Page 2 of 3 FirstFirst 123 LastLast
Results 11 to 20 of 22

Thread: Chuyện 16 tấn vàng của VNCH và nỗi oan 30 năm của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu - Việt Nam : Một dân tộc bị bức tử

  1. #11
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Điếu văn của Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trong Tang lể Cựu Tổng Thống VNCH NGUYỄN VĂN THIỆU

    Kính thưa quư vị,

    Thưa các bạn, Mùa thu của Đất Trời mới bắt đầu với lá vàng rơi rụng, th́ cũng là lúc một cây cao vừa đổ xuống, một lănh tụ của giai đoạn dài Lịch sử Việt Nam khói lửa vừa xa ĺa trần thế, t́m về miền miên viễn. Cây cao đó, lănh tụ đó là: Cựu Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa.

    Hôm nay, từ các nơi xa xôi cách đây hàng trăm hàng ngàn dậm, chúng ta đến đây, để kính cẩn nghiêng ḿnh chào từ biệt lần cuối một Chiến hữu Niên Trưởng đă từng sát cánh với nhau trên chiến trường, một Lănh đạo đă từng đồng tâm, nhất trí với nhau trong công cuộc đấu tranh bảo vệ miền Nam Việt Nam, trong suốt gần một thập niên của nền Đệ nhị Cộng Ḥa, vào hậu bán thế kỷ hai mươi. MỐI NGẬM NGÙI, THƯƠNG TIẾC NHƯ BÀY TỎ CHÂN THÀNH TÔN KÍNH...

    Nh́n lại cuộc chiến trên quê hương Việt Nam chúng ta, hơn một phần tư thế kỷ trước đây, h́nh ảnh cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đă gắn liền với vận mệnh nổi trôi của Đất Nước, và nổi đắng cay đau xót của Dân Tộc. Ông là người Lănh đạo quốc gia trong những năm tháng cực kỳ cam go, phải đương đầu với một cuộc chiến đa diện dai dẳng của Cộng sản đệ tam quốc tế đă đánh bại hai cường quốc Pháp và Hoa kỳ. Từ du kích chiến đến chiến tranh qui ước, từ khủng bố chọn lựa đến tàn sát tập thể không phân biệt dân lành của Cộng sản thù nghịch. Từ quỷ kế hèn hạ của đối phương đă hai lần bắt tay với thực dân và đế quốc để tiêu diệt hàng ngũ quốc gia yêu nước chân chính, đến bội ước và bất tín của người bạn đồng minh, và trên hết, sự giành giật quyền lợi giữa hai thế lực siêu cường Nga Mỷ thuở đó đă dày ṿ cơ thể bé nhỏ miền Nam Việt Nam, kể cả nhân dân và người Lănh đạo.

    Nếu như mới đây, 19 tên không tặc khủng bố liều mạng, chỉ với mấy con dao rọc giấy, đă sát hại hàng ngàn người tại Nữu ước và Hoa thạnh đốn, đă làm kinh hoàng cả thế giới, đă chọc thủng pḥng tuyến kiên cố nhất, hùng mạnh nhất của Trung tâm quyền lực tối cao Hoa ky,ø th́ bối cảnh quân sự và chánh trị ở Việt Nam hồi đó, gay go và phức tạp gấp ngàn lần, với hàng chục vạn chủ lực quân xâm lăng miền Bắc được toàn thể Nga sô, Trung Cộng và Khối Cộng sản triệt để kiên tŕ vơ trang yểm trợ, trong lúc Hoa kỳ và cả Thế giới Tự do tháo chạy nửa chừng, ngoảnh mặt làm ngơ, cắt đứt 100% mọi viện trợ, bỏ rơi một Việt nam Cộng ḥa cô thế, với bao nhiêu nghiệt ngă mà người Lănh đạo, tiêu biểu là cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu hay bất cứ một ai, khó có thể làm được khác hơn. Chúng tôi nghĩ rằng mọi sự bênh vực hay quy trách là những xúc cảm tự nhiên v́ người dân Việt đă phải trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Tuy nhiên, Lịch sử trung thực vốn dĩ không thiên vị hay bất công. Cho nên những trang sử của cuộc chiến Việt Nam khởi đầu từ năm 1945 nói chung, và dưới thời đệ nhị Cộng ḥa do Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lănh đạo nói riêng, rồi đây sẽ được các sử gia chân chính thận trọng lượng giá.

    Trước năm 1975, với cương vị Chủ tịch Hạ nghị viện và sau cùng là Thủ Tướng Chánh phủ, tôi đă có rất nhiều dịp tiếp xúc, hội họp thảo luận với Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu về các kế hoạch điều hành quốc gia. Tôi nhận thấy Ông là một Lănh tụ chánh trị cẩn trọng, cương nghị, và trên hết, Ông là người yêu nước. Ông ngày đêm lo âu về vận mệnh quốc gia, không ngừng toan tính về sự tranh thắng ngoài chiến trường chống kẻ thù, cũng như trên bàn hội nghị ḥa đàm vừa chống kẻ thù và cay nghiệt thay, vừa đối phó với ngay cả đồng minh của ḿnh. Trong suốt những năm ông lănh đạo quốc dân bảo vệ miền Nam, Ông đă chiến đấu không ngơi nghỉ trên mọi trận đồ. Tóc Ông bạc nhanh hơn, và trắng đi trước tuổi. Những người làm việc chung quanh Ông, khi nói chuyện với nhau về Ông, đă gọi Ông là “Ông đầu bạc”, với tất cả sự kính mến.

    Sau năm 1975 tại Hoa kỳ, tôi cũng có rất nhiều cơ hội gặp lại Cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Trong những dịp hàn huyên tâm t́nh, Ông luôn luôn ôn lại kư ức về thời kỳ đen tối của đất nước, nhất là khi nhắc lại đường lối lật lọng của đồng minh đi đêm với giặc thù, cùng những hy sinh to lớn của chiến sĩ và thống khổ triền miên của đồng bào, tôi thấy mắt Ông ứa lệ. BÂY GIỜ TH̀ ÔNG ĐĂ RA ĐI...

    Thời gian và cuộc sống hối hả nơi hải ngoại có thể làm người đời quên đi giai đoạn trầm luân trước kia của quê hương bên kia bán cầu, kể cả người lănh đạo. Nhưng chắc ai ai cũng sẽ c̣n nhớ măi câu nói khẳng định của Oâng một thời vang vọng: “Đừng nghe những ǵ Cộng sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng sản làm...” Câu nói đó là một định nghĩa bất biến, một cảnh giác thường trực cho mọi người, trong quá khứ, trong hiện tại, và luôn cả sau này, cho đến bao giờ mà chế độ Cộng sản vẫn c̣n thống trị trên đất nước Việt Nam.

    Kính thưa Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu,

    Tiễn biệt người đi bao giờ cũng mang nổi buồn cho người ở lại. Tiễn biệt một vị Nguyên thủ Quốc gia, một vị Tổng Thống lên đường về miền vĩnh hằng thực sự mang nhiều xúc động thương tiếc cho mọi người, đặc biệt cho những người một thời đứng chung quanh Tổng Thống, sau lưng Tổng Thống và cùng với Tổng Thống trong nhiều năm tháng chiến đấu cho Tự Do Dân Chủ và Ḥa B́nh cho quê hương. Chúng tôi xin cầu nguyện cho Tổng Thống măi măi an lạc nơi Nước Chúa thanh b́nh. Với Phu nhân của cựu Tổng Thống và quư tang quyến, chúng tôi xin được chia sẻ nổi mất mát đau đớn to lớn này, và nguyện cầu Phu nhân cựu Tổng Thống luôn luôn được sự an ủi và quan pḥng của Đức Mẹ Maria. Xin Chúa Nhân Lành hằng thương xót sớm đưa linh hồn Martino về hưởng Nhan Thánh Chúa.

    Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn
    Ngày 6 tháng 10, 2001 tại Boston, Massachusetts, Hoa kỳ

  2. #12
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Điếu văn của đại diện Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa - Cựu Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp

    Bài điếu văn của cựu Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp đọc trước linh cữu của cựu Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Ḥa NGUYỄN VĂN THIỆU vào chiều thứ sáu ngày 5 tháng 10 năm 2001, tại nhà quàn Eaton & Mackay Funeral Home số 456, Center Street, thành phố Newton thuộc Tiểu bang Massachusetts, với sự hiện diện của 11 Tướng lănh và gần 500 Sĩ quan các cấp và quan khách các nơi về tham dự trong buổi lễ đặc biệt dành cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đối với Tổng Thống Thiệu.

    Kính thưa Phu Nhân Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU và gia đ́nh,

    Kính thưa các cấp cựu Tướng Lănh,

    Kính thưa các vị Quan Khách.

    Hôm nay tôi được chỉ định đại diện Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến đây để thành kính nghiêng ḿnh trước linh cữu của cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) và cũng là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH). Trước sự mất mát lớn lao của gia đ́nh, QLVNCH chúng tôi xin trân trọng chia buồn cùng phu nhân và tang quyến.

    Kính thưa Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU,

    Từ đâu đó chúng ta đă từng nghe những lời như sau:

    "Như ngọn gió, ta từ đâu tới ?
    Ai trả lời câu hỏi giùm ta.
    Cơi trần một thoáng vút qua,
    Dẫu trăm năm tuổi...chỉ là giấc mơ !"

    Giấc mơ nào th́ cũng vô cùng ngắn ngủi, v́ đời người như gió thoảng qua, và nơi kiếp phù sinh có ai sống măi bao giờ.

    Xuất thân từ khóa I Sĩ Quan Vơ Bị Huế năm 1948. Tiếp theo chuỗi thời gian dài, Tổng Thống đă phục vụ dưới cờ qua khắp các chiến trường Trung Nam Bắc và qua các chức vụ từ Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn, Quân Đoàn đến Tổng Trưởng Bộ Quốc Pḥng, và cuối cùng là Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia rồi Tổng Thống nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa.

    Đă 3 lần phục vụ tại Trường Vơ Bị Sĩ Quan Dalat. Vào năm 1951, Tổng Thống là Sĩ Quan Huấn Luyện Viên của Khóa 5 Vơ Bị Dalat, một khóa nổi tiếng trong lịch sử của Trường, đă đào tạo ra nhiều vị Tư Lệnh Sư Đoàn và Quân Đoàn cho QLVNCH.

    Hai lần sau đó Tổng Thống đă đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng của Trường nầy vào các năm từ 1957 và 1958 tới 1960.

    Trong chức vụ trên, Tổng Thống đă dày công xây dựng nền tảng cho Trường Vơ Bị từ ngày đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa - Từ cải tổ chương tŕnh huấn luyện liên quân cho đến các nghi thức, lễ phục, phù hiệu, trong đó có phần lễ Truy Điệu Tử Sĩ đă tạo nhiều cảm xúc lưu truyền đến ngày nay. Tổng Thống cũng tổ chức lại phần quan trọng trong chương tŕnh Văn Hóa, kéo dài thời gian huấn luyện 4 năm đào tạo, các sinh viên Vơ Bị ra trường có tŕnh độ cấp Đại Học để đảm nhiệm được những chức vụ chuyên môn ngoài lănh vực quân sự.

    Ngày 19 tháng 6 năm 1965, Tổng Thống đă cùng các Tướng Lănh trong Hội Đồng Quân Nhân đứng ra đảm nhiệm trách vụ lịch sử, lănh đạo Quốc Gia sau một thời gian đất nước bị xáo trộn và khủng hoảng khắp nơi. Để lấy lại niềm tin cho Quốc dân và Quân Đội, Hội Đồng Quân Nhân dưới sự lănh đạo của Tổng Thống đă đưa ra quyết tâm:

    1) Tôn trọng tinh thần dân chủ và
    2) Quân Đội phải triệt để phục vụ toàn dân.

    Từng bước một, Tổng Thống cùng toàn thể Chính Phủ chấn chỉnh an ninh trật tự, nêu cao tinh thần Quân Đội, thực hiện cuộc bầu cử Quốc Hội với Bản Hiến Pháp mở đầu cho giai đoạn dân chủ căn bản của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa.

    Và từ đó ngày 19 tháng 6 cũng trở thành Ngày Quân Lực và ngày này đă gắn liền tên tuổi của Tổng Thống cùng các vị Tướng Lănh đă can đảm ra nắm quyền lo việc đất nước lúc bấy giờ.

    Trong thời gian lănh đạo, Tổng Thống luôn luôn có mặt tại các chiến trường, đặc biệt trong các trận chiến lớn lao và khốc liệt để thăm viếng, ủy lạo, khuyến khích tinh thần các cấp quân dân chống lại quân thù.

    Mặt trận An Lộc, Trị Thiên như dầu sôi lửa bỏng, cả thế giới cùng theo dơi lo ngại, Tổng Thống cũng đă đến tận nơi để chia sẻ nỗi hiểm nguy và khổ cực của quân dân.

    Giai Đoạn từ 1971 đến tháng 4-1975 là giai đoạn hết sức khó khăn cho vị lănh đạo như Tổng Thống - Mặt trận dồn dập tiếng súng không dứt, ngày đêm Tổng Thống phải theo dơi chiến trường, mặt khác Tổng Thống phải liên tục đấu trí ḥa đàm trước những áp lực và dối trá của Đồng Minh đă không muốn cho chúng ta tham dự trực tiếp vào bàn thảo Hiệp Định Ba-Lê.

    Từng giờ từng phút, lúc nào Tổng Thống cũng tỏ ra điềm tĩnh và can đảm ra sức tranh đấu quyết liệt cho quyền lợi và sự mất c̣n của quốc gia Việt Nam cho đến giây phút cuối cùng.

    Nhưng than ôi!

    Làm sao được khi mà tay của Tổng Thống cũng như của các Tướng Lănh ngoài mặt trận đă bị trói chặt, khi mà vận nước đă đến hồi đen tối và khi mà ḷng trời cũng đứng về phía mạnh và h́nh như Ngài cũng đă quyết định bắt buộc dân tộc Việt Nam phải trải qua một kiếp nạn không thể tránh khỏi th́ từ Tổng Thống cho đến 17 triệu dân Miền Nam cũng đành cam số phận mà thôi.

    Từ khi ra nước ngoài, Tổng Thống cũng không ngại miệng tiếng thị phi vẫn luôn luôn cố gắng gặp gỡ nhiều cấp và cũng đă có nhiều dịp tâm sự cùng các cựu Sĩ Quan Vơ Bị Dalat cũng như các chiến hữu khác, để khuyên nhủ anh em cố gắng giữ vững niềm tin, Quân Lực VNCH cố gắng giải phóng đất nước và mong anh em đừng bao giờ bỏ cuộc.

    Kính thưa Tổng Thống,

    25 năm tại đất người, Tổng Thống thường khuyên anh em đừng bỏ cuộc nhưng hôm nay Tổng Thống đă bỏ cuộc ra đi vĩnh viễn về nơi an nghỉ. Lần bỏ cuộc nầy không có ai có thể trách cứ Tổng Thống được cả - Nghĩa Tử - Nghĩa Tận.

    Thật vậy, từ ngày mất nước Tổng Thống đă bị nhiều nguồn dư luận lên án gần như đôi lúc quá khắt khe trong 2 việc là : Tổng Thống đă bỏ chạy không ở lại chiến đấu cùng anh em như lời đă hứa và sau đó là không lo ǵ cho đồng bào tỵ nạn cả.

    Hôm nay ở đây nhắc lại, chúng tôi không đủ tư cách luận công hay giải oan v́ lịch sử về sau sẽ nhận xét công bằng hơn - lịch sử bao giờ cũng khách quan và công bằng. Nhưng dù ǵ công việc làm đă qua và tinh thần tranh đấu bất khuất của Tổng Thống đối với Quốc gia, đối với đất nước th́ quả những nguồn dư luận kia có phần khắt khe và có phần nào oan uổng cho người có ḷng.

    Việc Tổng Thống ra đi hay ở lại, đă là một sự trả giá xong xuôi giữa Cộng sản và Đồng minh của chúng ta rồi. Hơn nữa sự ra đi của Tổng Thống là một áp lực đe dọa lấy cớ nếu Tổng Thống không đi th́ Miền Nam không thể nào giải quyết được; Và đó là điều kiện căn bản Cộng sản đ̣i hỏi nhiều năm trên bàn hội nghị, và đó cũng là màn bịp bợm mua bán của BẠN và THÙ.

    Về việc đồng bào tỵ nạn, có thể một vài tờ báo ngoại quốc diễn đạt lệch lạc và sai hẳn ư nghĩ của Tổng Thống. Làn sóng người Việt tỵ nạn lên đến hằng triệu người, cả thế giới phải điên đầu góp tay cứu giúp c̣n chưa xong, làm sao Tổng Thống có thể làm ǵ được khi thân phận chính ḿnh cũng đang là một người tỵ nạn không biết về đâu.

    Thưa Tổng Thống,

    Trong sự mất mát lớn lao của đất nước qua 25 năm nay, chúng tôi biết Tổng Thống là người chịu đựng đau khổ âm thầm nhất, người chịu đắng cay nhiều nhất, nhưng Tổng Thống luôn luôn cố giữ yên lặng nuốt trôi tất cả buồn giận của thế nhân. Tất cả mọi người không ai bao giờ muốn ḿnh có lỗi cả, chỉ việc đổ lỗi cho vị lănh đạo là ḿnh được yên tâm rồi ? Đến ngay cả những kẻ mưu mô bán đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng sản cũng đă tạo ra dư luận là QLVNCH là bất lực và tham nhũng để mất miền Nam!

    Chúng tôi biết trong nhà Tổng Thống, đặc biệt trong pḥng đọc sách bị cấm không một ai được vào để ở đó Tổng Thống đôi lúc giam ḿnh, yên lặng suy nghĩ hằng ngày hằng đêm.

    Cũng có những buổi chiều ngồi bên hồ vắng, Tổng Thống đă lặng đi hằng giờ trầm ngâm suy tưởng cho chính ḿnh và cho đất nước rằng biết bao giờ được thanh b́nh và hơn 70 triệu dân thoát khỏi ách Cộng sản để có được tự do no ấm.

    Kính thưa Tổng Thống,

    Thôi, từ xưa tới nay, dễ mấy ai vội đem sự thành bại luận anh hùng?

    Tôi xin đọc vài vần thơ dưới đây của một cựu sinh viên Sĩ Quan Khóa 12 Vơ Bị Dalat để tiễn đưa anh linh Tổng Thống cùng cánh Hoa Dù...bay về nơi vĩnh cửu - Nơi đó có hằng rừng Quốc và Quân kỳ - Nơi đó có những Hiệu kỳ của 4 Quân Đoàn cùng toàn thể Hiệu kỳ của các Quân Binh Chủng, Nha Sở thuộc QLVNCH đang chờ chào đón Tổng Thống:

    "Chúng ta, trước như sau, vẫn Đúng,
    Dưới trời xanh, sừng sững hiên ngang.
    Lời thề xưa...vẫn rền vang :
    - Không nề gian khổ, chẳng màng lợi danh !
    Ai luận việc không thành, cứ xét.
    Mặc cho đời suy tính thiệt hơn.
    Chúng ta...không có ǵ buồn,
    Tiếc chăng,
    Tiếc chăng chẳng được chiến trường phơi thây !"

    Hôm nay tụ họp nơi đây, trên 11 vị Tướng Lănh, hàng trăm Sĩ Quan các cấp từ các nơi đổ về đứng bên cạnh Tổng Thống, nhưng chưa hết, xin Tổng Thống lướt qua hàng trăm ṿng hoa chung quanh, gần như đầy đủ tên tuổi các Tướng Lănh đều về đây tiễn đưa Tổng Thống.

    Chúng tôi cũng xin nguyện trước linh cữu của Tổng Thống vẫn luôn ghi tạc nhớ lời khuyên của Tổng Thống là Không bao giờ bỏ cuộc cho đến lúc toàn dân Việt Nam được giải phóng và tự do, no ấm. Nếu không làm được chúng tôi cũng xin bỏ ḿnh theo Tổng Thống nơi đất người.

    Một lần nữa, chúng tôi xin cầu nguyện linh hồn của cố Tổng Thống NGUYỄN VĂN THIỆU ra đi được an b́nh và được mọi sự che chở trong ṿng tay đầy ân sủng của đấng Từ Bi Toàn Năng Cao Cả trên trời.

    Muôn vàn tiếc thương - Ngh́n thu vĩnh biệt.

    (cựu Chuẩn Tướng Phan Ḥa Hiệp đọc trước linh cữu của cựu Tổng Thống Đệ Nhị Cộng Ḥa NGUYỄN VĂN THIỆU)

  3. #13
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Đôi lời vĩnh biệt cùng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu - Vơ Duy Thưởng

    Kính thưa Tổng Thống,

    Được tin Tổng Thống qua đời, đối với tôi tựa như tin sét đánh ngang đầu, tâm tư bấn loạn. Ngồi tại văn pḥng làm việc nhưng tâm trí tôi tựa như đâu đâu, không làm sao tập trung được tư tưởng vào công việc đang làm. Sự ra đi quá đột ngột của Tổng Thống khiến cho tôi căm thấy xót xa cho một kiếp người, dù một lần người ấy đă là Tổng Thống đứng đầu một quốc gia. Suốt bao năm qua, từ ngày Tổng Thống rời khỏi đất nước, Tổng Thống đă gánh chịu bao lời oán trách của chiến hữu, của đồng bào tị nạn hăi ngoại, cộng thêm lời đổ tội của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đối với trách nhiệm mất nước về tay cộng sản xâm lược.

    Là kẻ hậu sanh, trong suốt thời gian Tổng Thống cầm quyền, tôi c̣n quá trẻ để có cơ hội tham gia chánh sự hoặc để được ân hưởng ơn mưa móc của Tổng Thống. Dù vậy, nay th́ Tổng Thống đă ra đi về miền viên miễn, trong thâm tâm tôi tự căm thấy cần phải bày tỏ đôi lời tâm t́nh cùng Tổng Thống, đôi lời bênh vực Tổng Thống đối với những chỉ trích đôi lúc vô lư và bất công. Tôi có thể bị gán buộc là tiếng nói của những người cận kề Tổng Thống, mang nặng những t́nh căm riêng tư. Sở dỉ tôi nói muốn nói lên ư nghỉ của ḿnh là v́ có một v́ sao sáng ngời vừa rơi rụng, một vị tổng thống của miền Nam Việt Nam tự do vừa qua đời, môt lănh tụ chính trị yêu nước vừa tạ thế, người mà tôi có cơ hội làm việc chung trong công cuộc đấu tranh giành lại tự do, dân chủ cho dân tộc Việt Nam trong những năm sống lưu vong nơi hăi ngoại. Tôi thấy cần phải phát biểu ư nghỉ của ḿnh v́ cho tới nay vẫn c̣n có lắm người tiếp tục buộc tội một cách bất công đối với Tổng Thống, cốt để chạy tội cho phần ḿnh và xót xa hơn nửa là có những người thân cận với Tổng Thống đă và đang t́m cách tách rời sự liên hệ với Tổng Thống hầu được an thân.

    Tổng Thống bị cáo buộc là người lảnh đạo bất tài, điều hành một chế độ tham nhũng. Tôi tự nghỉ trong hoàn cảnh của một đất nước chiến tranh, đầy hổn loạn về phương diện chính trị, nếu người khác đứng vào địa vị của Tổng Thống tôi không biết họ có làm việc được hữu hiệu như Tổng Thống đă làm hay không? Trong 10 năm cầm quyền, Tổng Thống đă phải đương đầu với những biến cố chính trị và quân sự như biến động Phật Giáo miền Trung, cuộc tấn công ồ ạt của cộng sản trong Tết Mậu Thân, mùa hè đỏ lửa chiếm lại thành Quảng Tri, bảo vệ mănh đất B́nh Long anh dũng và c̣n phải đương đầu với người bạn đồng minh trong tiến tŕnh kư kết hiệp định Ba-Lê với cộng sản Hà Nội. Thông thường, đối với những người đối lập chánh trị, h́nh như họ phải t́m đủ lư lẻ để tranh đoạt lấy chính quyền, họ có nhu cầu phải chê bai người đang cầm quyền là có những hoạt động kém cỏi trong vai tṛ lănh đạo đất nước. Ai cũng biết đất nước Việt Nam ḿnh tan nát v́ trải qua bao cơn binh lửa, chống giặc Tàu, chống giặc Tây, chống giặc Nhật và cuối cùng là chống lại sự xâm lăng của khối cộng sản quốc tế mà Hà Nội chỉ là kẻ thi hành âm mưu xâm lược. Thời gian dùng để bảo vệ lănh thổ nhiều hơn thời gian dùng để phát triển quốc gia. Đó là cái kém may mắn của cả một dân tộc đứng trên phương diện nâng cao dân trí và phát triển đất nước, từ văn hóa đến chính tri, từ xă hội đến kinh tế. Lổi nầy không thể chỉ quy trách hoàn toàn cho bất cứ ai đă lănh trách nhiệm điều khiển quốc gia chỉ trong một thời gian ngắn ngủi so với gịng lịch sử lâu dài của dân tộc, như cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hay ngay chính bản thân của Tổng Thống. Khi mà tŕnh độ dân trí c̣n trong t́nh trạng thấp kém so với tŕnh độ dân trí của những quốc gia Tây phương tiến bộ, cộng thêm các định chế quốc gia để cân bằng và kiễm soát c̣n lỏng lẻo, yếu kém th́ việc tham nhũng trong guồng maư quản tri đất nước khó mà tránh khỏi. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có lần c̣n phải cất tiếng than rằng “dẹp hết tham nhũng th́ c̣n ai làm việc nước!”. Nếu phải t́m một người để đổ lổi hầu cứu vớt trách nhiệm cho nhiều người khác th́ Tổng Thống đúng là một vật tế thần để cứu vớt trách nhiệm của nhiều chính khách, nhiều tướng lảnh trong nhiệm vụ bảo vệ lănh thổ và xây dựng đất nước.

    Tổng Thống bị cáo buộc là người lănh đạo chính trị kém cỏi, không biết rỏ chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong việc điều hành chiến tranh Việt Nam. Nh́n về bề mặt, tổng quát để chê trách th́ dể nhưng nếu thật sự lănh trách nhiệm lảnh đạo quốc gia th́ không biết ai có thể làm khác hoặc làm hay hơn Tổng Thống hay không? Tôi nghỉ rằng Tổng Thống không những biết mà c̣n biết rất rành rẻ về đường lối điều hành chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ. Tôi có lần nghe kể lại, mổi ngày Tổng Thống chỉ có dành được 4, 5 tiếng đồng hồ để lo phần b́nh định và phát triển đất nước. C̣n số giờ c̣n lại kể cả trong giấc ngủ, Tổng Thống phải dùng đến để suy nghỉ cách đối phó với người bạn đồng minh. Tổng Thống đă nói “làm bạn với Hoa Kỳ khó hơn làm kẻ thù của họ”. Người bạn đồng minh nầy t́m mọi cách để kiểm soát và áp lực mọi hoạt động của chính phủ Việt Nam. Người bạn nầy cài người chung quanh Tổng Thống, tỉ như ngay cả trong Hội đồng An ninh quốc gia chẳng hạn, cốt để kiểm soát mọi tư tưởng và hoạt động của Tổng Thống. Nếu buổi sáng, ông đại sứ đồng minh đến yêu cầu Tổng Thống thi hành điều ǵ mà Tổng Thống nói rằng cần phải xét lại, th́ buổi chiều hôm đó, ngoài đường phố, hoặc là đoàn thể tôn giáo hoặc là đoàn thể chính trị đối lập sẽ đ̣i hỏi cái điều mà ông đại sứ đồng minh vừa yêu cầu buổi sáng với Tổng Thống! Xa hơn nửa, trong thời gian thảo luận bản dự thảo hiệp ước Ba-Lê hồi cuối tháng 8 năm 1972, khi mà Mỹ muốn kư hiệp ước Ba-Lê với Cộng sản Bắc Việt bất kể sự tồn vong cua nhân dân Miền Nam, khi mà Tổng Thống phản kháng không chịu kư vào bản hiệp ước th́ có mấy ai biết rằng lúc đó sinh mạng của Tổng Thống như “chỉ mành treo chuông” trước áp lực dử dội của người bạn đồng minh. Nếu Tổng Thống không can đăm phản kháng việc kư kết hiệp định Ba-Lê lúc ấy trước khi nhận được lời cam kết của chính phủ Nixon hứa sẽ bảo vệ miền Nam nếu Công sản Hà Nội vi phạm hiệp đinh đă kư kết, th́ miền Nam Việt Nam có lẻ đă mất sớm hơn chớ không đợi đến ngày 30/4/75 khi đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng chỉ sau một ngày lảnh trách nhiêm lảnh đạo quốc gia!

    Tổng Thống bị chê trách là không quan tâm đến các thuyền nhân tị nạn trong khi Tổng Thống cũng là một người đang có kiếp sống lưu đài nơi xứ người. Trong một bài báo được phỏng vấn tại Anh Quốc, nơi mà Tổng Thống sống tạm dung trong mấy năm đầu xa xứ. Tờ báo đă cắt xén câu trả lời của Tổng Thống về việc cứu trợ người tị nạn và thuyền nhân. Để từ đó, có những kẻ ác ư cố t́nh chê trách Tổng Thống đă nói “việc cứu giúp người ti nạn không liên quan ǵ tới ông”. Giă thiết, nếu câu trả lời nầy là câu trả lời của một người dân b́nh thường th́ khi nghe qua ai cũng nhận thấy có phần nghịch lư rồi th́ thử hỏi một vị cựu Tổng Thống lại có thể phát ngôn được như vậy hay sao? Có chăng là khi thương trái ấu cũng tṛn, c̣n khi ghét th́ trái bù ḥn cũng méo! Có những người trước đây v́ lư do nầy hay lư do khác, vốn không đồng chánh kiến với Tổng Thống và luôn cả Cộng sản Hà Nội đă khai thác triệt để lời vu khống trong bài báo nầy với chủ tâm ngăn chận mọi hoạt động đấu tranh hướng về Việt Nam của Tổng Thống. Người tị nạn v́ quá khổ đau nên cũng dể xúc căm trước lời tuyên truyền phi nghĩa nầy. Thôi th́, âu cũng là một đại nạn khác cho Tổng Thống trong kiếp đời lưu xứ!

    Tổng Thống c̣n bị chê trách là bỏ ngủ sau khi từ chức trách vụ Tổng Thống. Nếu ai đă từng nắm những vai tṛ cấp lảnh đạo quốc gia, chắc cũng biết việc ra đi hay ở lại Việt Nam đôi lúc không phải do chính ḿnh quyết định được. Có khi việc nầy c̣n tùy thuộc những lư do chính trị tiềm ẩn. Vào thời diểm của tháng 4/75, chính Hoa Kỳ đă áp lực Tổng Thống phải ra đi. Và ngay cả tân Tổng Thống Trần Văn Hương cũng nghỉ rằng Tổng Thống nên rời xứ để ông dể dàng thành lập tân chánh phủ và dể điều đ́nh một gỉai pháp chính trị với Công sản Hà Nội, bằng không Cộng sản Hà Nội lại nói rằng chính phủ của cụ Hương là “chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Hoàn cảnh của Tổng Thống lúc đó ở lại cũng không được mà ra đi th́ phải lảnh chịu sự oán thù. Nói như nhà báo Bùi Bảo Trúc ”Phải đợi cho đến khi cát bụi lắng xuống hoàn toàn th́ lịch sử mới có thể phán xét những con người như ông Thiệu, khen cũng như chê một cách chính xác”.

    Âu cũng là số trời, sự ra đi vội vả không định trước hồi cuối tháng 4/75 của Tổng Thống có khác nào như sự ra đi quá đột ngột của Tổng Thống trong mấy ngày vừa qua. Được biết ư định của Tổng Thống khi c̣n tại thế đă nhắn nhủ với một người cháu kêu bằng cậu là khi nào Tổng Thống qua đời th́ hỏa thiêu thân xác của Tổng Thống. Tổng Thống là người Công giáo mà có ư định hoả thiêu cũng là việc ít có. Nhưng Tổng Thống đă quyết định không muốn để thân xác vùi chôn nơi đất tạm dung mà muốn phần thân xác của Tổng Thống sau khi đă hóa thành tro bụi sẽ đươc đem về quê cha đất tổ rải trên đồng ruộng, may ra giúp được ít nhiều cho người nông dân nghèo khó Việt Nam có được cộng lúa xanh tươi. Mong cho Tổng Thống đạt thành ước nguyện sau cùng.

    Kính thưa Tổng Thống,

    Tôi và nhà tôi đến Newton để nh́n mặt Tổng Thống lần sau cùng, để được đứng kề bên quan tài của Tổng Thống nói lên lời tiển biệt, để giử trọn “t́nh thầy tṛ”, để thắc chặt “t́nh chiến hữu” giữa người ra đi và những người ở lại. Tôi muốn nói với Tổng Thống là tôi rất danh dự có được cơ hội làm việc bên Tổng Thống nhằm đấu tranh giành lại tự do, dân chủ cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

    Kính xin Thiên Chúa nhân từ tiếp dẩn linh hồn Tổng Thống về nơi cỏi Thiên Đàng và xin Thiên Chúa bang cho Tổng Thống Phu nhân cùng gia đ́nh thân tâm an lac.

    Kính chào vĩnh biệt Tổng Thống.

    Mùa thu Cali, ngày 8 tháng 10 năm 2001

    Vơ Duy Thưởng

    http://ngothelinh.tripod.co m/DoiLoiVinhBiet.html

  4. #14
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Một Cái Nh́n Khác Về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

    Khoảng tháng Giêng năm 1972, John Paul Vann nói, “ Thực tế không thể chối căi là đại đa số dân chúng … khoảng 95 phần trăm – thích chính quyền Việt Nam (Cộng Ḥa) hơn là một chính quyền Cộng Sản hay là chính quyền trao cho phía bên kia.” Thật đáng buồn, ngày nay nhiều người miền Nam Việt Nam đang chỉ trích theo quan điểm của họ về Tổng Thống Thiệu.
    Một Cái Nh́n Khác Về Ông Nguyễn Văn Thiệu: Tổng Thông Nguyễn Văn Thiệu không phải là bù nh́n của Mỹ (1)


    Nhân dịp Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, vừa tổ chức Lễ Giỗ lần thứ 7 cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 28-9-2008 vừa qua, chúng tôi xin giới thiệu đến quư bạn một bài báo của tác giả Lewis Sorley đă có một cái nh́n khác về ông Nguyễn Văn Thiệu. Tác giả là một cựu đại tá trong quân đội Hoa Kỳ đă hồi hưu, từng phục vụ tại Việt Nam trong thập niên 1960. Bài báo đăng trên tạp chí VIETNAM Magazine, tạp chí của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam, ấn bản tháng Tư 2004. (TN)
    Đọc những báo chí Mỹ trong thời kỳ Chiến Tranh Việt Nam, người ta có thể nghĩ rằng vị cựu tổng thống Việt Nam Cộng Ḥa từ 1965 đến 1973 (2) là một kẻ bất tài, làm theo sự sai khiến của Hoa Kỳ. Nguyên nhân là v́ cái tinh thần phản chiến mạnh mẽ trong thời gian đó và cái khuynh hướng nghi ngờ việc chọn lựa các vị tổng thống đang phải đương đầu với một cuộc chiến bất b́nh thường. Cho nên, Thiệu không là ǵ khác hơn là một gă bù nh́n.
    Trong những giai đoạn đẫm máu nhất của cuộc chiến, ông (Thiệu) đă chủ tŕ những diễn biến chính trị phức tạp và sôi nổi và mỗi chuyển động của ông đều được ghi lại trên trang nhất của báo chí Hoa Kỳ mô tả chiến tranh trong đầy rẫy khổ ải. Mặc dù vậy, trong khi chiến đấu chống lại một sự xâm lấn từ bên ngoài và một sự nổi dậy từ bên trong đang được ủng hộ và yểm trợ bởi Trung Quốc và Liên Sô, ông đă thực hiện được các chính quyền dân cử từ cấp quốc gia cho tới các xă ấp. Ông đă mở rộng và – với sự yểm trợ cố vấn và trang bị của Hoa Kỳ – chấn chỉnh quân lực để đảm nhận cái gánh nặng từ việc rút lui của quân lực Hoa Kỳ. Thiệu đă đích thân chỉ huy một chương tŕnh b́nh định để phá vỡ sự xâm nhập (của VC) đang diễn ra tại nông thôn qua cưỡng ép và khủng bố, bằng cách ban hành một chương tŕnh cải cách ruộng đất cấp cho 400.000 nông dân chủ quyền khoảng 2,5 triệu mẫu ruộng. Ngoài ra, ông c̣n tổ chức cho 4 triệu dân vào Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, một lực lượng bán quân sự với 600.000 vũ khí.
    Thiệu sinh ra ở Ninh Thuận và đi học tại những trường Thiên Chúa Giáo tại Huế. Ngay sau Thế Chiến II, ông đă có thời gian ngắn theo Việt Minh, nhưng đă sớm từ bỏ v́ những khuynh hướng thiên về cộng sản của nó. Thiệu sau đó theo học trường Vơ Bị Quốc Gia ở Huế rồi chiến đấu cho Pháp chống lại Việt Minh. Sau khi người Pháp ra đi và Việt Nam bị chia đôi, Thiệu đă tiến rất nhanh trong QLVNCH và trở thành một sĩ quan cấp tướng năm 1962 (3). Năm 1963, ông là một trong những người lănh đạo cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Năm 1967, Thiệu được bầu làm tổng thống theo một bản hiến pháp mới.
    Đại Sứ Ellsworth Bunker biết rất rơ về Thiệu. Bunker nhận xét, “Ông ta giải quyết vấn đề một cách khôn khéo và thông minh. Ông ta là một cá nhân có khả năng hiểu biết rất sâu sắc. Ông ta quyết định ngay từ đầu tuân thủ theo hiến pháp, chứ không cai trị theo kiểu các ông tướng mà nhiều người trong số đó mong muốn ông thực hiện.”
    Thiệu bị áp lực phải thay thế những kẻ tham nhũng và kém khả năng đang ở trong những vị trí cao, và chỉ giữ lại một số trung thành, nếu không thể loại trừ tất cả. Thời gian đầu trong nhiệm kỳ tổng thống ông đă giải thích lư do với một sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ rằng: “Việc thanh lọc toàn bộ số sĩ quan Miền Nam không thể nào đơn giản, bất cứ sự thay đổi chỉ huy chính yếu nào cũng phải được nghiên cứu phối hợp một cách cẩn thận. Quân đội không thể để cho chính trị loại bỏ trong một đêm. Quân đội đă và đang là người hỗ trợ về chính trị chủ yếu và là lực lượng duy nhất nối kết quốc gia.”
    Bunker và vị tư lệnh Hoa Kỳ, Tướng Creighton Abrams, hiểu rơ chuyện này và cả hai đều kiên nhẫn và thông cảm, nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị nhắm vào một số sĩ quan cao cấp không thích hợp. V́ vậy thỉnh thoảng đă có những sự thay đổi trong việc chỉ huy ở miền Nam Việt Nam. Nhưng chưa bao giờ có thể có một sự trong sạch hóa toàn diện. Không chỉ v́ e sợ những xáo trộn về chính trị, mà c̣n v́ một số những sự thay đổi thiết yếu vẫn chưa sẵn sàng.
    So sánh với sự lănh đạo của Hoa Kỳ trong cùng thời gian người ta có thể có những kết qủa thú vị. Chẳng hạn như Nguyễn Văn Thiệu khi tranh luận có thể được coi là một người lương thiện và đứng đắn hơn cả Lyndon Johnson và – tuy khác biệt trong một một số trường hợp – hoàn toàn như là một vị tổng thống có ảnh hưởng hơn của quốc gia ông. Vào lúc đó, người ta cũng cho rằng Thiệu có nhiều tự do quyết định cho xứ sở ông hơn cả LBJ (4) đối với nước Mỹ.
    Những viên chức hàng đầu của Mỹ đều nh́n nhận tầm quan trọng của Thiệu, đặc biệt trong việc b́nh định. Abrams nhận xét, “Ông ấy biết về b́nh định hơn bất kỳ người Việt Nam nào.” William Colby (5) nói, Thiệu là “viên chức b́nh định số một.”
    Tại Vũng Tàu, 1400 trưởng ấp, đại diện cho khoảng ba phần tư các trưởng ấp ở Miền Nam Việt Nam, đă tham dự một khóa huấn luyện trong năm 1969. Thiệu đă đến thăm từng người trong các lớp học này, khuyến khích các trưởng ấp trở về nhà hăy nói rằng “Tổng thống Thiệu đă nói với tôi rằng …” Cuối năm 1969, t́nh h́nh đă tiến triển khả quan đến nỗi John Paul Vann (6), người đă đóng một vai tṛ rất quan trọng trong công tác b́nh định, đă nói với cử tọa ở Princeton rằng, “Hoa Kỳ đă thắng cuộc chiến tranh quân sự và đang thắng một cuộc chiến tranh chính trị xuyên qua Thiệu.”
    Mặc dù Cộng Sản không ngừng tiên đoán về một “cuộc tổng nổi dậy” ở Miền Nam Việt Nam, nhưng trên thực tế đă không hề có một cuộc tổng nổi dậy nào như thế. Đối với bất kỳ một nhà quan sát cụ thể nào, dường như chẳng ai ngạc nhiên về những thành tích của cộng sản qua những vụ ám sát, bắt cóc, đánh bom khủng bố, cưỡng bách và pháo kích bừa băi vào những khu dân cư ở Miền Nam Việt Nam. Đó là những hành động khó mà chinh phục được trái tim và khối óc của các nạn nhân.
    Vào tháng 4 năm 1968, Tổng Thống Thiệu đă chống lại lời khuyên của tất cả các vị cố vấn để tổ chức Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông biện luận, “chính phủ phải dựa vào sự ủng hộ của dân chúng, và nó cũng chẳng có gía trị ǵ nếu chúng ta không dám trang bị vũ khí cho họ.”
    Sau cùng khoảng 4 triệu người, những người qúa ǵa hoặc qúa trẻ cho quân vụ chính quy, được ghi danh vào Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ. Qua sự thiết lập này, chính quyền Thiệu đă có sự ủng hộ của chính dân chúng, qua Lực Lượng Tự Vệ với những vũ khí mà nó có không phải để chống lại chính quyền mà là để chiến đấu chống lại sự thống trị của Cộng Sản. Tháng Mười năm 1971, trong một cuộc chiến đấu cam go, Tổng Thống Thiệu đă được tái cử trong một cuộc bầu cử độc diễn. Nhiều người chỉ trích ông về việc này, và đề nghị không công nhận cuộc thắng cử của ông. Nhưng trong cuộc bầu cử đó, mặc dù kẻ thù kêu gọi tẩy chay và cử tri là mục tiêu bị đe dọa, nhưng kết qủa 87.7 % cử tri đi bầu và 91.5 % bầu cho Thiệu đă là một sự ngạc nhiên.
    Đó là con số cử tri đi bầu lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Nếu nó chẳng ra ǵ (v́ không có đối thủ), hay nếu công chúng không chấp thuận sự lănh đạo của Thiệu, tại sao họ lại đi bầu đông như thế, với những rủi ro cá nhân có thể hay thực sự xảy ra, nếu không phải để biểu lộ sự ủng hộ việc tái cử của Thiệu? Câu trả lời rơ ràng là đại đa số đồng bào đánh gía cao các việc làm của Thiệu và mong mỏi ông tiếp tục ở lại nhiệm vụ.
    Khoảng tháng Giêng năm 1972, John Paul Vann nói, “ Thực tế không thể chối căi là đại đa số dân chúng … khoảng 95 phần trăm – thích chính quyền Việt Nam (Cộng Ḥa) hơn là một chính quyền Cộng Sản hay là chính quyền trao cho phía bên kia.”
    Thật đáng buồn, ngày nay nhiều người miền Nam Việt Nam đang chỉ trích theo quan điểm của họ về Tổng Thống Thiệu. Tôi đă nói chuyện về vấn đề này với nhiều người bạn Việt Nam đang sống ở Mỹ. Gần đây, một người đặc biệt, có học thức và thông thái, đă làm tôi ngạc nhiên khi nói rằng người Việt đă cho rằng Tổng Thống Thiệu đă lừa dối họ. Tôi đă hỏi lại ông ấy là lừa dối như thế nào. Người bạn đó đă trả lời: “Ông ấy biết người Mỹ sẽ bỏ chúng tôi, nhưng đă không nói cho chúng tôi biết.”
    Tôi cho rằng đó là một quyết đoán qúa khe khắt và c̣n cần tranh luận. Đại Sứ Bunker c̣n nhớ đă trao riêng cho Tổng Thống Thiệu ba lá thư của Tổng Thống Nixon mà trong đó “ông đă cam kết” sẽ trợ giúp miền Nam Việt Nam “trong bất kỳ sự vi phạm hiệp ước bởi phía bên kia.” Nhưng, Bunker nhận xét, “Quốc Hội … đă làm cho nó bất khả thi.”
    Kết quả ra sao? Bunker nói một cách rơ ràng rằng “Tôi nghĩ đó thực sự là một sự phản bội miền Nam Việt Nam.” Cũng thật khó cho Tổng Thống Thiệu có thể tiên đoán được cái hành động đáng hổ thẹn như vậy của Hoa Kỳ.
    Vài ngày trước khi Sài G̣n thất thủ trong năm 1975, Thiệu đă phải sống cuộc đời lưu vong, đầu tiên là ở Đài Loan, sau tới Anh quốc và cuối cùng là Hoa Kỳ. Ông đă từ trần trong năm 2001. Nguyễn Văn Thiệu đă đương đầu một cách anh hùng trong những năm dài chiến tranh đầy cam go, ông đă nhận được – dù ông có nhận hay không – sự ngưỡng mộ và ḷng biết ơn của tất cả những ai mong muốn cho một miền Nam Việt Nam tốt đẹp.
    TOÀN NHƯ chuyển ngữ
    Chú thích:
    (1) tạm dịch từ “South Vietnamese President Nguyen Van Thieu was far from the American patsy he is often portrayed to have been”, Vietnam Magazine, APR. 2004, Volume 16/Number 6.
    (2) đúng ra ông Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống từ năm 1967 đến ngày 30/4/1975; c̣n từ năm 1965 đến 1967, ông là chủ tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia (chức vụ tương đương quốc trưởng).
    (3) năm 1962, ông Thiệu c̣n là đại tá.
    (4) LBJ là chữ viết tắt tên TT. Lyndon Baine Johnson
    (5) William Colby là trưởng Chi Nhánh CIA tại Việt Nam, sau giữ chức giám đốc CIA tại Hoa Kỳ.
    (6) John Paul Vann (1924-1972): Nguyên là một Trung Tá trong quân lực Hoa Kỳ sau đă giải ngũ, phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Việt Nam trong vai tṛ cố vấn. Từ năm 1962 đến 1963, là cố vấn cho Đại Tá Huỳnh Văn Cao (sau là thiếu tướng), tư lệnh Sư Đoàn 7. Trở lại VN năm 1965 làm việc cho cơ quan USAID, sau là cố vấn cho Vùng II Chiến Thuật bị tử nạn máy bay năm 1972 tại KonTum.

    Tác giả: LEWIS SORLEY
    Toàn Như chuyển ngữ

  5. #15
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Một Góc Khác của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu


    Nhà văn Trần Phong Vũ vừa phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.Nội dung cuộc phỏng vấn giúp chúng ta hiểu thêm một vài góc cạnh khác của ông Thiệu, nhưng không trả lời được câu hỏi đau xót nhất là vai tṛ của ông trong việc phá tan hai quân đoàn 1 và 2, và để mất một nửa đất nước.

    Ông có thi hành mệnh lệnh của Hoa Kỳ không?
    Thái độ của ông, bỏ đất nước, bỏ dân chúng và quân đội để thoát thân theo vợ, con ra ngoại quốc có là chỉ dấu cho thấy ông “mua” sự an toàn của bản thân và gia đ́nh ông bằng cái giá dâng hiến đất nước cho Việt Cộng không?
    Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Đoàn 1, và thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2, đă nêu lên nhiều nghi vấn về những mệnh lệnh rút quân của ông.Tôi trân trọng đề nghị nhà văn Trần Phong Vũ và ông Nguyễn Văn Ngân khai phá những bí mật c̣n gói kín này. Ông Ngân có thể không biết chi tiết, nhưng chắc chắn ông cũng có thể giúp đánh giá thái độ của ông Thiệu trong những ngày Việt Nam bị bức tử, có thể với sự đồng lơa của ông Thiệu.Ông Vũ giải thích nguyên nhân thực hiện cuộc phỏng vấn, và giới thiệu ông Ngân: “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ ch́a khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đă vĩnh viễn ra đi ngày 29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi kư. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về ḷng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lănh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau. Một khuôn mặt thời cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lănh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một người yêu nước cô đơn? Một nhà lănh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng sinh bất phùng thời?Do một trùng hợp t́nh cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đă gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Ḥa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách “ṿng trong” th́ ông là người đă nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa đến t́nh trạng độc cử.Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01-74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân đội.Tháng 5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 01-75, ông từ Mỹ và Gia nă đại về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh “cô lập” và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt Nam đi Đài Loan tối ngày 25-4-1975.”
    Ông Vũ hỏi ông Ngân: “Dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lănh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải v́ đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lănh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?
    Đ.- Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến t́nh trạng lănh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xă hội phân hóa, chiến tranh v.v… nhưng một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ.Người Mỹ đă thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ đểå khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Domino. Người Mỹ đến Việt Nam không v́ quyền lợi người Việt Nam mà v́ quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm b́nh phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích t́nh trạng vô chính phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lănh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đă được sử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khi viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất th́ viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ được xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm th́ kỹ nghệ quốc pḥng của miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón… từ thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận. Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn sử dụng hữu hiệu cũng đ̣i hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ư chí đề kháng và nô lệ hóa.Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đă đẩy một số quần chúng đi về phía cộng sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Ḥa đă bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy th́ sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lănh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một ṿng luẩn quẩn không lối thoát, sự lănh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đă làm mất hậu thuẫn rộng răi trong quần chúng.Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính cách quyết định đă làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau Thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền đă đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ c̣n tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ v́ sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Ḥa đă hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.
    H.- Ông có đồng ư rằng chế độ đệ I và đệ II Cộng ḥa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đă được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đă góp phần quyết định?
    Đ.- Không ai phủ nhận điều đó.Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư-bản và cộng-sản.Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng-sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ.Hồ Chí Minh đă áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dă man và tàn bạo như thế nào th́ tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ đă khiến cho một dân tộc vốn giàu ḷng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đă chiến thắng trong chiến tranh nhưng đă thất bại trong ḥa b́nh đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loại.Sau Hiệp Định Genève 1954, người Pháp rút lui để lại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ v́ chiến tranh để chống lại cộng sản quốc tế và Bắc Việt, chúng ta chỉ c̣n tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ cùng với các điều kiện áp đặt, không c̣n một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và ông Thiệu đă lănh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng chế độ dân chủ trên một xă hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ư niệm về dân chủ, tự do không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc gia Việt Nam đă phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngă, trong cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản. Chế độ đệ I và đệ II Cộng Ḥa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xă hội, kinh tế ngày đó đă đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là một nhà ái quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đă bị người Mỹ giết v́ bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đă bị lôi kéo vào một cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết v́ đă không làm chủ được số phận của ḿnh và tất cả dân tộc Vịệt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi thân trong biển cả, đất nước đổ nát… Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; ṭa Đại sứ Mỹ thực tế là một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi lănh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất trên thế giới; và ông Thiệu đă phải đối phó với một nghịch lư: trong khi khối cộng sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh th́ người Mỹ thực hiện giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chính trị trên sinh mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris. Trong cuộc chiến chống cộng và suốt thời gian lănh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được sử dụng trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lư do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ quyết định sinh mạng của miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đă mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời.Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe cho tôi xem thành phố Londres, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại Londres sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó: “kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…”. Lúc ông chết, ư nguyện của ông muốn hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không th́ sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong ḷng đất Mỹ.
    H.- Dù sao ông Thiệu đă cầm quyền 10 năm từ 1965-1975, ḥa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973 thời gian đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn đề giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đă hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng t́nh trạng nầy đă đóng góp vào sự sụp đổ của miền Nam ngày 30/4/75?
    Đ.- Ông Thiệu thực sự cầm quyền qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khi quân đội Mỹ c̣n đổ quân vào Việt Nam th́ ông Thiệu đă đưa vấn đề giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn đề căn bản của chương tŕnh tranh cử: Xây dựng dân chủ Giải quyết chiến tranh Cải tạo xă hội. Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra đề nghị Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ thời gian đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự v́ ông hiểu Việt Nam Cộng Ḥa sẽ không có tư thế tại hội nghị ḥa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v.v…. Nếu cai trị là tiên liệu th́ ông Thiệu là người có khả năng tiên liệu nhưng ông không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu mà vị thế địa lư chánh trị của miền Nam Việt Nam không c̣n nằm trong quyền lợi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không c̣n ở vào thời đại có thể dùng “tầm vông vọt nhọn” để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ quân vào Việt Nam đại sứ Bunker đă được Tổng thống Johnson gởi sang Việt Nam với sứ mạng thực hiện việc giải kết để rút quân. Khi Nixon thắng cử 1968, đại sứ Bunker đă được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khi Mỹ đă thực hiện xong việc rút quân và lấy lại tù binh. Chính sách của đảng Dân Chủ và Cộng Ḥa Mỹ trong vấn đề giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán. Nếu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đ́nh Diệm lật đổ Bảo Đại để thiết lập nền đệ I Cộng Ḥa (1956 – 1963) như căn bản chánh trị để biện minh cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới về chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, th́ năm 1967, người Mỹ đă áp lực chánh quyền quân nhân phải khai sinh nền đệ II Cộng Ḥa, thực hiện chánh quyền dân chủ hợp hiến, hợp pháp để đưa Việt Nam Cộng Ḥa vào bàn hội nghị và tạo bàn đạp cho Hoa Kỳ ḥa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù binh, chấm dứt sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giải quyết trên căn bản “dân tộc tự quyết”, điều mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận.
    H.- Ông nghĩ sao về nỗi căm phẫn của đại đa số quần chúng đối với ông Thiệu sau 30/4/75?
    Đ.- Quần chúng đánh giá lănh đạo qua sự thành bại, họ có quyền căm phẫn v́ họ là lớp người bị hy sinh nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bi đát nhất sau 30/4/75 nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hơn nữa người lănh đạo cũng như thuyền trưởng một con tàu, dù tàu ch́m bởi bất cứ lư do ǵ th́ thuyền trưởng phải là người rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để có thể nh́n vào mặt trái của cuộc chiến vừa có tính cách nội chiến vừa có tính cách ủy-nhiệm mà những yếu tố quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của người quốc gia.Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một số đồng bào tại Westminster, California, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sắp đặt đă cầm micro chửi bới ông Thiệu nặng nề. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất thông cảm với nỗi căm phẫn của bà.Tôi hiểu sự im lặng của ông, nỗi cô đơn và cay đắng ông đă mang theo đến cuối đời. Ông Thiệu đă chết chắc hẳn không cần tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi biết ” tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ ai và cũng không nhằm thuyết phục bất cứ người nào. Đối với tôi, nói những điều tốt mà người ta không có cũng tệ hại như nói những điều xấu mà người ta không phạm phải v́ tất cả đều là dối trá”, nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần chúng th́ c̣n là vấn đề trách nhiệm.Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong vấn đề lănh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy tín lănh đạo. Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạo. Tuy nhiên, đến nay tôi vẫn nghĩ rằng nếu sự hy sinh có thể cứu văn t́nh thế th́ ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một người lính ra trận và hy sinh là một hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu th́ thật là khó.Xét định một con người cần nh́n vào tổng thể và đặc biệt là những giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy nhiên việc định công luận tội là công việc của lịch sử sau nầy.
    H.- Nhiều hồi kư chánh trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v…. Điều này có thực không, và nếu thực th́ đă ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề lănh đạo?
    Đ.- Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hồn cho cố Tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu tại dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khi thanh toán mục tiêu dinh Gia-long, ông về tŕnh diện Bộ Tổng Tham- Mưu và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về nhà.Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khi ông không qua văn pḥng và có khi làm việc trong pḥng ngủ khi ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau này. Có những biện pháp an ninh lúc ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chắn đạn, hoặc cái podium ông đứng nói chuyện ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chắn đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt trong các cuộc diễn binh v.v… Tôi không để ư những chuyện nầy, đây là công việc của bộ phận an ninh. Chỉ có điều là những đề pḥng nầy nhằm về phía Mỹ hơn là cộng sản. Thực ra ông Thiệu đă sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyền 1967, đến lúc rời Việt Nam đi Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong t́nh trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ư ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lư Thừa Văn, Ngô Đ́nh Diệm, ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh… Trong giai đoạn giải kết, quyền lợi của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Ḥa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi đó quyền lợi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp chung. Nếu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm với Việt Nam Cộng Ḥa và phối hợp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao th́ chính sách của “đồng minh” Hoa Kỳ đối với “đồng minh” Việt Nam Cộng Ḥa cũng tương tự: cà rốt và cây gậy đă được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi b́nh diện để buộc Việt Nam Cộng Ḥa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đă tiếp tay với cộng sản trong việc cổ vơ, ủng hộ các phong trào phản chiến, đ̣i ḥa b́nh, ḥa hợp ḥa giải dân tộc, lực lượng thứ ba… mà thực chất là những tổ chức trá h́nh của cộng sản nhằm phá vỡ thế hợp hiến, hợp pháp của chế độ VNCH, và đă không ngần ngại đâm sau lưng những người lính VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương tŕnh “Việt Nam hóa chiến tranh” để người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng Trị 1972 là một “sabotage politique”. Nixon đă viết thư cho ông Thiệu nhắc đến ư đồ thanh toán ông Thiệu của chính quyền Johnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đ̣i hỏi của Mỹ. Vào những tháng cuối trước khi kư HĐ Paris, ông Thiệu nuôi ư định tự sát như một phương cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng nầy chúng tôi đă triệu tập đại hội nghị viên toàn quốc về Saig̣n, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ lập trường “bốn không” của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đă ghi nhận ư định tự sát nầy của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ông Thiệu, Khiêm. Chính ư định tự sát nầy đă khiến ông Thiệu “ĺ lợm” trước những đe dọa của Nixon và đă đưa đến những nhượng bộ của Nixon bằng những cam kết mật.Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi không nghĩ đến những vinh quang bề ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của Hoa Kỳ đă đè nặng lên ông, ông đă chiến đấu như một người lính đơn độc không vũ khí, bằng ḷng dũng cảm và sinh mạng của chính ḿnh. Tôi không có đức tin tôn giáo nhưng tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ ki-tô-giáo, được b́nh an và thanh thản nơi vĩnh hằng.
    H.- Có phải Tổng thống Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đă để lại “đại lộ kinh hoàng” và Quảng Trị thất thủ vào tháng 5/72 là một “sabotage politique” của người Mỹ?
    Đ.- Đúng như vậy.Hậu quả đă để lại hơn 20 ngàn thương vong trên “đại lộ kinh-hoàng.”
    H.- Ông Thiệu đă nói với ông trong bối cảnh nào?
    Đ.- Ngay hôm Quảng Trị thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiều tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân-Chủ tại lầu nhà trắng trong khuôn viên dinh Độc-Lập th́ được điện thoại của nhân viên văn pḥng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết tŕnh viên quân sự của Tổng Thống đang có mặt tại Văn Pḥng của tôi để thuyết tŕnh về t́nh h́nh quân sự sau khi vừa thuyết tŕnh cho Tổng Thống xong. V́ bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi tại lầu nhà trắng để thuyết tŕnh cho tất cả cùng nghe. Sau phần thuyết tŕnh, tôi nhớ rơ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung Dung, nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Pḥng của Tổng thống Diệm: “liệu chúng ta có giữ được Quảng Trị không?” Đại tá Tâm “…chắc chắn chúng ta giữ được.” Chừng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp reo, tôi nhắc máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lăm, tư lệnh quân đoàn I vừa điện tŕnh Tổng Thống là Quảng trị đă thất thủ trưa hôm nay. Sự việc cho thấy là Trung tướng Lăm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng trị và như vậy là đă có một “sự cố bất thường” xẩy ra nên tôi bỏ pḥng họp đi gặp Tổng thống Thiệu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất b́nh tĩnh. Ông nh́n tôi nói: tôi điện thoại gần như mỗi ngày cho ông Lăm về t́nh h́nh quân sự Quảng trị, tối qua tôi c̣n nhắc ông Lăm phải coi chừng “thằng cộng sản” ngày 1/5, ông Lăm bảo đảm với tôi là không việc ǵ, thế mà như vậy. Ông dằn mạnh: đây là một “sabotage politique”.Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông.Những chuyện như vậy thuộc loại “cấm kỵ không phải có thể nói với bất cứ ai và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện của người thứ ba. Đó là nguyên tắc ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là cách để bảo đảm sựï an toàn cho chính ông. Trong trường hợp này, ông Thiệu là người duy nhất có đủ yếu tố chính trị để thẩm định, v́ ông là người trực tiếp chịu các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản đă đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ c̣n trở ngại về phía ông Thiệu. Gần đây tôi có đọc một chứng liệu của Đại sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh Độc-Lập một ngày sau khi Quảng trị thất thủ giữa Đại sứ Bunker, Tướng Abrams và Tổng thống Thiệu. Ông Thiệu đă không hề quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông im lặng một cách khó hiểu và măi đến phút cuối cùng “bật nói”: “…không có lư do ǵ Quảng trị lại bị thất thủ, tướng Giai phải chịu trách nhiệm về việc nầy.”Tướng Vũ văn Giai, Tư lệnh sư đoàn 3 giới tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ, bỏ lại binh sĩ và dân chúng với “đại lộ kinh hoàng” – đă bị đưa ra Ṭa án quân sự, bị tước đoạt binh quyền và ở tù.Tổng thống Thiệu đă ra lệnh tái chiếm Quảng trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn thất khó có thể bù đắp được trong thực tế bấy giờ nhưng ông đă phải quyết định như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với thế giới, với nhân dân Hoa Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản và Mỹ mà sau nầy được cụ thể trong Hiệp Định Paris 1973.Cũng tương tự như vậy, việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đă được sự thỏa thuận ngầm của Mỹ để đặt cộng sản Hà Nội sau nầy trước một “fait accompli”. Ông Thiệu biết Hải Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung Cộng và hạm đội 7 Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ quyền lănh thổ sau nầy.Bởi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nề riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường hợp ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đồng bào cùng chiến hữu của ông.
    H.- Nhận định của ông Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không?
    Đ.- Không. Các cuộc tấn công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ.Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc hành quân Lam Sơn 1971 v́ Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khi có dấu hiệu sa lầy ông đă ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lăm đưa ngay một đơn vị vào Tchepone “đái một băi” (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lưu ư là chương tŕnh rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của quân lực VNCH, và chương tŕnh Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức đề kháng và tồn tại.
    H.- Sau này, nhiều người trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đă dựa vào những cam kết mật của Tổng thống Nixon nên đă chấp nhận kư kết Hiệp Định Paris v́ không hiểu rơ tổ chức công quyền của Hoa Kỳ thẩm quyền của hành pháp và lập pháp. Như tiến sĩ Kissinger đă nhận định: đó chỉ là những ư định của Tổng thống Nixon, không có tính cách cam kết quốc gia v́ không có phê- chuẩn của quốc-hội.
    Đ.- Vào lúc bấy giờ ông Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kissinger sau nầy, nhưng ông cũng hiểu rơ vị thế yếu kém của VNCH và giới hạn cuối cùng mà ông có thể đ̣i hỏi ở Nixon. Ông Thiệu có chủ định rơ ràng là mua thời gian c̣n lại của nhiệm kỳ Nixon trong hoàn cảnh “c̣n nước c̣n tát”.Chúng ta cần nhớ rằng không hề có một hiệp ước Việt Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện pháp lư nào về quy chế trấn đóng của quân đội đồng minh trên lănh thổ Việt Nam bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng đầu năm 1965 dưới thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Pḥng kiêm Phó Thủ tướng; ông nói với tôi: t́nh h́nh bấy giờ hơn hai phần ba lănh thổ bị cộng sản ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp th́ miền Nam mất. Thời đệ I Cộng Ḥa, Tổng thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ từ chối. Các cố vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn đề đơn phương rút quân, Việt Nam hóa, Hiệp Định Paris. Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà người Mỹ cố t́nh không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lư “giấy trắng mực đen” như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những nơi Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn.
    H.- Đến bao giờ th́ ông Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nixon? Vụ ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trắc nghiệm về những cam kết mật hay không?
    Đ.- Ngay sau cuộc gặp gỡ Thiệu Nixon tại San Clemente tháng 4/73. Về phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ mang nhiều ư nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục ủng hộ của Hoa Kỳ với VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Cuộc gặp gỡ mặt đối mặt đă khẳng định cho ông Thiệu thấy không c̣n hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đă được hứa hẹn trước đây. Đây là lư do và thời điểm quyết định việc tu chính hiến pháp: gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thổng. Cuộc độc cử 1971 đă làm sút giảm uy tín chính trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, ngưng bắn tại chỗ, chinh phủ liên hiệp ba thành phần đă hoàn toàn xóa bỏ lập trường bốn không của ông; người Mỹ đă hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù binh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ rơi… khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu chuyện ông vua không quần áo (the emperor without any chothes) và hoàn toàn trắng tay. Tư thế lănh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng và đây là lư do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đă không bao giờ được tiết lộ. Nội dung tu chính bấy giờ được giữ mật v́ phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện tháng 10/73 mới đủ túc số thực hiện. Việc tu chính không nhằm vào nhiệm kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc Hội “để tái trang bị tư thế lănh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với t́nh thế mới. Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đă gắn liền với sự c̣n mất của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủy. Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestic vào đêm trước hôm biểu quyết, tôi có nói rơ: “đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân Tổng thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu”. Có thể họ hiểu là t́nh h́nh nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đă ở trên bờ vực thẳm. Nếu Kissinger đă tiên liệu thời gian có thể coi được (decent interval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi th́ ông Thiệu đă tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc Hội biểu quyết tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội đồng Tổng trưởng: “…các quan sát viên quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta c̣n ngồi ở đây hôm nay, tất cả đều nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ Paris…”. Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho Bộ Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để t́m hiểu trữ lượng dầu hỏa với hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm bộ trưởng dầu hỏa chứ không làm tổng thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điều kiện dễ dàng cho ngoại quốc đầu tư, ông nói với tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải “cho không”.Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một trắc nghiệm về ư đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đ̣n “trinh sát chiến lược”, sau đó Bộ Chính trị đă quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long v́ sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đắp, có chiếm lại cũng không giữ được, lực lượng trừ bị không c̣n và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp tới của cộng sản.
    H.- Ngoài việc tu chính gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, c̣n có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ 4 năm lên 5 năm. Lư do?
    Đ.- Lư do được viện dẫn của tu chính là chương tŕnh kinh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam v́ nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm th́ nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh hưởng nặng nề đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp th́ chúng tôi bỏ vào luôn.
    H.- Ông Thiệu có tham khảo ư kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không?
    Đ.- Không.Như tôi đă nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đă được quyết định ngay sau khi Tổng thống Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được Tổng thống Thiệu thông báo sau khi dự luật tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp tôi nói với ông Martin là tôi nhận thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ v́ Hoa Kỳ là đồng minh chính yếu đă giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến. Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v… Nội vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối.ÔNG NGÂN NÓI NHIỀU về vai tṛ xấu xí của người Mỹ tại Việt Nam. Điều này không phải là một khám phá mới.Chúng ta cảm phục chế độ chính trị dân chủ và tổ chức kinh tế, xă hội công bằng và cổi mở của Hoa Kỳ, nhưng nhiều người bất măn về ngoại chính của họ đối với Việt Nam ngày trước, và đối với nhiều nước khác hiện nay.Ông Ngân cũng thành công trong việc vẽ ra một ông Thiệu sợ Mỹ hơn sợ Việt Cộng, ưu tư và toan tính đối phó với Mỹ hơn là t́m cách bảo vệ miền Nam bằng những phương tiện quân sự eo hẹp hơn, nhưng cũng thích hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước.Nhưng ông không trả lời đúng vào câu hỏi thứ 3, về việc ông Thiệu không làm những điều cần phải làm để bảo vệ đất nước trong giả thuyết người Mỹ giải kết. Ông nói ông không bào chữa cho ông Thiệu, nhưng trút toàn bộ trách nhiệm làm mất Việt Nam cho Hoa Kỳ lại là cách bào chữa kiến hiệu nhất.Ông Thiệu sợ Mỹ nhưng cũng chính ông lại tuyên bố là “không có viện trợ Mỹ, tôi không làm tổng thống nữa”, xin ông Ngân giải thích mâu thuẫn này.Quan trọng nhất vẫn là vai tṛ của ông Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng của Nam Việt.

    (Theo BC Thời Báo – Nguyễn Đạt Thịnh)

  6. #16
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Những câu nói để đời nổi tiếng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu


    • Đừng nghe những ǵ Cộng sản nói, mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng sản làm!


    • Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản (Biếm chỉ Cộng sản nằm vùng khủng bố miền Nam Việt Nam trước năm 1975)


    • Công đức ngàn đời con tố mẹ, t́nh nghĩa trăm năm vợ tố chồng (Biếm chỉ chính sách đấu tố của Cộng sản)


    • Đất nước c̣n, c̣n tất cả; cộng sản thắng, mất tất cả.


    • Tôi mà tham nhũng th́ cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!


    • Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa th́ không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!


    • Làm kẻ thù của Mỹ th́ dễ, làm bạn với Mỹ th́ rất khó.


    • Sống không có tự do là đă chết.


    • Mỹ c̣n viện trợ, th́ chúng ta c̣n chống cộng. - (Theo vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Văn_Thiệu)


    Last edited by nguoibatcao; 31-03-2011 at 02:01 AM. Reason: chỉnh sửa hình thức

  7. #17
    Member
    Join Date
    21-10-2010
    Posts
    209
    Cờ vàng ba sọc đỏ đại diện cho chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hoà. Xin đừng đem lá cờ danh dự của VNCH ra làm nhục khi gán ghép Nguyễn Văn Thiệu với lá cờ vàng. Nên đem cờ đỏ sao vàng phủ lên quan tài của tên đào binh Nguyễn văn Thiệu v́ Nguyễn văn Thiệu đă có công đem miền Nam dâng hiến cho cộng sản.

  8. #18
    Member
    Join Date
    25-03-2011
    Posts
    4

    Soi gương....

    Quote Originally Posted by vogiacu View Post
    Cờ vàng ba sọc đỏ đại diện cho chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hoà. Xin đừng đem lá cờ danh dự của VNCH ra làm nhục khi gán ghép Nguyễn Văn Thiệu với lá cờ vàng. Nên đem cờ đỏ sao vàng phủ lên quan tài của tên đào binh Nguyễn văn Thiệu v́ Nguyễn văn Thiệu đă có công đem miền Nam dâng hiến cho cộng sản.
    Đó là thế nước,vận dân . Đổ lổi cho ai được đây ?Mỷ ?TT Nguyển văn Thiệu.? Hay là mổi cá nh6n,mổi cái ta, trong đó, góp phần nhỏ hay lớn,cao hay thấp về sự kiện làm mất miền Nam ? Méa culpa ! Đừng cay đắng ,đừng chụp mủ. Hảy "biết ḿnh biết người" ,đứng lên để làm ǵ giải thể chế độ VC th́ hay hơn...
    Người chết đả làm xong một nhiệm vụ lịch sử. Chỉ tới đó. Nếu ta Tài hơn Giỏi hơn th́ cứ Nối tiếp người đó đi tiếp con đường lịch sử đả "thua sátván" đả"dở dang", chớ lấy quyền ǵ mà "chưởi "kẻ đi trước. ? Có chắc ǵ ḿnh trong tư thế người ta lúc dó,ḿnh xoay được "càn khôn ?"
    Hảy rút ra bài học từ nhửng kẻ đi trước để tiến lên mới mẻ,có thành tựu hay hơn là cứ nguyền rủa "ông chủ lớn đả chết" của ḿnh,nhưng ḿnh th́ củng chả làm ǵ được.
    Hảy soi lại mặt ḿnh...!

  9. #19
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Quote Originally Posted by vogiacu View Post
    Cờ vàng ba sọc đỏ đại diện cho chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hoà. Xin đừng đem lá cờ danh dự của VNCH ra làm nhục khi gán ghép Nguyễn Văn Thiệu với lá cờ vàng. Nên đem cờ đỏ sao vàng phủ lên quan tài của tên đào binh Nguyễn văn Thiệu v́ Nguyễn văn Thiệu đă có công đem miền Nam dâng hiến cho cộng sản.
    Tất nhiên mất miền nam cũng có lỗi của cố TT Nguyễn Văn Thiệu, nhưng bạn hãy dành sự nóng giận đó cho bè lũ cộng sản VN, hãy làm ǵ đó "để giải thể chế độ VC th́ hay hơn" như ý bạn Lêthiái. Tôi nghĩ chính sự nóng giận và không có được tính đồng thuận và đoàn kết cao của các đảng phái trong cộng đồng người Việt Hải Ngoại cho nên đến giờ này bọn cộng sản VN vẫn ung dung lãnh đạo và thao túng quê me Việt Nam. Bạn nên đọc bài "Cộng sản Bắc Việt tuyên bố đầu hàng (1973)The North Vietnamese Surrender. - Việt Nam : Một dân tộc bị bức tử" để hiểu và biết thế khó của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc bấy giờ
    Last edited by nguoibatcao; 31-03-2011 at 01:41 PM. Reason: sủa chính tả

  10. #20
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Việt Nam : Một dân tộc bị bức tử

    Cộng sản Bắc Việt tuyên bố đầu hàng (1973)The North Vietnamese Surrender.


    “Chúng tôi không chẳng tính đến chuyện tiêu diệt Hà Nội, và ngay cả chuyện thắng Hà Nội cũng không được chúng tôi tính đến.

    Nếu có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Quốc, th́ chúng tôi cũng có thể chấp nhận Chính Phủ cộng sản ở (*) Đông Dương”
    (Henry Kissinger)

    Các tài liệu của ông cựu Cố Vấn Quốc Gia kiêm Ngoại Trưởng Mỹ Henry Kissinger vừa mới được bạch hóa .


    Henry Kissinger (Đi Đêm) với Lê đức Thọ (Thông dịch viên đứng ở giữa)

    (Ḥa đàm Paris)

    Cho thấy từ năm 1972, Hoa Kỳ đă âm thầm xác nhận chuyện chấp nhận để quân đội cộng sản Bắc Việt chiến thắng ,cưỡng chiếm Miền Nam;

    Nếu Bắc Việt trao trả Tù binh Mỹ và đợi sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam.

    Ngày 22 tháng Sáu năm 1972, Ngoại Trưởng Kissinger của Mỹ đến Bắc Kinh gặp Thủ Tướng Chu Ân Lai của Trung cộng.

    Trong buổi thảo luận, ông Kissinger nói rằng đ̣i hỏi mà phía miền Bắc đưa ra là Hoa Kỳ phải lật đổ chính phủ miền Nam do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lănh đạo là điều Washington không chấp nhận được.

    Tuy nhiên, Ngoại Trưởng Mỹ Henry Kissinger cũng nói :

    Nếu lịch sử xoay vần, chuyện cộng sản làm chủ toàn diện nước Việt Nam là điều Washington có thể chấp nhận được.


    Henry Kissinger bắt tay với Thủ Tướng Chu Ân Lai

    Nguyên văn lời của Henry Kissinger nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai Trung cộng như sau:

    “Chúng tôi không chẳng tính đến chuyện tiêu diệt Hà Nội, và ngay cả chuyện thắng Hà Nội cũng không được chúng tôi tính đến.

    Nếu có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Quốc, th́ chúng tôi cũng có thể chấp nhận Chính Phủ cộng sản ở (*) Đông Dương”

    (*) Ám chỉ là Việt Nam và Campuchia.


    Henry Kissinger cũng dự đoán :

    V́ có 45,000 binh sĩ Mỹ chết bởi súng đạn của miền Bắc. nên theo lời ông "dự đoán" phải đợi cả chục năm sau ngày chiến tranh kết thúc, Washington và Hà Nội mới có thể thiết lập bang giao:

    Việt cộng và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/7/1995.

    Trao đổi Đại sứ đầu tiên vào tháng 7/1997.


    Ngày 1 tháng 12 1975 TT FORD và Kissinger đến Trung cộng để tiếp tục thương thảo với Đặng tiểu B́nh


    Tháng 2 1976 NIXON bắt tay với những người bạn mới ...




    http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/HAK%206-20-72.pdf

    Cuộc Đàm Thoại Kissinger và Chu ân Lai :

    Những Nhân Vật Tham Dự: Thủ Tướng Chu Ân Lai ( Ch'iao Kuan-hua) Phó Tổng Trưởng Ngoại Giao; Chang Wen-Chin, Phụ Tá Tổng Trưởng Ngoại Giao; Tang Wen-sheng, Chao-chu, Thông Dịch Viên Hai nhân viên ghi chú biên bản.

    Henry A. Kissinger, Phụ Tá Tổng Thống về An Ninh Quốc Gia; Winston Lord, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia; John D. Negroponte, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.

    Ngày và Giờ: Thứ Ba, ngày 20 tháng 6 năm1972, 2:05 - 6:05 chiều

    Địa Điểm: Đại Sảnh Đường Nhân Dân, Bắc Kinh.

    Dưới đây là cuộc đàm thoại, thương lượng và trả giá giữa Henry A. Kissinger Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai về tương lai miền Nam VNCH.


    Từ trang 27

    Kissinger: Đó không phải là ư định của chúng tôi. Chúng tôi không có ư định thành lập một chế độ công quản.Nó đ̣i hỏi một hoàn cảnh khác thường để chúng tôi thực hiện điều này. Không phải là ư đồ của chúng tôi để tạo ra một chế độ công quản.

    Chúng tôi thực có ư định tạo dựng một bức tường ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng, dù về chính trị hay là thực thể vật chất. Điều khiến chúng tôi quan ngại nhất là khi cường quốc khai thác những xung đột địa phương cho mục đích riêng của họ.

    Chu ân Lai: Trong những phản đối của Nga Sô về bản thông cáo giữa chúng tôi với quí quốc h́nh như họ đặc biệt bày tỏ sự phản đối về nguyên tắc chung: "Không bên nào nên làm bá chủ." Họ có nghĩ là điều đó nhắm vào họ không?

    Kissinger: Họ không nói, nhưng h́nh như họ nghĩ rằng điều đó có thể nhắm vào họ. Chúng tôi cho rằng nó nhắm vào những quốc gia muốn tạo chế độ công quản. Tôi có một thắc mắc lư thú từ Ấn Độ - không biết Thủ Tướng có nghĩ vậy không. Họ nói rằng khi Á Châu - Thái B́nh Dương không bao gồm Ấ Độ, vậy những ǵ chúng tôi nói tức là chúng tôi thỏa thuận để Trung Hoa công quản Ấn Độ (cười). Nên tôi nói với họ là không đúng. Tôi mong Thủ Tướng không phật ư.

    Chu ân Lai: : Ấn Độ là một quốc gia hết sức mập mờ. Đó là một quốc gia rất to lớn. Nhiều khi họ làm ra vẻ một quốc gia lớn, nhưng nhiều khi họ có mặc cảm tự ti.

    Kissinger:Họ bị khống chế bởi ngoại bang qua gần hết lịch sử của họ.

    Chu ân Lai: Vâng, đó có thể là một trong những nhân tố lịch sử. Và một nhân tố nữa là quá nhiều cạnh tranh vĩ đại trên thế giới. Bây giờ chúng ta sang tới vấn đề Đông Dương .Tôi muốn nghe ông tŕnh bày.

    Kissinger: Thủ Tướng có nói ông có vài nhận định muốn nói với tôi. Có lẽ chúng ta nên đổi vị trí để Thủ Tướng phát biểu trước.

    Chu ân Lai: Có những vấn đề cần tranh luận, và chúng tôi muốn nghe ông trước để biết giải pháp của ông cho vấn đề.

    Kissinger: Thủ Tướng muốn gợi ư là sau khi nghe tôi tŕnh bày tôi sẽ thuyết phục được khiến mọi tranh luận sẽ biến mất, và sẽ không c̣n điều ǵ thêm để Thủ Tướng phải nhận định?

    Chu ân Lai: Tôi không có những dự tính đó, nhưng tôi thực sự mong sẽ giảm thiểu được những tranh luận.

    Kissinger: Tôi sẽ tŕnh bày sự thẩm định thật vô tư của chúng tôi. Tôi biết không hợp với ư Thủ Tướng, nhưng tôi nghĩ dù sao nó cũng ích lợi để Thủ Tướng hiểu quan điểm của chúng tôi về hiện t́nh. Và tôi sẽ tŕnh bày t́nh h́nh từ khi Bắc Việt bắt đầu vụ tấn công ngày 30 tháng 3.

    Tôi tin rằng tôi đă giải thích vói Thủ Tướng những mục tiêu tổng quát của chúng tôi ở Đông Dương. Hiển nhiên không phải mục tiêu của chính phủ này là sẽ duy tŕ vĩnh viễn những căn cứ tại Đông Dương hoặc tiếp tục chính sách khởi xướng bởi vị tổng trưởng ngoại giao đă từ chối bắt tay Thủ Tướng. Không phải như vậy? chúng ta đang ở một giai đoạn lịch sử khác. Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những ǵ xảy ra tại Phnom Penh, tại Hà Nội hoặc ở Sài g̣n. Chắc Thủ Tướng c̣n nhớ khi Tổng Thống Johnson đưa quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam ông biện minh rằng v́ một phần những ǵ xảy ra tại Đông Dương đă được kế hoạch tại Bắc Kinh và là một phần của âm mưu thôn tính toàn cầu. Dean Rusk đă diễn đạt như vậy trong một bản tuyên bố. Rồi quí quốc tiến hành cuộc Cách Mạng Văn Hóa và không, với những ǵ tôi đọc, nhấn mạnh đến phiêu lưu ra ngoại bang.

    Với thực tế chúng ta đang ngồi họp trong pḥng này đủ thay đổi nền tảng mục đích của cuộc can thiệp đầu tiên tại Đông Dương. Là người thừa hưởng cuộc chiến vấn đề của chúng tôi là t́m cách thanh toán nó với một phương thức không ảnh hưởng đến uy tín toàn cầu của chúng tôi và - - đây không phải là mối quan tâm chính của Thủ Tướng - - để ổn định nội bộ tại Hoa Kỳ. Nên chúng tôi đă chân thành cố gắng để chấm dứt chiến tranh, và Thủ Tướng có thể biết hoặc không biết, tôi đă đích thân khởi xướng thương lượng với Bắc Việt năm 1967 khi tôi c̣n ở ngoại biên của chính quyền khi không được quần chúng ưa thích, v́ tôi tin rằng phải có một giải pháp chính trị để chấm dứt cuộc chiến. Rồi từ khi chúng tôi nắm chính quyền chúng tôi đă cố gắng chấm dứt cuộc chiến. Và chúng tôi hiểu, như tôi đă thưa với Thủ Tướng trước đây là, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là một nhân tố vĩnh viễn trên bán đảo Đông Dương và có thể là một thực thể mạnh nhất. Và chúng tôi đă không có ư định tiêu diệt họ hoặc ngay cả đánh bại họ. Sau khi chiến tranh chấm dứt chúng tôi sẽ triệt thoái xa 12 ngàn dậm. Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa vẫn chỉ cách Sài g̣n 300 dậm. Đó là một thực tế mà họ có vẻ không hiểu.

    Chu ân Lai: Điều mà họ quan tâm tới là vụ gọi là Việt Nam Hóa chiến tranh của quí quốc.

    Kissinger: Nhưng họ có một sự thiếu tự tin kỳ lạ. Chúng tôi đă cố gắng làm ǵ? Chúng ta hăy quên "họ là bậc thầy về phân tích những điểm khác nhau nhưng quên những khái niệm toàn bộ". Chúng tôi đă cố gắng tách rời hậu quả quân sự ra khỏi hậu quả chính trị để rút ra khỏi vùng và để những thế lực địa phương tự xếp đặt tương lai của họ. Thật rất kỳ lạ, phía Bắc Việt đă cố níu chúng tôi ở lại để chúng tôi giải quyết vấn đề chính trị cho họ. Thí dụ như ngày 30 tháng 5 vừa qua, chúng tôi đă đề nghị là chúng tôi sẽ triệt thoái tất cả lực lượng nếu có sự ngưng bắn và hoàn trả các tù binh. Đúng là ngày 31, không phải 30. Phía Bắc Việt sẽ ở đâu ngày hôm nay nếu họ đă chấp thuận dề nghị này. Tại sao? V́ họ muốn chúng tôi lật đổ chính quyền và đặt để chính quyền của họ vào. Chúng tôi không thương lượng. Tôi cố gắng giải thích điều chúng tôi suy nghĩ. Hậu quả thực tế của những đề nghị của chúng tôi vẫn là để chúng tôi triệt thoái. Hậu quả thực tế của những đề nghị của họ là giữ chúng tôi ở lại.

    Họ có hỏi chúng tôi "có một đ̣i hỏi họ đưa ra mà chúng tôi đă không đáp ứng, không thể đáp ứng và sẽ không đáp ứng, dù phải trả với giá nào với những quan hệ khác", và đó là chúng tôi lật đổ những nhân vật chúng tôi vẫn thường giao thiệp và cũng là những người tin tưởng ở chúng tôi, đă có một hành động nào đó. Đây không phải là sự ưa thích cá nhân của một nhân vật nào đó đối với những nhân vật liên hệ. Không phải v́ chúng tôi muốn có một chính quyền thân Mỹ ở Sài g̣n. Tại sao chúng tôi lại muốn một chính quyền thân Mỹ ở Sài g̣n khi chúng tôi có thể sống với những chính quyền không thân Mỹ tại các quốc gia to lớn hơn nhiều ở Á Châu? V́ rằng một quốc gia không thể bị đ̣i hỏi để ràng buộc vào một hành động phản bội to lớn và coi đó như một nền tảng cũa chính sách đối ngoại.

    Chu ân Lai: Ông nói triệt thoái những lực lượng. Ông muốn nói triệt thoái toàn bộ Lục quân, Hải quân, Không quân, các căn cứ và tất cả?

    Kissinger: Năm ngoái khi tôi ở đây, Thủ Tướng đă hỏi tôi điều này. Tôi đă tŕnh Thủ Tướng chúng tôi muốn lưu lai một số cố vấn. Rồi Thủ Tướng có nói một câu rất hay về hậu quả của cái mà Thủ Tướng gọi là "để cái đuôi ở lại." Phần lớn do lời nói đó, chúng tôi, trong ṿng một tháng, đă thay đổi đề nghị của chúng tôi nên bây giờ bao gồm luôn việc triệt thoái toàn bộ cố vấn trong những loại Thủ Tướng nêu lên bây giờ. Chúng tôi đă chuẩn bị triệt thoái tất cả lực lượng...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:43 PM
  2. Replies: 10
    Last Post: 14-12-2011, 05:35 PM
  3. VNCH dân chủ tự do gấp triệu lần hơn CHXHCN
    By SilverBullet in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 03-12-2011, 04:18 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 15-11-2011, 10:59 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 17-10-2011, 02:52 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •