Tra tự điển (ngược) :
Tả phù : Về phía mạn trái chỗ dăy núi dài nó đang chui đang nhủi, th́ quánh cho nó trốn trong hang phải NỔI phải trồi đầu lên mà dập
Hữu tŕ : Về phía mạn phải chỗ mặt nước, nó muốn là AO là hồ th́ quánh cho nó " Bập bồng Tần quốc bập bồng" như C...trôi sông vậy
#220 :
Bao giờ người hánG có lời giải cho câu đố :
V́ sao Vua Quang Trung Nguyễn Huệ bắn tan tác giặc Thanh trong trận Ngọc Hồi (1789 ), bằng đại bác đặt trên lưng voi, mà không làm con voi hoảng sợ th́ may ra họ có thể đoán được 50% ư nghĩa của "Ấy là những binh thù thái thái" (muốn thử cứ đến Tây Nguyên mà thử )
Nhưng cái lủ Robot lớp vỏ "hánG Tịt" sẽ KHÔNG BAO GIỜ NGỜ NỔI có cái "Ḷng trời xui ai nấy biết ru ?" trên thái dương hệ này !
Trong khi chờ đợi lời giải cho câu đố trên, th́ trước mắt nên thừa nhận " Cha đẻ của Xe Tank" chính là vua Quang Trung Nguyễn Huệ !. Đó là chưa kể đến bí ẩn cuộc chuyễn quân thần tốc kinh hồn của chiến dịch Đống đa, mà đủ loại giả thuyết đặt ra nhưng chưa có một giả thuyết nào thơa đáng cả ?(trừ 1 giả định ổn thơa là kiểu di chuyển như dưới căn cứ Area 51 ?)
Ấy vậy mà c̣n một cuộc bày binh bố trận thần sầu chuẩn bị đối phó 80 vạn quân Thanh sang phục thù, đă có mấy ai biết ? (Đâu phải vô nguyên cớ mà Cụ Trạng viết "Hồ bịnh Bát vạn nhập tràng an" để rồi sau này Nguyễn Huệ lĩnh hội được ư mà tiên liệu...để nay đem ra dùng ?)
Chuyện TK 18 đó chưa hết, th́ sang TK 20 21 Con cháu Lạc Việt lại tiếp tục sáng chế ra bom áp nhiệt, vũ khí Laser...
Đó là nói vũ khí chiến thuật ! C̣n vũ khí chiến lược do Ông Bạch sĩ nghĩ ra th́ 1 trong các cái đó đă xuất hiện ở vế sau của tiêu đề trên rồi.
Noi Gương Tiền Nhân, Dựng Cờ Đại Nghĩa
Theo Bắc B́nh Vương, Tiến Đánh Thăng Long
Vân Anh
Sống thỏa thuê tôi trở về đất Tổ
Vào Lam Sơn t́m gặp vua Lê
…………………………………..
Theo Bắc B́nh Vương gióng trống mở cờ
Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị
(Tôi Muốn Sống - 1962)
.. 3) Theo Bắc B́nh Vương, Tiến Đánh Thăng Long:
...Tháng 11 năm 1788 Đại Tướng Ngô Văn Sở từ vùng rừng núi Tam Điệp đă cấp tốc báo về Phú Xuân rằng: đại binh của Tôn Sĩ Nghị đă theo lệnh của Càn Long (Kiền Long) dưới danh nghĩa “cứu nhà Lê” đă đem binh tiến vào Thăng Long với khí thế rất mạnh. Quay sang kẻ tả hữu Quang Trung Nguyễn Huệ nói rằng: “Có ǵ phải hốt hoảng, chúng vào đất nước Việt ta là chỉ mua lấy cái chết mà thôi!”. Để tranh lấy cái “Thế”, đoạt nhân tâm. Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân; Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngài cho lệnh chuẩn bị xuất quân. Từ giă Bàn Sơn (Bàn Sơn vùng phía Nam núi Ngự B́nh) cùng với đoàn quân Thủy, Bộ; Bắc B́nh Vương rầm rộ tiến quân ra Thăng Long.
Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân đại quân của Bắc B́nh Vương đă đến vùng rừng núi Nghệ An, tại đây Ngài cho dừng quân và tuyển mộ thêm binh. Dân xứ Nghệ lại một phen nô nức đầu binh diệt giặc. Binh mới hơn 100 ngh́n (100,000) và hơn 350 tượng binh (Chiến Tượng). Trước mặt toàn thể quân đội Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ với lời cả quyết và ư chí sắt thép Ngài dơng dạc tuyên bố:
1) Quân nhà Thanh đă sang đất nước chúng ta với mục đích xâm lăng, cướp nước và hiện chúng đang chiếm đóng kinh đô Thăng Long.
2) Trung Hoa; Việt Nam là hai vùng đất khác nhau mà trời đất đă phân biệt rơ ràng như vậy. Nay quân Thanh đă bạo ngược xâm lấn nước ta, nên toàn dân phải nghĩ đến sự quật khởi để cứu nước.
3) Tổ tiên Việt chúng ta đă bao đời chứng ḿnh rằng: chỉ có sự chiến đấu mới có thể sống c̣n với bọn “nội thù” và bọn ngoại xâm phương Bắc. Từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế đến nay đă nhiều lần tổ tiên ta đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi bờ cơi nước Việt.
4) Triều đ́nh Măn Thanh đă không chịu học bài học các tiền triều của họ trong quá khứ, lần này nhà Thanh sẽ chuốc lấy thảm bại, và họ sẽ học được bài học lịch sử này. Nay toàn dân phải cùng nhau dốc ḷng tiêu diệt bọn xâm lăng và bọn Việt Gian phản trắc.
Tiếng nói của Bắc B́nh Vương vang dội như chuông ngân giữa đám ba quân với lời nói hùng hồn quyết tâm đă làm nức ḷng bao chiến sĩ Việt. Và với một chiến dịch hành quân thần tốc mà các binh gia cổ kim ít có người nghĩ ra cũng như áp dụng. Phương pháp “Rút Đường” kỳ dị này của quân đội Tây Sơn đă chuyển quân thật thần tốc ngoài sự dự liệu của đối phương (có người lại đặt giả thuyết cho rằng: “Hai người dùng cán khiêng Một người”. Nhưng theo Vân Anh th́ đi hành quân trong rừng núi chứ không phải đi ngoài đường lộ thênh thang như ngày nay, th́ 3 người cùng đi có lẽ c̣n khỏe hơn là 2 người khiêng 1 người. Như trên có nói đây là phương pháp “Rút đường” của người xưa vẫn c̣n lưu truyền đến ngày hôm nay).
Với một phương pháp chuyển quân đặc biệt và những thế đánh như vũ băo. Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ với chiến thuật “Trung Ương Đột Phá” đă đẩy hai mươi lăm (25) vạn binh (không phải 20 vạn) hùng mạnh của nhà Thanh vào thế bị động (thế thủ), mỗi trận đánh phải giải quyết gọn; nhanh, nên khiến quan quân nhà Thanh không có thời gian để kịp xoay trở t́m thế trận phản công.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân, đại binh của Bắc B́nh Vương đă tiến đến vùng núi Tam Điệp là nơi tiếp giáp giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh B́nh, Ngài ra lệnh dừng quân chỉnh đốn binh mă để chuẩn bị “Tiến đánh Thăng Long núi Nùng sông Nhị”. Theo địa thế th́ chung quanh Thăng Long (Hà Nội bây giờ) là vùng đồng bằng, không có nơi hiểm yếu để giữ, v́ vậy địa thế Thăng Long bốn mặt đều có thể là chiến trường do đó rất tiện lợi cho thế trận “Nội Công, Ngoại Kích” (bên trong đánh ra, bên ngoài đánh vào) mà Bắc B́nh Vương đă dự liệu.
Năm Quang Trung thứ Tư; biết thế nào cũng có việc binh biến giữa Việt và Măn Thanh. Vua Quang Trung đă ngầm hạ lệnh cho các “chùa” (kiểu chùa đời nhà Minh có nói trên) phải giao nộp đồng để đúc tiền làm rộng tài nguyên và rèn binh khí. Các “sư, săi” không đủ đức độ th́ cho hoàn tục và trở về nguyên quán, hay xung vào các đội dân binh lo cho việc quốc pḥng khi có biến, các “chùa” không hợp với văn hóa Việt, th́ phải bị phá bỏ để trả đất lại cho “Hương Điền” và phát đất ra cho dân cày cấy thu hoạch lương thực để nuôi binh. Vua Quang Trung rất chú trọng đến việc kinh tế và thương mại, nên Ngài cho lập “Nha Hàng” với mục đích đưa dân thương buôn sang các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây để “buôn bán” với người Tàu.
Từ các tổ chức thương buôn này Nhà Tây Sơn đă âm thầm ra lệnh cho “mật binh” (một loại quân t́nh báo kinh tế ngày nay) phải yểm trợ tối đa cho các tổ chức “Thiên Địa Hội” khắp nơi trên nước Tàu (“Thiên Địa Hội” một đảng chính trị của tôn thất nhà Minh lập ra để chống lại triều đ́nh Măn Thanh. Sau khi đánh bại nhà Thanh, triều Tây Sơn có cho một số thành viên Thiên Địa Hội được sang Việt Nam lập nghiệp ở vùng miền Trung, ngày nay gọi họ là người Minh Hương), để thâu tóm tin tức, cũng như gây xáo trộn triều đ́nh Măn Thanh, cơ quan tổ chức bí mật Thiên Địa Hội này cũng mong muốn xoay đổi thời thế. Các tay vơ tướng nhà Minh đa số thuộc gịng giống người Hán nên vơ nghệ họ cao cường, họ hoạt động nhiều nhất ở vùng Vân Nam, Tứ Xuyên. Triều đ́nh Tây Sơn đă ngầm lệnh cho các “mật binh” đă trợ lực và giúp đỡ cho lực lượng Thiên Địa Hội này, nhiều lần nổi lên đánh phá các trạm binh và nhiều nhất là ở các vùng biên thùy Việt - Hoa, những tuyến lộ giao thông ở phía Đông Nam Trung Hoa.
Đêm 30 Tết năm Mậu Thân sang Kỷ Dậu (1789), trời tối mịt mù quân Tây Sơn âm thầm vượt qua bến đ̣ Gián Khuất, tướng nhà Lê là Phùng Hoàng Nghĩa đang giữ trấn Sơn Nam (Nam Định) hoảng sợ đem quân chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liên tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng hoảng vía trốn chạy đến trấn Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, th́ bị phục binh của Đô đốc Long vây bắt trọn. Mồng 1; mồng 2 Tết năm Kỷ Dậu, các trấn khác cũng rơi vào t́nh trạng tương tự. Mất liên lạc; các trấn không gởi tin về, quân Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long xem như “mắt mù, tai điếc!”.
Mồng 3 Tết năm Kỷ Dậu nửa đêm quân Thanh đang ngủ kỹ trong đồn Hà Hồi. Tiếng loa, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng gào thét bỗng nổi lên, như muôn tiếng thiên binh vạn mă từ trên trời cao ập xuống, khủng khiếp tựa như trời long đất lở. Quân nhà Thanh không c̣n hồn vía nên hạ lệnh kéo “cờ trắng” quy hàng. Quân Tây Sơn lấy đồn Hà Hồi không tốn một mũi tên.
Phàm khi quyết định một cuộc chiến thắng hay bại phần nhiều do quân t́nh báo, gián điệp có giỏi; có làm tṛn công tác được giao phó hay không!, khi gởi các tay t́nh báo đi ra ngoài (hay ra nước ngoài), đă không có tin vui tin về, mà c̣n bị đối phương vây bắt (bị lật mặt nạ ăn cắp) trọn nhóm, và khi đă bị bại lộ; th́ bằng cách này hay cách khác phải khai báo công tác của ḿnh đang thi hành. Như vậy th́ cả một kế sách phải lănh lấy sự thất bại. Tựa như Cộng sản ngày nay đă không c̣n các nhân viên t́nh báo cũng như gián điệp giỏi. V́ kế sách hoàn toàn đă bại lộ, các đạo quân gián điệp hải ngoại mặc dù đă được quan thầy (Mỹ Gian) tạo điều kiện giúp đỡ từ: dàn cảnh, cài người, rỉ tai, cho đến cung cấp các phương tiện tiền bạc cũng như nhân sự, (riêng nhân sự th́ rất nhiều v́ chúng đă nằm ở Mỹ này rất lâu) để chúng “rặn ra thơ”; “nặn (g) ra thợ”. Nhưng cuối cùng bọn này cũng chỉ là một lũ ăn hại đái nát nên chúng không những không thể “xào” hay “xạo” nên tích sự ǵ; mà c̣n bị đối phương gài bẫy lật mặt một cách nhục nhă, bao nhiêu kế sách của Hà Nội và Bắc Kinh ở hải ngoại đều bị bại lộ. Từ đó đến nay mồm chúng câm như Hến. Tác giả tập thơ Vô Đề với “công tŕnh làm việc trong suốt hai mươi năm trời”, ông đâu có thể dễ dàng bị “gài bẫy” và lộ diện một cách lộ liễu như vậy!.
Rạng sáng ngày mồng 4 Tết năm Kỷ Dậu đồn Ngọc Hồi lại thất thủ, tàn binh nhà Thanh đă chạy tản mác khắp nơi. Tôn Sĩ Nghị đă được quân cấp báo đồn Ngọc Hồi và Điền Châu đă bị hạ và quân Tây Sơn đang tiến vào các cửa ô bao vây Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nghe tin thất kinh mất cả tinh thần, nên ngựa không kịp đóng yên, Nghị cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà để chạy sang Bắc Ninh, các quân; tướng nhà Thanh ở các doanh trại cũng chạy theo Tôn Sĩ Nghị, quá đông người chạy trên cầu phao cùng một lúc. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặc cầu phao; tướng sĩ bị rớt xuống sông hết cả, xác người chết làm tắc nghẽn cả gịng nước, trong số chết này có tiến sĩ vơ khoa phó tướng Lư Hóa Long đi đoạn hậu để chận đường truy đuổi của quân Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị kinh hăi chạy đến Phượng Nhỡn, nghe báo tin từ phía Đông quân Tây Sơn đang đánh sang. Hốt hoảng Nghị cùng kẻ thủ túc (đội cận vệ) đă vứt bỏ cả Sắc thư, Cờ hiệu, Lệnh bài, Ấn tín để dễ dàng chạy thoát thân.
Vua Quang Trung đă liệu trước nên Ngài đă đặt các toán binh dàn sẳn từ vùng Thanh Tŕ sang đến Hà Đông, từ Đại Áng đến Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị quân Tây Sơn phục kích và bắt sạch. Thừa thắng tiến về Thăng Long, quân Tây Sơn hạ đồn Văn Điển và Yên Quyết, các tướng nhà Thanh như: Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng và một số chiến tướng khác đă bỏ xác ngay tại chiến địa. Cùng thời gian đó quân Tây Sơn của Đô đốc Long và Tướng Đặng Tiến Đông đă vây kín Khương Thượng. Sầm Nghi Đống đă cố gắng cầm cự trong tuyệt vọng, v́ không binh viện không đạn dược, nên Sầm Nghi Đống phải bỏ thành Khương Thượng mà chạy. Tướng Đặng Tiến Đông đem quân theo bủa vây khắp các ngă, sau cùng kéo tàn binh chạy về dưới chân núi Loa, Đống trốn ra cái G̣ thắt cổ trên cành cây Đa, nên người ta gọi nơi này là “G̣ Đống Đa” (Đống thắt cổ trên cành Đa - G̣ là một ụ đất nhỏ).
Sau này có dịp đi ngang qua “G̣ Đống Đa”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có làm 4 câu thơ mỉa mai rằng:
- Ghé mắt trông ngang “thấy biển” treo
- Ḱa đền “ông Đống” đứng cheo leo
- Ví đây “đổi phận làm” trai được
- Th́ “sự anh hùng” há bấy nhiêu.
Khuya ngày mồng 4 rạng sáng mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung cho lệnh thu quân lương tập trung vào một khu rồi cho đốt sạch, ngồi trên chiến tượng vua Quang Trung cổ quấn khăn vàng, vai khoát chiến bào màu đỏ dẫn quân xung lên phá đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng chiến tượng khi gặp chiến mă lại rống lên từng hồi. Ngựa hoảng loạn tan hàng ngũ bỏ chạy. Trời c̣n tối quân Thanh lại bắn thuốc súng như pháo nổ khói tỏa mịt mù. Quân Tây Sơn tiến lên trong lằn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước vỡ bờ. Trong đồn Ngọc Hồi quân Tây Sơn và quân nhà Thanh dùng đoản đao đánh cận chiến với nhau. Hầu đẳng Thị vệ Phó tướng H́nh Đôn Hành đă bỏ xác tại đây. Lớp này ngă th́ lớp khác xông lên. Đao kiếm, sắt thép chạm vào nhau cộng với tiếng thét, tiếng la của những chiến binh hai phía ngă gục, đă tạo thành những âm thanh man rợ, hăi hùng như từ cơi âm ty nào đó vọng về. Giữa chiến địa thân người ngă xuống nằm ngỗn ngang như rạ, tiếng rên la, tiếng khóc than, tiếng gào thét. Mùi máu tanh, mùi thây người bị cháy v́ súng Hỏa Hổ (một thứ súng rất lợi hại của quân đội Tây Sơn thời đó), mùi thuốc súng, cả thành Thăng Long như ch́m trong biển lửa.
Trong bóng tối mập mờ; các chiến binh Tây Sơn chỉ là các bóng đen nhào lộn lăn xả vào trong một rừng gươm đao, họ đâm chém tới tấp. Tiếng súng nổ, tiếng địa lôi vang động cả một không gian đen dầy. Giữa chiến địa muôn ngh́n tiếng gào thét rên la chen nhau giữa tiếng trống thúc quân, tiếng chiên xung kích, tiếng kèn lâm trận. Một cảnh tượng vô cùng kinh khiếp diễn ra ngay chiến địa. Quân Tây Sơn càng đánh càng hăng, cuộc chiến mỗi lúc lại thêm ác liệt. Quân Thanh chịu không nổi trước sức tấn công quyết tử của các đội tinh binh Tây Sơn, cuối cùng quân Thanh phải bỏ chiến địa mà chạy. Do mất phương hướng (đốt khói quá nhiều) nên quân Thanh dẫm nhầm vào các địa lội do chúng chôn từ trước, mỗi tiếng nổ là tướng sĩ nhà Thanh thân thể tan như xác pháo. Cuộc quyết chiến ác liệt kéo dài từ nửa đêm đến gần sáng th́ chấm dứt, để lại chiến trường ngỗn ngang xác chết của quân Thanh không c̣n nguyên vẹn, máu người chảy đóng thành vũng. Thật là một cảnh tượng kinh khiếp như chưa bao giờ có trên thế gian này.
Khoảng 4 giờ chiều ngày mồng 5 Tết năm Kỷ Dậu vua Quang Trung cùng đại binh Tây Sơn và 80 chiến tượng tiến vào Thăng Long, chiến bào đỏ của Bắc B́nh Vương đă đổi sang màu đen v́ hơi khói và thuốc súng. Vua Quang Trung làm lễ khao binh sau khi chiến thắng nhà Thanh và giải quyết xong vấn đề Bắc Hà, mọi việc định đoạt Ngài giao lại cho Văn thần Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, và Vơ tướng Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích rồi lên đường về Trung. Núi Nùng sông Nhị đồng loạt nổi lên tiếng hoan ca như đưa tiễn người anh hùng dân tộc trở lại Tây Sơn.
Các điều viết ra ở trên đă cho chúng ta thấy lịch sử mấy trăm năm trước đang tái diễn, bọn Trung Cộng và bọn Việt Gian Cộng sản ngày nay đang rập khuôn sự cai trị hà khắc của bọn nhà Minh, nhà Thanh đối với nhân dân Việt Nam. Sự bất tài của bọn Việt Gian Cộng sản cũng như sự kiệt quệ thất nhân tâm của bọn cầm quyền Trung Cộng ngày nay cho chúng ta thấy rơ rằng: Cộng sản (nói chung) không thể tồn tại măi trên sân khấu chính trị của đất nước Việt Nam hay Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Mọi nền móng, cơ cấu của cái nôi Cộng sản đă mục nát (cứ nh́n nước Nga ngày nay là h́nh ảnh rơ nhất) và tan ră từ năm 1989 (đúng 200 năm sau ngày vua Quang Trung đại thắng quân Thanh 1789 - 1989). Nay thời đă thay; thế đă đổi th́ làm thế nào tập đoàn Cộng sản Việt và Cộng sản Tàu lại tránh khỏi bị sụp đổ?!.
Người dân của hai chế độ Cộng sản (Việt - Hoa), họ bị hà khắc, bóc lột đến tận xương, cho nên họ phải tự vơ trang và tự đứng dậy để hỏi tội tập đoàn Việt Gian và Tàu Gian Cộng sản. Chế độ của Cộng sản Việt Nam nói riêng cho dù muốn hay không, th́ cũng đến lúc chúng phải bị toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước tiêu diệt chúng bằng vơ lực. Nếu chúng cứ măi bám víu vào quyền lực để bóc lột người dân Việt, th́ cái chết có lẽ c̣n thê thảm hơn. Con thuyền quốc gia Việt Nam không thể măi trao cho các tay lái ngu dốt, ù ĺ, bất tài và bất xứng, sinh mạng của hơn 90 triệu người dân Việt Nam trong và ngoài nước càng không phải là một tṛ đùa để cho bọn Việt Gian Cộng sản đem ra làm tṛ tiêu khiển hay dùng đó như một lợi khí để trao đổi, buôn bán với các thế lực ngoại bang. Vân Anh thiết nghĩ các nhà lănh đạo của các quốc gia “văn minh” phương Tây cũng nên hiểu rơ như vậy, để con “đường đi” (policies) của quốc gia họ ngay bây giờ và trong tương lai không bị “nhầm lẫn” một cách đáng tiếc!.
Trong tương lai nếu t́nh h́nh chính trị cho phép, Vân Anh sẽ có những loạt bài tố cáo tội ác của bọn Tàu Gian từ vợ chồng Nhiếp Quế Sương, tài phiệt Khổng Tường Hy, Tôn Văn và cho đến bọn Tàu Gian Cộng sản hôm nay, họ đă bán đứng đất nước Việt Nam và dân Việt như thế nào. Ngày nay giữa năm 2012 cũng c̣n hàng vạn “trí thức” người Việt trong nước và hải ngoại vẫn chưa biết rơ bộ mặt gian ác của những tên Tàu Gian nói trên như thế nào. Nhất là bọn Việt Gian trong nước vẫn ôm chân “mẹ” Trung Cộng để ḥng chia chác xương, máu người dân Việt thêm nửa. Thiết nghĩ người Trung Hoa từ miền Nam sông Dương Tử chạy về phía Nam, họ cũng là anh em cùng gịng giống Bách Việt như chúng ta, nên chúng ta phải có bổn phận nói lên sự thật của lịch sử để bảo vệ giống ṇi Bách Việt nói chung.
Một điểm quan trọng nửa mà Vân Anh muốn chia sẽ với quư đọc giả là: Hơn 500 năm trước ở đâu đó trên nước Việt, môn phái Bạch Vân (hiện đang c̣n truyền nhân) đă có nói đến sự trở về nguồn của lớp Hậu Duệ nhà Lư, nhà Mạc, sự trở về của các dân tộc phía Nam sông Dương Tử và các bộ tộc Bách Việt trong vùng Động Đ́nh Hồ. Ngày nay sự thật này đă bắt đầu hé lộ cho chúng ta thấy. Bằng chứng hiển hiện nhất là con cháu nhà Lư từ Đại Hàn đă về nước. Khoa khảo cổ thế giới vào tháng Sáu (June, 2012) vừa qua cũng đưa ra kết luận: “khoảng 40,000 (40 ngh́n) năm trước, giống dân Việt Nam (ngày nay) đă xuất từ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (vùng Hà Nội bây giờ) đi ngược lên phía Bắc, và 20,000 (20 ngh́n) năm sau đó đă trở thành người Trung Hoa và các sắc tộc vùng Trung Nguyên ngày nay như chúng ta thấy. Điều này Vân Anh không dám lạm bàn trong một bài viết ngắn này, mà chỉ viết ra những ǵ đă được khoa khảo cổ học của thế giới vừa mới thông tin như vậy...
http://nhabaovietthuong.blogspot.com...ung-co-ai.html
Tham khảo
Việt Sử Siêu Linh
http://www.nguyenthaihocfoundation.o...t/ttnbk_p1.htm
Download : Viet Su Sieu Linh.pdf
http://www.mediafire.com/?2oy8saw5cgolplb
Bookmarks