụng độ vẫn c̣n ở mức nhỏ và dường như lực lượng chính quy PLA vẫn chưa được sử dụng.

    Tuy nhiên, cho tới cuối tháng, phía Trung Quốc đă đưa các đơn vị chính quy PLA tới vùng sát biên giới. Công văn hà Nội ngày 29 tháng 1 tố cáo rằng “nhiều đoàn quân lực Trung Quốc” hôm 26 tháng 1 đă tấn công một đồn biên pḥng Việt Nam và “một trung đội” Trung Quốc đă xâm nhập “vào sâu” trong lănh thổ Việt Nam. Ngày 30 tháng 1, Hà Nội loan tin “một đại đội” quân Trung Quốc đă lấn vào lănh thổ Việt Nam tại một nơi, và quân lực Trung Quốc đă xâm nhập “vào sâu 1 km” bên trong lănh thổ Việt Nam tại một nơi khác.#### ########## ########## ########## [xóa 6 ḍng] Tới ngày 8 tháng 2, quân Trung Quốc đă dùng pháo ######## tấn công trạm gác biên pḥng Việt Nam. Tới ############ ############. [xóa 3 ḍng] Do đó, chỉ trong ít hơn một tháng, phía Trung Quốc đă thay đổi cán cân lực lượng tại biên giới để sẵn sàng một lực lượng quân sự cao hơn cho chính sách “trừng phạt” của họ.###

    IX. Trung Quốc thất bại trong chính sách uy hiếp

    Sự thay đổi từ việc dùng biên pḥng và dân quân tại biên giới, qua sử dụng bộ đội chính quy PLA thâm nhập sâu hơn, bất kể nguy cơ giao tranh lớn hơn, đă không uy hiếp được phía Việt Nam. [Trước đó] những phi vụ máy bay do thám vào tháng 5, 1978 cũng như việc phá hủy hàng rào Việt Nam bắt đầu vào tháng 10 cũng đă chẳng ngăn chặn được Việt Nam không giành những vùng lănh thổ nhỏ và giết hại nhân sự Trung Quốc. Những lời cảnh cáo của Trung Quốc không hề có hiệu quả. Thí dụ, vào ngày 13 tháng 12 khi phía Trung Quốc muốn trao công văn với lời lẽ nặng nề cảnh cáo phía Việt Nam là nếu Việt Nam tiếp tục khiêu khích ở biên giới Trung Quốc sẽ phải dùng biện pháp mạnh để “trừng phạt” Việt Nam, phía Việt Nam c̣n từ chối không nhận công văn đó. #### ########### ########### [xóa 4 ḍng].

    Cuộc tập trung lực lượng Trung Quốc trên diện rộng ở biên giới phía bắc Việt Nam, khởi đầu mạnh mẽ sau khi Việt nam chiếm đóng Campuchia, cũng dường như không có ảnh hưởng uy hiếp ǵ đối với hành động của Việt Nam ở biên giới. Việc Trung Quốc muốn Việt Nam biết họ tăng cường lực lượng có thể thấy qua một “tiết lộ” cố t́nh tới một tờ báo do cộng sản điều khiển tại Hong Kong ngày 22 tháng 1. Báo này đăng bản tường tŕnh của AFP trong đó con số tăng cường lực lượng – 15 tới 17 sư đoàn tổng cộng 150,000 binh sĩ – được trích từ nguồn tin quân sự “phương Tây,” nhưng tờ báo này khi đăng lại đă sửa thành “nguồn tin quân sự tại Bắc Kinh.” Có bằng chứng là tới ngày 7 tháng 1 phía Việt Nam đă biết về bản chất và tầm mức cuộc tăng cường lực lượng của Trung Quốc. Tuy vậy Việt Nam vẫn không ngừng đụng độ lực lượng Trung Quốc tại biên giới. Chắc hẳn họ cho rằng những hành động của họ vẫn c̣n trong mức chưa đủ lớn để khích động một cuộc tấn công trả đũa trên diện rộng. Và cũng có một số bằng chứng họ hy vọng hiệp ước giữa họ và Moscow [Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ngày 3 tháng 11, 1978 với chữ kư của cả đảng cộng sản lẫn nhà nước hai bên] sẽ là một “vũ khí cản ngăn” chống lại một cuộc tấn công như vậy. Dù ǵ đi nữa, họ có vẻ không lo ngại lắm, và vào ngày 10 tháng 1 một viên chức Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với ############# viên chức ########## rằng phía Trung Quốc chỉ đánh nhau bằng miệng.### ###

    Phía Việt Nam không tỏ vẻ quan ngại cho tới ngày 10 tháng 2 khi họ gởi thư tới vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc kêu gọi Liên Hiệp Quốc và nhân dân thế giới có hành động kịp thời để ngăn chặn Trung Quốc gây chiến. Tới lúc đó phía Việt Nam chắc hẳn không những có tin t́nh báo của chính họ mà c̣n có [t́nh báo] của Liên Xô cung cấp về mức độ tăng cường lực lượng của Trung Quốc.###

    Campuchia là yếu tố xúc tác chính trong tư duy Trung Quốc. Tranh chấp biên giới leo thang trong bối cảnh Việt Nam chiếm đóng Campuchia và Trung Quốc đă bất lực không bảo vệ được chế độ chư hầu của họ tại đó. Nói tóm lại, hai yếu tố – hành vi của Việt Nam chống Campuchia và việc Hà Nội không chịu có tư thế nhẹ nhàng hơn tại biên giới Hoa-Việt – dường như đă hỗ trợ lẫn nhau, thúc đẩy Bắc Kinh phải cố gắng dùng biện pháp quân sự “trừng phạt” Việt Nam bằng cách đánh chiếm phía bắc.###

    Bắc Kinh đă gợi ư rằng quân lực Trung Quốc rồi ra sẽ rút về đường biên giới mà Trung Quốc (chứ không phải Việt Nam) công nhận. Nếu điều này quả thật là quyết định tối hậu của Trung Quốc, và nếu Hà Nội từ chối không đàm phán cho một hiệp ước biên giới, tương lai sẽ thấy một thời gian dài có căng thẳng và mâu thuẫn biên giới.###

    [Bản văn tài liệu này chấm dứt ở đây. Sau trang chót là bốn trang bị xóa trắng, có lẽ là bốn trang phụ lục và liệt kê nguồn tham khảo, vẫn c̣n trong ṿng bảo mật.]

    Vũ Quư Hạo Nhiên
    Nguồn Vũ Quư Hạo Nhiên's blog


    http://www2.vietinfo.eu/tu-lieu/ho-s...g-ky-cuoi.html

  4. #4
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Chiến tranh biên giới Việt Nam - Trung Quốc 1979

    Phần 1 . Lực lượng hai bên .

    Lực lượng quân đội Trung Quốc

    Lực lượng chính trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 là 9 quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng. Cụ thể :

    - Quân đoàn 11 gồm 3 sư đoàn bộ binh (31, 32, 33) và trung đoàn pháo binh, pḥng không.

    - Quân đoàn 13 gồm 3 sư đoàn bộ binh (37, 38, 39) và trung đoàn pháo binh, pḥng không.

    - Quân đoàn 14 gồm 3 sư đoàn bộ binh (40, 41, 42) và trung đoàn pháo binh, pḥng không.

    - Quân đoàn 41 gồm 3 sư đoàn bộ binh (121, 122, 123) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.

    - Quân đoàn 42 gồm 3 sư đoàn bộ binh (124, 125, 126) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.

    - Quân đoàn 43 gồm 3 sư đoàn bộ binh (127, 128, 129) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.

    - Quân đoàn 50 gồm 3 sư đoàn bộ binh (148, 149, 150) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.
    - Quân đoàn 54 gồm 3 sư đoàn bộ binh (160, 161, 162) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.

    - Quân đoàn 55 gồm 3 sư đoàn bộ binh (163, 164, 165) và trung đoàn pháo binh, pḥng không, xe tăng.

    - Sư đoàn bộ binh 58 (quân đoàn 20).

    - Sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.

    - Sư đoàn pháo binh số 1.

    - Sư đoàn pháo binh số 7.

    - Sư đoàn pḥng không 65.

    - Sư đoàn pḥng không 70.

    - Trung đoàn xe tăng độc lập của quân khu Côn Minh.

    Tổng cộng lực lượng được huy động cho chiến dịch là 28 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 sư đoàn pḥng không, ngoài ra c̣n có nhiều trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh địa phương, biên pḥng, các đơn vị binh chủng (công binh, thông tin, vận tải…), lực lượng dân binh tham gia trực tiếp chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu. Một số sư đoàn không quân và hải quân của hạm đội Nam Hải cũng được lệnh sẵn sàng phía sau.

    Các lực lượng trên chủ yếu được lấy từ 2 quân khu Quảng Châu và Côn Minh, nhưng cũng có các đơn vị của các quân khu khác như Thành Đô, Thẩm Dương… tham gia tăng cường.

    Lực lượng trên hướng Quảng Tây do tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) - tư lệnh quân khu Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Đông Bắc của Việt Nam. Cụ thể :

    - Hướng Lạng Sơn có 7 sư đoàn bộ binh : 127, 128, 148, 161, 163, 164, 165.

    - Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh : 58, 121, 122, 123, 124, 125, 126, 129, 150, 160, 162.

    - Hướng Quảng Ninh có 1 sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.


    Lực lượng trên hướng Vân Nam do tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi) - tư lệnh quân khu Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Tây Bắc của Việt Nam. Cụ thể :

    - Hướng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) có 8 sư đoàn bộ binh : 32, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 149.

    - Hướng Lai Châu có 2 sư đoàn bộ binh : 31, 33.

    - Hướng Hà Tuyên (Hà Giang) có trung đoàn biên pḥng 12 cùng lực lượng dân binh.

    Về biên chế, mỗi quân đoàn TQ có quân số lư thuyết khoảng 50.000 người, gồm 3 sư đoàn bộ binh (mỗi sư đoàn có quân số lư thuyết khoảng 13.000 người, gồm 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh), 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng. Riêng trong chiến dịch 1979 th́ các quân đoàn 11, 13, 14 không có trung đoàn xe tăng. Trong quá tŕnh chiến đấu một số đơn vị được tăng cường, ví dụ như quân đoàn 13, quân đoàn 55 được tăng cường thêm tới 5 trung đoàn pháo binh, nâng tổng số lên 9 trung đoàn pháo binh cho mỗi quân đoàn (so với 4 trong biên chế chuẩn).


    Các tài liệu VN ước tính lực lượng được phía TQ huy động là 600.000 người, 550 xe tăng, 1.700-2.500 khẩu pháo.

    Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam



    Lực lượng tham chiến của Việt Nam là các đơn vị thuộc Quân khu 1 (tư lệnh thiếu tướng Đàm Quang Trung) và Quân khu 2 (tư lệnh thiếu tướng Vũ Lập), gồm các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên pḥng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Hà Tuyên (Hà Giang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Cụ thể :

    Trên mặt trận biên giới Đông Bắc – Quân khu 1 :

    - Lạng Sơn :

    Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 3 (eBB2, eBB12, eBB141, ePB68) trên hướng Đồng Đăng và sư đoàn bộ binh 338 (eBB460, eBB461, eBB462, ePB208) trên hướng Đ́nh Lập.

    Lực lượng vũ trang địa phương có trung đoàn bộ binh 123 trên hướng Lộc B́nh và trung đoàn bộ binh 199 trên hướng Thất Khê, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng một số tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.

    Lực lượng công an vũ trang có trung đoàn công an vũ trang cơ động 12, đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên pḥng dọc biên giới.

    Trên hướng Lạng Sơn c̣n có các đơn vị binh chủng khác như tiểu đoàn 3 pháo M46 130mm (lữ đoàn pháo binh 675, BTL Pháo binh), trung đoàn pháo binh 166 (Quân khu 1), trung đoàn pḥng không 272 (Quân khu 1), một bộ phận của trung đoàn xe tăng 407 (Quân khu 1) và các đơn vị công binh, thông tin, vận tải…

    Trong chiến đấu, Lạng Sơn được tăng cường các lực lượng từ tuyến sau như : sư đoàn bộ binh 327 (eBB42, eBB54, eBB75, ePB120) pḥng thủ ở Lộc B́nh, sư đoàn bộ binh 337 (eBB4, eBB52, eBB92, ePB108) ở thị xă Lạng Sơn; trung đoàn bộ binh 196 ở Đ́nh Lập cùng một số tiểu đoàn bộ binh; trung đoàn pháo binh 204 (pháo phản lực BM-21) và tiểu đoàn 2 pháo D74 122mm (lữ đoàn pháo binh 675, BTL Pháo binh) chi viện cho hướng thị xă Lạng Sơn và tiểu đoàn 10 pháo M30 122mm (ePB54/fBB320B/QĐ1) chi viện hướng Đ́nh Lập; một bộ phận của tiểu đoàn phun lửa 902 (trung đoàn pḥng hoá 86, BTL Hoá học), cùng một số đơn vị binh chủng khác.


    - Cao Bằng :

    Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 346 (eBB246, eBB677, eBB851, ePB188) pḥng thủ ở Trà Lĩnh, Hà Quảng, Hoà An. Ngoài ra có tiểu đoàn đặc công 45 (BTL Đặc công) tham gia pḥng ngự và cơ động tập kích địch.

    Lực lượng vũ trang địa phương có trung đoàn bộ binh 567 ở Quảng Hoà và trung đoàn bộ binh 852 ở khu vực Tài Hồ X́n, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.

    Lực lượng công an vũ trang có đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên pḥng dọc biên giới.

    Trong chiến đấu Cao Bằng được tăng cường trung đoàn bộ binh 529 (fBB311), trung đoàn bộ binh 183, tiểu đoàn 1 pháo D74 122mm (lữ đoàn pháo binh 675), tiểu đoàn đặc công 20, một số tiểu đoàn bộ binh - trong đó có 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh 111 (fBB325/QĐ2) vừa từ chiến trường CPC trở về, và các đơn vị binh chủng.


    - Quảng Ninh :

    Bảo vệ Quảng Ninh có sư đoàn bộ binh 325B (eBB8, eBB41, eBB288, ePB189) ở B́nh Liêu, trung đoàn bộ binh 43, các đơn vị công an vũ trang biên pḥng, các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tỉnh, huyện và lực lượng dân quân tự vệ.


    Trên mặt trận biên giới Tây Bắc – Quân khu 2 :

    - Hoàng Liên Sơn :

    Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 345 (eBB118, eBB121, eBB124, ePB190) trên hướng Lào Cai, khi xảy ra chiến đấu có sư đoàn bộ binh 316 thiếu (eBB148, eBB174, ePB187) cơ động về pḥng thủ ở Sa Pa.

    Lực lượng vũ trang địa phương có 2 trung đoàn bộ binh 192 và 254, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.

    Lực lượng công an vũ trang có trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Mường Khương, đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên pḥng dọc biên giới.

    Các đơn vị binh chủng có bộ phận của lữ đoàn pháo binh 368 (BTL Pháo binh), trung đoàn pháo binh 168 (Quân khu 2), trung đoàn pḥng không 256 (Quân khu 2), các đơn vị công binh, thông tin, vận tải….

    Trong chiến đấu Hoàng Liên Sơn được tăng cường lữ đoàn pháo binh 368 (BTL Pháo binh) và một số đơn vị bộ binh, binh chủng.


    - Lai Châu :

    Hướng chiến đấu chủ yếu là Phong Thổ có một bộ phận của sư đoàn bộ binh 326 (eBB19, eBB46, eBB541, ePB200) và trung đoàn bộ binh 98 (fBB316), một bộ phận trung đoàn pháo binh 187 (fBB316), 2 trung đoàn bộ binh 193 và 741, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các đơn vị công an vũ trang, các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ. Trong chiến đấu cũng được tăng cường thêm một số đơn vị bộ binh, binh chủng.


    - Hà Tuyên :

    Trên hướng này chỉ diễn ra các trận tập kích nhỏ của địch (chủ yếu vào các đồn biên pḥng), các đơn vị đă tham gia đánh trả là bộ phận thuộc trung đoàn bộ binh 122 cùng các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương, các đơn vị công an vũ trang và lực lượng dân quân tự vệ.


    Trong toàn bộ cuộc chiến, đă có 2 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh ṇng dài, 2 tiểu đoàn đặc công và 25 tiểu đoàn dự nhiệm do các tỉnh tổ chức được đưa lên mặt trận làm nhiệm vụ chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu.

    Ở phía sau, lực lượng của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 (vừa từ chiến trường CPC về) đă được triển khai. Các đơn vị không quân cũng đă sẵn sàng nhưng về cơ bản các đơn vị này đều chưa tham chiến.

    ----------------------------------------------------

    Phần 2. Tổng quan cuộc chiến

    Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Vơ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu B́nh là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu.



    bọc thép TQ tiến vào cao bằng


    Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn:


    1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mănh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ư định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh.

    2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc B́nh, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt chống cự mănh liệt và c̣n đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc B́nh và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đă chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc.

    Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ư cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí ḥa b́nh". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận vơ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đ̣i "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không c̣n đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean th́ VN tại Cam Bốt cũng phăi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê b́nh: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!".



    Một tháng phiêu lưu chiến tranh của Trung Quốc xâm lược đă diễn ra như sau:

    Trên hướng Lạng Sơn : chúng chia thành ba cánh quân, mỗi cánh từ 1 đến 2 sư đoàn:

    -Cánh chủ yếu từ cửa Hữu Nghị thọc theo đường 1A đánh vào thị trấn Đồng Đăng, tiến chiếm Tam Lương là coi như đă hoàn thành nhiệm vụ giai đoạn 1.

    -Cánh thứ hai đánh qua bản Sâm vào Cao Lộc, h́nh thành mũi thọc ngang sườn.

    -Cánh thứ ba đánh qua Chi Ma, chiếm Lộc B́nh để ép phía đông và nam thị xă Lạng Sơn, hỗ trợ cho cánh chủ yếu thực hiện nhiệm vụ giai đoạn 2 là đánh chiếm thị xă Lạng Sơn. Cả ba cánh quân nói trên đều bị quân dân địa phương của ta chặn đánh, gh́m chân tại chỗ suốt ba ngày liền. Ngày 20-2-1979, chúng phải tăng thêm quân để tăng hiệu lực đột phá. Lần này, chúng mở đợt tiến công rộng ra các điểm cao trên dọc đường 1 để hỗ trợ cho đại quân tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Nhưng mỗi bước tiến của chúng đều bị quân dân ta đánh trả quyết liệt: chúng bị đánh ở khắp nơi, cả phía trước lẫn sau lưng và hai bên sườn đội h́nh hành quân. V́ vậy cuộc tiến quân của chúng buộc phải nhích lên từng bước rất chậm, có nơi c̣n bị đẩy lùi.

    Nh́n chung, cuộc chiến đấu đă diễn ra ác liệt tại các điểm cao 417, 608, 800, 556 và 473. Hàng ngh́n tên giặc Trung Quốc xâm lược đă bị diệt trên quăng đường số 1A này. Riêng trong trận đánh địch ngày 27-2-1979, các chiến sĩ ta đă loại trung đoàn 850 của địch ra khỏi ṿng chiến đấu. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường số 1B, các chiến sĩ ta đă chặn đứng cả 1 sư đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề.

    Riêng trên mặt trận Lạng Sơn, từ ngày 17-2-1979 đến 18-3-1979, gần 19.000 tên giặc Trung Quốc đă bị tiêu diệt; 128 xe quân sự địch (trong đó có 76 xe tăng-xe bọc thép), 98 khẩu pháo, súng cối và hỏa tiễn của địch bị bắn cháy và phá hủy. Quân dân địa phương Lạng Sơn đă thu được hàng trăm súng và nhiều đồ dùng quân sự.

    Trên hướng Cao Bằng : địch dùng 2 quân đoàn tăng cường, chia làm hai cánh lớn: một cánh từ tây bắc theo hướng Thông Nông-Hà Quảng và một cánh từ phía đông nam qua Thủy Khẩu-Quảng Hóa ṿng lên cùng hợp điểm đánh chiếm tiến công Cao Bằng. Đồng thời, chúng c̣n cho hai mũi phối hợp tiến công Thất Khê-Na Sầm.

    Trong quá tŕnh tiến công, cả hai cánh quân chính đều bị các lực lượng vũ trang địa phương Cao Bằng chặn đánh quyết liệt.

    Cánh tây bắc có xe tăng đột phá mở đường bị chặn đánh tại Ḥa An. Mũi đánh vào Trà Lĩnh-Trùng Khánh bị đánh ở ngay sát đường biên giới, riêng ở cột mốc 62 chúng bị tập kích mất gần hết 1 tiểu đoàn ở đồi Chông Mu.

    Cánh đông nam bị chặn ngay ở đèo Khâu Chia-Phục Ḥa. Chỉ trong 5-6 ngày đầu, 1 sư đoàn đă bị thiệt hại nặng mà vẫn không vượt qua được đèo.

    Như vậy là toàn bộ các cánh, các mũi của địch đều bị chặn đánh, không những bị đánh trước mặt mà c̣n luôn luôn bị đánh ngang sườn và sau lưng. Lực lượng vũ trang địa phương của chúng ta tuy ít nhưng đă cùng dân quân, tự vệ giữ vững các chốt chặn địch ở Khau Đồn (tây thị xă Cao Bằng), cầu Tài Hồ X́n, các chốt đông Nguyên B́nh cản phá nhiều đợt tiến công ác liệt của địch cho đến ngày buộc địch phải tháo chạy.

    Tổng cộng, trong 30 ngày chiến đấu, quân dân Cao Bằng đă diệt hơn 18.000 tên, bắn cháy và phá hủy 134 xe tăng-xe bọc thép và 23 xe quân sự.

    Trên hướng Hoàng Liên Sơn : địch cho nhiều sư đoàn tiến công từ tây bắc ṿng qua đông bắc thị xă Lao Cai. Chúng tổ chức thành nhiều mũi đánh vào Bát Xát, Mường Khương và thị xă Lao Cai. Chúng bị chặn đánh ở khu vực Quang Kim, ngă ba bản Phiệt, khu phố Duyên Hải (trong thị xă Lao Cai). Đến ngày 24-2-1979, chúng đă phải tung hết lực lượng dự bị vào chiến đấu, nâng tổng số quân trên hướng Hoàng Liên Sơn lên tới trên 2 quân đoàn.

    Tính đến ngày 18-3-1979, ngay trên dải đất Hoàng Liên Sơn đă có hơn 11.500 tên địch bị diệt, 255 xe quân sự địch (trong đó có 66 xe tăng-xe bọc thép) bị phá hủy.

    Tại nhiều khu vực khác, quân Trung Quốc xâm lược cũng bị đánh tả tơi.

    Ở Lai Châu, 1 quân đoàn địch đă tiến đánh dọc theo đường 10 vào Nậm Cúm-Phong Thổ. Nhưng chỉ hai ngày đầu, chúng đă bị diệt trên 750 tên và 2 tiểu đoàn bị thiệt hại nặng. Ngày 10-2-1979, ở P̣ Tô (cạnh đường số 6), 17 đợt tiến công liên tiếp của địch đều bị bẻ găy. Tới 3-3-1979, cả trận địa pháo địch, gồm 4 giàn hỏa tiễn H12 ở Hội Luông đă bị ta phản pháo hủy diệt.

    Ở Quảng Ninh, địch dùng 2 sư đoàn tiến công Thán Phún, P̣ Hèn, Đồng Văn và pháo kích vào thị xă Móng Cái. Nhưng tất cả đều bị đẩy lùi. Ở P̣ Hèn, chỉ trong ngày đầu, chúng đă bị diệt 450 tên. Ở Thán Phún, chúng tiến công tám lần lên điểm cao 404 song lần nào cũng bị chặn đứng ở chân điểm cao. V́ thế, đến ngày 19-2-1979, chúng đă phải co rút về bên kia biên giới.

    Ở Hà Tuyên, khoảng 1 sư đoàn địch định đánh chiếm Đồng Văn-Mèo Vạc-Thanh Thủy, song bị đánh trả mạnh nên không thực hiện được ư định, đành phải rút lui.


    Trên toàn chiến trường biên giới, nơi nào quân TQ cũng bị đánh đau nên đến ngày 06/03/1979, chúng buộc phải tính chuyện rút quân. Không rút cũng không được, lúc này VN đă điều các sư đoàn thuộc 2 quân đoàn 2,3 ra phía Bắc. Có những sư đoàn đi bằng máy bay bỏ hết trang bị cá nhân tại phía Nam, bay ra Bắc nhận lại đầy đủ trang bị và lên thẳng biên giới. Các đơn vị thuộc quân đoàn 1 cũng đă áp sát tuyến đầu. Nếu TQ không tuyên bố rút quân th́ sẽ phải chịu " một bài học " c̣n nặng nề hơn nữa.

    --------------------------------------------------------------------------------

    Phần 3. Bất khuất và ghi nhớ .

    Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên pḥng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Śn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xă Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai ḿnh, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.

    “Những đôi mắt”

    Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hăy c̣n rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đă quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đă bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xă Thanh Ḥa th́ lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đă báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.

    Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của ḍng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xă Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao ḿnh lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm v́ được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đă bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ư ới và tiến vào từng đoàn.

    “Cuộc Chiến 16 Ngày”

    Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên pḥng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ư kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi v́ ông bị mất ngủ v́ căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.



    Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên pḥng đều được triệu tập về thị xă Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ t́m về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đă tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xă”; đại đội 22 của thị xă Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nh́n thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ th́ tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.



    Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xă Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xă.

    Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đă nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đă gọi con đường tiến vào thị xă Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Śn, cũng đă khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ măi h́nh ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đ̣n vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Ŕ; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

    Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công tŕnh, ốp ḿn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hăm hiếp, bị giết một cách dă man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang, th́ tại thôn Tổng Chúp, xă Hưng Đạo, huyện Ḥa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đă giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

    Lặng Lẽ Hoa Đào

    Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nh́n ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại ḥng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đă phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đă hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509.



    Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, c̣n có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn c̣n. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nh́n thấu xuống thị xă Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đă bắn vào thị xă.

    Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đă t́m được cho ḿnh cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và ḥa b́nh là vô cùng quư giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết v́ đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

    Quá khứ, rất cần khép lại để cho những h́nh ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đă thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nh́n sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên pḥng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đă được bán sắt vụn cho các khu gang thép.

    Ở Cao Bằng, chúng tôi đă cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Śn, t́m tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy.

    Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Ḥa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng.



    Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đ́nh, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp h́nh bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đă ch́m trong gai tre và lau lách.

    Huy Đức
    nguồn : quân sử việt nam
    ( ct )

  5. #5
    Member
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    255

  6. #6
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Chiến tranh biên giới Việt Nam - Trung Quốc 1979

    (t t )

    Phần 4. Sư đoàn 3 sao vàng hướng Lạng Sơn.



    Pháo 130mm trong chiến dịch HCM


    Ngày 1 và 2-3, địch ném thêm lực lượng dự bị vào nhưng thế trận của trung đoàn 12 vẫn được giữ vững. Hàng loạt các trận đánh vận động tiến công, tập kích, phục kích liên tiếp được thực hiện trên các điểm cao 500, 607, 300, đồi Lê Đ́nh Chinh, ngă ba Đồng Uất... tiêu diệt hàng ngàn tên địch. Trong đó trận tập kích điểm cao 500 của đại đội 1 tiểu đoàn công binh sư đoàn và trận phục kích trên đường 1B là những trận đánh xuất sắc.
    Rạng sáng ngày 1-3-1979, 20 chiến sĩ đại đội 1 do đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông chỉ huy, bằng 1 trận tập kích chớp nhoáng đă đánh thiệt hại nặng 1 đại đội địch, khôi phục lại điểm cao 500 bị chúng chiếm từ mấy hôm trước.

    Tiếp đó là những trận phản kích quyết liệt. Địch nhiều lần tổ chức lực lượng đông gấp bội để chiếm lại điểm cao này nhưng đều bị đại đội 1 đẩy bật trở xuống. Đại đội trưởng Nguyễn Nho Bông nhắc anh em bám chắc công sự rồi dẫn theo 2 chiến sĩ tổ chức 1 mũi đánh tạt sườn đội h́nh tiến công của địch. Với vận động được hơn 20m, 2 chiến sĩ trúng đạn hy sinh. C̣n lại một ḿnh, Bông vẫn không từ bỏ mũi tạt sườn mà anh cho rằng chỉ có nó mới đẩy bật được quân địch ra khỏi trận địa của đại đội. Vận động thêm một quăng ngắn nữa, Bông nh́n thấy 1 tên giặc nấp sau một bụi cây đang giương khẩu B41 về phía trận địa ta định bóp c̣. Nhanh như cắt, Bông nhào tới giật khẩu súng trên tay nó. Thằng giặc hốt hoảng chồm dậy giằng trở lại. Bông lựa thế, co chân đạp mạnh vào bụng dưới khiến nó kêu rú lên, ngă vật trên mặt đất. Thuận tay, Bông vung khẩu B41 đập một nhát vào đầu nó. Bỗng từ bên phải, 1 tên khác với khẩu CKC đă giương lê nhảy xổ vào Bông. Anh né tránh đường lê rồi rút khẩu K54 bắn vào gáy nó. Cùng lúc, Bông phát hiện 1 khẩu đại liên địch đang thay băng. Anh ném 1 quả lựu đạn diệt luôn ụ đại liên đó.

    Bị đánh đứt đôi đội h́nh một cách đột ngột, địch phải tụt xuống dưới chân điểm cao, bỏ dở cuộc tiến công mà chúng đă nắm chắc phần thắng. Đánh tạt sườn là chiến thuật mà hầu như trận nào Nguyễn Nho Bông cũng thực hiện, có khi chỉ 1 tổ, thậm chí 1 người, và bao giờ cũng đạt được kết quả tốt. Có trận đánh đêm, mũi tạt sườn của Bông đi lẫn vào đội h́nh địch. Anh em chỉ nghe thấy tiếng Bông thét lớn : "Đánh, nó đấy, bắn đi !". Tiếng súng rộ lên. Lát sau Bông chạy về, ngón tay út bị găy nhưng hỉ hả : "Ḿnh với nó rúc chung một chiếc hầm, sờ thấy mũi nhau nên chỉ diệt được 7 tên, tiếc quá !".

    Có thể nói không quá rằng, trong những ngày quần lộn giữa đội h́nh phản kích của địch, cùng với tinh thần chiến đấu lạc quan, gan dạ của các chiến sĩ trung đoàn 12 và các đơn vị trực thuộc trong sư đoàn, ư chí và hành động chiến đấu của Nguyễn Nho Bông là một biểu hiện hết sức sống động về kảh năng tiến công mưu trí, quyết liệt.

    Những năm trước đây, trung đoàn 12 đă biến con đường số 19 thành con đường chết đối với bọn Mĩ-Ngụy-Nam Triều Tiên th́ hôm nay, trung đoàn lại biến đường 1B, đường Hoàng Văn Thụ thành mồ chôn xác quân Trung Quốc xâm lược. Sườn phía tây thị xă Lạng Sơn vẫn được trung đoàn 12 giữ vững.

    Trụ bám với các chiến sĩ sư đoàn 3 là những trung đội dân quân, những tập thể cán bộ, nhân viên các cơ quan xí nghiệp, các cửa hàng bách hoá huyện, xă. Trên một đoạn sông Kỳ Cùng ở ngầm Khánh Khê, mẹ Lê Thị Lởi, chi hội trưởng phụ nữ xă Nhạc Kỳ, huyện Văn Lăng không sợ hy sinh, ác liệt, ngày đêm bám bến, bám thuyền đưa bộ đội qua sông. Anh em gọi bến đ̣ này là "Bến đ̣ mẹ Lởi", "Bến đ̣ mẹ Suốt xứ Lạng". bác nông dân người Tày Hoàng văn Phát, xă Phú Xá đă cùng với du kích ở lại, vừa đánh địch bảo vệ làng bản vừa giă gạo tiếp tế cho bộ đội, khi cần bác trở thành chiến sĩ liên lạc của bộ đội trinh sát trung đoàn. Mặc dù có chỉ thị sơ tán triệt để của tỉnh, huyện nhưng nhiều người dân vẫn t́nh nguyện ở lại và họ đă trở thành những chiến sĩ bám trụ kiên cường.

    Ngày 2-3-1979, Bộ tư lệnh quân đoàn 14 quyết định điều sư đoàn 3 về làm nhiệm vụ cơ động cho quân đoàn. Riêng trung đoàn 12 và các đơn vị phối thuộc ở hướng đường 1B vẫn được lệnh : "Kiên quyết giữ vững trận địa, làm bàn đạp cho quân đoàn mở những đợt phản kích mới".
    Nhận được mệnh lệnh của sư đoàn, đảng ủy và cán bộ chỉ huy trung đoàn 12 hạ quyết tâm "Pḥng ngự kiên cường, quyết đường 1B thành mồ chôn xác giặc". Mọi người đều hiểu bọn giặc đang cố sống cố chết khai thông con đường chiến lược quan trọng này để cơ động lực lượng và phương tiện trong chiến đấu tiến công của chúng. Giữ vững được trục đường 1B, trung đoàn sẽ chặn đứng được cánh quân vu hồi chiến dịch qua Ba Xă-Sài Hồ và Tu Đôn-Đồng Mỏ trong kế hoạch đánh chiếm thị xă Lạng Sơn của chúng.

    Thực hiện ư định đó, đêm 2-3, đại đội 51 (tiểu đoàn 5) được lệnh tổ chức 1 trận vận động phục kích ở đông đường 1B, đoạn từ Chốc B́nh đến Lũng Pảng.
    8 giờ sáng ngày 2-3-1979, gần 100 tên địch lặng lẽ tiến vào hướng phục kích của đại đội, định đánh ngược lên sở chỉ huy trung đoàn 12, phối hợp với cánh quân từ Khôn Làng phát triển xuống.
    Khi tốp đi đầu của địch vào cách khẩu đại liên của Hoàng Văn Hùng độ 20m, đại đội phó Nguyễn Văn Đức ra lệnh nổ súng. Cùng lúc, khẩu đại liên của Nguyễn Văn Vượng từ sườn núi quét đạn xuống đội h́nh địch đang rối loạn. Trận địa cối 60mm cũng bắn chính xác vào khu vực Chốc B́nh và chân điểm cao 649, không cho địch rút chạy về phía sau. Đúng lúc đó, các tổ xung kích do chính trị viên Nguyễn Văn Chiến chỉ huy đồng loạt lao thẳng lên mặt đường tiêu diệt địch. Tiểu đội trưởng Trần Trọng Thường và chiến sĩ Nguyễn Hải Đăng dùng lựu đạn, tiểu liên, cuối cùng dùng lưỡi lê đánh giáp lá cà với địch.

    Sau 30 phút chiến đấu, hơn 70 tên địch bị tiêu diệt, đại đội 51 hy sinh 1 đồng chí.
    Cùng với những trận đánh của các chiến sĩ trung đoàn 12 trên đường 1B, các chiến sĩ trung đoàn 4 và 52 (sư đoàn 337) từ ngày 27-2 đến ngày 2-3 liên tục chiến đấu quyết liệt với địch từ điểm cao 649, ngầm Khánh Khê tới điểm cao 595, tiêu diẹt hơn 1.000 tên, thu nhiều vũ khí, bắt tù binh, đập tan cánh quân vu hồi của địch vào phía sau trung đoàn 12. Những trận đánh của sư đoàn 337 ở khu vực cầu Khánh Khê không những có ư nghĩa quân sự mà c̣n có giá trị tinh thần rất lớn đối với trung đoàn 12 trong việc giữ vững trận địa trên đường 1B. Bởi vậy cho đến chiều 4-3, ngày quân Trung Quốc mở đợt tiến công ồ ạt vào thị xă Lạng Sơn, các chiến sĩ trung đoàn 12 và các đơn vị trực thuộc vẫn giáng vào sau lưng đội h́nh tiến công của địch những đ̣n hết sức nặng nề. Trên điểm cao 607, tiểu đoàn 1 bắc Thái kiên cường đánh lui hàng chục đợt tiến công của địch, diệt 200 tên. Trận địa pḥng gnự của trung đoàn 12 trên đường 1B vẫn được giữ vững.
    Hoạt động độc lập, trụ bám vững chắc sau lưng đội h́nh tiến công của địch là một trong những nét đặc trưng truyền thống chiến đấu của trung đoàn 12. Nhờ những kinh nghiệm chiến đấu ở phía nam B́nh Định, những kinh nghiệm đánh cắt giao thông địch trên đường số 19 trong kháng chiến chống Mĩ, lại có sự chỉ huy trực tiếp và chi viện kịp thời của các đơn vị bạn, trung đoàn 12 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tiếp tế lương thực, đạn dược, cứu chữa thương binh vẫn thường xuyên tổ chức những đợt phản kích làm chậm bước phát triển của địch trên hướng tiến công chủ yếu.
    Tối ngày 4-3, giữa lúc sư đoàn 3 đang khẩn trương củng cố tổ chức, chuẩn bị làm nhiệm vụ mới theo mệnh lệnh của Bộ tư lệnh quân đoàn 14 th́ được tin, chiều hôm đó bằng một trận tiến công ồ ạt, 1 cánh quân của địch đă vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và một bộ phận của cánh quân này đă vào tới thị xă Lạng Sơn. Trong khi đó, cánh quân vu hồi của sư đoàn 128 địch cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở tây nam thị xă.

    Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương, Bộ tư lệnh quân đoàn 14 thông qua phương án phản kích tiêu diệt địch ở thị xă Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng. Trong phương án này, sư đoàn 3 được giao nhiệm vụ chia cắt và thọc sâu vào giữa và phía sau đội h́nh chiến dịch của địch, tạo điều kiện cho các sư đoàn bạn tiến công trên chính diện thị xă Lạng Sơn. Đến lúc ấy mọi người mới nhận thấy hết ư nghĩa và giá trị chiến dịch của vị trí bàn đạp mà trung đoàn 12 đang kiên cường giữ vững ở đường 1B-một đàu cầu xuất phát tiến công hết sức lợi hại.

    Phân tích t́nh h́nh, Bộ tư lệnh quân đoàn chỉ rơ : địch tới thị xă Lạng Sơn đă phải qua những thước đất đẫm máu với hàng ngàn sĩ quan, binh lính chết và bị thương, hàng trăm xe pháo bị phá huỷ. Chúng đă tung vào hướng này 8 sư đoàn bộ binh nhưng vẫn phát triển rất chậm. Điều đó chứng tỏ chúng đông nhưng không mạnh. Trong trận tới, lực lượng ta c̣n sung sức. Các sư đoàn 327, 337, 338 hầu như c̣n nguyên vẹn. Sư đoàn 3 chiến đấu liên tục có tổn thất nhưng đă được củng cố và vẫn là 1 đơn vị mạnh, có kinh nghiệm. Pháo mặt đất đă được tăng cường các loại hoả khí hiện đại. Đây là lúc tốt nhất để ta mở trận phản kích lớn, diệt lớn quân địch, tiến tới quét sạch chúng khỏi biên giới nước ta.

    Đêm hôm đó và ngày hôm sau, những cuộc chuyển quân khản trương, bí mật nhưng náo nức diễn ra quanh thị xă Lạng Sơn. Những đoàn quân, những đoàn xe hối hả đổ về phía bắc. Xe kéo pháo, tên lửa, xe tăng, xe chở đạn chạy không ngớt trên các trục đường 1A, 1B và các đường ngang mới mở để vào chiếm lĩnh trận địa. Trên đèo Sài Hồ, những dàn ăng ten rađa mới dựng quay hối hả. Quân đoàn 2 chủ lực của Bộ đă tập kết phía sau đội h́nh quân đoàn 14... Nh́n cảnh ấy, mọi người thầm nghĩ : 1 trận Chi Lăng mới lại sắp đổ ụp xuống đầu quân Trung Quốc xâm lược.
    Giữa lúc quân và dân Lạng Sơn đang sôi sục chuẩn bị th́ do thiệt hại nặng và trước nguy cơ bị tiêu diệt, trưa ngày 5-3, nghĩa là chưa đày 1 ngày vào thị xă Lạng Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc vội vă ra lệnh cho bọn xâm lược rút khỏi lănh thổ nước ta.

    Trận phản kích lớn của quân đoàn đă không xảy ra, nhưng mọi người đều thấy ḷng ḿnh phấn chấn tự hào bởi kẻ thù đă thừa nhận thất bại trên toàn tuyến biên giới, thất bại ngay trên địa đầu Tổ quốc nước ta. Điều cay đắng trong sự thất bại của chúng là đối phương chỉ mới sử dụng một phần nhỏ lực lượng chủ lực, lực lượng chủ yếu chiến thắng chúng là lực lượng địa phương và nhân dân các dân tộc.

    Sau này, nhiều nhà b́nh luận phương Tây đă tính rằng, trong 2.000 năm với bao phen tràn sang đất Lạng Sơn, chưa bao giờ quân Trung Quốc xâm lược lại mất nhiều thời gian để đi một quăng đường ngắn như vậy. Ước tính mỗi ngày chúng chỉ đi được 0,8km. Và có lẽ đây cũng là lần mà bọn Trung Quốc tập trung quân đông nhất nhưng cũng là lần tiến quân ́ ạch nhất để rồi phải ôm đầu rút chạy sớm nhất.
    ....


    Pháo 152mm


    Tổng kết chiến đấu, sư đoàn 3 Sao Vàng, trong thế trận chung của toàn tuyến biên giới đă tiêu diệt hơn 11.000 tên địch, đánh thiệt hại nặng 2 trung đoàn, diệt gọn 4 tiểu đoàn, 6 đại đội, bắn cháy và phá hủy 124 xe quân sự (có 82 xe tăng, xe bọc thép), gần 100 khảu pháo cối và nhiều phương tiện chiến tranh khác.
    ...
    17 ngày đêm đánh quân Trung Quốc xâm lược là 17 ngày đêm cán bộ, chiến sĩ toàn sư đoàn tiếp tục phát huy truyền thống "đối tượng kẻ thù nào cũng đánh thắng" và tỏ rơ quyết tâm đánh thắng trận đầu, trên tuyến đầu biên giới. Chưa có chiến dịch nào trong lịch sử đơn vị, sư đoàn phải đánh trả 1 lực lượng địch đông như thế (gấp 9 lần). Cũng chưa có chiến dịch nào khí phách anh hùng của 2 thế hệ chiến sĩ cũ và mới lại nảy sinh rạng rỡ đến thế. Chỉ qua 17 ngày đêm chiến đấu, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ đă chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh. 7 đơn vị, 6 cán bộ, chiến sĩ đă được Quốc hội, Chính phủ tặng danh hiệu Đơn vị anh hùng và Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều phần thưởng cao quư khác gồm hàng ngàn huân chương các loại, bằng khen, giấy khen đă được trao tặng cho cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn. Riêng trung đoàn 12, đơn vị nổ súng đầu tiên và cũng là đơn vị dứt chiến sau cùng đă nêu 1 tấm gương sáng trên các điểm cao Pháo Đài, Thâm Mô, 339 và giữ vững trận địa pḥng ngự của ḿnh giữa 4 bề quân địch ở khu vực đường 1B xứng đáng là ngọn cờ đầu của sư đoàn trong cuộc chiến đấu mới.
    ...
    Kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm, thâm độc vẫn đang ở trước mặt sư đoàn và quân dân cả nước ta, nhưng chiến công cũng đang chờ chúng ta ở phía trước.

    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Phần 5 . Chiến công này không phải của riêng tôi .

    Nguyễn Phúc Ấm, ghi theo lời kể của Hoàng Hữu Yên, trung đội trưởng, đại đội 5, tiểu đoàn 12 [1], đoàn Sao Vàng.

    Trận địa pháo 85 ly chúng tôi chốt giữ trên đồi 33 [2] bên ngă tư Đồng Đăng, một điểm cao án ngữ toàn bộ vùng thị trấn này. Trung đội tôi thực hành bắn theo yêu cầu hiệp đồng của đoàn 12 bộ binh. Ngày từ sớm tinh mơ ngày 17-2 ấy, hàng trăm khẩu pháo từ bên kia biên giới đồng loạt trút đạn vào vùng trận địa, phá hỏng hết các mạng thông tin, cắt đứt hoàn toàn liên lạc giữa chúng tôi với đoàn 12, với cả cơ quan chỉ huy trực tiếp của ḿnh phía sau nữa.
    Không có sự chỉ đạo của cấp trên, không hiệp đồng chiến đấu được với đơn vị bạn, pháo địch th́ nổ dày đặc xung quanh, bộ binh của chúng lại có nhiều mũi chọc thẳng vào chân chốt ḿnh và bao khó khăn khác, pháo thủ thiếu, súng bộ binh thiếu làm tôi vô cùng lo lắng.
    "Dẫu sao cứ phải bám chắc trận địa đă". Tôi nghĩ vậy rồi nhắc anh em ra cả vị trí chiến đấu, b́nh tĩnh theo dơi địch, sẵn sàng chờ lệnh. Mặt khác tôi cử Bùi Xuân Phục, chiến sĩ thông tin duy nhất của trung đội vượt qua làn đạn và ṿng vây địch đi nối lại các đường dây.
    Gần 1 giờ qua. Rồi 90 phút qua, máy điện thoại vẫn bị ngắt. Không ai rơ Phục đang ở đâu, gặp nguy hiểm ǵ ? Sau này chúng tôi mới biết Phục bị địch bủa vây, suốt 3 ngày đêm liền chúng dịnh bắt sống anh, song anh đă anh dũng và mưu trí đánh trả, mở đường về với đơn vị.
    Khoảng 7 giờ sáng, anh Điển, người cán bộ đại đội dày dặn kinh nghiệm chiến đấu và Hoàng Tĩnh, thông tin 2W đă được cấp trên cử đến trận địa của trung đội chúng tôi. Chúng tôi ôm nhau, nước mắt trào ra v́ xúc động.
    - Không bắt được liên lạc với đoàn 12, cứ đánh thôi, Yên ạ. Thấy địch là chủ động đánh, mệnh lệnh của trên đấy !
    Anh Điển bảo tôi vây. Thế là rơ. Có phương hướng rồi chúng tôi sẽ phát huy được sức mạnh của mỗi người và sức mạnh của tập thể trên trận địa này. Tôi báo cáo t́nh h́nh địch, tŕnh bày phương án chiến đấu và xin ư kiến bổ sung của anh Điển. Chúng tôi nhất trí với nhau : đánh theo phương án 2, một trường hợp hiếm hoi, một phương án mà có 2 kế hoạch : chặn đánh bộ binh địch, bảo vệ chốt, bảo vệ pháo; đồng thời vẫn thao tác pháo, đánh các mục tiêu lớn từ xa, phát huy tính năng vũ khí chính của ḿnh. Hai nhiệm vụ đều cấp thiết, song lực lượng của chúng tôi quá ít, 2 khẩu pháo mà vẻn vẹn chỉ có 10 người, so với tiêu chuẩn biên chế th́ thiếu 6 người rồi, nay lại chia đôi có đảm đương nổi không.
    - Chẳng c̣n cách nào khác đâu. Cứ phân công đi anh Điển. Tôi xung phong đảm nhiệm một ḿnh một khẩu đội đó.
    - Ai cũng như yên th́ ổn quá rồi.
    Anh Điển cười nói thế, rồi bố trí : tôi phụ trách khẩu đội 1 vừa chỉ huy, vừa quan sát vừa kiêm thao tác bắn. Bài sẽ tiếp đạn. Khẩu đội số 2, anh Điển phụ trách kiêm quan sát, số 1 có Lộc, Congở vị trí số 2. Sắp xếp vậy chúng tôi đă rút được nửa quân số, toả ra xung quanh chốt, phối hợp với các chiến sĩ công an vũ trang và dân quân đánh chặn các mũi tiến quân của bộ binh địch.

    8 giờ kém 15, 1 tiểu đoàn địch ùn ùn kéo lên quả đồi phía tây Đồng Đăng. Chúng tôi nhích cự li bắn về 1.400m và 2 khẩu đội cùng giật c̣. Từ sớm, pháo địch không ngớt bắn vào đây, giờ thấy trận địa phát hoả, chúng càng bắn mănh liệt hơn. Khẩu đội 2 mới bắn đến phát thứ 7 th́ súng bị mảnh đạn găm vào một số thiết bị, phải dừng bắn để sửa chữa. Nhận thêm phần của bạn, tôi nâng tốc độ bắn phóng liên tiếp những trái đạn 85 ly vào đội h́nh địch. Bắn tới phát thứ 20 th́ tiểu đoàn bộ binh này rối loạn, số sống sót xô nhau chạy té xuống bên kia dốc. Qua kính quan sát, tôi nh́n rơ xác chúng nằm chồng tréo, ngang dọc khắp mặt đồi.
    Đợt tiến công thứ nhất thất bại, địch cho 4 xe tăng vừa bắn dữ dội vào trận địa chúng tôi, vừa dẫn đầu một cánh quân khác tiến qua điểm cao 300 đánh vào khu pháo đài. Pháo 85 ly mà vớ được tăng th́ c̣n ǵ bằng. Tôi ước lượng lại khoảng cách, dịch cự li về 1.250m và bắt được ngắm vào chiếc đi sau chứ không phải chiếc đi đầu. 4 phát đạn nổ, chiếc xe tăng này bốc cháy. 3 chiếc đi trước hoảng hốt muốn rút lui, song đám cháy chặn mất đường rồi, tiến lên lại không dám, nó đành chết đứng tại chỗ, phụt lửa tới tấp vào chúng tôi. Pháo nổ ầm ầm 4 phía, mảnh đạn bay vèo vèo quanh người nhưng ai c̣n nhớ đến nguy hiểm khi 3 mục tiêu không di động đang đứng chềnh ềnh trước mũi súng của ḿnh. "Hăy b́nh tĩnh bắn ăn chắc từng chiếc một". Tôi tự nhắc ḿh thế và nảy c̣. Bị trúng đạn, 2 chiếc xe tăng bốc cháy. Chiếc đi đầu không dám bắn nữa, rồ máy, chồm lên đỉnh 300, tụt xuống mé trái điểm cao. Phía ấy có bộ binh ta chốt. Chắc xe tăng này cũng bị anh em ta thịt nốt thôi.
    Giữa lúc tôi đang bắn xe tăng th́ các chiến sĩ bộ binh, trong đó có cả anh em trung đội tôi vẫn đánh chặn địch dưới chân đồi. Chúng liên tục mở các đợt tiến công ḥng chiếm cho được trận địa pháo này, song đều bị quân ta đẩy lui. Anh em vừa đánh vừa reo ḥ động viên tôi ghê lắm. mỗi lần bắn cháy một xe tăng, tôi lại nghe nhiều tiếng hô vọng tới :
    - Hoan hô Hoàng Hữu Yên !
    - Hoan hô dũng sĩ diệt xe tăng bành trướng !
    - Anh Yên ơi, yên tâm nổ súng nhé. Chúng tôi c̣n ở đây th́ bọn bộ binh địch không bước nổi tới chân chốt này đâu.
    Tới lúc tôi bắn cháy chiếc thứ 4 (1 trong 2 xe tăng địch chạy từ Na Sầm về Đ̣ng Đăng) th́ anh em không nén nổi niềm vui, nhiều đồng chí hối hả chạy lên ôm chầm lấy tôi mà ǵ, mà hôn, mà khen hết lời...
    - Ḱa buông ra nào. Chiến công này có phải của riêng ḿnh đâu. Không có các cậu đánh địch bảo vệ pháo, bảo vệ trận địa th́ ḿnh bắn sao được. Thôi buông ra, về cả vị trí đi, địch nó kéo đến kia ḱa.
    Tôi phải nói thế, anh em mới chịu toả về các tuyến chốt của ḿnh.
    Trời chuyển sang chiều lúc nào chẳng ai để ư nữa. Giờ mới được phút giây yên ḷng, và giờ cũng mới nhớ tới bữa cơm trưa, mới thấy đói. Nhưng anh nuôi Dư mải đánh địch, quên cả nấu cơm rồi, mà bọn địch bắn phá liên tục, muốn nấu cơm cũng chẳng được. Chúng tôi lấy lương khô ra ăn, ăn dè sẻn, 2 người 1 gói thôi.
    Ngồi ăn uống nhàn rỗi mới thương khẩu pháo hỏng. Miếng lương khô chưa nhai hết, tôi đă bỏ đấy, đi chữa pháo. Anh Điển thay tôi, sang chỉ huy khẩu đội 1. Cùng với anh có khẩu đội trưởng Phạm Văn Thanh, Hợi số 1 và Khang ở vị trí số 3. "Êkíp" mới đổi nhau xuống chân dốc chặn địch mà ! Cho đến lúc địch tiếp tục phản pháo, bộ binh chúng xuất hiện ở dăy đồi trước mặt th́ tôi cũng sửa chữa xong khẩu pháo thứ 2. Đợt tiến công đầu tiên của địch vào buổi chiều bị thất bại, song khẩu pháo thứ 2 lại hỏng. Thấy pháo ta bắn thưa thớt, địch cho 2 xe vận tải chở đầy lính từ Hữu Nghị quan tới đổ quân tiếp viện. Xe chúng vừa dừng bánh, anh Điển cùng Thanh, Hợi và Khang đă bắn liền 6 quả đạn rất chính xác. 2 xe cùng tan tành. Có lẽ khó c̣n lấy 1 tên khỏi thương vong. Song ngay khi ấy, địch huy động mọi cỡ pháo bắn vào trận địa rất ác liệt. Thanh và Hợi bị thương. Khẩu đọi 1 cũng hỏng nhiều bộ phận : khoá ṇng bị đất đá phủ đầy, tay đóng mở chờn, trự quay máy hướng bị cong, giá ngắm lệch và kính ngắm th́ mất tác dụng. Thế là 2 khẩu pháo đều tê liệt hoàn toàn. Từ đấy đến tối địch không mở tiếp đợt tiến công nào nữa.
    Đêm tới chậm chạp. H́nh như trong đời, chưa bao giờ tôi mong đêm xuống nhanh như thế. Bóng đen vừa phủ đầy các vực sâu, tôi đă lôi ḥm đồ nghề ra, vừa lục lọi các phụ tùng, linh kiện, vừa đọc cho Hoàng Tĩnh bức điện báo cáo về trung đoàn. Tôi kể vắn tắt 1 ngày chiến đấu, giới thiệu một số gương đánh giặc dũng cảm rồi báo cáo t́nh trạng hỏng hóc của 2 khẩu pháo. Cuối cùng tôi hứa với trên, sẽ chữa pháo ngay trong đêm để kịp hôm sau giội lửa vào đầu giặc.
    Công việc này không cần nhiều người. Chỉ có tôi và Bài ở lại, c̣n tất cả triển khai xuống các tuyến hào dưới chân chốt, sẵn sàng đánh địch tập kích. Hai anh em ṃ mẫm sửa chữa suốt đêm ấy, lại kéo sang cả sáng hôm sau mới xong mấy việc : thay bệ khoá ṇng từ khẩu 2 sang khẩu 1, dùng dầu madút rửa các thiết bị quá bẩn, uốn thẳng tay quay máy hướng, gọt giũa lại các đường ren bị chờn, toét... Riêng giá ngắm th́ không sao khắc phục được.
    Nhớ lại 1 lần được đại đội phân công lên lớp bài "quy chỉnh, hiệu chỉnh" tôi có đặt ra 1 câu hỏi cho anh em thảo luận : "Không có kính ngắm, pháo 85 ly có bắn được xe tăng không ?" Ai nấy bàn căi sôi nổi lắm. Người bảo bắn được người bảo không. Phần tôi tôi nghĩ kính ngắm phải theo đường ngắm qua lỗ kim hoả qua dan chỉ miệng ṇng tới điểm xạ. Khi biết cự li, biết tốc độ xe tăng, quy định vật chuẩn sẵn, tăng chạy đến là bóp c̣, có thể trúng thôi. Và lúc giải đáp, tôi kết luận : "Nhất đinh bắn được". Học lí thuyết tôi nói thế, bây giờ t́nh huống đă xảy ra, tôi phải có hành động để chứng minh.
    Câu chuyện ngày huấn luyện giúp tôi có thêm quyết tâm hơn, tôi quyết định, tiếp tục nổ súng đánh địch không chờ sửa chữa giá ngắm nữa. Anh Điển ủng hộ ngay ư kiến này. Các chiến sĩ trong khẩu đội th́ vừa tin, lại vừa muốn thể hiện một t́nh huống đă học nên chuẩn bị súng đạn hăng hái lắm. Và chiều hôm ấy, khẩu súng thiếu giá ngắm của chúng tôi đă đánh 2 trận khá tốt. Trận thứ nhất hồi 13 giờ, với 4 phát đạn, bắn cháy 1 xe tăng trên đường 1A, cự li 2.800m. Trận thứ 2 hồi 15 giờ, với 13 phát đạn, phá huỷ hoàn toàn 4 khẩu lựu pháo 122 ly đặt trước Hữu Nghị quan, cự li 4.500m. Tất cả các lần bắn tôi đều ngắm qua ṇng, đạn đi chính xác.
    Cũng buổi chiều này, pháo địch từ khắp nơi bắn vào trận địa chúng tôi nhiều hơn, điên cuồng hơn. Bộ binh địch cũng tiến công vào xung quanh chốt đông hơn, ồ ạt hơn, cán bộ chiến sĩ dưới chân chốt chiến đấu rất kiên cường dũng cảm. Nhiều đồng chí bị thương vẫn không rời tay súng. Xác giặc nằm la liệt trước chiến hào. Anh em đánh giỏi, chặn địch, đẩy lùi địch, bảo vệ pháo. Vừa đánh, các đồng chí ấy vừa reo ḥ, cổ vũ tôi không ngớt :
    - Anh Yên ơi, xe tăng xuất hiện kia ḱa. Cho con "bọ hung" bành trướng về chầu ông Bành Tổ thôi !
    - Hoan hô ! Pháo 85 ly dập nát 4 thông pháo 122 ly của địch rồi !


    Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.


    [1] : tức tiểu đoàn 12 thuộc trung đoàn pháo binh 68, sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng.

    [2] : sách in thiếu, đúng ra là đồi 339.

    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Phần 6. Đặc công diệt gọn 17 xe và trên 200 tên địch .

    LUỐN SÂU ĐÁNH HIỂM


    Minh Tiến, ghi theo lời kể của Nguyễn Văn Thành, đại đội 1, tiểu đoàn 45.

    Tối hôm đó, đơn vị chúng tôi rời bản Bốc Thượng. Trước lúc xuất kích, có chiến sĩ c̣n nói đùa : "Hôm nay là ngày Quốc tế Phụ nữ, các bạn biết rồi chứ. Chúng ḿnh phải đánh một trận thật tuyệt để báo công gửi về cho mẹ, cho vợ và người yêu".
    Chúng tôi mang theo bên người lương khô đủ ăn 3 ngày, c̣n tất cả là súng đạn và thủ pháo. Lực lượng luồn sâu của tiểu đoàn có 3 mũi : mũi 1 có 20 đồng chỉ, anh Đào Văn Quân, chính trị viên đại đội 1 làm chỉ huy trưởng. Anh Quân là cán bộ trẻ trong đơn vị, mới 25 tuổi, quê ở Tứ Ḱ, Hải Hưng. Đại đội phó Tường Duy Chính là chỉ huy phó. Mũi 2 là mũi phụ, có 19 chiến sĩ. C̣n lại là bộ phận cối 82 ly do anh Dương chỉ huy, có nhiệm vụ bắn kiềm chế địch, đề pḥng chúng phản ứng vào đội h́nh của đơn vị. 3 cán bộ chỉ huy của 3 mũi đều là những chiến sĩ đă dày dặn chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
    2 đêm hành quân, đến bản Na Tọng th́ được lệnh dừng lại để trinh sát. Ở đây chúng tôi đă gặp 3 dân quân dẫn đường. Đó là 2 cô gái Phan Thị Hoa, Lă Thị Sự và anh Vương Văn Ngô. Anh chị em này đều là những chiến sĩ thuộc đơn vị dân quân khu Thanh Sơn, đă từng đánh địch từ những ngày đầu khi bọn Trung Quốc xâm lược mới đặt chân vào thị xă Cao Bằng. Theo các chiến sĩ dân quân, chúng tôi đưọc lệnh đi sâu vào khu chiến, nơi địch đóng dày đặc trên các đồi Thiên Văn, Pháo Đài... Riêng ở đồi Thiên Văn có tới 1 trung đoàn, hàng ngày chúng canh gác trên đoạn đường ra vào cửa ngơ thị xă. Nhiệm vụ của tiểu đoàn đặc công chúng tôi là phải đánh nhanh rồi tản nhanh, nếu không sẽ bị hăm trong ṿng vây của địch.
    Bộ đội ta đào xong công sự th́ trời vừa sáng. Bỗng từ đài quan sát báo tới : địch bắt đầu xuất hiện. Nhưng chỉ là 1 chiếc xe tải từ tài Hồ X́n chạy tới. Đến chân đồi Nả Cay, nó dừng lại. Những tên lính Trung Quốc nhảy xuống xe và đi vào khu giao thông để bôc hàng rồi vào bản cướp bóc. Chốc chốc, chúng lại khiêng ra xe nào gà, nào vịt, nào lợn. Các chiến sĩ căm giận lắm nhưng vẫn phải nén ḷng chờ đợi, không đánh vào bọn này mà chờ những đơn vị lớn hơn.
    Đến 8 giờ 30, 8 chiếc xe tải khác lại vẫn từ Tài Hồ X́n chạy về thị xă. Trên xe chúng chất đầy những bao hàng và những chiếc xe đạp hỏng. Đó là những thứ chúng cướp được ở dọc đường. Chiếc xe đầu đă chạy lọt vào đúng trận địa phục kích mà chúng tôi vẫn chưa được lệnh đánh. Hàng chục con mắt và đôi tai chiến sĩ cứ căng ra và đỏ dồn về phía anh Quân và tiểu đoàn trưởng Hoàng Mạnh Thời để chờ đợi, chỉ sợ ḿnh không nghe kịp lệnh để rút nụ xoè tung lựu đạn xuống đầu địch. Và cứ mỗi chiếc xe giặc chạy qua tầm súng, chúng tôi lại một lần hồi hộp, chờ lệnh nổ súng.
    Bỗng có lệnh :
    - Hăy b́nh tĩnh, đă có công luồn sâu 3 ngày vào ḷng địch th́ phải biết nén căm giận để đánh 1 trận thật gịn giă.
    Nửa giờ sau, lại có tiếng động cơ râm ran từ thị xă Cao Bằng vọng đến. Đài quan sát báo có 17 chiếc xe chở đầy lính và đạn tên lửa H12 sắp chạy qua trận địa.
    Bây giờ th́ được đánh thật rồi. Từ hầm súng, chúng tôi như muốn bật cả dậy. Phan Thị Hoa, Lă thị Sự-các cô gái du kích Thanh Sơn tay thoăn thoắt buộc từng băng AK vào nhau, và mở sẵn nắp thủ pháo trao cho từng chiến sĩ.
    Chúng tôi nằm trên dốc ta-luy trong xuống mặt đường nh́n rơ từng ḥn đá nhỏ. Chiếc xe thứ nhất đă lao qua. Rồi chiếc thứ 2, thứ 3. Ba chiếc đầu chở đạn. Những chiếc sau đều chở lính, chúng đội mũ sắt, xếp hàng bảy đầy ắp.
    Khi chiếc xe cuối cùng vào đúng vị trí khoá đuôi th́ Nguyễn Văn Sinh được lệnh nổ súng. Trên vai anh, quả đạn B41 vọt ra khỏi ṇng, cắm vào thùng xe nổ tung. Trong đám lửa màu da cam hiện rơ từng tên lính bị hất tung lên rồi ném xuống mặt đường. Phát đạn B41 của Sinh cũng là khẩu lệnh của trận đánh. Tiếp đó là tiếng thủ pháo, lựu đạn nổ xen lẫn từng tràng liên thanh của AK dồn dập đánh địch.
    Ở vị trí phía trước chặn đầu, Hà Văn Nhạc bắn 3 viên AK báng gấp, đúng vào mặt tên lái. Hắn cúi gập người, buông tay vôlăng, chiếc xe lảo đảo thúc đầu vào vách ta-luy dựng đứng, bật trở lại, xoay nửa ṿng chắn ngang đường. Chiếc thứ 2 lách sang trái t́m đường thoát. Đại đội phó Tường Duy Chính đứng vụt dậy, tựa vào thành hào ngắm bắn 1 quả B41. Đạn tên lửa H12 trên xe bị đốt cháy nổ tung liên tiếp. Thế là cả đội h́nh 14 chiếc c̣n lại với hơn 500 tên lính nằm gọn trong tầm súng và biển lửa*. Chỉ huy trưởng Đào Văn Quân chỉ huy các chiến sĩ Lợi, Công, Đề và anh dân quân Vương Văn Ngô đánh tạt sườn. Anh Quân bắn luôn 6 phát B41 vào 6 chiếc xe đang nối nhau, bóp c̣i inh ỏi để t́m đường tẩu thoát. Nhưng chúng c̣n chạy vào đâu. Bọn lính từ tren xe nhảy xuống chỉ kịp giúi đầu xuống sàn xe hoặc nằm rạp xuống 2 bên rănh thoát nước. Từ trên cao, chiến sĩ ta chỉ việc bỏ lựu đạn, thủ pháo, bắn AK xuống. Xác địch chết chồng tréo lên nhau trông thật thảm hại.
    Bỗng 1 tên xách được khẩu trung liên từ thùng xe lao ra đường chạy đến bụi tre và nằm xuống định bắn trả. Hắn chưa kịp bắn, Hà Văn Triệu đă nhanh hơn, đưa điểm ngắm vào cái đầu trọc của hắn kéo một loạt ngắn AK. Đó là tên lính duy nhất định chống cự trong đám 1 tiểu đoàn giặc đi trên đoàn xe đă bị tiêu diệt gọn.
    Chúng tôi đang đánh th́ 1 t́nh huống xảy ra nằm ngoài dự kiến của thủ trưởng Thời. Đó là hàng trăm tên địch chốt trên các đồi Thiên Văn và Yên Ngựa khi nghe tiếng súng nổ và ngọn lửa bốc cao dưới mặt quốc lộ 3 đă bỏ luôn súng, rủ nhau chạy lên đồi cao nh́n xuống nơi đồng bọn bị tiêu diệt. Nắm đúng thời cơ, trung đội trưởng cối 82 ly ra lệnh đánh. Hàng chục quả đạn đă được tính toán kĩ lưỡng phần tử bắn nối đuôi nhau giội lửa xuống đầu địch, tiêu diệt hơn 100 tên nữa. Tất cả trận đánh chỉ diễn ra trên 20 phút. Khi bọn địch phản ửng th́ đơn vị chúng tôi đă nhanh chóng theo 3 chiến sĩ dân quân thọc qua bản Nà Cay, trở về vị trí tập kết.
    Về đến nơi, lúc chia tay đơn vị, cô gái dân quân người Tày Phan Thị Hoa nắm tay anh Đào văn Quân, nói giọng tha thiết :
    - Nếu em được vào bộ đội, em sẽ t́nh nguyện vào đơn vị đặc công của các anh...
    C̣n chúng tôi nghĩ, nếu lần sau có những trận đánh được phối hợp với anh chị em dân quân như thế này th́ đơn vị lập công càng lớn hơn...


    Không được đụng tới Việt Nam, NXB QĐND 1979.


    * : thực tế sau này ta xác minh đoàn xe địch có hơn 200 tên. Ngoài ra một bộ phận địch cũng kịp chống trả trước khi bị diệt hoàn toàn. Có thể do đội h́nh phải trải dài ra để đánh toàn bộ đoàn xe 17 chiếc nên đ/c Nguyễn Văn Thành không nắm được những điều này. Tuy nhiên, đây vẫn là một trận thắng xuất sắc.

    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    phần 7 - cuộc chiến không tiếng súng 8/1978

    Đắc Trung.
    Mèo Vạc, 3-1979.
    Viết về Hoàng Xuân Nở, dân tộc Tày, chiến sĩ công an nhân dân vũ trang đồn Lũng làn, Hà Tuyên.

    Đồn Công an nhân dân vũ trang biên pḥng Lũng Làn* (Mèo Vạc, Hà Tuyên) nằm trên 1 quả đồi rất đẹp cách biên giới khoảng 600m. cán bộ chiến sĩ ở đây thuộc nhiều dân tộc : Tày, Nùng, Mèo, Dao, Sán chỉ... Mỗi người đều mang những nét dáng đặc biệt của dân tộc ḿnh, nhưng họ đều có cái chung, đó là lư tưởng và phẩm chất của người chiến sĩ. Bởi thế họ thương nhau như anh em ruột thịt.

    Tôi đến đây công tác vào giữa tháng 8-1978, 1 tuần sau khi xảy ra cuộc chiến đấu rất dũng cảm của 3 chiến sĩ công an ta chống lại 40 tên xâm lược Trung Quốc.
    Làm việc với trưởng đồn Hoàng Văn Tài nắm t́nh h́nh chugn xong, tôi gặp gỡ một số chiến sĩ tṛ chuyện và tối đó xin phép được ngủ chung với Hoàng Xuân Nở, người đă dùng tay không với vơ thuật cao cường đấm chết 8 tên côn đồ Trung Quốc, đánh bị thương nhiều tên khác và cứu được 2 đồng đội khỏi bị địch bắt cóc trong cuộc chiến đấu này.
    Một đêm tâm sự chắc được nghe nhiều chuyện hay để viết, tôi hy vọng thế, nhưng rất tiếc đêm đó Nở phải gác ca một măi 10 giờ khuya mới từ trạm tiền tiêu về. Dựa súng vào sát vách đầu giường, Nở tháo bao đạn, cởi quần áo ngoài rồi chui vội vào chăn với tôi. thấy tôi c̣n thức, Nở hỏi :
    - Cán bộ đợi ḿnh lâu có buồn không ? Đừng giận ḿnh há, ḿnh phải đi gác mà.
    - Không giận Nở đâu, không buồn đâu. Ḿnh đợi Nở về kể chuyện đấy.
    - Ḿnh không biết kể chuyện đâu. Mà không có chuyện ǵ kể đâu. cán bộ bảo ḿnh làm ǵ, ḿnh làm thôi.
    - Đồng chí Nở quê bản nào ? Bản có đẹp không ? Đại khái đôi ba nét về dân bản chẳng hạn, kể cho ḿnh với.
    - Ừ chuyện đó th́ ḿnh biết, ḿnh kể được thôi. Ḿnh wỏ bản Ngọc Hội, huyện Chiêm Hoá đấy. Con suối Kơ Loong nước trong lắm chảy qua. Xung quanh có nhiều rừng rậm, nhiều thú dữ nữa. Hổ vẫn vào bắt trộm lợn, gấu vẫn vào ăn vụng mật ong đấy.
    - Thế dân bản không đánh gấu, đánh hổ à ?
    - Có, dân bản có đánh chứ.
    - Ở bản có ai giết được hổ không ?
    - Ké Thi giết được hổ đấy. Ké thi giỏi vơ lắm mà. Ngày giặc Pháp c̣n chiếm bản, Ké Thi đánh chết 1 thằng có dao găm, súng lục. Ḿnh nghe dân bản kể thế. bây giờ Ké Thi già như cái cây cổ thụ, râu trắng tóc trắng như hoa ban, hoa mận, da nâu như gỗ sến gỗ táu, uống rượu như uống nước nhưng Ké vẫn làm trùm phường săn bản ḿnh, làm ké già đứng đầu bản ḿnh, vẫn dạy vơ cho người Tày trẻ bản ḿnh. Ké nói ai ai cũng thích nghe.
    - Thế đồng chí Nở có được Ké Thi dạy cho bài vơ nào không ?
    - Có chứ. Ké Thi dạy cho ḿnh nhiều bài vơ hiểm lắm, cả bài vơ Ké đấm chết thằng tây có dao găm súng lục ấy. Đi CAVT ḿnh lại được học thêm nhiều bài vơ nữa. Ḿnh thích tập vơ lắm mà.
    - Nở đi công an lâu chưa ?
    - Chưa lâu đâu, mới 2 mùa hoa ban thôi.
    - Hôm đi có vui không ? Ké Thi dặn ǵ không ?
    - Ồ, vui lắm mà. Dân bản đánh cồng kéo đến nhà sàn lớn. Con gái mặc váy đẹp, áo đẹp, đeo nhiều ṿng bạc ở cổ, hát tặng ḿnh nhiều bài hát hay, cho ḿnh quyển sổ, cho ḿnh cái bút, cho ḿnh nhiều chiếc khăn thêu hoa. Chủ tịch xă dặn ḿnh đi đừng bỏ về, tập luyện giỏi, đánh giặc giỏi, nếu được cái bằng khen gửi về cho dân bản biết. C̣n Ké Thi rót cho ḿnh 1 chén rượu ngâm cao xương con hổ Ké đă giết được. Ké bảo nếu gửi được cái giấy khen của cấp trên về, Ké sẽ thưởng cho cái vuốt con hổ chúa, vật quư của Ké đấy.
    - Tập vơ có vất vả không ?
    - Ồ, vất vả lắm chứ. Tối nào, sớm nào cũng phải tập mà. Bỏ tập như bỏ cơm, không được đâu. Cán bộ có thấy nhiều bao cát treo ở cành cây quanh đồn không ? Để tập đấy. Đấm vào cát, đá vào cát, lao đầu, đập mặt, đập ngực vào cát. Lúc đầu đau lắm. tay chân sưng to, tím lại buốt tận óc. Ngâm vào nước nóng lại khỏi. Lại đấm nữa, đá nữa, quen đi hết đau thôi. Phải chia ra từng đôi một, hai ba người một tập đánh nhau cho quen. Mệt lắm thôi, nhưng bây giờ quen rồi. Tay rắn lại rồi, chân rắn lại rồi. Đấm vào cây chuối, cây chuối găy ngay, đá vào cây chuối, cây chuối đổ ngay. Người khác đấm ḿnh, ḿnh đỡ được, đấm lại được. Nhiều người khác đánh ḿnh, ḿnh đánh lại được. Cấp trên bảo muốn làm công an biên pḥng phải giỏi vơ, giỏi bắn súng mới đánh được thằng giặc, đánh được thú dữ trong rừng. Ḿnh muốn làm công an, ḿnh phải tập vơ, tập bắn súng nhiều lắm.
    Tôi xoay người quàng tay ôm lấy Nỏ và vô cùng thèm muốn có được cái cơ thể cường tráng, to khoẻ, bắp thịt rắn chắc của anh. Ở người chiến sĩ ấy toát ra một sức mạnh dữ dội, một niềm tin chắc chắn và một bản lĩnh vững vàng mà không phải ai muốn cũng có được. Bởi đó là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về nghĩa vụ, là kết tinh truyền thống thượng vơ của cha ông để lại và là sản phẩm cả quá tŕnh luyện tập nghiêm túc của người chiến sĩ. Nằm bên Nở tôi thấy mến, thấy tin, thấy kính phục anh vô hạn.
    Khuya rồi, tôi bảo Nở ngủ, lấy sức mai c̣n đi tuần tra biên giới.

    Hôm sau, tôi theo Nở đi về phía giữa cột mốc 23 và 24. Rừng ở đây thưa. Tiếp với chân đồi là một vạt đất rộng rất bằng phẳng. Đó là những nương ngô, nương sắn, hoặc mới gieo, mới mọc, hoặc mới lên nham nhở chưa kịp dọn cỏ. Bên phải chúng tôi là con suối Lũng Ly rộng khoảng 3m, nông choèn, nước trong vắt có thể nh́n thấy rất rơ từng viên sỏi trắng muốt, nằm dưới đáy và những con cá tung tăng bơi lội. Suối Lũng Ly được coi là đường phân chia ranh giới giữa ta và Trung Quốc. Lúc ấy khoảng hơn 9 giờ. Bầu trời mùa thu dịu mát. Nắng vàng nhạt rải nhẹ. Màn sương bị xé nát cuốn đi hết phô màu xanh biếc bạt ngàn trùng điệp và hùng vĩ. Từng bầy chim gọi nhau líu ríu. Tiếng nước chảy róc rách đều đều. Một thứ âm thanh đặc biệt của rừng gợi trong ḷng mảnh đất biên cương Tổ quốc ḿnh, đối với những chiến sĩ biên pḥng dũng cảm và gan góc, đối với đồng bào các dân tộc ít người đang sinh sống ở đây. Họ là những tấm áo giáp đầu tiên góp phần che chở, bảo vệ cho sự b́nh yên của đất nước.
    Bên kia suối, cách chúng tôi không đầy 2km là đồn biên pḥng Lũng Hồ của Trung QUốc. Rải rác quanh đấy là những mái nhà tranh lô nhô của 1 công xă nhỏ. Mấy năm trước đây, khi t́nh hữu nghị giữa 2 nước chưa bị họ chà đạp, giày xéo, mỗi buổi chiều công an biên pḥng Trung Quốc vẫn thường ra ngồi chơi bên bờ suối Lũng Ly tṛ chuyện, vui cười với công an biên pḥng ta. Điếu thuốc lá cấu làm đôi, gói kẹo sẻ nửa quẳng qua suối mời nhau. Đồng bào 2 dân tộc có thể được phép qua suối thăm hỏi, chơi bời, uống rượu cần, mổ ḅ, mổ lợn mời nhau trong những dịp cưới xin hội hè. Nhưng từ khi bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh thi hành chính sách thù địch với Việt Nam, mọi quan hệ đẹp đẽ đó đều bị chấm dứt. Những họng súng đen ng̣m từ đất Trung Quốc chĩa sang Việt Nam. Những tên thám báo nham hiểm từ Trung Quốc lén lút đột nhập sang đất Việt Nam để ḍ la, trinh sát, chui rúc vào tận các bản làng lôi kéo, kích động, mua chuộc, đe doạ, chia rẽ đồng bào các dân tộc. Chúng liên tiếp tiến hành hàng trăm vụ lấn đất khiêu khích, xuyên tạc, vu khống đường lối chính sách của ta.
    Chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của cấp trên, đồng bào các dân tộc, chiến sĩ công an ta đă đoàn kết chặt chẽ, kiên nhẫn nén căm thù xuống, t́m mọi cách giải thích, tố cáo những hành động xâm lược thô bạo của chúng, tuyệt đối không được nổ súng nếu không có lệnh.
    Nhưng bất chấp thiện chí của ta, kẻ thù mỗi ngày một ngang ngược, một tàn bạo, buộc đồng bào và chiến sĩ ta phải có cách tự vệ. và trận chiến đấu không cân sức, không có tiếng súng diễn ra quyết liệt tại đây vào ngày 10-8-1978 đă trả lời cho bọn xâm lược biết thế nào là sức mạnh của chúng ta...
    Nở dẫn tôi đến gần một tảng đá nhô cao khỏi mặt đất và thong thả kể cho tôi nghe về trận đánh hôm đấy :
    - Đồn trưởng tài bảo ḿnh với Dương, Định đi tuần tra. Lúc ấy sương tan hết rồi, có nhiều nắng rồi. Đến chỗ này th́ thấy nhiều người Trung Quốc... Độ hơn 40 người vượt suối Lũng Ly sang phá rẫy làm nương trên đất của ta. Chúng ḿnh xuống giải thích, bảo đây là đất của người Việt Nam, người Trung Quốc không được tự tiện sang làm như thế. Vi phạm chủ quyền Việt Nam. Mấy thằng xô đến. Trông nó quen lắm. Ḿnh nhớ ra rồi, nó là bộ đội biên pḥng Trung Quốc đấy. Nó cải trang thành người Mèo, cũng cầm dao, cầm búa, cầm ŕu như nhiều người khác, nó sang phá cây, đốt rẫy chiếm đất. Mặt chúng nó hầm hầm, nó nói láo, nó văng tục, nó giơ dao doạ chém. Không giải thích được đâu, bọn này muốn đánh ta đây, ḿnh bảo với Dương thế. Dương bảo tất cả quay về đồn báo cáo. Đồn trưởng cử thêm Sắm và B́nh đi nữa. thế là chúng ḿnh có 5 người. Đến nơi chưa kịp giải thích ǵ, bọn Trung Quốc đă xông tới định đánh. Căng thẳng rồi. Dương bảo Sắm chạy về đồn báo cáo, c̣n B́nh chạy về bản Ṕn Ḷ xin thêm lực lượng của dân quân ra tiếp ứng. C̣n lại 3 chúng ḿnh, bọn địch quây lấy, tách mỗi người ra một góc. Thấy ḿnh to khoẻ hơn, bọn nó bu lại. Một đứa đứng trước ḿnh, nó giơ cao cái búa, lưỡi búa to bằng bàn tay sáng loáng bổ xuống thẳng đầu, ḿnh nhoài người tránh. Nó mất đá bổ luôn vào đầu thằng đứng sau ḿnh, máu phọt ra chết tươi. 2 thằng ở 2 bên xô vào định khoá tay ḿnh, ḿnh gạt thật nhanh, nhảy cao đạp rất mạnh vào sườn chúng nó. cả 2 đứa đều ngă lộn nhào. lại 2 thằng khác từ phía trước xô đến. Ḿnh co 2 tay lại lao toàn thân lên đấm, cả 2 thằng ôm lấy ngực rồi gục xuống. Càng đánh càng hăng máu lên. Ḿnh căm thù chúng nó, thế là ḿnh không sợ chúng nó. Phải đánh thật quyết liệt để chúng nó biết tay công an Việt Nam, để chúng nó biết rằng đất Việt Nam là của người Việt Nam, không cho phép ḿnh muốn làm ǵ th́ làm. Ḿnh nghĩ thế, chắc Dương và Định cũng nghĩ như ḿnh thôi. Chúng nó xúm đến dùng gậy phang ḿnh, ḿnh nhoài người tránh. Mỗi lần tránh ḿnh lại đấm hăọc đá vào mỏ ác, vào sườn một đứa. Gậy chúng nó không đánh trúng ḿnh lại trúng đứa khác. Một tên to béo xông tới co chân đá hạ bộ ḿnh. Ḿnh xoay ṇng khẩu AK xuống đỡ. Nó đá mạnh lắm, mũi súng đâm thủng mu bàn chân nó, máu phọt ra. Nó kêu "Ối !" một tiếng rồi lăn ra một bụi cây quằn quại. Mệt quá rồi, mĩnh uống tấn thở, chúng nó cũng thở, hai bên gườm gườm nh́n nhau. Ḿnh liếc sang Dương và Định. Hai đồng chí đánh giỏi lắm, mấy đứa nằm gục đấy rồi. Bỗng 1 thằng to cao nhảy từ trên mô đá xuống trước mặt ḿnh, mắt trắng dă như mắt chó sói, 1 tay ắnm chắc, khuỳnh ra, 1 tay cầm con dao găm nhọn sáng ánh thép, lưng hơi cúi. À thằng này có vơ thuật đây. Nó là công an biên pḥng cải trang đáy. Phải cướp dao găm nó, giết nó, ḿnh nghĩ thế. Ḿnh nhớ tới bài vơ Ké Thi dạy. Nó chồm đến bổ dao găm xuống, ḿnh né tránh gạt mạnh. Nó đâm trượt. Bọn xung quanh chỉ đứng xem thôi. Chắc nó đợi xem thằng này giết ḿnh thế nào. Được, xem nó giết tao hay tao giết nó, ḿnh nghĩ thế. Nó lại chồm tới đâm tạt trái. Ḿnh lại né tránh gạt. Nó mất đà xuưt ngă. Nó tức lắm, mắt đỏ như mắt trâu đien, quai hàm bạnh ra, răng nghiến nghiến. Lần này nó lừa miếng lâu lắm, làm ra vẻ đâm bổ thượng nhưng nó bất ngờ xoay người ṿng tay đâm tạt phải. Ḿnh đoán được mưu nó. Ḿnh co chân đá mạnh, con dao văng ra. Ḿnh nhào theo chiếm được. Nó chồm đến cướp, lại bị ḿnh co chân đạp thúc vào bụng. Nó ngă lộn một ṿng. Ḿnh dậy được, nó cũng dậy được. Nó vớ lấy gậy một thằng đứng bên vung lên bổ xuống đầu ḿnh. Ḿnh tránh được, túm lấy cổ tay nó kéo mạnh, tay kia xốc dao găm vào ngực nó. Máu ộc ra. Nó chết ngay.
    Ḿnh mệt quá. 11 thằng xô đến. Nó tugn dây sắn rừng kéo ḿnh ngă ngửa rồi ḥ nhau đè ḿnh xuống. Nó đám, nó đạp, nó đá... Ḿnh đau lắm. Nó cướp mất súng, mất đạn của ḿnh rồi trói chặt tay ḿnh ra sau lưng. Ḿnh nằm nghiêm thở lấy sức. Liếc nh́n, ḿnh thấy Dương, Định đang bị chúng nó kéo sang bên kia suối. Làm thế nào bây giờ ?
    Tṛi được ḿnh rồi nó để 2 đứa coi, c̣n mấy thằng đi chặt cây làm đ̣n khiêng. Ḿnh lựa chiều cọ tay vào cạnh ḥn đá sắc. Sợi dây sắn rừng xơ tướp, ḿnh vặn tay đứt luôn. Ḿnh vùng dậy lao đến đấm gục 2 thằng gần nhất, nhảy vào qua suối. hăng máu lắm rồi, căm uất lắm rồi, ḿnh xông vào đánh chúng nó. Định và Dương bung ra được cũng đánh chúng nó, vuwọt suối về đất ḿnh.
    Đúng lúc ấy Sắm và B́nh dẫn công an và dân quân ta chạy đến. Bọn nó sợ, cướp 3 khẩu súng rồi chạy trốn mất.
    5 ngày sau, ta đấu tranh, 3 thằng công an biên pḥng Trung Quốc ở đồn Lũng Hồ phải đem 3 khẩu súng mà nó cướp của ḿnh, Định, Dương trả lại ta. Nó bảo hôm ấy 8 thằng của nó chết ngay trên đất ta, về đến Trung Quốc chết thêm 12 thằng nữa. Những đứa khác bị thương không khỏi, mang tật suốt đời. Biết ặmt chúng mày chửa, c̣n động đến đất của người Việt Nam th́ c̣n phải chết nữa, ḿnh định bảo 3 thằng công an Trung Quốc thế, lại thôi. Không nói nó cũng hiểu mà.

    Hoàng Xuân Nở xốc súng lên vai, kéo tôi đi dọc bờ suối Lũng Ly. Trời cao và xanh. Nắng vàng rực rỡ. tôi hỏi :
    - Thế bản Ngọc Hội biết đồng chí Nở giết được giặc trung Quốc chưa ?
    - Biết rồi mà. Ḿnh được cái giấy khen, lại được cấp trên thưởng 5 ngày nghỉ phép. Nhưng ḿnh không về phép đâu, phải ở lại đánh chúng nó chứ. Chúng nó chết nhưng không chừa đâu, vẫn khiêu khích đấy.
    - Đồng chí Nở có gửi giấy khen về cho dân bản mừng không ?
    - Ḿnh gửi về rồi. Gửi cho chủ tịch xă một nửa, cho Ké Thi một nửa. Ḿnh bảo với Ké Thi rằng những bài vơ Ké Thi dạy ḿnh đánh giặc Tàu tốt lắm đấy.


    Ḱ tích áo chàm T1, NXB Văn hoá 1979.


    * : đồn Lũng Làn sẽ c̣n được nhắc lại không chỉ một lần. Phải nói rằng đây là một đơn vị biên pḥng tuyệt vời.

    Ơi những cánh thiên thần...
    Rạch bầu trời chớp lửa...

    - theo TTVNOL-
    http://coletuan.blogspot.com/2009/02...1979_8320.html

    -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Lời của Ptd

    Đảng cộng sản Hồ điều khiển cuộc chiến 1979 chống " đồng chí Trung Cộng " xâm lăng theo lợi ích riêng tư của đảng hơn là lợi ích của Dân Tộc Việt Nam.

    Hồ , trên đường t́m công danh đă một lần đăng kư vào trường thuộc địa của Tây , bị từ chối , t́m đến Nga trở thành một đảng viên cộng sản của Nga , nhiều sách vở thường gọi là đảng viên cộng sản Quốc Tế , bởi đường lối của Staline lúc bấy giờ là cộng sản hóa toàn thế giới .

    Trước khi Hồ đưa cộng sản vào Việt Nam phải xuyên qua giai đoạn phục vụ đảng cộng sản Tàu v́ lúc bấy giờ Mao chưa làm chủ được Hoa Lục sẽ rất bấp bênh về ngoại viện .

    Tuy cùng là cộng sản nhưng quyền lợi của Nga - Tàu trái ngược nhau dẫn đến Hồ và đồng đảng chơi vơi giữa hai thế lực . Quyết định bỏ Tàu theo Nga là nguyên nhân chính gây xung đột dẫn đến chiến tranh .

    Khi chiến tranh bùng nổ , cộng sản Hồ cần sự ủng hộ của Dân Tộc Việt Nam nên không những dùng mọi h́nh thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông, báo chí mà tại mỗi địa phương cấp tiểu tổ, ấp, xă ... đều có mít tin đồng t́nh chống Trung cộng, chống xâm lăng cứu nước .

    Khi chiến cuộc diễn ra , mọi tin tức chiến trường, tổn thất nhân mạng, thiệt hại của người dân thế nào ... đều thuộc loại ṛ rỉ thông tin v́ nhóm lănh đạo cộng sản Hà Nội phải tuân theo các chỉ thị của Nga trên lập trường đoàn kết thế giới cộng sản , do đó , đối với người dân Việt cuộc chiến này c̣n nhiều bí mật chưa được biết đến.

    Tài liệu nói về cuộc chiến Việt - Trung có đoạn ghi là " Quân Sử Việt Nam " nhưng thực ra là tạp ghi , thiếu tính tổng quát , trung thực , có hệ thống đối với một chiến trường sử dụng đến hàng trăm ngàn quân .Cho thấy cộng sản cố t́nh bưng bích thông tin đối với Dân Tộc Việt Nam tạo mọi thuận tiện thông đồng địch quốc nhằm thỏa hiệp, nhượng đất , biển , đảo những năm sau này trong sách lược bất di bất dịch giử quyền lănh đạo độc tài của đảng cộng sản.

    Ptd

  7. #7
    Yêu Nước
    Khách
    Câu chuyện kể cuà nhửng người chiến đấu yêu nước nồng nàn đă làm nản ḷng nhiều người ?. Tại sao ?.

  8. #8
    Member vanthanhtrinh's Avatar
    Join Date
    28-01-2011
    Posts
    547

    Dể hiểu thôi.

    Quote Originally Posted by Yêu Nước View Post
    Câu chuyện kể cuà nhửng người chiến đấu yêu nước nồng nàn đă làm nản ḷng nhiều người ?. Tại sao ?.
    Chưa chắc là họ có ḷng yêu nước nồng nàn thật sự.Chỉ v́ họ nghe theo lời Đảng của họ,mà với họ Đảng cũng là tổ quốc,đất nước.Họ chiến đấu hết ḿnh v́ bị tuyên truyền,nhồi sọ như thế.Bằng chứng là ngày nay Đảng của họ nhượng đất ,bán biển cho Tàu.Những vùng xưa từng thấm máu đào của họ,xương cốt chiến sỹ bạn bè họ nằm xuống nay đă thuộc về đất Tàu.Cũng thế họ ráng đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào để rồi sau chiến tranh ra ngồi vá xe đạp hoặc gồng gánh,củu vạn cho Tàu,mặc cho Đảng mời mọc Đế quốc Mỹ và Tư bản tay sai và cả Tàu vô làm ăn.Hơn nữa nếu họ không đi chiến đấu,Bố mẹ họ phải vô tù,nhẹ th́ cắt hộ khẩu,bớt công điểm.
    Trong miền Nam đôi khi bắt được tù binh Bắc Việt hỏi "Tụi mày làm ǵ mà đánh dai như đỉa vậy,Bộ không sợ chết sao"Nhiều cán binh trả lời khác nhau,bài bản.Chỉ có một cán nhí chừng 15,16 thật thà nói:"Chạy lui mới là chết ,không chết đói th́ cũng bị di lư về Bất Bạt ,tù mọt gông.Chạy tới may mà thắng,vô đôn bốt là có ăn.Nếu bị bắt ,làm tù binh cũng được no".
    Đơn giản có thế.

  9. #9
    Yêu Nước
    Khách
    Giặc đến nhà đàn bà củng phải đánh. Câu chuyện kể trên cho thấy trong khoản thời gian 79, họ là nhửng người chiến đấu băo vệ lảnh thổ là nhửng người Yêu Nước thật sự. Giờ đây, có cơng ai vào để tái thiết đất nước củng là lẽ tự nhiên. Sao lại đi chỉ trích Ḷng Yêu Nước cuả người dân đen, nhửng chiến sĩ băo vệ biên cương ?.
    C̣n câu chuyện cán nhí kể ch́ là cách nói đế sống c̣n trong lúc bị giam cầm. Đem hai câu chuyện kể không có sự nối kết với nhau. Băo vệ đất nước có tên là Việt Nam là bổn phận cuă mội một người Việt Nam, nếu đó là người Việt mà t́m cách phĩ báng, th́ hăy xem lại ḿnh là ai?, và có bao giờ yêu đất nước VN chưa ?.

  10. #10
    ahem
    Khách
    Lần này mà thằng chệt đánh nữa th́ lính việt cộng bắc kỳ sẽ ĐẠP lên nhau mà ...... CHẠY !!

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Photos: Chiến tranh biên giới Việt-Tàu 1979
    By Cu Cường in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 15-10-2011, 01:20 AM
  2. Hàn Quốc nă pháo vào gần biên giới tranh chấp.
    By Vincent Le in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 06-10-2011, 02:46 PM
  3. Trận chiến tranh 1979 giữa Trung quốc và Việt Nam
    By JNguyencali in forum Tin Việt Nam
    Replies: 5
    Last Post: 15-06-2011, 04:00 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 28-02-2011, 04:49 PM
  5. 32 Năm Chiến Tranh Biên Giới Trung Việt
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 27
    Last Post: 26-02-2011, 05:24 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •