Results 1 to 2 of 2

Thread: Nguyên Ngọc - Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương tŕnh vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-03-2011
    Posts
    44

    Nguyên Ngọc - Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương tŕnh vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh

    Nguyên Ngọc
    Theo Diễn Đàn


    Đầu thế kỷ XX, sau thất bại của các cuộc khởi nghĩa Cần vương, đă xuất hiện Phong trào Duy Tân, thoạt tiên được khởi xướng bởi một nhóm trí thức ưu tú, thường được gọi là “bộ ba Quảng Nam” gồm Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp và Huỳnh Thúc Kháng. Phong trào nhóm lên ở Quảng Nam, nhanh chóng loan ra khắp Trung Kỳ, ảnh hưởng sâu rộng đến cả nước, đưa tới cuộc Trung Kỳ dân biến năm 1908, cuộc bạo loạn chống Pháp lớn nhất trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc nổi dậy bị đàn áp nặng nề, Trần Quư Cáp bị chém ở Khánh Ḥa, Phan Châu Trinh bị đày ra Côn Đảo, về sau thoát tù đă sang Pháp để tiếp tục hoạt động, đến năm 1925 trở về nước, và mất ngày 24/3/1926, đến nay vừa đúng 85 năm. Huỳnh Thúc Kháng cũng bị đày Côn Đảo, sau khi ra tù đă chuyển sang hoạt động hợp pháp, chủ trương báo Tiếng Dân, tờ báo đậm khuynh hướng yêu nước chống Pháp sống được lâu nhất dưới thời Pháp thuộc; và trong số ba người, ông cũng là người c̣n sống được lâu nhất, để trở thành Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1945.

    Có một điều cần chú ư: cuộc nổi dậy rung trời chuyển đất năm 1908 không hề nằm trong ư đồ hay kế hoạch của những người chủ chốt khởi xướng phong trào Duy Tân, họ không hề lănh đạo nó, nó nằm ngoài ư định của họ, thậm chí ngược với nguyện vọng và chương tŕnh của họ. Có lẽ đó là một điều chúng ta sẽ cố gắng t́m hiểu, thử giải thích đôi phần hôm nay.



    Phan Châu Trinh (1872-1926)Nói về người đồng chí thân thiết nhất của ḿnh, cũng là người đứng đầu nhóm “bộ ba Quảng Nam”, Huỳnh Thúc Kháng có một đánh giá rất đáng chú ư, ông gọi Phan Châu Trinh là “nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”. Như thường thấy ở các nhà Nho uyên thâm chuyển sang Tây học và sử dụng chữ quốc ngữ, Huỳnh Thúc Kháng vốn là người rất nghiêm túc, cẩn trọng, súc tích trong từng câu chữ phát ngôn. Chắc chắn đánh giá trên đây của ông dựa trên những suy ngẫm sâu xa, những hiểu biết rất kỹ về người đồng chí tâm huyết nhất của ḿnh, và những so sánh không hời hợt. Ông hiểu nhà cách mạng không chỉ là người mưu đồ một cuộc nổi dậy, chủ trương một cuộc khởi nghĩa, lật đổ một chính quyền… Nhà cách mạng là người muốn thay đổi một xă hội, biến đổi số phận một dân tộc, chuyển cuộc sống của đất nước và con người sang một cấp độ khác, một đường hướng và một thời đại khác. Chính v́ nhận thức như vậy nên ông đă không dành danh hiệu ấy cho ai khác trong những người chiến sĩ và anh hùng cùng thời với ông, ngoài Phan Châu Trinh.

    Để cố gắng t́m hiểu đánh giá thoạt nghe có thể đáng ngạc nhiên này, có lẽ cần trở lại dù chỉ rất vắn tắt hành tŕnh tư tưởng và hoạt động của Phan Châu Trinh.

    "Đọc sách mới"...

    Phan Châu Trinh sinh năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, nay là huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Cha ông hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Trần Dư và Nguyễn Duy Hiệu cầm đầu. Năm 29 tuổi đỗ Phó bảng, cùng khoa với cụ Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; sau đó làm thừa biện, một chức quan nhỏ ở bộ Lễ của triều đ́nh Huế. Những ai đă đọc qua dù chỉ đôi chút về Phan Châu Trinh đều biết ông rất khinh bỉ, căm ghét, đả kích kịch liệt vua quan triều đ́nh Huế. Vậy tại sao ông lại ra Huế và làm quan? Huế bấy giờ là kinh đô, nơi diễn ra đời sống chính trị và văn hóa quan trọng nhất, nơi hội tụ và liên lạc rộng răi với những nhân vật ưu tú trên cả nước… Và điều c̣n quan trọng hơn: là đầu mối (cùng với Hội An một phần) qua đường biển tiếp nhận tài liệu đến từ Trung Hoa cũng đang sôi sục trăn trở t́m đường. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dương trong Tuyển tập Phan Châu Trinh, ở phần Niên biểu, về những năm này chỉ ghi rất gọn mà đầy ư nghĩa: “1903: Làm quan ở Huế. Đọc sách mới. Kết giao với Phan Bội Châu… Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quư Cáp cũng ra Huế đọc sách mới.” Năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan. C̣n Trần Quư Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đỗ cao song không hề chịu làm quan, nhưng cũng ra Huế, để “đọc sách mới”. Cùng có mặt ở Huế và cùng say sưa “đọc sách mới” bấy giờ c̣n có nhiều trí thức nổi tiếng: Phan Bội Châu, Đào Nguyên Phổ, Vũ Phương Trứ… Nhiều người khác như Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Nguyễn Hiệt Chi, Lương Văn Can… ở Bắc, Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất, Nguyễn Trọng Lợi… ở trong Nam, tuy không về Huế nhưng đều liên lạc với trung tâm Huế, và cũng chủ yếu để “đọc sách mới”.

    “Sách mới” là chữ của Nguyễn Văn Dương dịch cái mà hồi ấy người ta quen gọi là “Tân Thư”. Hẳn rồi đến một lúc cần trở lại nghiên cứu những “tân thư”, hiện tượng “đọc tân thư” sôi nổi một thời ấy, hiểu cho rơ tác động của chúng đối với một giai đoạn có thể có tính quyết định của lịch sử cận đại nước ta. Tân Thư là các sách được chuyển sang từ Trung Quốc, gồm các tác phẩm của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, và các sách của Nhật, của Pháp được dịch ra chữ Hán, trong đó các tác phẩm kinh điển của Montesquieu (mà người ta dịch là Mạnh Đức Tư Cưu) và Jean Jacques Rousseau (được dịch là Lư Thoa). Sau khi đọc Tân thư, Trần Quư Cáp thổn thức: “… nửa đêm tỉnh giấc, nước mắt đầm đ́a”. Tân Thư đă gây chấn động dữ dội trong tất cả tầng lớp tinh hoa yêu nước đang đau đáu t́m đường trong thế cùng cực bế tắc sau thất bại Cần Vương anh hùng mà tuyệt vọng. T́m đường, đi con đường nào đây để có thể cứu nước, đưa dân tộc thoát ra khỏi ṿng nô lệ? Tân Thư thổi một luồng gió mới vào những đầu óc đang cháy bỏng bấy giờ. Tác động của nó cực kỳ to lớn. Tuy nhiên, đều là những nhà ái quốc tâm huyết, mỗi người đă chịu tác động đó một cách khác nhau, đi đến những suy ngẫm và những kết luận khác nhau, theo cách nói ngày nay, những phương án chiến lược khác nhau. Chính ở đây ta nhận ra chân dung tư tưởng và văn hóa, chính trị đặc sắc, có thể nói đặc sắc đến “độc nhất”, của Phan Châu Trinh. Trong một nghiên cứu gần đây (tháng 9-2010) tác giả Lê Thị Hiền Minh ở Đại học Québec, Canada viết: “Khác với Phan Bội Châu chỉ thấy ở đấy một cuộc chiến đấu vũ trang đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam cũng giống hệt như tổ tiên ông đối với quân xâm lược Trung Hoa, Phan Châu Trinh đă nhận ngay ra một vấn đề phức tạp hơn là một cuộc ngoại xâm về mặt lănh thổ: vấn đề trang bị cho “những người yếu hơn” các phương tiện để bước vào một cuộc tiến hóa ở cấp độ toàn cầu, đưa dân tộc Việt Nam lên con đường hiện đại hóa.”1. Như vậy, nếu đối với hầu hết những chí sĩ yêu nước đương thời, chấn động của Tân thư chỉ là thêm một kích thích mạnh mẽ ư chí dân tộc, tinh thần chống ngoại xâm, mà không dẫn đến một đường hướng ǵ mới về căn bản, do chưa có thay đổi ǵ về tầm nh́n; th́ ở Phan Châu Trinh (và hai người đồng chí thân thiết nhất của ông trong bộ ba Quảng Nam) nó mở ra một chân trời hoàn toàn khác; như cách nói ngày nay, nó mở ra cho ông chân trời “toàn cầu hóa”. Ông là người đầu tiên nhận ra phương Tây, không chỉ là một phương Tây kỹ thuật tiên tiến như Phạm Phú Thứ, thậm chí như Nguyễn Trường Tộ đă thấy và lo lắng …, mà là một phương Tây văn hóa, văn minh, khác hẳn và cao hơn cái thế giới hạn hẹp phương Đông ta từng biết xưa nay và vẫn loay hoay t́m đường trong đó.

    Pháp (và phương Tây nói chung bấy giờ) là thế lực (puissance) hoàn toàn khác với Trung Hoa, mối uy hiếp mà Việt Nam đă thành công trong việc giữ một khoảng cách nhất định suốt gần một ngh́n năm. Giữ được như vậy là v́ dù tương quan lực lượng đă nhiều lần hết sức chênh lệch, nhưng hai bên đều thuộc cùng một thời đại lịch sử, một nền văn minh tương đồng. Thắng lợi của Việt Nam chống đồng hóa Trung Hoa suốt ngh́n năm, như chúng ta đă nói nhiều lần, là thắng lợi văn hóa. Thắng lợi văn hóa trong khung khổ đóng kín của phương Đông, hay cũng có thể nói khung khổ thế giới Hán hóa (sinisé).



    ... và bài học về văn hoá

    Giáp mặt với Pháp, với phương Tây, “sự thống nhất văn hóa và chính trị cho đến nay được bảo vệ bằng việc giữ ǵn các giá trị Khổng giáo bị lay chuyển bởi các giá trị của thiên chúa giáo và, ít nhận ra được rơ hơn, bởi việc du nhập một hệ chữ viết dựa trên nguyên tắc Hy-La, chữ Quốc ngữ, được coi là ngôn ngữ chính thức song song với chữ Pháp từ năm 1878…”2 Nhà sử học David Marr viết: “Việt Nam đi vào một biện chứng văn hóa và bản sắc quyết định; việc mất lănh thổ lại cộng thêm mối uy hiếp mất tiếp ngay các quy chiếu tâm lư-xă hội văn hóa… Thế hệ các nhà nho trưởng thành vào những năm 1900 bị ám ảnh bởi h́nh ảnh 'mất nước', không chỉ theo nghĩa chính trị, mà c̣n nghiêm trọng hơn là mất 'một sự sống c̣n về sau với tư cách là người Việt Nam' ”… Có lẽ lâu nay, khi nói về t́nh thế của đất nước vào đầu thế kỷ XX chúng ta đă tập trung chú ư vào sự mất mát đau đớn lănh thổ, mà chưa làm rơ được hết những khía cạnh sâu xa và tinh tế này của xă hội khi đối mặt với phương Tây, với cuộc “toàn cầu hóa” lần thứ nhất, có thể gọi như vậy, mà Phan Châu Trinh, với một cái nh́n sáng suốt đă là người duy nhất nhận ra một cách hết sức tỉnh táo và sáng rơ. Ông nhận ra không chỉ tai họa đau đớn mất lănh thổ quốc gia (như trong lịch sử ta đă nhiều lần mất vào tay Trung Hoa), mà lâu dài hơn, sâu sắc hơn, căn bản hơn, khó khăn hơn, nguy hiểm mất c̣n hơn, ông nhận ra một cuộc khủng hoảng văn hóa nghiêm trọng, thậm chí chưa từng có; điều mà David Marr chỉ ra là ở “các quy chiếu tâm lư-xă hội văn hóa”. Về sau Hoàng Xuân Hăn nói rằng chỗ độc đáo và đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh so với tất cả những người ưu tú nhất đương thời, là ông đă đi t́m và t́m thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc sa vào ṿng nô lệ bi thảm, ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của Việt Nam, lạc hậu cả một thời đại, so với thế giới văn minh rộng lớn, toàn cầu, và Việt Nam từ nay không thể sống c̣n ngoài cái thế giới ấy, cái toàn cầu ấy, mà các tân thư đă mở mắt cho ông nh́n thấy. Vậy nên, tôi nghĩ có thể nói mà không hề sợ quá đáng, Phan Châu Trinh là nhà văn hóa tiên phong và lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX – và có thể cả thế kỷ sau đó nữa như ta sẽ suy nghĩ thêm. Và bài học lớn nhất của Phan Châu Trinh để lại cho chúng ta là bài học về văn hóa.

    Từ nhận thức cơ bản đó, ông đặt lên hàng đầu nhiệm vụ và chương tŕnh đưa dân tộc vào “một cuộc tiến hóa ở cấp độ toàn cầu, đưa dân tộc Việt Nam lên con đường hiện đại hóa”. Và như vậy, vấn đề lănh thổ, khôi phục lănh thổ quốc gia, tức vấn đề độc lập, được coi như là một bộ phận cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của chương tŕnh dài hạn rộng lớn, cơ bản hơn nhiều, mà ông biết và chủ trương phải tiến hành từng bước.

    Ta từng biết Phan Châu Trinh có chủ trương tự trị; và đi đến tự trị bằng con đường ḥa b́nh, không bao động. Hẳn cần nói rơ, dù chỉ là phần nào, về tư tưởng này của ông, h́nh như lâu nay thường khá bị hiểu lầm. Trong chủ trương này có phần mà ông gọi là “Ỷ Pháp cầu tiến bộ”, học lấy ngay cái hay chắt lọc được của đối thủ để đem lại sự tiến bộ cho dân ta. Thực ra trong suốt lịch sử lâu dài bài học này vốn không lạ với người Việt. Tổ tiên ta đă học biết bao nhiêu của Trung Hoa để góp cho sự trưởng thành toàn diện và cả cho sức mạnh chống ngoại xâm của dân tộc. Huống nữa học lấy văn minh phương Tây mà ta biết ta đă chậm trễ mất cả một thời đại là vô cùng cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, tư tưởng về tự trị của Phan Châu Trinh không chỉ bó hẹp trong ư nghĩa đó. Trong luận văn đă nhắc đến trên đây của Lê Thị Hiền Minh, tự trị được dịch là autonomie. Và theo từ điển autonomie được giải thích: “Quyền tự trị. Quyền tự do, độc lập về đạo đức hoặc về trí tuệ”. Đây là khía cạnh và nội dung quan trọng trong chủ trương lớn của Phan Châu Trinh. Lê Thị Hiền Minh viết: “Dự án hiện đại hóa Việt Nam của ông (Phan Châu Trinh), trong thực tế, là một dự án tự trị hóa (autonomisation) trong đó sự tự trị cá nhân và tập thể của những người Việt Nam sẽ thúc đẩy đất nước lên những đường ray của hiện đại hóa và văn minh”. Vậy rơ ràng ở đây có thể thay từ tự trị (thường chỉ được hiểu theo nghĩa một thiết chế chính trị) bằng từ tự chủ. Và từ đó, khẩu hiểu nổi tiếng của Phan Châu Trinh “Khai dân trí” cũng rơ ràng bộc lộ một ư nghĩa sâu xa mà có lẽ lâu nay chúng ta cũng chưa thấu hiểu hết tinh thần. Khai dân trí chính là xây dựng nên con người tự chủ, cá nhân tự chủ, để đi đến tập thể tự chủ. Nhà nghiên cứu Verbunt viết: “Chính trong sự tự trị được hiểu là một sự tự tổ chức quản trị trong liên quan phụ thuộc lẫn nhau… Phan Châu Trinh t́m thấy một sức mạnh giải phóng chứ không phải một nền độc lập như Phan Bội Châu. Theo nghĩa đó, tự trị là “giá trị cho phép cùng tồn tại với những người khác mà ta không c̣n có thể áp đặt nền văn hóa của ḿnh. Quyền của các thiểu số được xác định trong chính chuyển động cơ bản này”. Tác giả này c̣n nói rơ hơn: “Bởi mọi tập thể đều gồm những cá nhân, nên sự tự trị như một tiến tŕnh không thể được trao cho một tập thể người mà không đi qua từng người. Tiến tŕnh mà chúng ta gọi là “tự trị hóa” đó trước hết phải là một tiến tŕnh riêng biệt (tức của từng cá nhân, từng cá nhân tiến đến tự chủ) trước khi đạt đến một kích thước tập thể, và việc đó, thông qua giáo dục, theo Phan Châu Trinh mà khái niệm tu thân trong tự phát triển của mỗi người không hề xa lạ… Dự án tự trị hóa của Phan Châu Trinh đồng thời là một dự án giáo dục hiện đại đưa mọi người Việt Nam qua con đường của trường học tự do ở Bắc Kỳ (tức mô h́nh Đông Kinh Nghĩa Thục) và một dự án xă hội-kinh tế nhằm thiết lập một hệ thống hỗ trợ tập thể cho sự phát triển của các tổ chức kinh tế…”

    “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh”…

    Ở đây cần đặc biệt chú ư tư tưởng của Phan Châu Trinh về giáo dục nhấn mạnh đến việc xây dựng cá nhân tự chủ, mà ông coi là cơ sở của tự chủ tập thể, tự chủ dân tộc. Nhiều tác giả nghiên cứu các văn bản của Phan Châu Trinh, đặc biệt các thư ông viết cho Toàn quyền Beau, cho vua Hàm Nghi, cho vua Khải Định nêu bật cách xưng hô của Phan Châu Trinh được cho là hoàn toàn có ư thức: ông luôn xưng “tôi”. Chúng ta biết về mặt từ nguyên “tôi” vốn xuất phát từ quan hệ “vua-tôi”, với ư nghĩa là “tôi tớ, thần dân của vua”. Phan Châu Trinh xưng tôi với ư nghĩa khác, ư nghĩa được Alexandre de Rhodes chỉ ra khi ông coi từ này là tương đương với ego trong tiếng La-tinh. “Tôi” của Phan Châu Trinh chính là cái “le moi” phương Tây. Một cái tôi độc lập, có ư thức về nhân cách độc lập và ngang bằng của ḿnh với người đối thoại. Phan Châu Trinh luôn xưng “tôi” trong tất cả các văn bản viết cho nhân dân, cho người cấp trên, cho các quan chức Pháp và Việt. Trong thư gửi Toàn quyền Beau năm 1907, ông mở đầu: “Tôi, Phan Châu Trinh, thự trước tác hậu bổ, tỏ bày cái t́nh trạng nguy cấp ở nước Việt Nam…”. Năm 1922, trong thư Thất điều gửi Khải Định, ông viết: “Tôi, Trinh, sinh găp lúc: trong th́ nước nhà nghiêng ngập, ngoài th́ các nước đua tranh lên đường tiến bộ…” Lê Thị Hiền Minh nhận xét: “Phan Châu Trinh nói với toàn quyền Beau với tư cách là viên chức nói với viên chức, nhà chuyên môn nói với nhà chuyên môn, con người nói với con người”. Một nhà nghiên cưu khác, Trương, B.L. th́ viết: “Là con người tư duy tự do, có thể nh́n chính lịch sử của dân tộc ḿnh với một khoảng cách, chính là với tư cách “con người đích thực” (“personne authentique”) mà Phan Châu Trinh đă viết cho toàn quyền Beau: “Tôi, Phan Châu Trinh, quan chức cũ…”. Guidon cho rằng “bản sắc cá nhân đó (ở Phan Châu Trinh) đ̣i hỏi một hệ đạo đức thẩm nhập suốt đời, hệ đạo đức của một công dân tự do đảm nhận các quyền và các bổn phận của ḿnh”.

    H́nh như lâu nay khi nghiên cứu về hệ thống các trường Duy Tân mà bộ ba Quảng Nam đă lập được ở tỉnh nhà trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến 1908, cũng như về trường Đông Kinh Nghĩa Thục, chúng ta chưa chú ư t́m hiểu kỹ nội dung và tính chất rất quan trọng này trong quan điểm giáo dục ở các cơ sở nói trên. Chúng ta đă nói nhiều về tinh thần yêu nước, ư chí chống ngoại xâm được kích thích, cổ vũ mạnh mẽ, tinh thần thực hoc ở đây, mà chưa làm rơ được triết lư về xây dựng con người hiện đại tự trị, tự chủ, con người tự do trước hết tự trong chính ḿnh c̣n sâu xa hơn nhiều của các trường này.

    Ḍ lại hành tŕnh tư tưởng của ông, đọc lại kỹ các trước tác của ông, ta nhận ra rơ ở chính Phan Châu Trinh h́nh ảnh tiêu biểu của một con người như vậy. Và một con người đạt được đến tự do như vậy th́ có khả năng đặt biệt là giữ được khoảng cách với mọi điều đă được coi là “chân lư”, là “lịch sử”, kể cả với lịch sử của chính dân tộc ḿnh.

    Chính với khoảng cách độc lập đặc sắc đó, đầy trách nhiệm và cực kỳ dũng cảm, Phan Châu Trinh đă ráo riết chỉ ra hai nhược điểm chí tử của dân tộc, đặc biệt trong hoàn cảnh của “toàn cầu hóa”, mà thẳng thắn một cách phi thường ông cho là tập trung rơ nhất, cực điểm nhất ở một con người đương thời lừng danh mà ông rất thân thiết, yêu mến, kính trọng và bảo vệ: Phan Bội Châu. Hai nhược điểm chí tử: một mặt chủ nghĩa yêu nước hẹp ḥi, sô vanh, mặt khác, nghịch lư thay, ư thức vọng ngoại mù quáng. Ông nói về Phan Bội Châu, mà cũng là nói về dân tộc ḿnh, chẳng hề một chút khoan nhượng, nương nhẹ: “Phan Bội Châu là người chưng ra rơ nhất những tập quán dân tộc h́nh thành trong lịch sử của dân tộc Việt Nam suốt thiên niên kỷ qua. Nếu có ai đó không biết bản chất thật của người Việt Nam, th́ hăy cứ nh́n ông ấy. Dân tộc ta có t́nh yêu nước hẹp ḥi và ở ông ấy, tư tưởng sô vanh lên đến cực điểm. Dân tộc ta có tính vọng ngoại và ở ông ấy, sự phụ thuộc vào sức mạnh bên ngoài lên đến tối đa. Dân tộc ta thiếu tinh thần độc lập và ở ông ấy cái thiếu đó càng rơ rệt hơn cả …”.

    Phan Châu Trinh coi ư nghĩa của cuộc đời ông là nỗ lực cứu nhân dân thoát ra khỏi những điểm yếu chí tử ấy, tự xây dựng cho ḿnh, từ từng cá nhân, đến toàn dân tộc ư thức tự chủ - mà ông gọi là tự trị. Tư tưởng đó tập trung trong khẩu hiệu nổi tiếng của ông: “Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh”…

    Trong một thời gian ngắn hôm nay hẳn không thể nói kỹ và sâu hết về tư tưởng của Phan Châu Trinh mà dẫu chỉ điểm qua ta đă có thể nhận ra tính hệ thống, liên hoàn chặt chẽ, sâu sắc, và tính hiện đại đáng kinh ngạc của nó. Chương tŕnh của ông là chương tŕnh thay đổi một dân tộc, sửa chữa và làm lại nó, tự trong chiều sâu nhất của nó, chiều văn hóa, để nó có thể tồn tại và phát triển trong một thế giới tất yếu toàn cầu hóa.

    Kẻ “lạc lối trời Âu”...
    Cũng như tất cả những nhà tiên phong, những nhà khai sáng chân chính, nghĩa là những người đi trước, Phan Châu Trinh đă cô đơn trong cuộc đời của ông, và theo một ư nghĩa nào đó, cả về sau nữa. Ông không được sự đồng t́nh của phần lớn giới sĩ phu cùng thời, trong đó có vị sĩ phu ông kính trọng nhất: Phan Bội Châu. Quan hệ giữa Phan Châu Trinh-Phan Bội Châu là điển h́nh của một t́nh bạn kỳ lạ mà tiếc thay h́nh như ngày nay chúng ta không c̣n được thấy, đối nghịch kịch liệt về tư tưởng và quan điểm, đường lối, nhưng thân thiết và kính trọng nhau chẳng ai bằng. Khi Phan Châu Trinh mất năm 1926, Phan Bội Châu đă viết đôi câu đối thống thiết và đầy ư nghĩa:

    “Thương hải vi điền, tinh vệ hàm thạch
    Chung Kỳ kư một, Bá Nha đoạn huyền”

    “Biển thẳm lấp chưa bằng, tinh vệ c̣n đội đá
    Chung Kỳ thôi đă mất, Bá Nha dứt dây đàn”

    Chung Kỳ Phan Châu Trinh đă mất, Bá Nha Phan Bội Châu đau đớn dứt dây đàn bởi biết c̣n cùng ai chia sẻ?

    Phan Châu Trinh cũng cô đơn trước nhân dân đương thời của ông mà ông đă cống hiến cả cuộc đời để quyết cứu, cho một tương lai xán lạn bền vững mà ông đă sáng suốt nhận ra con đường để đi tới. Ông hiểu điều đó một cách sâu sắc. Ông nói: “Không phải tôi không biết sự ngờ vực của các quan chức người Pháp đối với tôi. Không phải tôi không biết sự căm ghét của các quan chức người Việt đối với tôi. Không phải tôi không biết mối hiềm khích của Phan Bội Châu đối với tôi. Không phải tôi không cảm thấy sự gièm pha của nhân dân Việt Nam đối với tôi. Nhưng tôi không t́m cách tránh sự ngờ vực ấy”. Ông tin sắt đá ở tư tưởng của ông, đường lối cứu dân tộc của ông. Là con người tự trị, tự chủ cao độ, là nhà tư tưởng tự do, có khả năng tạo một khoảng cách ngay với lịch sử dân tộc ḿnh, với một hệ đạo đức ông đă tự xây dựng được cho ḿnh, với tư cách là công dân tự do đảm nhận các quyền và các bổn phận của ḿnh, cô đơn, ông dơng dạc tuyên bố: “Việc này, tôi, Trinh, đă nhận ra, quyết đảm nhận lấy, không nhường cho ai nữa hết!”

    Gần suốt một trăm năm ông cũng cô đơn với hậu thế. Chúng ta đă quá biết những người coi ông là kẻ “lạc lối trời Âu” …

    Tiếp tục chương tŕnh lớn của Phan Châu Trinh

    Lịch sử đă đi những con đường khác. Chúng ta đều biết song song với phong trào Duy Tân ḥa b́nh của Phan Châu Trinh, là chủ trương “thiết huyết” của Phan Bội Châu, mà Phan Châu Trinh thẳng thắn chỉ ra rằng ông ấy đă lợi dụng sự ngu dốt của nhân dân (mà Phan Châu Trinh quyết ra công thức tỉnh) để kích động “nhằm thỏa măn chính khuynh hướng hủy hoại của ḿnh”. Cuộc khai dân trí của phong trào Duy Tân, hoàn toàn ngoài ư muốn và chủ trương của những người khởi xướng, chịu ảnh hưởng tự nhiên và cũng tất yếu của phái thiết huyết, sự bất b́nh tự nhiên và quyết liệt của nhân dân tự phát, đă dẫn đến cuộc Trung Kỳ dân biến 1908 anh hùng của nhân dân nhưng tai hại cho một con đường đi đang được sáng suốt tính toán và thực hiện. Nó đă được kẻ thù lập tức lợi dụng để tiến hành một cuộc tắm máu. Chương tŕnh anh minh và vĩ đại của ông bị phá vỡ và dở dang.

    Chúng ta đều biết trong lịch sử không có “nếu”. Nhưng suy nghiệm từ lịch sử cho hôm nay th́ bao giờ cũng cần. Những ǵ đă diễn ra th́ đă diễn ra. Song phải chăng có thể một trong những nguyên nhân của những vấn nạn mà chúng ta, xă hội chúng ta, đang gặp ngày nay và vẫn c̣n rất loay hoay chưa thật t́m được đường ra, chính là ở sự dở dang vừa nói trên đó. Cuộc khai hóa cơ bản, do nhà khai hóa vĩ đại Phan Châu Trinh chủ trương và tiến hành một trăm năm trước th́ nay vẫn dở dang, vẫn c̣n nguyên đó.

    Rơ ràng tư tưởng của ông, chương tŕnh của ông, trong cốt lơi của nó, hôm nay vẫn c̣n nguyên tính cập nhật, thậm chí c̣n nóng hổi hơn, cấp bách hơn.

    Tiếp tục chương tŕnh lớn của ông là trách nhiệm lịch sử của chúng ta, mỗi chúng ta, hôm nay, và cả ngày mai.

    Nguyên Ngọc

    3-2011

    Nguồn: Bài nói ở hội thảo về PCT ngày 23/3 do trường đại học Hoa Sen và Quỹ Văn hoá Phan Châu Trinh đồng tổ chức, trong khuôn khổ Ngày giỗ lần thứ 85 của cụ Phan, do tác giả gửi cho Diễn Đàn. Các tiểu đề là của chúng tôi. H́nh từ Internet.

    [1] Lê Thị Hiền Minh – Phan Châu Trinh et le projet d’autonomisation à l’aube du XXe siècle.

    [2] nt.

  2. #2
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Posts
    37
    Chí sĩ Phan bội Châu t́m đường khai phóng dân trí bằng cách đưa thanh niên Việt sang nhật học hỏi khoa học kỹ thuật , dựa vào Nhật vào chủ trương " Một đại Đông Nam Á " ( 1) . Nhưng sau khi Nhật chiếm được Măn châu và phần đất của tầu , Nhật bỏ rơi các thanh niên Việt nam . Tóm lại con đường dựa vào Nhật học hỏi khoa học canh tân đất nước để chống Pháp bị thất bại , Nhưng tinh thần cụ Phan đă lan tỏa trong giới thanh niên " Hướng ngoại để cứu nước " không c̣n tin tưởng vào triều đ́nh nhà Nguyễn .

    Cùng thời với cụ Phan bội Châu , là tiền bối Phan chu Trinh , sang Pháp học hỏi sự tiến bộ . Chán nản v́ thấy vua Khải định ăn chơi chết bên Pháp , Pháp dựng con nuôi ngoại tộc là Bảo đại lên làm vua cũng chỉ là thêm một thứ tay sai , Nên cụ Phan chu Trinh khuyến khích phong trào theo Pháp học khoa học kỹ thuật sâu để canh tân đất nước , khuyến khích cắt tóc ngắn ...V..V...

    Cả hai cụ Phan đều thành công , trong phong trào khơi trí Thanh niên Việt Nam học hỏi khoa học kỹ thuật để canh tân đất nước . Thay v́ ngồi chờ vua nhà Nguyễn làm một cái ǵ đó cho đất nước . Theo kiểu cụ Phan chu Trinh là không đánh được Pháp th́ theo luôn ...Pháp . Cả hai cụ ai cũng yêu nước ...thế thôi.

    Kết quả là thanh niên sinh viên Việt Nam yêu tổ quốc việt Nam , chứ không c̣n ngu muội tôn sùng vào tài thánh của một cá nhân nào , cho đến khi Hồ chí Minh tay sai của đảng cộng sản Nga Tầu , xử dụng bạo lực trong phong trào cải cách ruộng đất , tiêu diệt mọi ư chí xây dựng đất nước của mọi người , biến ư chí đó thành ra xây dựng ghế ngồi cho Hồ chí Minh , hay c̣n gọi là xây dựng đảng ..

    ==================== ==================== ======

    Chú thích : Nguyên nhân tại sao Nhật đưa ra thuyết " Đại đông nam Á "
    (1) :

    Trước thế kỷ 18 , Nhật đă giao thương buôn bán với khối Tây phương , mở mang kiến thức gởi người đi học kỹ thuật . Là một đất nước với nhiều hải cảng giao thương , tinh thần bài ngoại của Nhật , hay tinh thần đố kỵ người tây phương hầu như rât hiếm , có cả vài quan chức của nhật theo đạo thiên chúa mà không bị mất chức quan . Nhật dựa trên tinh thần thực tiễn , khoa học kỹ thuật , tiếp xúc với nền văn hóa tây phương , nên văn chương nhật cũng bị ảnh hưởng về các chuyện mạo hiểm , phiêu lưu , khám phá chân trời khác . Giới trẻ lúc đó cũng thích đi ra khỏi nước nhật , phiêu lưu mạo hiểm theo các đoàn thương thuyền , di dân sang các nước khác làm ăn . Họ không bị ràng buộc bởi các yếu tố làng xư lối cũ sâu đậm .

    Nhờ học hỏi khoa học kỹ thuật và cách làm ăn của các con buôn , Nhật trở nên tự tin có nhiều bạn Anh , Pháp , Tây ban Nha , Anh quốc v..v…Và theo chân các nước Tây phương đi t́m đất để cai trị . Nhật cũng kiếm được một tô giới bên Trung Hoa như Mỹ , Pháp và Anh quốc , vùng Shanghai. Rồi Nhật đi lên hướng về nước Đại hàn ,

    Nga muốn chặn nhật tiến vào Đại Hàn , Trận “ Nhật Nga chiến kỷ xảy ra “ . Lúc đó Nga là cường quốc trên biển , hạm đội của Nga to lớn hơn hạm đội của Anh quốc . Nhưng các chiến hạm Nhật đánh tơi tác hạm đội của Nga . Lần đầu tiên một xứ da vàng chiến thắng một nước da trắng , khiến thế giưới bị rung động . Nga thua trận kư ḥa ước với Nhật rút ra khỏi Đại Hàn . Nhật chiếm Đại Hàn biến thành thuộc địa . ( Đó là lư do tại sao dân Đại Hàn thù dân nhật ) .


    Trong đệ nhất thế chiến 1914 , Anh và Mỹ Ư , đồng ư để cho Nhật chiếm vài vùng tô giới của Đức , như Shang dong bên tầu và vài ḥn đảo của Đức ở thái b́nh dương . Bù lại Nhật ủng hộ ngầm Anh Mỹ chiếm các vùng đất

    Đức thua trân dệ nhất thế chiến 1914 – 1919 , Các cường quốc tụ tập về Paris hội nghị bàn về hiệp ước ḥa b́nh cho thế giới , Nga và Đức không được mời . Đại diện Trung Hoa đ̣i các cường quốc Anh , Pháp , Mỹ , Ư ,.. gây áp lực bắt Nhật trả lại vùng Shan dong cho Trung hoa . Ngoài mặt th́ Mỹ ủng hộ chuyện này của đại biểu Trung Hoa , nhưng sau lưng đồng ư với Anh và Pháp để nguyên cho Nhật nắm giữ.( 1) .

    Trong cuộc hội nghị này , Nhật đặc biệt chú trọng vào Mỹ và Canda , đại diện Nhật Bản yếu cầu các cường quốc sửa đổi luật di trú đễ dàng cho các công dân Nhật đang ở Mỹ và Canda .
    Nhưng Nhật bị cú sóc : Anh , Mỹ , Canada tuyên bố sẽ xem xét , th́ ngày hôm sau Thủ tướng Úc tuyên bố chính sách “ White Policy “ , chính sách chỉ cho người da trắng vào và có quốc tịch , các da mầu khác dù có ở bao lâu cũng không được vào quốc tịch . ( 2 ) . Phái đoàn Nhật bản tức giận bỏ về nửa chừng . Và sau đó Nhật tung ra chính sách “ Đại đông Á “, tức là chính sách người da vàng giúp đỡ thống nhất với nhau .

    Bây giờ ai cũng biết chính sách “ Đại đông Á “ thất bại , v́ khi Nhật chiếm nước nào là dân Nhật trở thành ông chủ và dân nước đó trở thành nô lệ . Khi Tầu chiếm Tây Tạng , Thiểm Tây th́ biến dân nước đó thành các nô lệ mới , đêm dân Tầu và các máy móc vào khai thác tài nguyên cho Tầu .

    Sauk hi Úc tuyên bố chính sách “ White Policy “ , Canada và Mỹ , cũng áp dụng chính sách di dân hạn chế các dân da vàng , v́ không phân biệt nổi ai là China ai là Japan ( 3).

    Chính sách phân biệt chủng tộc của các xứ Tây Phương , một lần nữa đẩy sự tức giân của nước Nhật lên cao , và họ muốn chứng tỏ rằng ai giỏi kỹ thuật là nước đó thắng , Nhật khởi động chiến tranh thứ Hai phía Đông Nam á , đánh bật các chủ nhân Da trắng ra khỏi hết thuộc địa bên Đông Nam Á .Cầm tù biết bao nhiêu lính da trắng xây cầu cho Nhật ở Thái Lan .

    //////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////////

    1 ) The Japanese claim to Shan Tung was disputed by the Chinese. In 1914 at the outset of World War I
    Japan had seized the territory granted to Germany in 1897. They also seized the German islands
    in the Pacific north of the equator. In 1917, Japan had made secret agreements with Britain, France
    and Italy as regards their annexation of these territories. With Britain, there was a mutual
    agreement, Japan also agreeing to support British annexation of the Pacific islands south
    of the equator.

    Despite a generally pro-Chinese view on behalf of the American delegation,
    Article 156 of the Treaty of Versailles transferred German concessions in Kiachow,
    China to Japan rather than returning sovereign authority to China.

    The leader of the Chinese
    delegation, Lou Tseng-Tsiang, demanded that a reservation be inserted before he would sign
    the treaty. The reservation was denied, and the treaty was signed by all the delegations
    except that of China. Chinese outrage over this provision led to demonstrations known as
    the May Fourth Movement. The Pacific islands north of the equator became a class C mandate
    administered by Japan.

    http://en.wikipedia.org/wiki/Paris_Peace_Conferen ce,_1919


    2) http://en.wikipedia.org/wiki/White_Australia_poli cy



    3 ) December 1941 how they could distinguish the "kindly placid, open" faces of the Chinese, who were allies of the United States, from the "positive, dogmatic, arrogant" expressions of "the Japs." Barred from U.S. citizenship were 47,000 Issei, but their 70,000 American-born offspring (Nisei) were citizens. Congressman Leland Ford of California insisted that any "patriotic native born Japanese, if he wants to make his contribution, will submit himself to a concentration camp." Despite their having committed no crimes, General John DeWitt, head of the Western Defense Command, declared Japanese of any citizenship enemies.

    http://www.answers.com/topic/japanese-american
    Last edited by Loncao Pty/Ltd; 24-03-2011 at 06:22 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 27-06-2012, 08:44 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 09-09-2011, 04:00 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 07-09-2011, 12:38 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 07-01-2011, 11:08 AM
  5. Replies: 4
    Last Post: 03-01-2011, 03:53 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •