Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 16

Thread: Con Sóng Dữ.

  1. #1
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78

    Con Sóng Dữ.



    Chương Một
    Chuyến Đi Không Thành.

    Tôi có mặt tại điểm hẹn ở trạm xe buưt gần rạp hát Opera vào lúc 8:45 sáng và theo lời dặn hễ thấy chiếc xe buưt nào mang số 225-434 ngừng gần th́ bước lên ngay. Tôi chờ mà ḷng thấp thỏm lo sợ công an có thể đang phục kích gần đâu đó. Giả vờ như khách bộ hành mệt mỏi ngồi nghỉ chân bên vệ đường đang xem báo mà thực sự trong tôi cầu mong chiếc xe buưt đến đúng giờ. 9 giờ rồi, đúng giờ hẹn mà xe vẫn chưa thấy. Lấy tờ báo trong túi sách ra rồi cúi xuống vờ đọc th́ vừa lúc một xe buưt trờ đến, tôi vơ vội túi hành lư nhỏ nhưng hàng số bên hông xe không phải chiếc xe đón người. Vài người trên xe buưt bước xuống, xe chạy đi ngay. Tôi nh́n đồng hồ 9:10 rồi 9:20 và... 9:30 mà chưa thấy xe đâu. Lo lắng nh́n phía bên kia đường, bắt được vài tia mắt nh́n vội về tôi rồi quay đi. Tia mắt của những người ngồi gần gốc cây bên vệ đường và người nào cũng có một túi xách nhỏ. Tự nhiên tôi cảm thấy bất an vô cùng v́ biết họ cũng đang chờ xe như tôi. Họ là bạn đồng hành với tôi qua thái độ và hành lư mang theo bên ḿnh. 9:45 phút mà vẫn chưa thấy xe! Lo quá! Làm ǵ bây giờ đây? Phải quyết định ngay, tôi không thể chần chờ được. Nhớ lời dặn của chị Thu nếu xe trễ 30 phút th́ bỏ về ngay v́ chuyến đi coi như đă bị trục trặc. Nấn ná ở lại bị công an tó ráng chịu. Nh́n sang bên kia đường nơi có các bạn đồng hành của tôi, họ đă biến mất hết. Giờ chỉ c̣n có một ḿnh tôi. Phải dọt ngay. Tôi đứng lên, định rảo bước th́ tiếng xe thắng gấp gần bên. Chiếc xe mang biển số 225 434 tôi đang mong. Hấp tấp, tôi bước lên. Lơ xe ngó quanh quất chung quanh, miệng nói lớn: " Có ai nữa không, lên xe ngay ". Lề đường vắng lặng, người lơ tiếp luôn: "Tới luôn, hết khách rồi bác tài ". Tôi vội vàng ngồi ngay vào một ghế bên cửa sổ như thói quen khi đi xe buưt. Nh́n ra bên ngoài, tôi thấy bên kia đường, hai người trong số ngồi chờ xe lúc năy đang chạy theo và cố sức ra dấu để mong xe ngừng lại. Xe bỏ mặc và chạy thẳng.

    Xe lần lượt ghé từng điểm hẹn để nhận khách rồi cứ thế chạy lần ra ngoại ô hướng về Thủ Đức và sau cùng trực chỉ Vũng Tàu. Đến thành phố biển Vũng Tàu vào giấc chiều và ngừng ở một băi trống gần con đường mang tên Ba Cu. Tất cả khách trên xe được dặn nhỏ tạm thời tản ra, giả dạng khách du lịch đi ḷng ṿng đâu đó chơi nhưng phải quay về xe lúc 7:30 chiều.

    Nhập vào ḍng người du lịch, tôi đi ḷng ṿng qua các con phố rồi ghé vào tiệm uống cà phê ngồi xem báo để hết thời gian. Thời gian nầy Vũng Tàu có khá đông khách ngoại quốc từ các nước CS Đông Âu hoặc từ Liên Xô đến. Họ là chuyên viên trong các công ty khoan dầu hoặc các công tŕnh khác ở miền Nam và đổ về đây để tắm biển để nghỉ ngơi... Quay về xe buưt lúc 7:10, tôi chọn một chỗ ngồi khá xa để pḥng các bất trắc. Khi thấy khách kéo nhau lên xe buưt khá nhiều, tôi mới rời chỗ để lên xe. Trong xe chật cứng người, đám tổ chức đă nhét thêm khách cho chuyến hải hành tối nay. 7:30 chập choạng tối, xe buưt khởi hành nhưng chỉ chạy ḷng ṿng trong thành phố để chờ trời tối hẳn. Có lúc xe ngừng lại, tài xế và các lơ xe làm bộ sửa máy hoặc xem lại các bánh xe. Tôi ngồi im lặng, cầu mong mọi sự an lành.

    Trời tối hẳn, xe chạy nhắm hướng băi trước và khi vừa ngừng sát cạnh bờ biển th́ đột nhiên toàn bộ điện đường ngay khu vực bị cúp hẳn. Trong bóng tối đen, nhóm tổ chức hối thúc khách rời khỏi xe và chạy ngay xuống mép nước. Chạy đến mép nước, dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn hải đăng xoay trên đỉnh núi, một ghe khá lớn đă có mặt sát bờ tự lúc nào. Nhiều người đang bước b́ bơm để ra ghe. " Cá lớn đó... Lội ra ngay đi bà con ", tiếng một người x́ xào. Một đống dép, guốc của hành khách vất bỏ trên băi cát chung với các túi xách. Kinh nghiệm của những lần vượt biên không thành từ trước, tôi không vất bỏ đôi dép mà cẩn thận lấy ra một sợi dây thủ sẵn trong túi. Luồn dây vào đôi dép rồi cột nó vào quai con đỉa của cái quần dài đang mặc, sau đó tôi bắt đầu lội từng bước ra ghe. Tối nay, không hiểu do một hiệu ứng ǵ mà mặt biến lấp lánh các vệt sáng màu xanh lá cây trông rất kỳ lạ. Các vệt sáng xanh phản chiếu những lọn sóng, thân người khi họ chuyển động gần bên ghe. Cố gắng hết sức để bước dần tới được cạnh ghe mà mực nước đă tới ngang cổ tôi. Sát bên ghe nhưng tôi không biết làm sao để có thể trèo lên được? Bất ngờ, tôi chạm phải một cạnh gỗ nằm ngang thân ghe và nhờ nó tôi có thể dựa vào để trèo lên. Một bàn tay của người đứng trên sàn đă nắm lấy tôi, kéo tôi lên rồi trong chớp mắt, người đó ấn tôi chui xuống ngay khoang hầm ghe. Trong khoang hầm chật cứng người. Chưa kịp nh́n rơ mọi thứ th́ có thêm người nữa trèo xuống. Nước biển từ người họ văng tung toé vào thân, mặt tôi. Chợt máy ghe nổ to hơn và dường như nó chạy lùi rồi làm một ṿng quay ra biển. Chuyến hải hành vượt biên đầu tiên trong đời tôi bắt đầu. Đó là 9 giờ tối của một ngày cuối tháng 7 năm 1984.

    Tôi ngồi yên, lưng dựa vào vách gỗ thân ghe, mắt nhắm nghiền v́ mệt và v́ có mở mắt cũng chẳng thấy chung quanh rồi thiếp đi lúc nào không hay. Ghe vẫn chạy êm ả nhưng chuyến đi thật không suôn sẻ. Không gặp ghe công an biên pḥng và tàu hải tặc Thái Lan nhưng sau 4 ngày 5 đêm, các tài công đă quay mũi để trở về Việt Nam khi vừa lượn quanh một dàn khoan dầu Mă Lai Á. Khách trên ghe không ai biết hành động của đám tài công cho măi hơn một ngày sau họ nói ra th́ mọi người mới biết. Khách, hết hăm doạ rồi năn nỉ thậm chí cả lạy lục đám tài công để họ từ bỏ ư định điên rồ mà tiếp tục chuyến vượt biên nhưng vô vọng. Tôi biết bản thân phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc sẽ xảy ra khi chiếc ghe cập vào một bờ băi nào đó của nước Việt.

    Tài công-thợ máy của ghe gồm ba người. Hai anh em ruột và người kia là bạn của họ. Tất cả đều có bồ (bạn t́nh) nhưng đều vắng mặt trong chuyến đi. Sau 4 ngày 5 đêm hải hành, thấy những khách trên ghe có vợ, con đi theo làm họ nhớ đến các bạn t́nh. Đó là lư do khiến họ quyết định quay ghe trở về Việt Nam. Họ tính sẽ tắp ghe vào một băi biển kín đáo nào đó để rồi từ chỗ trú ẩn tạm thời, họ đi về địa phương và đón bạn t́nh ra ghe xong sẽ khởi hành trở lại. Họ giải thích cho chúng tôi nghe về kế hoạch và cam đoan là sẽ không gặp khó khăn ǵ hết miễn là tất cả khách ém yên lặng dưới các khoang hầm trong thời gian dừng ghe. Một việc làm quá sức nguy hiểm và dại dột. Chúng tôi ai cũng biết nhưng không thể làm ǵ khác được v́ họ khăng khăng không nghe. Hăm dọa sẽ đả thương nếu họ từ chối cũng không xong. Khách, ai cũng mệt mỏi v́ say sóng nên đành thúc thủ trước các tài công khoẻ mạnh. Suy nghĩ đơn giản của các chàng ngư phủ ngang với trí năo của người ít học. Lo lắng các tai ương sắp sửa ập xuống trên ghe mà ḷng tôi vẫn thầm mong sẽ có sự may mắn xảy ra như ư muốn của ba tài công trẻ tuổi.

    Chúng tôi ngồi yên nh́n nhau buồn bă chung một nỗi lo những bất trắc sẽ giáng xuống đầu ḿnh.

    Khi vừa thấy dạng đất liền, các tài công đă thúc hối mọi người trên sàn ghe phải chui ngay xuống các khoang hầm. Có người do say sóng quá sức nên không chịu chui xuống, viện lư do sức họ quá yếu nếu xuống khoang hầm lần nữa họ sẽ chết. Các tài công dùng vũ lực để xốc những người chống đối xuống lại khoang hầm. Nằm im trong khoang, chúng tôi phỏng đoán t́nh h́nh bên ngoài qua những lời tài công đối đáp. Có người lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Thời gian trôi qua nặng nề. Tiếng máy vẫn nổ êm ả. Ghe đang ở trong vùng biển nào? Chỗ kín đáo tài công nói sẽ cho ghe tắp là đâu? Có thực an toàn không? Qua lời tài công tṛ chuyện, chúng tôi biết họ đă thấy hai chiếc ghe khác. Chúng tôi ai cũng lo lắng trong ḷng. Hai ghe đó là ghe ǵ? Ghe đánh cá hay công an biên pḥng? Đột nhiên tiếng súng vọng lại từ xa xa. Chết rồi. Tiếng người hét to cùng với tiếng khóc trong khoang hầm. Tài công tăng tốc cho ghe chạy thật nhanh. Tim tôi đập liên hồi, tay chân tự nhiên có lúc tê cóng. Tôi đang sợ. Thôi thế là chết. Đến được giàn khoan nước ngoài đă tưởng thoát để rồi quay về và bị rượt đuổi... " Giờ tụi mầy sáng mắt chưa. Thật một lũ ngu dốt ". Tiếng ai đó nói khá to gần tôi. Cuộc rượt đuổi bên ngoài diễn biến ra sao chúng tôi không ai biết nhưng sau cùng, một tiếng sầm thật lớn như ghe đâm vào vật ǵ đó bên ngoài. Tài công bỏ ghe nhẩy ùm xuống nước cùng với tiếng khóc tiếng la của khách trong khoang hầm làm mọi người càng sợ hơn. Cùng với các người khác, tôi vội đu người nhẩy lên ngay sàn ghe th́ mới biết trời bên ngoài đă nhá nhem tối. Ghe đang trong khúc rạch hẹp, vắng lặng và không một bóng người. Chúng tôi nhẩy ngay xuống nước để lội vào bờ theo dấu tài công. Vừa leo được lên bờ đất tai đă nghe tiếng súng nổ gần bên và bóng dáng của hai ghe lạ đang lướt sóng chạy đến. Chúng tôi cắm đầu bỏ chạy cả đám, thân ai nấy lo. Trời tối rất nhanh. Thêm tiếng súng nổ kèm với tiếng thét tiếng khóc. Tôi chạy... chạy măi nhưng chỉ một lát sau, tôi đă mất dấu với người chạy đằng trước. Cảm giác đau chân mới nhớ ḿnh c̣n đôi dép cột bên người nên tôi vội vă cởi nó ra và mang ngay vào chân. Đôi dép da có quai đeo sau gót và nhờ nó, tôi mới có thể bước những bước chân lần ṃ trong đêm tối lờ mờ. Tôi đi lầm lũi cho đến lúc không c̣n thấy rơ cảnh vật chung quanh nữa. Trời đă hoàn toàn tối đen. Ngồi xuống nghỉ ngơi, tôi ngước mắt lên bầu trời đầy sao và tự hỏi đây ở đâu và bây giờ ḿnh phải làm ǵ? Không thoát khỏi đây đêm nay, chắc chắn ngày mai tôi cũng sẽ bị bắt.

    Ngồi trong chốc lát cảm thấy bớt mệt, tôi đứng lên ngó chung quanh và thấy thấp thoáng xa xa có ánh đèn dầu. Nh́n chăm chú, ánh đèn dầu thật nhưng không biết nơi đó là ǵ? Nhà dân lành hay cán bộ CS? Đành nhắm hướng theo nó mà đi. Có đến gần mới biết. Ánh đèn lấp lánh trong đêm tối, tưởng gần nhưng thực sự rất xa. Tôi phải lần ṃ bước từng bước chân, tay vạch cây lá mà đi. Có lúc phải lội qua các vũng nước bất chấp gai cào và có khi bước hụt chân, lọt xuống các hố cạn. Tôi sợ ánh đèn dầu đó tắt mất và cả tiếng đồng hồ sau mới đến được. Nó chiếu ra từ căn nhà tranh nhỏ. Vừa đến trước cửa nhà, một con chó nhẩy xổ ra sủa inh ỏi làm tôi đứng yên không dám động đậy . Nghe tiếng chó, bóng một người từ trong nhà lách cửa bước ra nh́n. Thấy tôi đứng lù lù trong đêm tối, người đó hét lên một tiếng khá to rồi quay ngay vào bên trong. Tiếng hét của một phụ nữ. Chần chừ ít phút, tôi nói một hơi: " Chị à! tôi là người chứ không phải là ma quỷ, đừng sợ. Tôi lạc đường từ chiếu tới giờ cần chị giúp đỡ ". Tôi lập lại vài lần như vậy, người phụ nữ mở hẳn cửa bước ra nh́n chăm chăm rồi nói hăy đứng yên chờ để chị ta đi gọi chồng về.

    Cầm cây đèn dầu bóng trứng vịt, người phụ nữ biến mất trong bóng đêm cùng với con chó để ḿnh tôi ngồi trước căn nhà nhỏ. Chờ khá lâu có tiếng chó sủa và bóng hai người trong ánh đèn bước đến bên tôi. Người chồng cầm cây đèn đến gần, nh́n rơ mặt tôi rồi hỏi đi đâu mà có mặt ở đây trong đêm tối? Ông ta chưa biết sự việc của chiếc ghe vượt biên? Thầm nghĩ thật nhanh, tôi nghĩ phải nói thật cho họ biết sự việc. Tôi liền kể tóm tắt câu chuyện. Nghe câu chuyện, hai vợ chồng chủ nhà nh́n nhau trong chốc lát và người chồng lắc đầu bảo tôi phải đi ra xa khỏi căn nhà họ. Đi đâu th́ đi, họ không muốn liên lụy với người vượt biên rồi cả hai vợ chồng bước vào nhà và kéo ngay tấm phên che cửa. Tôi thất vọng nh́n căn nhà nhỏ bé trong bóng tối lờ mờ. Gặp người trong vùng nhưng không chịu giúp. Căn nhà lợp lá dừa nước như hầu hết nhà trong vùng sông nước miền Nam với một lu nước bên cạnh và cửa ra vào là miếng phên lớn khép hờ. Họ, một cặp vợ chồng trẻ ở riêng, tôi chắc vậy. Họ ở đây vậy có nhà người khác nữa không? Rồi v́ quá mệt, tôi cứ ngồi lỳ tại chỗ và sự thực tôi chẳng biết đi đâu? Con chó vẫn đi quanh quẩn bên tôi. Có lúc nó sủa hoặc gầm gừ nho nhỏ. Tôi nằm lăn trên đất rồi ngủ. Ngủ ngon lành cho đến khi có người lay vào vai làm tôi thức dậy. Một ông già tay cầm cây đèn dầu ngồi trước mặt, nở nụ cười móm xọm với tôi. Hai vợ chồng đứng sau lưng ông già.

    - Tôi mời cậu vào nhà. Ông già nói.

    Theo chân ba người đi vào bên trong căn nhà, người vợ cho biết thấy tôi cứ ngồi lỳ rồi nằm ngủ tại chỗ nên cả hai đă đi gọi cha họ đến. Ông già nói tôi hăy đi nơi khác đi, nhà họ không thể giúp đỡ hay chứa chấp tôi được. Công an và du kích sẽ đi lùng sục ngay sáng mai để lùng bắt người trốn chạy trong chiếc ghe vượt biên mắc cạn.

    - Anh làm ơn đi nơi khác đi để cho tụi tui yên ổn làm ăn. Giúp anh rủi công an biết, chắc chắn gia đ́nh sẽ bị liên lụy và có khi phải ở tù nữa. Nhà tui nghèo lắm, phải t́m đến phá đất lập nghiệp vùng sát biển như vầy anh biết rồi. Người chồng nói.

    - Muốn giúp cậu cũng không biết phải giúp như thế nào? Công an có tai mắt khắp nơi... Sớm muộn ǵ chúng cũng biết. Giúp cậu, nhà cửa tụi tui sẽ tan nát hết. Cậu thương th́ đi nơi khác... Coi như gia đ́nh tui và cậu chưa biết nhau, mong cậu thông cảm. Giọng ông lăo khẩn khoản.

    Tôi im lặng nh́n chung quanh căn pḥng. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn gỗ nhỏ. Một tủ thờ cũ nằm sát bức vách ngay trước cái bàn. Trang thờ nhỏ nằm trên cao sát với mái lá có h́nh Phật Bà Quan Âm với bát hương với vài chân nhang đỏ. Hai ba h́nh mầu ca sĩ cắt từ các tấm lịch cũ dán trên bức vách. Sát bên vách nhà, một cái cái giường tre nhỏ với các vật dụng như cuốc, thuổng, đồ bắt cá... nằm lăn lóc dưới gầm. Một gia đ́nh người miền Nam hiền lương thờ Phật. Không có dấu vết CS như các tấm bảng đỏ ghi công ta thường thấy trong nhà cán bộ. Nh́n ông lăo và hai vợ chồng chủ nhà, tôi nài xin hăy t́m cách nào đó giúp đỡ, đừng xua đuổi tôi.

    - Nếu bác và anh chị làm phước giúp tôi, Phật Bà Quan Âm sẽ phù hộ cho gia đ́nh. Tôi vượt biên v́ thuộc gia đ́nh chế độ cũ VNCH. Sống không nổi trong chế độ mới, tôi vượt biên rồi chuyến đi không thành phải quay về. Tôi không muốn bị công an bắt chứ đâu phải thành phần bất hảo trộm cướp ǵ. Bác ơi! xin hăy giúp, không bao giờ gia đ́nh con quên ơn việc bác và anh chị làm hôm nay. Tôi năn nỉ.

    Cả ba người lắc đầu, nhất định không giúp c̣n tôi cứ ngồi lỳ một chỗ. Thấy không xong, họ kéo nhau ra ngoài sân, bỏ tôi ngồi một ḿnh. Một lúc sau, cả ba quay vào và dặn tôi phải làm theo những ǵ họ sắp đặt. Nếu tôi trái lời để xẩy ra chuyện, tất cả đều chết với công an. Họ lăn một lu sành khá lớn từ bên ngoài và chuyển nó vào trong căn buồng của đôi vợ chồng trẻ. Họ ém tôi ngồi trong cái lu dưới lớp lưới, quần áo và các vật dụng lặt vặt trong nhà suốt cả ngày hôm sau và bốn ngày kế tiếp. Chỉ đêm khuya tôi mới được ra ngoài để ăn uống, rửa ráy qua loa, đi tiêu tiểu và thư giăn tay chân trong chốc lát. Sau đó phải vào ngồi lại trong lu sành. Trong lu sành ban ngày, tôi đă thót người khi nghe các mẩu đối đáp của dân trong vùng, du kích hoặc công an... ghé vào nhà nói chuyện với nhau về chiếc ghe vượt biên. Công an, bộ đội biên pḥng và du kích đă bắt được toàn bộ người trên ghe kể cả các tài công-thợ máy. Tôi hồi tưởng lại các chuyện cũ đời ḿnh. Đă nhiều lần vượt biên mà chưa lần nào tôi thoát ra khỏi nước. Đêm ngày 29 rạng 30 tháng 4 năm 1975 trong thủ đô Sài G̣n, mắt tôi đă tuyệt vọng nh́n máy bay trực thăng UH chở người từ các cao ốc bay di tản ra hướng biển. Người ngồi trên các trực thăng đó thật có phước. C̣n tôi! Tôi làm sao để vào được các cao ốc như họ? Ra bến tàu nhưng cũng không vào được. Hàng rào kẽm gai cao vút và những họng súng của lính gác chỉa thẳng ra ngoài đă cản chân tôi cùng rất đông người đang có mặt tại đó. Khi trời quá trưa, tôi quay về nhà lúc bộ đội Việt Cộng làm chủ thành phố. Cuối năm đó, gia đ́nh tôi đi vùng kinh tế mới ở Trị An-Đồng Nai. Chặt cây, phá rừng, cuốc đất dọn rẫy đến chai cả tay rồi những cơn sốt rét vật tôi quằn quại trên giường. Cái lạnh của cơn sốt dù trùm cả đống mền dầy lên người mà hai hàm răng vẫn đánh vào nhau lập cập. Cái lạnh thoát ra từ tận trong xương trong tủy tôi. Bỏ rừng về lại thành phố cũng chẳng yên. Những ngày phải sống trốn tránh v́ đă cố t́nh vắng mặt trong buổi tuyển quân nghĩa vụ quân sự tại văn pḥng phường đội. Không muốn chết oan ức hay bị tàn phế vô nghĩa tại chiến trường Kampuchia, tôi đă vượt biên. Những lúc hồi hộp nằm ém ḿnh trong nhà dân để chờ ghe ta xi đón ra cá lớn để rồi phải quay về chờ chuyến khác. Giờ đây, thu ḿnh trong lu sành, lúc nào tôi cũng sợ khi có tiếng chân người lại gần.

    Ém trong lu sành, tôi biết đă quá may mắn khi vô t́nh chạy đến nhà cặp vợ chồng trẻ (tên anh chị Tư). Qua các câu chuyện họ đối đáp, đùa giỡn... lộ rơ là dân quê miền Nam hiền lương chất phác. Có đêm, tôi c̣n nghe tiếng ông lăo niệm kinh Phật nữa. Hai cha con đă lấy quần áo cho tôi thay, múc nước mang khăn cho tôi rửa ráy người qua quưt hoặc ép tôi ăn thêm cơm nóng hổi. Mặt ba người đầy vẻ lo lắng cho tôi tưởng như đang săn sóc người thân thiết ruột thịt của họ. Bác Ba, tên ông lăo, kể cho tôi biết những năm trước đây ông sống ở Bạc Liêu, làm việc trong một nhà máy xay lúa Hoa kiều. Khi chủ nhân ghi danh xuất cảnh ra nước ngoài, nhà máy bị chính quyền địa phương tịch thu được một thời gian phải đóng cửa v́ cán bộ Việt Cộng điều hành kém cỏi. Không có việc làm, ông theo bạn bè vào đây khai đất làm các vuông nuôi tôm.

    - Tui năm nay sáu mươi hai tuổi rồi cậu. Lập gia đ́nh trễ, chỉ có ba đứa con. Đứa lớn là chị gái thằng Tư hiện đang sống với chồng con ngoài chợ cầu Cà Mau. Vợ tui sống chung với chúng. Bả buôn bán lặt vặt ở chợ kiếm thêm ít đồng. Cha con tui cũng thay nhau chạy ghe chở khách kiếm tiền ở ngoải... khi nào có việc th́ vào đây như canh thay con nước. Thỉnh thoảng, tui đón vợ tôi vào sống ít ngày với vợ chồng thằng Tư cho vui. Đứa kế cũng gái... vắn số đă chết lúc c̣n nhỏ. Coi như chỉ c̣n có hai đứa. Thằng Tư, cậu gọi bằng Út cũng được, mới lo vợ cho nó hơn năm nay hà. Tối hôm cậu đến nhà, lúc đó tui và nó đang đi canh nước cho vào các vuông tôm. Cha con tui tự phá đất làm lấy nên vuông không được rộng mà cũng khá xa nhà. Đất chung quanh đây, cậu thấy... tuy c̣n bỏ hoang chứ có chủ hết rồi. Bác Ba bộc bạch. Hỏi ông lăo, tôi mới biết ghe đă chạy vào vùng Cái Đôi của tỉnh Cà Mau.

    Bác Ba và hai vợ chồng anh Tư cũng thắc mắc hỏi tôi tại sao ghe vượt biên lại bị mắc cạn tuốt trong vùng Cái Đôi v́ từ đây ra tới cửa vàm ngoài biển cách cả cây số ngàn. Nếu ra được ngoài vàm th́ ghe tiếp với biển lớn. Cứ vậy mà chạy, du kích hay công an biên pḥng sao mà bắt được. Tôi kể cho ba người biết về nguyên do ghe bị mắc cạn, bác Ba cho biết: " Thảo nào tụi thằng Sáu thằng Mai du kích nói ghe vượt biên bị bộ đội biên pḥng đuổi bắt đâu tuốt ngoài biển vào tới đây mắc kẹt. Cậu kể ra tui mới biết, mấy thằng tài công sao mà ngu quá mạng vậy. Đi đă khó... quay trở về c̣n khó gấp bội. Sao tụi nó lại làm vậy để hại thân c̣n gây khổ thêm bao nhiêu người nữa? ". Bác Ba cho tôi biết vùng Cái Đôi có khá nhiều gia đ́nh cách mạng chế độ CS đến lập nghiệp. Phá đất làm vuông nuôi tôm, cất nhà ở cũng không xa trong vùng. Nghe chuyện, tôi biết quá sức may mắn v́ gặp được nhà họ. Rủi gơ cửa đúng nhà dân chế độ mới, chắc chắn tôi đă nằm trong trại giam của bọn CS.

    Sau bốn ngày đêm trốn tránh, bác Ba cho biết t́nh h́nh giờ thật yên ổn. Công an biên pḥng đă giải giao người chúng bắt được ra trại giam huyện Cái Nước và bác nói sẽ thu xếp đưa tôi đi sớm. Nửa khuya về sáng ngày thứ năm, cả nhà thức dậy thật sớm. Ăn uống xong xuôi, hai cha con bác Ba xem xét thật kỹ lưỡng chung quanh căn nhà rồi dắt tôi xuống chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler 4 nổ máy chờ sẵn. Ghe từ từ chạy một lúc lâu sau, bác Ba cho biết đă ra khỏi vùng Cái Đôi.

    - Từ lúc này an toàn v́ công an du kích chỉ để ư chận xét những ghe từ Cà Mau chạy ra vàm thôi. Ghe ḿnh từ vàm chạy vào chúng không thèm ngó. Anh Út nói.

    Tôi mặc lại bộ quần áo cũ, ngồi im trong ghe ngắm nh́n cảnh vật hai bên bờ vẫn c̣n mờ tối. Trời sáng dần, ghe vẫn êm ả chạy trong vùng sông nước miền quê tiếp giáp với biển yên ả. Những rặng cây chạy dài típ tắp hai bên bờ rạch. Thỉnh thoảng mới thấy vài mái ngói hoặc nếp nhà tranh xa xa. Xế trưa, anh Út tắp ghe vào một bóng mát kín đáo gần sát bờ để ăn uống qua loa và nghỉ ngơi chốc lát rồi sau đó lại chạy tiếp. Trời chạng vạng tối, ghe đến được chợ cầu Cà Mau vừa lúc phố xá trên bờ đă rực ánh đèn. " Đến đây b́nh an hoàn toàn ", anh Tư nói nhỏ. Tôi lấy trong ḿnh ra chiếc khâu vàng 2 chỉ c̣n lại và nhờ sự chỉ dẫn của bác Ba, tôi đă đến một hiệu kim hoàn bán 5 phân vàng của chiếc nhẫn. Có tiền, tôi mời hai cha con bác Ba ăn hủ tiếu. Sau đó, tôi năn nỉ hai ân nhân vui ḷng nhận 1 chỉ 5 phân vàng và tiền mặt c̣n lại. Tôi chỉ giữ ít tiền đủ để đón xe về Sài g̣n trong ngày. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại hai người. Không có họ giúp, làm sao tôi chắp cánh chạy thoát được. Nguyên ngày trời ngồi trong ḷng ghe nhỏ, tôi thấy hai cha con bác Ba chạy quành phải, quẹo trái qua cả trăm con kênh con rạch mới đến được chợ cầu Cà Mau.

    Về nhà sau gần nửa tháng vắng mặt, gia đ́nh tôi mừng vô kể. Cả nhà đă biết chuyến đi không thành và đang ḍ hỏi trại giam để t́m cách thăm nuôi tôi. Ai cũng nghĩ tôi đă bị bắt. Không thể ngờ lại về được đến nhà an toàn. Chuyến vượt biên bất thành đó chỉ duy nhất một ḿnh tôi thoát khỏi tay bọn công an, chị Thu người trong tổ chức cho biết.

    Tới bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyện vượt biên năm xưa, tôi vẫn không quên khuôn mặt của bác Ba và vợ chồng anh chị Tư. Nhớ để sau đó là một nỗi buồn v́ chưa lần nào tôi t́m đến vùng Cái Đôi Vàm thăm hỏi tin tức các ân nhân. Tuy nghèo vật chất nhưng họ rất giàu ḷng bác ái thương người.

    Chương Hai

    Trở Về Từ Hoang Đảo.

    Khi về nhà an toàn, tôi đă t́m được các đường dây vượt biên khác. Có chuyến phải đi ra tuốt miền Trung và thậm chí tận miền Bắc nữa nhưng trong các lần đó đều không thành và đành phải về không. Có chuyến, tôi bị công an bắt khi vừa đặt chân xuống bến xe địa phương và phải vào tù, đi lao động cả gần năm trời mới được thả. Lần lữa 4, 5 năm trời kẹt lại Việt Nam làm tôi rất thất vọng. Ḿnh chắc không ra ngoại quốc được. Tôi tính, không vượt biên nữa khi bỏ tiền đi học lái xe tải và hùn vốn với bà con trong họ mua một chiếc xe chở hàng để sống. Vừa xong khóa học lái xe tải th́ Dũng, một bạn thân đến nhà rủ tôi làm một chuyến vượt biên chung. Kỳ lạ thay, vừa nghe Dũng nói đă t́m ra chuyến đi, tôi gật đầu liền.

    Khởi hành từ xa cảng miền Tây lúc 5 giờ sáng, tôi và Dũng đi xe tốc hành đến được bến Cần Thơ rồi từ đây chúng tôi đi tiếp đến thành phố Long Xuyên th́ được sắp xếp vào trú tạm trong căn pḥng nhỏ của một khách sạn tư nhân gần khu thị tứ thành phố để chờ người trong nhóm tổ chức sẽ đón đi tiếp. Có thể sáng hoặc trưa chiều ngày mai. Buổi tối, sau khi ăn uống rồi tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, tôi và Dũng thả bộ dạo mát trên các con đường trong thành phố. Long Xuyên là một trong các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam. Phố xá buôn bán khá sầm uất như vài con phố ở Sài G̣n. Chúng tôi ngồi nghỉ ở ghế đá trong một công viên nhỏ, ngắm nh́n thiên hạ chạy xe trên đường hoặc đang dạo bước trong công viên. Cũng không dám ngồi lâu, chúng tôi lại lang thang đi ḷng ṿng đây đó. Tôi ghé vào một hiệu sách bên đường mua quyển Sư Thúc Ḥa Hảo (tác giả Nguyên Hùng viết về nhân vật Mười Trí và các tâng bốc địch vận của đảng CSVN về y với tôn giáo Hoà Hảo tại miền Nam VN trước đây), mang về pḥng nằm đọc để giết th́ giờ. Suốt đêm, thỉnh thoảng có tiếng gơ cửa pḥng kêu chúng tôi mở cửa. Những lần đầu rất sợ v́ nghĩ có chuyện không may sẽ xảy ra. Nhưng không, chỉ là các cô gái trẻ đẹp, hành nghề bằng vốn tự có, đang t́m khách vui vẻ trong chốc lát hoặc qua đêm. C̣n ḷng dạ nào để chúng tôi nghĩ đến những lời mời mọc của họ!

    Theo lời dặn, sáng hôm sau chúng tôi t́m đến quán ăn Hào Hoa lúc 8 giờ sáng ăn điểm tâm, uống cà phê lai rai để chờ. Nh́n vài khách ngồi ở bàn gần bên, tôi thót giật người v́ thấy một khuôn mặt quen biết là thằng Minh con bà Sáu bán cà phê trong khu phố gần nhà tôi. Minh nở nụ cười và dù kín đáo nháy mắt với tôi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao nó có mặt ở đây? Không lẽ nó cũng trong chuyến đi? Là con trai mới lớn trong gia đ́nh cán bộ, cha mẹ Minh hoạt động nằm vùng cho CS từ trước ngày 30-4-1975. Gia đ́nh Minh là dân giàu trong phường. Thằng Minh tối ngày ăn no, đi chơi, nhậu nhẹt phá làng xóm đâu chịu học hành ǵ. Tuy vậy, Minh thường nói chuyện vui vẻ với tôi mỗi khi tới ngồi uống cà phê nơi quán nhà nó. Minh xuống đây để cùng vượt biên hay chỉ một chuyến đi chơi và t́nh cờ gặp tôi? Tôi kín đáo liếc nh́n hai người lạ mặt ngồi cạnh nó tuổi cũng ngang lứa mà không biết họ là ai? Chưa biết th́ cứ ngồi tỉnh bơ xem sao dù trong ḷng tôi cũng chút lo lắng. Dũng hỏi nhỏ:" Chắc cùng phe ḿnh hả?". Tôi im lặng, không trả lời Dũng. Chợt bóng anh Thành (người trong nhóm tổ chức) đi ngang qua trước cửa quán, chúng tôi vội vă trả tiền và vọt theo sau liền. Đi được một quăng ngắn đường, có chiếc xe lôi từ đâu chạy lại ngừng gần bên. Anh Thành nhảy lên xe và sau đó là tôi, Dũng và cả bọn ba người của thằng Minh. Vậy đúng thằng Minh đi chung chuyến này với tôi. Nó và tôi nh́n nhau, khẽ gật đầu, mỉm cười hiểu ư. Xe lôi chạy qua xứ đạo Thiên Chúa Ḅ Ót rồi chạy thẳng đến ngă ba Lộ Tẻ th́ ngừng hẳn. Từ đây, một xe Van 16 chỗ ngồi chở chúng tôi chạy tuốt xuống bến xe Rạch Sỏi để rồi sau đó chuyển chúng tôi sang một xe bus khá lớn. Anh Thành cho biết xe sẽ đến băi hẹn nằm đâu đó trong vùng bờ biển Hà Tiên.

    Trời chiều nhá nhem rồi tối hẳn. Hàng cây hai bên đường đen sẫm. Đường từ Rạch Sỏi chạy ra Hà Tiên thật xấu. Xe liên tục tránh các ổ gà lớn trên mặt đường nhựa trước xuống cấp thê thảm. Do chiến tranh và đă lâu mặt đường không được tu bổ. Ngồi trên xe, tôi cứ chao đảo v́ đường hư hỏng quá. Xe chạy thật lâu và đă có người tḥ đầu ra bên ngoài cửa xe để ói mửa. Tôi cảm thấy bắt đầu mệt. Th́nh ĺnh, xe thắng gấp sau một tiếng nổ nhỏ. Bánh xe xẹp rồi. Tài xế lẫn lơ xe vội vàng đội xe lên, tháo ngay cái bánh xe xẹp thay. Nhưng trên xe không có bánh sơ cua nào hết. Giờ phải làm sao đây? " Phải t́m chỗ vá ngay. Tổ chức chuyến đi mà làm ăn như vậy... chỉ có chết ", người nào đó trên xe lầm bầm. Đường thật vắng vẻ, tài xế và lơ tính chạy kiếm nhà dân để hỏi thăm vừa lúc gặp người chạy xe đạp đi tới. Có tiệm sửa xe cách đây không xa nhưng khuya quá, họ c̣n mở cửa không? Chúng tôi phải ngồi yên gần hai tiếng đồng hồ để chờ lơ xe lăn cái bánh đi vá rồi về ráp trở lại vào xe. Xe chạy qua nhà máy xi măng Kiên Lương rồi đến Vàm Rầy. Tài xế cho xe chạy rề rề chờ đợi. Rồi xe ngừng bên cạnh đường v́ chẳng thấy người trong tổ chức đón như dự liệu. Trời bắt đầu sáng, làm ǵ bây giờ? Ai nấy tự hỏi ḿnh. Có tiếng xe Honda chạy đến và rồi chúng tôi được lệnh phải rửa mặt cho sạch sẽ, thay quần áo khác làm bộ đi du lịch Hà Tiên. Vụ xe xẹp bánh hồi khuya nên chuyến đi đă tạm thời hủy bỏ v́ xe đến điểm quá trễ. Cứ làm một chuyến đi du lịch Hà Tiên, thăm lăng Mạc Cửu, Thạch Động hoặc ghé Mũi Nai đi, chờ đám tổ chức liên lạc trở lại xem sao!

    Chúng tôi đi qua bến phà nổi Tô Châu, ngắm nh́n dăy ghe đánh cá đậu san sát bên nhau trong ḍng nước biển xanh mầu lá cây, thầm nghĩ không biết ghe ḿnh đi có lớn có vững chắc như những chiếc ghe ở đây? Qua bến phà nổi, chúng tôi lên xe lôi chạy đến Thạch Động rồi ra Mũi Nai hóng mát. Do xe đến điểm trễ giờ nên tôi mới có dịp biết đến Thạch Động và băi biển Mũi Nai Hà Tiên. Hà Tiên là nơi cư trú của vợ chồng nhà thơ Đông Hồ-Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và cũng là quê quán của danh sĩ Mạc Thiên Tích ngày xưa. Tôi đang là khách du ghé thăm miền ước mơ trong bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh đây. Một thành phố nhỏ nhưng thật đẹp dù ở nơi tận cùng đất nước Việt.

    Tôi và Dũng làm quen được với Ánh Phương và Mỹ An, hai cô gái trẻ trong chuyến đi Mũi Nai. Ánh Phương 26 tuổi c̣n Mỹ An mới 24. Cả hai đều độc thân và cũng mới làm bạn với nhau từ lúc lên xe bus. Tôi cặp kè với Ánh Phương c̣n Dũng với Mỹ An như những cặp nhân t́nh của chuyến du lịch. Chúng tôi đi ăn uống lai rai rồi đi ḷng ṿng trong những con phố nhỏ của Hà Tiên. Có lúc ngồi bên nhau, làm vẻ tâm t́nh trong các quán cà phê để chờ 7 giờ tối sẽ về lại xe bus. Lúc ở Mũi Nai, tôi thấy thằng Minh và hai người bạn nó ngồi nhậu trong một quán sát bờ biển. Minh đă mời tôi ngồi vào bàn, đưa ly bia cho tôi rồi nói: " Uống lai rai với tụi em cho vui anh Vũ, em đâu dè có anh trong chuyến này luôn. Anh em ḿnh cùng bên nhau nghe anh ". Tôi cười, gật đầu đồng t́nh rồi từ chối: " Anh không uống bia được Minh. Uống vô chút xíu say liền, nhậu sương sương thôi... c̣n giữ sức nữa đó ". Tôi nhắn nhủ với cả bọn.

    - Anh Vũ biết không, nhà em ở Quận 10 Sài G̣n. Thầy-U em người Bắc đạo Phật di cư từ 1954. Anh trai em đang sống ở Úc, em đi hôm nay lần thứ ba đó anh, các lần trước đi không được lại phải quay về. May không bị bắt. Anh trai em chỉ đi có một chuyến lại thoát. Ánh Phương nói với tôi.

    Nh́n khuôn mặt Ánh Phương. Cô gái này đẹp thật, da lại trắng hồng, lời ăn tiếng nói ra vẻ con nhà hiền lành. Bản thân tôi đă ba mươi ba tuổi mà vẫn chưa lập gia đ́nh. Nếu Ánh Phương là bạn t́nh của ḿnh th́ hay biết bao! Tôi lại nghĩ nếu ḿnh có người yêu như Ánh Phương, liệu có dám cho nàng đi vượt biên không?

    Khi chúng tôi quay trở về bến xe th́ nhóm tổ chức đă thay xe cũ bằng một xe bus khác lớn hơn. Họ đă nhét thêm cả chục người khách mới ngồi sẵn trên xe từ lúc nào. Tôi và Ánh Phương chọn chỗ ngồi nơi dăy hai ghế sát cạnh cửa lên xuống ở phía sau xe. Lần lượt từng người khách quay về bước lên xe. Xe chật kín, hết ghế trống mà khách c̣n đứng ngồi lổn nhổn ở lối đi giữa xe. Tôi nhẩm tính trong đầu, với 10 hàng ghế mà mỗi hàng 5 người rồi thêm 4 ghế phía trước gần tài xế và 6 ghế cuối, ít nhất phải có 60 khách vượt biên trong chuyến đi đêm nay. Cá lớn đón chúng tôi dài rộng cỡ nào? Có bằng chiếc ghe năm xưa tôi đi hay nó nhỏ hơn? Bây giờ đă gần 8 giờ tối, xe bus bắt đầu lăn bánh ra khỏi bến và chạy về hướng Rạch Sỏi. Tôi nh́n ra hai vệ đường, đèn nhà dân hắt ra soi rơ những cây dừa mọc sát mặt lộ. Đây đó vài trẻ em đùa giỡn trước cửa nhà. Một tiệm cà phê lác đác người ngồi ở các bàn trống. Qua hết dăy nhà, xe đi vào vùng cây cối băi bồi gần biển. Cảnh vật hiện lờ mờ như là bụi cây đước, một băi bùn hay là bờ đất tiếp giáp với lề đường. Xe chạy đều đều khá lâu th́ rẽ trái vào một con đường nhỏ rồi chạy thêm một đoạn ngắn nữa th́ tắp vào một khu vườn. Xe tắt máy dừng hẳn. Cây trong vườn xum xuê như rừng nhưng quá tối, tôi không biết loại cây ǵ.

    - Chúng ta phải chờ ở đây. Yêu cầu mọi người ngồi yên. Tiếng người lơ nói khá to trong xe.

    Mọi người giữ im lặng. Thỉnh thoảng có ánh đỏ chớp lên từ đầu một điếu thuốc lá của ai đó. Tôi bảo Ánh Phương: " Em có mệt th́ nhắm mắt ngủ đi, họ nói thế th́ chắc ḿnh phải chờ khá lâu ", thực sự th́ cơn buồn ngủ đă làm mắt tôi nhíu lại. Tôi và Ánh Phương ngủ ngồi trên ghế xe cả tiếng đồng hồ th́ choàng tỉnh khi nghe tiếng xe Honda từ xa vọng lại. Ánh đèn hai chiếc Honda đến gần. Cả thẩy bốn người tất cả. Một người trong bọn mặc sắc phục công an. Ba người c̣n lại, có kẻ tay vung vẩy cây súng AK47. Tôi nói khẽ với Ánh Phương: " Công an, chết mồ rồi Phương ơi! " Tim tôi đập th́nh thịch. Ánh Phươnh lộ vẻ thất sắc, tay nàng nắm lấy tay tôi run run. Chúng tôi đă vào rọ của công an? Bất chợt cánh cửa xe bật mở, tài xế và hai người lơ nhẩy xuống cùng nhập vào bọn bốn người mới đến. Tôi nghe rơ tiếng của anh Thành. Cả bọn ngồi bàn bạc trong chốc lát rồi một xe Honda chạy đi trước, kế tiếp chiếc xe bus. Ở một khoảng khá xa, chiếc Honda c̣n lại chạy bọc sau cùng .

    Bây giờ tôi và Ánh Phương cũng như khách trên xe buưt mới hoàn hồn bớt lo. Chuyến đi có công an-du kích bán băi như lời nhóm tổ chức đă nói. Một làn gió mát thổi vào mặt làm tinh thần tôi phấn chấn v́ nghĩ đến sự an toàn tối nay. Ánh Phương nói: " Ban năy em sợ muốn chết đó anh Vũ. Rủi họ không cùng phe ḿnh, không biết em sẽ làm sao nữa? " rồi nàng cười vui vẻ.

    Xe tiếp tục chạy ngược về hướng Hà Tiên và sau cùng ngừng lại sát cạnh bên vệ đường. Chỗ nầy vắng vẻ không một bóng người qua lại. Chúng tôi được lệnh xuống xe ngay lập tức và nối đuôi nhau theo ánh đèn pin của một người dẫn đường đi phía trước. Cả bọn yên lặng, đi êm ả trên các bờ đất trong đêm tối tĩnh mịch. " Đây là Vàm Rầy ", tiếng người th́ thào trong bóng tối. Khách vừa xuống hết, xe bus liền biến mất trong bóng đêm. Chúng tôi rồng rắn đi với nhau cho đến cuối bờ đất th́ chân bắt đầu đặt xuống một băi śnh. Tôi và Ánh Phương bước lơm bơm gần bên nhau chung với các người khác. Thêm một ánh đèn pin nữa lúc chớp lúc tắt xuất hiện ở phía trước xa xa. Chúng tôi lần từng bước về hướng ánh đèn pin. Đến nơi, đoàn người được phân tán ra thành từng nhóm nhỏ, ngồi nấp ngay sát cạnh những đám cây mọc trong vùng đất śnh. Dũng, Mỹ An cùng tụi thằng Minh bây giờ đang ở đâu trong các bụi cây nơi mép biển? Trăng khuya bắt đầu mọc, soi ánh sáng vàng vọt leo lét trên toàn vùng. Nước triều đang từ từ dâng lên. Đứng ở trên mặt đường lộ bây giờ, không ai ngờ ngay dưới chân những bụi cây sát biển này đang có cả một nhóm người ẩn nấp để chờ vượt biên. Nước triều dâng mỗi lúc một cao hơn, chúng tôi vẫn ngồi yên trong nước biển. Đến lúc chúng tôi phải đứng lố nhố v́ không thể ngồi được nữa th́ một cái xuồng ba lá nhỏ xuất hiện. Ghe chèo nhè nhẹ đến gần chúng tôi. Tiếng đàn ông ngồi trên xuồng hối thúc chúng tôi lội ra ngay. Tôi nắm tay Ánh Phương cùng bước lội từng bước về phía cái xuồng. " Đừng leo lên, chỉ bỏ túi xách thôi. Anh chị bám theo xuồng này để ra ghe ", tiếng đàn ông trên xuồng nói. Tôi vất túi xách lên xuồng, tay bám và chân th́ bước theo từng bước một. Ánh vàng vọt của trăng non, tôi thấy thấp thoáng một bóng một chiếc ghe nhỏ xa xa. Nước bắt đầu đến ngực rồi cổ. Chân tôi có lúc bước hụt xuống một hố khá sâu. May là trồi lên kịp. Ánh Phương tay bám chặt vào vai tôi. Sau cùng cả hai đến được sát bên ghe. Người đứng trên ghe cúi xuống nắm tay từng người dưới nước kéo lên. Đến lượt Ánh Phương, nàng cố gắng hết sức cũng không thể đưa tay tới được người trên ghe. Tôi phải giúp nàng bằng cách nhắm mắt, hụp hẳn xuống dưới nước và ôm thắt lưng nàng đẩy phụ lên. Lần đầu tiên tôi chạm vào thân thể Ánh Phương. Xong lượt nàng, đến lượt tôi lên được mặt sàn ghe. Tôi nh́n thật kỹ thân ghe, đúng nó nhỏ hơn chiếc ghe tôi vượt biên trong lần trước. Một gă đàn ông khác đă ấn tôi nhẩy xuống khoang trống. Không lẽ cá lớn đây thật sao? Tôi phân vân tự hỏi. Người mỗi lúc được nhét thêm xuống khoang chiếc ghe. Hơi nóng từ thân người hoà với mùi dầu gió xanh toả ra nồng nặc. Tuy trông không rơ mặt nhau trong bóng tối nhưng ai cũng biết khoang ghe đă chật cứng người. Ai ngồi đâu yên đó, không thể cục cựa được. Ánh đèn pin chợt loé lên từ cửa khoang và khuôn mặt của anh Thành hiện ra. Anh hỏi tên từng người khách cùng mật mă an toàn. Tôi nghe tiếng của Dũng, Mỹ An rồi Minh và Ánh Phương trong khoang ghe. Khi anh Thành vừa xong lượt tôi, tiếng một người vặn hỏi:

    - Ê! Thành. Ghe nầy ghe taxi hay cá lớn vậy... Người đầy nhóc cả rồi?

    - Taxi thôi. Nhỏ xíu vầy sao mà đánh chuyến được. Yên tâm đi đại huynh. Cá lớn chờ ngoài khơi ḱa. Anh Thành quả quyết rồi sau khi lấy mật mă xong xuôi, anh chúc mọi người thành công trong chuyến đánh đêm nay trước khi theo xuồng ba lá để quay vào bờ. Đêm đó, nửa khuya về sáng của một ngày cuối tháng 5-1990.

    Ghe nổ máy rồi tấm nắp cửa khoang đă được đậy lại và qua chuyển động của thân ghe với làn nước bên ngoài, tôi biết là ghe đă khởi hành. Trong khoang hầm tối đen, tiếng người niệm Phật lầm thầm chung với tiếng người khác thở dồn dập. Chợt tiếng người đàn ông khi năy đă vặn hỏi anh Thành vang lên: " Họ đánh bằng ghe này thật rồi bà con ơi, ai không tin cứ chờ th́ biết ... Taxi ǵ mà tập trung hết tất cả khách vào đây ". Ông ta nói nhưng không một người nào lên tiếng trả lời. Tiếng máy ghe cứ chạy đều đều êm ả như vậy và tôi ngủ thiếp đi không biết bao lâu th́ tỉnh dậy. Bây giờ trời đă sáng. Có người nào đó hỏi giờ th́ được người khác trả lời là 8 giờ 15 phút sáng rồi. Dù ánh sáng ban ngày hắt từ khe hở cửa khoang và từ phía máy ghe nhưng tôi vẫn không thấy Ánh Phương, Mỹ An, Dũng và Minh. Chung quanh tôi bây giờ chật cứng người dù có muốn xoay chân, đảo người cho bớt mỏi cũng không thể. Sát cạnh tôi là một phụ nữ với mái tóc dài thỉnh thoảng gục đầu vào người tôi. Tôi biết chị này đang cơn say sóng. Vẫn c̣n tiếng người nôn oẹ đây đó trong khoang. Tôi nhắm mắt lại v́ mệt v́ mũi tôi khó chịu với mùi thức ăn người ói ra pha trộn với mùi dầu máy ghe, mùi dầu xanh con Ó, mùi hơi người và cả mùi nách nữa ... Cảm giác nôn nao trong người bắt đầu đến với tôi. Tôi muốn ói và cổ đă ợ hơi vài lần. Tôi ngẩng đầu lên cố chống lại cơn ói nhưng rồi biết ḿnh không thể. Gục đầu xuống tôi bắt đầu ói ngay vào quần áo của ḿnh. Thể xác mệt mỏi khiến tôi ngủ rồi lại chợt thức mà không biết thời gian trôi qua bao lâu và tự hỏi ghe chạy đến đâu rồi lại ngủ tiếp sau đó. Cứ như vậy cho đến khi có tiếng mở cửa hầm kèm theo nghe tiếng người nói ḿnh ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Hé mắt nh́n lên, tôi thấy một mặt người lem luốc đầy dầu mỡ. Người đàn ông này mở rộng cửa hầm, cúi đầu sát xuống nh́n vào đám người chúng tôi rồi anh ta nở nụ cười nói:

    - Bà con mệt dữ ha... Ráng chịu đựng đi nghen, có đồ ăn và nước đây, ai có khát có đói th́ lấy dùng nha.

    Mấy đ̣n bánh tét, vài xâu củ sắn và hai b́nh nhựa đựng nước được chuyền xuống cho chúng tôi rồi nắp cửa hầm đóng sập trở lại liền.


    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  2. #2
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Ḿnh ra khỏi hải phận Việt Nam rồi. Như vậy đây là cá lớn chứ không phải taxi ǵ hết. Tự nhiên tôi lại cảm thấy lo lắng khi biết anh Thành đă xí gạt chúng tôi nhưng bây giờ th́ đă quá muộn. Câu nói quả quyết của anh: " Ghe nhỏ như vầy làm sao vượt biên được. Cá lớn chờ ngoài khơi ḱa " trở về trong trí tôi. Biết nói như vậy nhưng sao anh Thành lại vẫn dùng ghe nầy cho chuyến vượt biên của chúng tôi? Giờ ḿnh có muốn đổi ư, muốn quay về cũng không được nữa. Thôi đành phó mặc cho số phận vậy. Ghe tiếp tục chạy như vậy thật lâu th́ tự dưng tốc độ giảm lại và ghe dừng hẳn dù máy vẫn nổ. Có nhiều tiếng người nói lao xao bên ngoài vọng vào tai tôi. Chuyện ǵ đây? Trong tiếng máy ghe tôi nghe thêm tiếng máy nổ khác. Vậy là có ghe hay tàu lạ ở gần bên ngoài rồi. Chợt cả hai cánh cửa lớn khoang ghe được mở tung ra hoàn toàn. Ánh sáng bên ngoài tràn đầy vào trong hầm làm mọi người phải nhắm ngay mắt lại. Lấy tay che mắt, tôi nh́n lên các khuôn mặt lạ đang quan sát chúng tôi. Họ là ai vậy? Một người đàn ông mỉm cười, nói:

    - Đông người dữ ha. Bà con đừng sợ, tụi tui cũng dân biển không hà. Chạy được tới đây coi như là thoát rồi có điều tối khuya nay trời có dông đó. Biển hơi động nghe bà con, ráng chịu cực thêm chút xíu qua cơn th́ ghe chạy êm ru.

    Vài người ngồi dưới khoang ghe nhân cơ hội ngỏ ư muốn trèo lên để đi tiểu và họ leo lên thật. Tôi ráng hết sức cũng lách ra rồi đu người leo lên thành ghe. Một chiếc ghe kích cỡ bằng cá lớn chúng tôi đậu sát bên cạnh. Mấy người trong chiếc ghe đó cho chúng tôi biết họ là ngư dân của đảo Phú Quốc và vùng biển chúng tôi ở đây thuộc nước Khmer. Tôi nh́n chung quanh, ánh nắng chói chang trên đầu, nước biển mầu xanh lá cây xa tít tới tận chân trời. Chỉ toàn một màu xanh nước biển và không một bóng ghe, ḥn đảo nào khác nữa. Tôi nằm vật xuống ngay trên thành ghe, tự nhủ là chắc ḿnh nằm đây luôn không chui xuống khoang hầm chật hẹp nữa. Nằm trên sàn ghe thật là dễ chịu! Những người trên chiếc ghe Phú Quốc đó xin chúng tôi cho họ tất cả tiền Việt Nam c̣n mang trong người, nói là đến được trại tỵ nạn bên Thái th́ cũng vất bỏ đâu có xài. Tôi ngồi dậy, móc tất cả tiền Việt trong bóp ra cho họ y như những người khác. Những người tài công trên ghe chúng tôi cho họ cả những tay lưới đánh cá luôn. Sau đó, những người trên ghe Phú Quốc này cùng với tài công trong ghe chúng tôi bàn bạc nhau về hướng đi của ghe và cách đối phó khi gặp trời dông gió trong tối nay.

    Khi chiếc ghe Phú Quốc từ giă chạy xa rồi th́ những người tài công lại bắt buộc chúng tôi phải chui xuống khoang hầm trở lại trước khi ghe tiếp tục chuyến hải hành. Đúng như lời những tài công của ghe Phú Quốc đă nói, lúc nửa khuya, dông gió bắt đầu xuất hiện. Thoạt đầu ghe vẫn c̣n chạy b́nh thường và tiếng mưa quất vào thành ghe thành một âm thanh đều đều nhưng rồi dông gió càng lúc càng to. Tiếng mưa bây giờ gào thét cuồng nộ và các giọt mưa bào sát vào thành ghe kêu rào rạo. Tôi nghe tiếng chân của các tài công chạy tới chạy lui trên mặt khoang ghe và tiếng họ gọi nhau í ới. Có lúc ghe lắc thật mạnh, các miếng ván thành ghe vặn vào nhau kêu ken két cùng với tiếng người nào đó khóc thét lên. Tôi tỉnh hẳn cơn mệt cơn say sóng v́ quá sợ hăi. Tôi không c̣n nhớ đến bất cứ chuyện ǵ ngoài những khuôn mặt của các thân nhân ruột thịt tôi. Dông gió cứ như vầy hoài th́ ghe sẽ chịu thêm được bao lâu? Tuy ngồi yên một chỗ nhưng qua những cảm giác trong cơn dông gió này, tôi biết chiếc ghe đang chịu cảnh vùi dập của các cơn sóng dữ dội bên ngoài. Cửa khoang hầm dù đă được đậy kín nắp nhưng nước bên ngoài vẫn hắt từng chập vào người chúng tôi qua các kẽ ván hở. Người tôi bây giờ ướt sũng nước mặn. Cơn dông kéo dài như vậy suốt cả đêm mà kỳ lạ thay, chiếc ghe vẫn chịu được cho đến sáng th́ giông gió bớt dần và rồi ngưng hẳn. Cửa khoang hầm được mở ra và tiếng người tài công nói lớn bà con ơi biển lặng rồi, ḿnh thoát cơn dông rồi. Bây giờ th́ tài công cho phép ai muốn lên trên thành ghe hay muốn ở dưới khoang hầm th́ tùy ư. Tôi lại trèo lên nằm hẳn trên mặt sàn ghe. Ghe chạy êm ả đều đều như vậy và bây giờ th́ mọi người thấy có những ḥn đảo xa xa. Một tài công nói là thấy đảo nhiều như vầy th́ ghe ḿnh sắp vào Thái Lan rồi.

    - Tụi tui phải ngủ lấy sức mới chạy tiếp được, mệt quá rồi. Một tài công nói.

    Họ cho ghe chạy từ từ vào sát một chỗ khuất của một ḥn đảo gần nhất. Máy ghe tắt hẳn trả lại sự im lặng tĩnh mịch của khung cảnh. Trời buổi sáng sau cơn dông hồi hôm khiến không khí mát lạnh. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua làm ai cũng cảm thấy dễ chịu. Tôi lại nhắm mắt ngủ tiếp, mơ hồ nhớ lời nói của người tài công là nội ngày mai hay ngày mốt th́ ḿnh sẽ có mặt tại một bờ biển nào đó của Thái Lan mà đâu ngờ những tai ương khiếp đảm sắp sửa đổ xuống cho hành khách của chuyến đi bất hạnh này.

    Mặt trời lên cao chiếu ánh nắng nóng làm tôi thức giấc và tỉnh ngủ hẳn. Tôi ngồi dậy nh́n chung quanh, mặt sàn ghe người ngồi nằm la liệt bên nhau. Tôi lách người đi lần về phía đuôi chiếc ghe. Một phi nhựa khá lớn được cột chặt vào cạnh cửa buồng lái với nắp đậy kín. Tôi mở nắp nh́n vào bên trong, c̣n hơn phân nửa thùng nước. Thấy có chiếc ca nhỏ, tôi múc ra một chút nước rửa sơ mặt mũi của ḿnh rồi uống cạn phần nước c̣n lại. Từ lúc xuống ghe cho tới giờ tôi mới uống nước vậy mà vẫn không cảm thấy khát. Những can nhựa đựng dầu cạn không nằm lăn lóc đây đó. Trong buồng máy nhỏ, hai người tài công nằm gần nhau đang ngủ say. Tôi biết hai người nầy c̣n mệt hơn chúng tôi nữa v́ chạy ghe suốt từ tối hôm đó đến giờ họ mới được ngủ như vậy. Tôi nh́n vào phía đảo, không một dấu vết có người sinh sống. Thỉnh thoảng có tiếng thú kêu chim hót trong các tàng cây vọng lại. Tôi bước đến cạnh bên sườn ghe, nh́n xuống mặt nước trong vắt thấy rơ cát, đá cùng những mảnh vỏ ốc và vài con cá nhỏ bơi lội tung tăng tận đáy. Chợt nghĩ đến Dũng đến Ánh Phương và Mỹ An, tôi quay về cửa khoang hầm định t́m xem họ ra sao th́ đă thấy Ánh Phương nằm ngay trên mặt sàn phía gần mũi ghe. Tôi bước đến cạnh bên nàng gọi khẽ: " Phương ơi Phương có khoẻ không, em sao rồi? ". Nghe tiếng gọi, Ánh Phương mở hé mắt nh́n tôi. Nàng khẽ gật đầu rồi ngồi gượng dậy.Tôi ngồi xuống bên cạnh Ánh Phương, nh́n vào khuôn mặt nàng rồi nh́n lại thân thể tôi và những người khác. Chỉ có hai đêm nằm dưới khoang hầm thôi mà chúng tôi giờ trông khác hẳn. Người nào người nấy đầu tóc rũ rượi, quần áo nhếch nhác v́ những vệt ói, bệt dầu mỡ và nước bẩn bám vào.

    - Em tưởng ḿnh chết trong tối hôm qua rồi. Ghê quá đi anh Vũ ơi. Chắc những câu chuyện ghe vượt biên bị ch́m là v́ họ đă gặp dông gió như ḿnh há anh? Ánh Phương thều thào nói với tôi.

    Tôi thấy Dũng, Mỹ An và cả thằng Minh nữa. Người nào cũng một vẻ bần thần mệt mỏi. Mọi người giờ đây đều ngồi trên mặt sàn ghe, trong ca bin và cạnh buồng máy dù trời nắng nóng nhưng chẳng có ai chịu chui xuống khoang hầm nữa. Ai cũng mừng v́ thoát được cơn dông hồi đêm. Ghe này tuy nhỏ nhưng may mắn là c̣n tốt lắm. Tôi và Ánh Phương leo xuống khoang hầm t́m lại các túi xách của ḿnh. Không c̣n ai ngồi ở đây nữa v́ nó quá sức bề bộn, bê bết nước bẩn. Cả hai trèo trở lên sàn ghe đến bên Dũng và Mỹ An. Ánh Phương mở túi xách của nàng, lấy ra ít thỏi kẹo chocolat đă bẹp dúm mời cả bọn cùng ăn nói là kẹo này do anh ruột nàng gửi về từ bên Úc. Vài người trên ghe thu gom những xâu bánh tét, các bịch bánh ngọt, củ sắn và ḿ gói để gọn lại một chỗ cho ai cảm thấy đói th́ ăn.

    Trời nắng chói chang nhưng nhờ có gió mát nên chúng tôi cũng không thấy nóng. Đoàn người trên ghe cứ yên lặng nghỉ ngơi như vậy cho đến xế chiều th́ hai người tài công thức dậy. Họ ăn uống qua loa rồi bắt đầu quay máy ghe để tiếp tục cuộc hành tŕnh nhưng dù cố hết sức, máy ghe vẫn không nổ. Vài thanh niên khoẻ mạnh trên ghe loay hoay đến tiếp sức nhưng hoài công. " Tụi tui phải tháo máy ra xem nó hư chỗ nào ", hai tài công nói vậy và họ tháo tung máy ghe ra thật. Rồi sau đó, khi máy ráp trở lại th́ họ cũng không quay cho máy nổ được. Mệt mỏi mà chuyện không thành, tài công cùng những người trên ghe quyết định cho ghe vào sát đảo để mọi người bỏ ghe lên bờ kiếm nước tắm táp và t́m chỗ nghỉ ngơi trong đêm. Hai thanh niên nhẩy xuống nước bơi vào bờ rồi họ nối dây vào ghe, kéo chiếc ghe đến chỗ cạn để mọi người có thể lội xuống được. Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An theo những người trên ghe trèo xuống nước, bước dần vào bờ. Những người lên bờ trước chúng tôi đă t́m thấy nước ngọt trong các hốc đá. Nước ngọt mát lạnh trong các vũng nước khá lớn và cứ chảy tràn ra ngoài. Chúng tôi dùng tay khoát nước rửa mặt, rửa người cho sạch các vết bẩn rồi lấy quần áo trong túi xách ra thay. Sau đó, giặt sạch các quần áo bẩn và phơi chúng trên những cành cây thấp la đà. Xong xuôi, chúng tôi lại quay về kiếm chỗ nằm gần chiếc ghe mà bây giờ trống không chẳng c̣n người trên đó. Chúng tôi ngồi, nằm thành từng nhóm nhỏ ba bốn người bên nhau. Anh Tấn, người đă hỏi anh Thành về ghe taxi hay cá lớn là người lớn tuổi nhất trong cả bọn, nh́n khắp lượt đám người chúng tôi rồi nói:

    - Ai có chuyện riêng muốn đi vô trong rừng th́ đừng đi một ḿnh và cũng đừng đi quá sâu vào bên trong. Đảo này chắc chắn không cọp beo ǵ đâu nhưng mà rắn độc th́ có đấy và có khi cả loài trăn gió nữa. Đi một thân một ḿnh gặp trăn có thể bị nó quấn chết tươi, do đó phải cẩn thận và chớ ăn trái cây rừng ǵ hết kẻo ngộ độc chết như chơi. Anh Tấn cũng nói thêm là ban đêm mọi người phải nằm ngủ gần bên nhau từng nhóm để có chuyện th́ c̣n giúp nhau được và chớ có xé lẻ nằm riêng một ḿnh không tốt.

    Tôi, Dũng, Ánh Phương và Mỹ An liền làm một nhóm với nhau. Chúng tôi chọn các bờ đá thấp thoai thoải không xa chiếc ghe. Dùng các cây bụi nhỏ quét sạch đất đá trên các bờ đá này rồi bẻ các nhánh lá trải xuống và nằm nghỉ ngơi gần bên nhau. Có người nào đó đề nghị nhóm lửa để nấu ḿ gói ăn cho nóng nhưng phải bỏ ư định đó v́ ban đêm đốt lửa rất nguy hiểm. Ghe tàu ngoài khơi xa sẽ dễ dàng biết chỗ chúng tôi đang trú ẩn ở đây.

    Trăng từ từ mọc soi ánh sáng vàng vọt, chúng tôi nh́n lên bầu trời qua các tàn cây và nh́n những đốm lấp lánh chớp tắt trên mặt biển mà những tài công cho biết đó là loài sứa đang ăn đêm. Gió biển thổi vào bờ mát rượi làm chúng tôi dễ dàng ch́m vào giấc ngủ. Đang ngủ ngon giấc, đột nhiên có tiếng người thét lên hoảng hốt khiến cả bọn chúng tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Một cô gái vẻ mặt thất thần cho chúng tôi biết cô vừa trông thấy một đốm lửa mầu xanh lá cây thật lớn loé sáng ở ngay những tảng đá gần chỗ vũng nước ngọt mà hồi chiều chúng tôi đă ghé vô đó để rửa ráy tắm giặt. Anh Tấn đến gần bên cô gái, an ủi cô rồi trấn an mọi người:

    - Đừng sợ. Đất có Thổ Công sông có Hà Bá, đảo này không phải quê hương bản quán Việt Nam ḿnh mà ḿnh đặt chân đến th́ đốm sáng mà cô này vừa thấy là hương hồn người khuất mặt ở đây muốn cho ḿnh biết có sự hiện của họ. Ai đạo nào th́ cầu nguyện theo đạo đó, xin người khuất mặt tha thứ cho những ǵ ḿnh làm họ không vừa ḷng và xin họ che chở cho chuyến đi.

    Chúng tôi ngồi yên mà không biết chuyện cô gái vừa kể có thật hay không? Ai cũng cảm thấy rờn rợn.

    - Có khấn có thiêng, có kiêng có lành. Thôi! Tất cả nằm xuống nhắm mắt ngủ tiếp đi và nhớ là từ ngày mai nếu ghe ḿnh vẫn c̣n kẹt lại đây th́ đừng có ai làm chuyện ǵ tầm bậy tầm bạ nghe chưa!

    Dứt lời, anh Tấn ngồi im lâm râm đọc thầm kinh hay lời cầu nguyện ǵ đó. Vài người ngồi gần đấy thấy cử chỉ của anh Tấn cũng bắt chước làm theo. Tự dưng bây giờ mọi người cảm thấy có điều ǵ huyền bí ở trên ḥn đảo. Tuy anh Tấn bảo mọi người nhắm mắt ngủ đi nhưng anh lại không ngủ mà nhập vào một nhóm có hai người tài công để hút thuốc và tṛ chuyện. Tôi quay về chỗ nằm cũ th́ thấy Ánh Phương và Mỹ An bỏ chỗ cũ, kéo đến nằm sát cạnh bên tôi và Dũng. Có lẽ trong những lúc sợ hăi như lúc này, người con gái thường quên hẳn những ǵ gọi là kín đáo, giữ ư trước mặt nam giới. Ánh Phương, Mỹ An và Dũng thấy tôi th́ than là nếu ghe vẫn c̣n chạy th́ bây giờ chắc cũng sắp đến Thái Lan rồi, đâu có phải nằm kẹt ở đây để sợ như vậy. Chúng tôi ngồi bên nhau nói những câu chuyện vụn vặt và cầu mong cho ngày mai tài công sửa được máy để đi tiếp chứ c̣n ở đây dù có thoải mái hơn khi ở dưới ghe nhưng thật là bất ổn.

    Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm các tài công cùng anh Tấn và vài thanh niên trèo về lại ghe, cố hết sức để sửa máy nhưng vẫn không sao làm cho cỗ máy nổ lại được. Khi vào lại bờ nghỉ mệt, anh Tấn nói nhỏ: " Máy ghe bị trục trặc cái ǵ đó mà các cha tài công t́m không ra. Chỉ biết chạy ghe và sửa chữa hư hỏng lặt vặt thôi, khi máy hư nặng th́ coi như bù trất ". Trưa đến, mọi người quyết định nấu nước nóng làm ḿ gói ăn. Dưới ghe có nồi lớn có gạo nữa nhưng nếu nấu cơm th́ lấy ǵ làm thức ăn đây? Ánh Phương và Mỹ An nhấm nháp các thanh kẹo chocolat c̣n lại nói là ăn như vậy cảm thấy no rồi c̣n tôi và Dũng th́ bẻ vụn gói ḿ ra ăn sống từng nhúm một. Chiều đến, các tài công quay trở vào bờ cho mọi người biết là họ không sửa được máy ghe. Nghe xong, ai cũng ngao ngán rồi buồn và lo lắng cho số phận. Vài người đi dọc theo các ghềnh đá bắt được khá nhiều ốc mang về đập bể vỏ móc bỏ ruột rồi nấu món cháo ốc chia cho cả bọn cùng ăn. Khi trời tối, chúng tôi vẫn để lửa cháy và c̣n kiếm thêm các cành cây khô để ngọn lửa cháy lớn hơn nữa. Giờ th́ ai cũng phó mặc cho mọi sự ra sao th́ ra. Ngồi quây quần bên nhau gần ngọn lửa khuya trong một khu hoang vắng, nhóm người chúng tôi trông thật không khác ǵ đang trong một buổi dă ngoại đốt lửa trại về đêm. Có cả một ngày trên đảo hoang mới biết tất cả ghe là 51 người bao gồm 33 nam và 18 nữ. Hai tài công đều mang vợ đi theo và chị Ân cùng đi với cậu con trai 14 tuổi. Những người c̣n lại đều đi độc thân một ḿnh. Đến khuya th́ ngọn lửa tàn dần và mọi người lại trở về chỗ của ḿnh, nằm nói chuyện với nhau chờ giấc ngủ đến. Tôi và Ánh Phương cũng kể cho nhau nghe về gia đ́nh về bản thân của mỗi bên rồi sau đó, cả hai cũng thiếp ngủ lúc nào không biết.

    Chợt có bàn tay ai đó lay tôi thức dậy. Tôi mở mắt nh́n th́ ra là Dũng và anh Tấn. Theo chân hai người đi đến một chỗ trống, anh Tấn chỉ cho tôi thấy một vệt sáng từ tuốt ngoài khơi xa chiếu thẳng vào bờ ngay chỗ ghe chúng tôi. Vệt sáng này là ngọn đèn pha của một chiếc tàu khá lớn. Tôi quay trở vào, đánh thức Ánh Phương và Mỹ An dậy. Chúng tôi hỏi th́ anh Tấn nói con tàu đó không biết có mặt tại đây từ lúc nào, tàu nước nào, loại tàu ǵ? V́ có người thức khuya không ngủ nên mới thấy nó chiếu đèn vào ghe ḿnh, vào chỗ tụi ḿnh nên mới gọi nhau dậy. Chúng tôi ngồi yên lặng nh́n bóng chiếc tàu. Nó cứ pha đèn rồi tắt rồi lại pha. Không biết có phải là nó đang đánh tín hiệu Morse ǵ đó cho chúng tôi không? Cuối cùng th́ đèn pha chiếc tàu lạ tắt phụt, chúng tôi chỉ thấy lờ mờ ngọn đèn nhỏ của tàu và nó dần dần biến mất vào bóng đêm. Cả bọn chúng tôi không ai ngủ được nữa. Ngồi bên nhau mà ḷng lo lắng không biết ngày mai sẽ ra sao đây? Chúng tôi dự trù các diễn tiến xấu có thể xẩy đến và bàn các biện pháp đối phó.

    - Chúng ta bị lộ rồi, không thể nán lại đảo được nữa, phải t́m mọi cách lên đường thôi. Anh Tấn nói và mọi người đều đồng ư phải như vậy.

    Đêm chậm chạp qua đi, b́nh minh đến dần. Từ sáng sớm, hai tài công vội vă trở lại ghe để cố sức sửa máy cho bằng được. Lần này có thêm vài người khác nữa trong số có cả anh Tấn và tôi đi theo. Thực sự ngoài tài công, nhóm người chúng tôi tiếng ra theo phụ sửa máy nhưng cũng chẳng ai biết ǵ về máy móc cả. Có mặt trên ghe như một khích lệ hai tài công. Mong họ sửa được, cần người quay máy, chúng tôi có mặt sẵn tiếp sức. Cả bọn đang h́ hụi bên nhau bất chợt nghe tiếng la từ phía trong bờ. Mọi người trên ghe dừng tay, nh́n vào bờ rồi nh́n ra hướng biển. Một chiếc tàu khá lớn đang từ từ tiến vào thẳng ngay phía ghe chúng tôi. Anh Tấn nói lớn vọng vào bờ:

    - Đàn bà con gái lánh mặt trốn ngay đi. Nam giới ai nấy lo kiếm đồ thủ sẵn trong tay để mà chơi với tụi nó nghe.

    Chúng tôi cũng vội tản ra ngay. Người cầm cây búa, người con dao hoặc đoạn dây ḷi tói sắt... Tàu lạ tiến vào từ từ. Khi cách ghe chúng tôi khoảng 200m, nó ngừng lại. Nó không vào được. Sợ mắc cạn hoặc sợ bể tàu v́ các rạn đá ở gần bờ, tôi nghĩ vậy. Im lặng một lúc, hai bóng người nhẩy xuống biển từ con tàu lạ và bơi về hướng ghe chúng tôi. Khi bơi đến gần ghe, chúng tôi thấy họ mang theo mỗi người một thùng nhựa khá lớn. C̣n cách ghe chúng tôi khoảng 10m họ ngừng lại. Họ bơi đứng, nói bằng ngôn ngữ lạ chúng tôi không hiểu. Tay họ chỉ vào thùng nhựa mang theo và chỉ vào miệng. Anh Tấn khoát tay ra dấu cho hai người lạ bơi lại ghe. Họ đến sát bên ghe nhưng không dám leo lên v́ bộ dạng chúng tôi với những thứ đang cầm trên tay. Hai tài công tiến lại gần người lạ và hỏi hai tiếng Thái Lan th́ cả hai gật đầu. Họ đẩy các thùng nhựa lên cho tài công. Hai thùng nhựa được chuyền lên ghe. Ngay sau đó, hai người Thái Lan bơi nhanh về tàu họ. Họ leo trở lại con tàu. Ít phút sau, con tàu từ từ quay lui rồi tăng tốc chạy mất dạng trước sự ngỡ ngàng của đám chúng tôi. Chúng tôi tiến lại xem hai thùng nhựa. Anh Tấn mở nắp một thùng ra xem. Bên trong chứa đầy cơm nếp cùng tảng đường Thốt Nốt mầu vàng nhạt. Tôm thẻ rang chín chung với ớt đỏ. Dưới đáy thùng, một bọc nhựa đầy xoài xanh thái chỉ trộn với cá mắm cùng ớt và tỏi bằm chung. Thùng nhựa thứ hai chứa đầy tới miệng kẹo bánh, thuốc lá thơm hiệu Samit, Gold City và những lon nước ngọt Coca Cola.

    Mang hai thùng đồ ăn vào bờ, anh Tấn tập họp mọi người ngồi thành một ṿng tṛn dưới những tàng cây mát. Chúng tôi chia thức ăn từ hai thùng nhựa đều cho mọi người trong nỗi vui mừng và ngạc nhiên v́ thái độ quá sức thân thiện của hai thủy thủ Thái Lan ở con tàu lạ.

    - Đâu phải tàu Thái Lan nào cũng hải tặc hết đâu... Có người này người khác chứ.

    Ai cũng cho như vậy mà đâu biết những bất trắc từ con tàu lạ sẽ xẩy ra cho ghe chúng tôi... chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa thôi.

    Đến đây, tôi nói sơ qua về chuyện ăn uống trên đảo khi đó. Phải nói nhờ có anh Tấn mà chuyện ăn uống mới có quy củ chứ không th́ vẫn cảnh giành giựt mạnh ai nấy lấy, mạnh ai nấy ăn. Ít giờ trước đó, mấy phụ nữ vừa nấu xong một nồi cháo ốc cho bữa ăn sáng th́ xẩy ra cảnh giành giựt. Cháo chín tới, ghe chỉ có vỏn vẹn bốn cái chén sành và một cái tô nhựa. Người nấu cháo đă nói lần lượt từng người tự giác ăn một chén c̣n để chừa phần cho người khác. Có hai gă thanh niên chen vào giành chén, múc cháo ăn trước tiên. Khi húp cạn chén cháo, hai gă tỉnh bơ múc đầy và ăn tiếp mà không chuyền cái chén cho người khác đang chờ đến lượt. Hết chén thứ hai sang chén thứ ba th́ có người lên tiếng nhắc nhở. Hai gă vẫn gục mặt ăn tiếp làm như không nghe thấy ǵ hết. Một trận xô xát nhỏ đă xẩy ra giữa hai gă với những người khác. Hai gă thanh niên đó ở trong đám nhập chung với chúng tôi tại bến xe Hà Tiên khi nhóm tổ chức nhét thêm khách. Hai gă c̣n trẻ, to xác nhưng rất lười. Cứ nằm yên hay ngồi chơi tại chỗ. Mặc ai đi bắt ốc, ai đi gom củi nấu ḿ gói nấu cháo th́ đi. Hai gă không hề giúp một tay. Khi nồi ḿ nồi cháo nấu xong, hai gă nhào vào ăn trước. Ăn rất hỗn, chẳng biết nhường phần người sau. Có người c̣n bắt quả tang hai gă lục túi xách của người khác khi c̣n ở dưới ghe. Xô xát xẩy ra. Hai thanh niên thật hung dữ, đuổi đánh những người chống lại... buộc anh Tấn phải vào cuộc. Anh Tấn chạy tới can ngăn th́ bị một trong hai gă đánh luôn. Dù vóc dáng nhỏ con nhưng anh Tấn ra ngón vơ thế nào mà chỉ loáng một cái, hai gă thanh niên nằm thẳng cẳng ngay đơ dưới đất. Vài người chạy đến hai gă tính đánh trả thù nhưng anh Tấn cản lại, không cho.

    - Đ.M hai thằng mày, thứ sâu bọ ham ăn giành uống như vậy sao không ở với Cộng Sản mà vượt biên làm ǵ? Cỡ chúng mày ra nước ngoài chỉ tổ làm người Việt nhục lây. Hôm nay tao tha nghe con. Muốn nhịn hai thằng mày mà không được. C̣n cà chớn nữa tao sẽ lấy mỗi thằng một bóng đèn đó. Biết chưa? Anh Tấn hùng hổ quát.

    Hai gă thanh niên van lạy rối rít, xin anh Tấn và người trên ghe xí xoá lỗi của chúng đă làm. Nhờ vụ xô xát, tất cả người trên ghe đă răm rắp nghe theo lời anh Tấn. Tự nhiên anh đă thành leader. Ở đâu, trong bất cứ sắc dân nào cũng có bọn người lười biếng, ích kỷ như hai gă thanh niên.

    - Hù tụi nó cho sợ thôi. Cho bỏ cái tính côn đồ đi. Anh Tấn nói nhỏ với tôi và Dũng.

    Chúng tôi từ từ chia đều thức ăn trong hai thùng nhựa cho mọi người cùng ăn. Lần đầu tiên trong đời tôi nếm món ăn của Thái Lan. Hết cơm nếp nóng với tôm thẻ rang chung ớt đỏ khô cùng món xoài xanh bóp gỏi với cá mắm... lại ăn kèm với đường Thốt Nốt. Cuối bữa, chúng tôi nhai nhóp nhép bánh ngọt, kẹo và giải khát bằng các lon Coca Cola trong làn khói thơm của thuốc lá thơm Samit hoặc Gold City từ miệng mũi phả ra. Một bữa ăn quá sức ngon miệng.

    Ăn uống no nê, mọi người tản ra nằm hoặc ngồi dưới các bóng mát tán chuyện với nhau c̣n hai tài công cũng bỏ mặc không sửa máy ghe nữa. Họ no bụng nên muốn nghỉ ngơi hay thực sự biết không thể sửa cho máy chạy được? Tôi, Ánh Phương, Mỹ An và Dũng ngồi quây quần bên nhau... nói chuyện về chiếc tàu Thái Lan. Liệu có phải chiếc tàu tối hôm qua pha đèn vào ḿnh không? Anh Tấn rồi nhóm người của hai tài công đang ở gần cũng bước lại ngồi nhập chung bọn, cho biết:

    - Không biết có phải nó hay không nữa? Trời khuya ai thấy rơ được nhưng tàu sáng nay là tàu Thái hiền, không phải tàu Thái hải tặc. Tiếc cái tàu họ chạy mất tiêu rồi.

    - Phải chi mấy ông nhờ hai người Thái này lên ghe coi hộ cái máy không chừng họ sửa dùm cho ḿnh luôn đó. Tại sao mấy ông không làm vậy? Một phụ nữ ngồi gần chen vào.

    - Trời! Bà nói dễ nghe ha! Tụi tui biết họ định làm ǵ mà nói... Với lại, thấy tụi tui cầm dao búa trong tay, họ c̣n không dám lội lại gần ḱa. Mà ai để cho họ leo lên ghe? Một tài công vặn lại.

    - Mấy ông quá dở th́ có. Thấy cho ḿnh đồ ăn, biết họ người hiền lành chứ... Phải chụp cơ hội nói họ giúp. Không biết tiếng Thái th́ làm dấu để họ biết chuyện ḿnh cần. Con không khóc mẹ nào cho bú. Phải không? Có mặt trên ghe tui làm như vậy liền. Mấy ông nh́n họ có đeo tượng Phật không? Người phụ nữ tiếp.

    - Thôi chị Hai ơi! Lúc đó chị cũng chạy núp mất tiêu rồi c̣n nói ngon. Người tài công đáp trả.

    Mặt trời giờ đă đứng bóng. Gió mát từ hướng biển thổi vào liên tục và nhờ ở dưới bóng các tàn cây nên không ai cảm thấy nóng. Có làn gió mát, mọi người tự động tản ra đi về chỗ của ḿnh nằm ngủ trưa. Tôi đến bên Ánh Phương, nàng nh́n tôi và nói:

    - Anh đừng nằm xa chỗ em để có ǵ th́ giúp em. Tự dưng gặp cái tàu pha đèn tối hôm qua rồi cái tàu cho đồ ăn ban năy nữa làm em lo quá anh Vũ. Đừng để em một ḿnh, em sợ lắm. Anh phải che chở cho em nha.

    Tôi nh́n khuôn mặt Ánh Phương. Một lần nữa nhủ thầm, cô gái quá đẹp. Tại sao Ánh Phương dám đi vượt biên? Sao mà lường hết các chuyện sẽ xẩy ra. Ghe có thể bị công an biên pḥng bắt. Có thể bị ch́m v́ băo hoặc hư máy như hoàn cảnh hiện tại. Nh́n Ánh Phương, tôi không dám nghĩ đến câu có thể gặp hải tặc. Tôi cũng cảm thấy một niềm vui đang dâng tràn khi vừa nghe nàng nói. Có thể trong mấy ngày qua, chúng tôi kề cận bên nhau để nàng nghĩ tôi như người thân thiết bên cạnh. Cũng có thể đơn giản nàng chỉ xem tôi như anh trai ruột nàng. C̣n tôi, nghĩ sao về Ánh Phương? Tôi thật chưa biết! Thấy tôi im lặng, Ánh Phương khe khẽ:

    - Anh Vũ! Anh phải che chở cho em nha. Che chở em.

    Tôi vội gật đầu, nàng nở miệng cười thật tươi trong ánh nắng chiếu xiên qua kẽ lá. Tận bây giờ, tôi vẫn nhớ khuôn mặt và nụ cười của Ánh Phương. Răng nàng trắng đều như bắp trong làn môi đỏ thắm. Khuôn mặt trái soan trắng hồng với vài gân máu li ti ở g̣ má cùng với cặp mắt sáng dưới hàng lông mi cong đen. Ánh Phương! Ánh Phương ơi! Em đẹp quá. Thật kỳ lạ! tôi có các em gái ruột trạc tuổi Ánh Phương. Cũng mặt mũi cũng vóc dáng như nàng. Có bao giờ tôi ngồi sát cạnh bên để nh́n rơ khuôn mặt các em gái tôi như đang ngồi đây với Ánh Phương. Tôi nh́n Ánh Phương lần nữa để biết con gái Việt Nam thật đẹp. Cầm đôi bàn tay của Ánh Phương rồi tự nhiên tôi đưa lên mũi tôi. Mùi hương con gái toả ra từ đôi bàn tay nàng. Ánh Phương để yên và có lẽ tôi cũng sẽ để yên như vậy rất lâu nếu như nàng không mắc cỡ, rụt tay lại. Ánh Phương lí nhí nói nhỏ: " Mỹ An nó đang nh́n ḱa, ḿnh nằm nghỉ đi anh Vũ ".

    Tôi biết Ánh Phương lo lắng khi thấy máy ghe hư không sửa được và nếu bị kẹt ở đảo rồi thân gái sẽ ra sao nếu như không có người thân thích bên cạnh? Nàng đă nói như vậy với tôi, tôi nhủ thầm: " Ánh Phương ơi! Dù em không nói ra, tôi cũng tự cảm thấy có bổn phận phải che chở cho em ". Tại sao vậy? Tôi đă có cảm t́nh với Ánh Phương hay v́ ḿnh đàn ông con trai phải xử sự như vậy với con gái. Tôi cũng lo lắng như nàng chứ. Tôi nghĩ thêm thức ăn rồi sẽ hết và sẽ ra sao? Nh́n các người khác đang yên lặng nằm mở mắt nh́n lên các tán lá cây. Dù không ai nói ra, tôi cũng biết người nào cũng lầm thầm trong bụng mong được gặp lại con tàu Thái Lan hồi sáng.

    Đang ch́m trong giấc ngủ trưa, tôi tỉnh giấc v́ tiếng hét lớn: " Cái tàu hồi sáng kia ḱa bà con ơi ". Tôi và Ánh Phương choàng dậy ngay. Thật linh như thần khẩu. Đúng nó rồi. Con tàu chạy ngang trước mặt chúng tôi cũng một khoảng cách như lúc sáng. Mọi người chạy túa ra vẫy tay, miệng hét lớn. Không biết v́ nghe thấy tiếng hét hoặc trông thấy chúng tôi vẫy tay mà chiếc tàu từ từ dừng lại. Một bóng người trên tàu nhẩy xuống biển lội vào bờ hướng về chỗ cả bọn chúng tôi. Không ai c̣n ư nghĩ phải t́m cách đề pḥng chiếc tàu nữa. Gă thủy thủ Thái Lan bước từng bước lên bờ. Gă không phải người cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Gă mặc một quần thun bó sát với chiếc áo phao. Tướng tá trung b́nh, mầu da vàng như người Việt. Khi đến gần, gă xổ một tràng tiếng Thái Lan. Gă nói tiếp vài câu nữa nhưng vẫn không ai hiểu. Một chút yên lặng nghĩ ngợi, gă Thái Lan nói thêm vài câu khác. Đột nhiên có người trong chúng tôi vọt miệng trả lời y. Hai bên đối đáp qua lại từng câu. Th́ ra gă thủy thủ là người Thái gốc Tàu Triều Châu. Người bên chúng tôi nói chuyện được với gă là cô gái Việt gốc Tàu vùng Bạc Liêu. Cô A Muối có tên Hồng Thu Lan. Chúng tôi nhờ cô cho gă thủy thủ Thái Lan biết về t́nh cảnh của cả bọn. Theo lời gă, tàu Thái Lan trên đường quay về Bangkok trông thấy chúng tôi vẫy tay, reo ḥ nên chủ tàu mới dừng lại rồi cho gă lội vào bờ t́m gặp chúng tôi.

    - Nói họ tiện thể chạy về Bangkok th́ kéo ghe ḿnh theo luôn đi A Chế... Mấy người vây chung quanh cô Hồng Thu Lan thúc hối.

    Gă Thái Lan quay ra biển, dùng tay làm dấu hiệu với con tàu. Lập tức, bóng người khác trên tàu lao xuống biển và bơi thẳng vào bờ đến chỗ chúng tôi. Gă thứ hai này là người đă cho chúng tôi thức ăn hồi sáng. Trên cổ tay gă quấn một nùi dây cước nhỏ mầu đỏ kéo dài tuốt ra biển xa. Gă lặng yên, kéo sợi dây cước liên tục. Chúng tôi nh́n mà không hiểu việc gă làm. Sợi cước nhỏ được nối với một dây thừng khá lớn của tàu. Có sợi thừng lớn, gă thủy thủ gốc Tàu nói cô Hồng Thu Lan biết chúng tôi phải cột sợi dây thừng vào mũi ghe ngay. Có làm vậy, họ mới kéo ghe chúng tôi đến sát con tàu được. Đúng như chúng tôi dự đoán khi trước, con tàu Thái Lan quá lớn nên không thể cặp vào sát bờ như ghe nhỏ chúng tôi.

    Toàn bộ chúng tôi cùng hai thủy thủ Thái Lan vội vă trở lại ghe. Tàu Thái Lan bắt đầu thu dây thừng lại. Trong chốc lát, ghe chúng tôi đă nằm ngay sau đuôi con tàu Thái Lan. Hai gă thủy thủ nhẩy xuống nước, bơi trở về tàu họ. Tàu Thái Lan nổ lớn máy chạy nhanh dần, kéo theo ghe chúng tôi đằng sau. Lúc đó khoảng 2 giờ trưa, mặt biển xanh lơ vắng lặng, êm ả không một bóng tàu ghe nào khác.

    Dù con tàu Thái Lan chạy rất nhanh so với tốc độ của ghe vượt biên nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy chậm. Trước lúc mọi người trở về ghe, gă thủy thủ gốc Tàu cho cô Hồng Thu Lan biết do đang trong hải phận nước Khmer nên chuyện tàu đánh cá Thái Lan không thể kéo theo ghe vượt biên được. Nếu bị tàu tuần duyên hay tàu đánh cá Khmer phát giác, tàu gă sẽ gặp rắc rối. Gă cho biết thêm, tàu Thái Lan sẽ kéo ghe chạy rất nhanh cho đến khi cảm thấy an toàn mới thôi. Chúng tôi nh́n chung quanh trên mặt biển. Các đảo dần dần nhỏ hẳn. Con tàu Thái Lan tăng tốc độ chạy càng nhanh đến nỗi ai cũng phát sợ. Có lúc tàu chạy lượn ṿng vèo hoặc giảm tốc độ rồi lại tăng đột ngột. Ai trên ghe phải bám cứng lấy nhau v́ sợ rớt xuống biển. Nước biển văng mạnh lên sàn ghe tương tự trong đêm gặp dông băo. Có người phải nhẩy xuống nằm dưới khoang hầm cho an toàn. Tàu Thái Lan cứ chạy như vậy cả tiếng đồng hồ. Nhiều người có cảm giác chóng mặt, khó chịu. Có người chịu không nổi phát nôn. Vài người hét thật lớn mong tàu Thái Lan nghe thấy để giảm bớt tốc độ. Không thấy bóng thủy thủ Thái Lan nào trên con tàu. Kéo ghe chạy nhanh như vậy, ai cũng lo sợi dây kéo sẽ đứt v́ quá căng. Tiếng gỗ kêu rin rít mỗi khi con tàu tăng tốc độ. Đột nhiên, con tàu chạy chậm dần rồi ngừng hẳn. Khoảng cách giữa ghe và tàu thu ngắn lại.

    Đậu sau đuôi con tàu Thái Lan, ghe chúng tôi quá nhỏ. Trên ca bin tàu cao vút, năm sáu gă đàn ông ngồi ngó xuống cả đám chúng tôi. Gă Thái Lan gốc Tàu nói với cô Hồng Thu Lan là thuyền trưởng con tàu muốn biết tổng số người trong ghe để họ lập danh sách tŕnh cho chính quyền khi tàu cập vào Bangkok. Chúng tôi phải lên ngồi trên mặt sàn ghe để họ chụp h́nh làm bằng chứng nữa. Nghe họ nói, ai nấy đều hứng chí quên hết mệt mỏi. Tài công hối thúc người c̣n dưới khoang hầm phải lên mặt sàn ghe ngay. Tàu Thái Lan lấy máy h́nh ra chụp toàn bộ người chúng tôi đứng ngồi lố nhố trên ghe. Xong xuôi, tàu Thái Lan nói chúng tôi chuẩn bị rời ghe chuyển sang bên họ để nghỉ ngơi và ăn uống.

    Tàu Thái Lan chạy nhanh khi kéo ghe để chúng tôi ai cũng phải thấm mệt trước đă. Khi nói ngồi hết trên mặt sàn ghe, để họ biết nhân số đàn ông con trai mà tính chuyện sau này. V́ quá thật thà, cả tin nên không ai nghi ngờ hành động của tàu Thái Lan. Ánh Phương và tôi ngồi gần mũi ghe. Nh́n mặt nhau, cả hai đang bần thần dă dượi v́ mệt. Chung quanh ghe chỉ một mầu nước biển. Không một ḥn đảo hay bóng tàu ghe nào hết. Cả ghe ngồi như vậy cho đến khi gă Thái gốc Tàu cùng một gă khác xuất hiện nói chúng tôi từng người lần lượt trèo lên boong tàu ngay. Anh Tấn đ̣i leo lên tàu trước để thám thính. Anh bước vọt lên đầu mũi ghe, tay nắm sợi dây từ trên tàu thả xuống. Hai gă thủy thủ Thái Lan giúp anh Tấn leo lên boong nhanh chóng. Kế tiếp, người thứ hai rồi người thứ ba... Đến tôi người thứ năm leo lên con tàu Thái Lan. Có sợi dây và giúp sức của hai gă Thái Lan nhưng tôi đă chật vật mới leo lên được boong tàu. Sao bọn họ không kéo chiếc ghe sang cạnh lườn để chúng tôi dễ dàng trèo lên hơn là cột mé sau đít con tàu? Vừa lên tới nơi, tôi đứng tại chỗ, thâm tâm muốn phụ sức với hai gă Thái Lan để kéo tiếp những người khác dưới ghe. Tôi nghĩ trước tiên sẽ giúp cho Ánh Phương nên gọi nàng. Ánh Phương vừa đứng lên, gă thủy thủ gốc Tàu vội khoát tay ra dấu nàng ngồi xuống ngay. Y nói với cô Hồng Thu Lan nam giới leo lên trước sau mới tới lượt nữ giới. Tôi ngạc nhiên nhủ thầm: " Sao kỳ vậy? Có vụ người lên trước lên sau ". Cúi người xuống định kéo tay một thanh niên khác đang bắt đầu leo lên boong, gă thủy thủ Thái Lan đứng bên cạnh ra dấu, chỉ tôi đi về đằng phía trước con tàu. Tôi ngạc nhiên nh́n nhưng gă xua tay... muốn tôi phải đi ngay.

    Bằng một hành lang nhỏ nằm ngang thân tàu tương tự như một ban công của căn nhà lầu, tôi đi dọc theo hành lang nầy về phía trước con tàu. Ngang qua hầm máy, tôi nh́n xuống thấy dàn máy tàu thật lớn đang nổ nhè nhẹ. Đi gần hết ca bin tàu tới ngay buồng lái, tai tôi nghe tiếng nhạc phát ra từ chiếc máy cassette khá lớn cạnh bên tay lái tàu. Không một bóng người nào ở trong căn buồng lái nầy. Trước mặt tôi, một thủy thủ Thái Lan ngồi xổm giữa hành lang dường như người nầy đang sửa chữa cái ǵ đó sát cạnh vách của buồng lái. Tôi từ từ đi tới, khẽ lách qua thân người thủy thủ này th́ nhanh như một tia chớp, y ta đứng vụt dậy, chộp một tay tôi và khoá quặt ra phía sau lưng. Tôi chưa biết chuyện ǵ vừa xẩy ra th́ gă thủy thủ đó đẩy tôi đi tiếp một đoạn ngắn và y xô tôi té nhào xuống mặt sàn tàu. Ngay tức khắc, một gă thủy thủ chờ sẵn ở đó vội đè lên người tôi để cho một gă khác chạy đến trói tay trói chân tôi lại. Xong xuôi, hai gă thủy thủ nầy kéo tôi ngồi lên và tôi thấy anh Tấn cùng ba người lên trước tôi cũng đă bị họ trói chặt hết cả đang ngồi gần đó. Anh Tấn nhắm nghiền mắt, có một vệt máu ở trên mũi và vết xưng bầm trên g̣ má trái của anh. Ba người kia, vẻ mệt mỏi thất thần hiện rơ trên khuôn mặt của họ.

    Ghe chúng tôi đă sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan rồi.

    Lần lượt từng người nam giới chúng tôi ló dạng đến gần mặt sàn tàu và đều bị bọn thủy thủ Thái Lan nầy bắt trói liên tiếp như các người vừa đến trước đó. Bọn hải tặc trói chặt hai cổ, khuỷu tay chúng tôi ra sau lưng và cả hai cổ chân nữa. Bây giờ th́ chúng tôi biết tàu Thái Lan nầy chỉ có bẩy tên hải tặc. Chúng đă lập kế lừa, tỉa bắt cả đám nam giới chúng tôi và đó là lư do tại sao chúng không kéo cái ghe sát cạnh lườn tàu để chúng tôi cùng trèo lên một lượt v́ nếu làm như vậy, 32 đàn ông-thanh niên chúng tôi chắc chắn sẽ không bó tay quy hàng khi bọn chúng dở tṛ. Giờ biết chuyện th́ đă quá muộn. Bọn hải tặc đặt chúng tôi ngồi sát bên nhau cạnh thành con tàu. Chúng tôi nh́n nhau mà mặt người nào người nấy tái xanh, đầy vẻ buồn bă, thất vọng, tức tối và cả lo sợ nữa. Bọn hải tặc nầy đă lập kế để trói gọn cả đám chúng tôi quá dễ dàng. Chắc chắn đây là chiếc tàu đă pha đèn đêm hồi hôm và qua cung cách nhuần nhuyễn khi bắt trói chúng tôi, tàu hải tặc Thái Lan nầy đă từng làm các chuyện như vậy từ trước. Không biết có bao nhiêu ghe vượt biên của người Việt đă là nạn nhân của bọn chúng?

    Tôi ngồi yên trong tâm trạng bàng hoàng. Thật không ngờ, bây giờ là tháng 5 năm 1990 mà vẫn c̣n cái vụ hải tặc Thái Lan nầy. Từ rất lâu rồi, qua thư từ của người thân cũng như tin tức trên các đài BBC, VOA... tôi nghĩ là nạn hải tặc Thái Lan đă chấm dứt sau khi có quá nhiều vụ tấn công, cướp bóc, hăm hiếp và thảm sát người Việt vượt biên bằng ghe. Cộng đồng quốc tế đă phải lên tiếng rồi chính phủ nước USA vào cuộc, buộc chính quyền Thái Lan hết phương lẩn tránh trách nhiệm với đám tàu hải tặc nước ḿnh. Từ tin tức nơi những người c̣n sống sót khai báo với Cao Ủy Liên Hiệp Quốc khi đến trại tị nạn, các tàu hải tặc đă bị nhận dạng và chính quyền Thái Lan không thể bao che và phải mạnh tay với bọn này. Tàu đánh cá nào khi ra khơi đều phải ghi danh bạ, cho biết khu vực đánh cá, thời gian đi và về. Nhờ vậy mà hạn hải tặc đă giảm hẳn gần như ai cũng nghĩ là không c̣n có các vụ nầy nữa. Chính v́ vậy nên tôi mới dám vượt biên bằng ngă Thái Lan này bằng đường dây của anh Thành. Ngờ đâu! Số phận chúng tôi hôm nay sẽ ra sao đây? Tôi nghĩ đến mẹ tôi và các em tôi mà nước mắt chảy tràn trên khoé mắt. Gần bên tôi, người nào đó cũng đang khóc rấm rứt và có cả tiếng người khác khe khẽ niệm kinh Phật đều đều. Ba gă hải tặc Thái Lan da đen, vóc dáng cao lớn vạm vỡ đứng lảng vảng gần đó mà trong tay gă nào cũng lăm lăm một con dao to bản hoặc thanh sắt khá lớn. Những thứ này mà bọn hải tặc quất vào thân người chúng tôi th́ chỉ có chết.

    Tính chuyện cánh nam giới chúng tôi xong xuôi, bọn hải tặc kéo chiếc ghe đến sát bên lườn tàu phía đối diện nơi đám nam giới chúng tôi đang ngồi. Bọn chúng lấy ra một cái thang nhỏ và nhờ cái thang này mà đám đàn-bà con gái dưới ghe leo hết lên mặt sàn tàu dễ dàng. Nghe tiếng tṛ chuyện của đám đàn bà-con gái, chúng tôi biết họ đă lên con tàu Thái Lan nầy hết cả rồi nhưng họ vẫn chưa biết t́nh cảnh của đám nam giới v́ cạnh buồng lái tàu đă che khuất hết cả. Bọn hải tặc Thái Lan nhanh chóng lùa hết nữ giới ra phía sau để xuống hầm tàu hay vào trong ca bin mà chúng tôi cũng không biết rơ. Sau đó không lâu là tiếng đập phá ở dưới ghe chúng tôi. Chúng tôi nh́n nhau, bọn hải tặc đang lục soát để kiếm vàng, tiền Đô mà chúng nghĩ đă được cất dấu đâu đó trong ghe. Rồi cả bọn hải tặc quay trở lại đến bên chúng tôi. Bọn chúng dựng từng người đứng lên để lần ṃ kiếm dây chuyền, nhẫn vàng, đồng hồ và tiền Đô mang theo trong người. Đồng hồ mới, đắt tiền chúng mới lấy c̣n loại cũ th́ chúng không thèm. Những thứ lấy được, bọn đàn em đều nộp hết cho tay đầu đảng là một gă Thái Lan tuổi trung niên cởi trần, mặt mũi đen xạm, râu ria lởm chởm. Một báng cây súng lục ḷi ra ở ngay thắt lưng chiếc quần jean cũ của y.

    Chợt gă hải tặc Thái Lan gốc Tàu từ phía sau ca bin đi ra. Hắn bưng một thau cơm lớn và sau đó y bưng tiếp các thau thức ăn khác cùng chén, muỗng đặt chính giữa sàn tàu ngay trên nắp khoang hầm đóng kín. Bọn hải tặc lần lượt tháo dây cho từng người trong đám chúng tôi để ăn cơm chóng vánh rồi sau đó trói lại ngay. Đến lượt tôi được chúng cởi trói để ăn cơm. Cũng vẫn các thức ăn như hồi sáng mà chúng đă đem cho nhưng giờ lại có thêm món canh cá. Tôi lấy chén múc cơm và thức ăn nhưng chỉ nhấm nháp qua loa mà kín đáo nh́n bọn hải tặc, thử đoán thái độ chúng sẽ làm ǵ với chúng tôi. Tôi nh́n phía trên nóc ca bin tàu, một máy ra đa liên lạc vẫn đều đặn quay từng ṿng. Gần đó ba tên hải tặc ngồi bàn bạc chuyện với nhau mà một gă đang dùng cái ống ng̣m nh́n các phía xa xa chung quanh tàu. Một cột sắt khá cao, nằm cố định ngay chính giữa mặt sàn tàu mà sau này tôi mới biết đó là cột ṛng rọc để kéo các thùng cá xuống hoặc lên khỏi khoang hầm của tàu. Chiếc tàu Thái Lan này tuy thân làm bằng gỗ nhưng ván cạnh tàu rất dày tới cả 30cm và riêng mũi tàu là nguyên cả một khối gỗ to đùng. Tàu to lớn, cứng chắc như vậy mà tông vào ghe nhỏ xíu của người Việt vượt biên th́ c̣n ǵ là ghe. Hèn chi những câu chuyện về ghe vượt biên bị tàu hải tặc Thái Lan húc ch́m không ngoa chút nào. Chợt tôi nghĩ là nếu bọn hải tặc cho ḿnh ăn cơm th́ hy vọng bọn chúng sẽ không giết chúng tôi. Thấy chúng đang nh́n ống nḥm chung quanh liên tục th́ chắc chắn bọn nầy này đang lo sợ có các tàu khác hay đang trông chờ một cái ǵ đó. Và thật đúng như vậy. Bọn ngồi trên nóc ca bin chỉ tay x́ xồ tiếng Thái Lan về phía xa xa rồi ngay lập tức, chúng ngưng cái vụ cởi trói cho chúng tôi ăn cơm. Có tiếng máy tàu vọng lại gần gần và rồi một chiếc tàu Thái Lan khác lớn hơn chiếc tàu đang bắt chúng tôi từ đâu chạy đến cập sát bên cạnh.

    Một tấm ván gỗ được bọn hải tặc đặt nối giữa hai chiếc tàu nầy. Hai gă thủy thủ từ con tàu mới đến bước sang con tàu bên này và cùng những gă hải tặc đến nh́n chúng tôi trong chốc lát. Chúng tṛ chuyện với nhau rồi đi thẳng về phía đằng sau ca bin con tàu và sau đó lùa ra một số đàn bà-con gái của ghe chúng tôi đi sang chiếc tàu lớn đó. Cả thẩy là mười người và trời ơi! có cả Ánh Phương, Mỹ An và vợ các tài công của chiếc ghe nữa. Tất cả họ giờ đă trông thấy rơ bọn chúng tôi trong t́nh cảnh tay chân đang bị trói chặt, ngồi thành một đám ngay tại mặt sàn tàu. Họ đă hiểu sự việc của cả ghe nên kêu gào và than khóc thảm thiết. Tiếng kêu cứu của Ánh Phương vọng đến tai tôi và cả hai chúng tôi đă trông thấy nhau. Đôi mắt Ánh Phương thảng thốt, tay chân nàng chới với vẫy tôi cùng tiếng nói: " Anh Vũ, anh Vũ ơi...". Tôi làm ǵ được cho nàng bây giờ đây? Tôi buồn bă đưa mắt nh́n Ánh Phương cùng Mỹ An và những phụ nữ khác đang từng bước đi lần sang con tàu mới. Khi họ đi qua con tàu mới xong, đám hải tặc chờ sẵn ở bên tàu đó đă lùa cả bọn họ vào hết trong ca bin tàu. Ngay sau đó, con tàu Thái Lan mới này từ từ tách ra và chạy mất dạng.

    Đó là lần cuối cùng (cho đến tận bây giờ) tôi trông thấy Ánh Phương bằng xương bằng thịt.

    Bắt đi mười người trên ghe chúng tôi vậy th́ c̣n tám người nữa của đám đàn bà-con gái vẫn c̣n ở dưới hầm tàu và trong số này có cả cô Hồng thu Lan. Chuyện ǵ sẽ xẩy ra cho Ánh Phương, Mỹ An và đám phụ nữ trên chiếc tàu mới vừa chạy đi? Số phần nam nữ chúng tôi c̣n lại ở con tàu này sẽ ra sao đây? Bây giờ trời đă gần chiều và mây trôi từ nơi xa về che kín nhiều chỗ trên bầu trời. Đám hải tặc Thái Lan đột nhiên kéo ra hết trên mặt sàn tàu. Chúng tản ra, ba gă leo xuống ghe chúng tôi và bốn tên c̣n lại đứng trên mặt sàn tàu ngay chỗ chúng tôi. Bọn nầy định giở tṛ ǵ đây? Rồi lần lượt cứ hai gă hải tặc khiêng một người chúng tôi vất xuống cho hai gă khác đứng dưới ghe đón bắt lấy. Cứ đón được người nào trong đám nam giới chúng tôi th́ hai gă hải tặc vất nằm lăn quay trên mặt sàn ghe. Đến phiên tôi, chúng khiêng thật nhẹ nhàng và vất cái vù xuống cho hai gă đồng bọn. Tôi nhắm mắt v́ sợ hai gă ở dưới ghe đón hụt tay. Rủi mà như vậy th́ mạng tôi sẽ đi đứt v́ bị lọt ngay xuống biển. Nếu thân tôi, đầu tôi không đập vào thành ghe th́ cũng làm mồi cho Hà Bá. Chắc chắn là như vậy v́ tay chân bị trói chặt th́ làm sao mà bơi được. Nhưng không. Các gă hải tặc Thái Lan này quá khoẻ mạnh. Chúng thẩy và bắt thân của 32 người nam giới chúng tôi thật gọn ghẽ, dễ dàng như người chơi bóng bắt trái banh vậy. Chúng tôi bị vất nằm hoặc ngồi đè cả lên nhau và lên cả đống hành lư, quần áo mà bọn hải tặc đă lục soát từ các túi xách vứt ra đang nằm vương văi đầy trên mặt sàn ghe. Nh́n trên ghe rồi nh́n vào trong buồng lái, tôi thấy cháu trai con chị Ân ngồi sẵn ở đó từ lúc nào không biết. Cháu trai này tuy 14 tuổi nhưng thân h́nh nhỏ đẹt như một cháu bé mới 11 tuổi. Không biết khi bọn hải tặc lùa tất cả 18 phụ nữ lên con tàu lớn, chúng có bắt cháu lên theo chị Ân hay là chúng vẫn để cháu ngồi một ḿnh ở dưới chiếc ghe này?

    Tiếng máy tàu chợt nổ lớn hơn và con tàu Thái Lan bắt đầu chạy, kéo ghe chúng tôi theo sau nó. Lần này th́ tàu hải tặc chạy ở tốc độ b́nh thường và khoảng một giờ đồng hồ sau đó, tôi bắt đầu trông thấy bóng dáng các ḥn đảo nằm ở xa xa. Chúng định làm ǵ chúng tôi đây? Trời đă về chiều, mây từ xa kéo đến càng lúc càng nhiều hơn làm cho bầu trời thêm xám xịt. Trời sắp mưa đến nơi rồi đây. Những ḥn đảo đến gần chúng tôi hơn và rồi bọn hải tặc cho tàu chạy đến một đảo xa nhất. Đảo nầy khác với ḥn đảo ngày hôm qua khi ghe chúng tôi ghé vào. Đến gần đảo, bọn hải tặc trên tàu đă cắt dây kéo để mặc chiếc ghe chúng tôi rồi chúng quay đầu con tàu và bỏ chạy ra khá xa. Tiếng anh Tấn thét lớn: " Nó chạy lấy đà để húc vào ghe ḿnh đó " và rồi có tiếng người khác gọi cháu bé trai con chị Ân trong buồng lái ra giúp cởi dây trói. Sau đó chúng tôi lần lượt cởi dây cho nhau và lo lắng nh́n bóng con tàu ở tuốt đằng xa tự hỏi nếu bọn hải tặc quay lại để húc ch́m chiếc ghe nầy th́ chúng tôi sẽ phải làm ǵ đây? Ai cũng nói cố gắng phải bơi vào bờ v́ ḥn đảo cũng không xa lắm. Nó húc ghe ḿnh xong người nào c̣n bơi trên biển th́ nó sẽ chạy tàu qua, cán cho chết luôn đó. Nhưng con tàu hải tặc càng lúc càng xa tít rồi nó mất dạng dưới đường chân trời. Như vậy, bọn hải tặc đă bắt đi luôn số nữ giới c̣n kẹt trong tàu và bỏ mặc chúng tôi trên chiếc ghe hư hỏng nằm gần ḥn đảo này.

    Anh Tấn hối mọi người lấy những thanh ván ghe mà bọn hải tặc đă nạy banh ra khi chúng lục soát ghe ban năy để làm các mái chèo ghe mà chạy vào ḥn đảo. Ḥn đảo này tuy trông rất gần nhưng chúng tôi cũng phải chật vật cả tiếng đồng hồ mới chèo chiếc ghe vào sát bờ được. Kiếm được chỗ cạn có bờ cát thoai thoải, chúng tôi cho ghe ghé vào. Các tài công liền nối những đoạn dây trói của từng người chúng tôi lại với nhau thành một sợi khá dài và họ đă cột chiếc ghe này nối vào một cành cây ở trên bờ đảo. Không có mỏ neo, một tài công t́m một ḥn đá khá nặng và cột dây vào ḥn đá đó để neo chiếc ghe đứng lại pḥng hờ ghe trôi mất khi gặp nước triều lên hoặc xuống. Chúng tôi bắt đầu bới t́m lại túi xách, tư trang của ḿnh trong số đồ đạc vương văi mà bọn hải tặc vất đầy trên mặt sàn và dưới khoang hầm ghe. Tôi t́m được túi xách, quần áo của tôi rồi cả túi xách và áo quần của Ánh Phương nữa. Các giấy tờ của Ánh Phương nằm vương văi trong túi xách v́ bị bọn hải tặc lục soát. Tôi gom tất cả, bỏ trở lại vào cái bóp nhỏ của nàng và khoác các túi xách này lên vai rồi cùng những người khác, rời khỏi chiếc ghe, bước lội từng bước một để vào bờ.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  3. #3
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Chúng tôi đổ bộ lên đảo nầy với cả một sự mệt mỏi từ thể xác đến tinh thần. Chỉ có một ngày hôm nay thôi mà có quá nhiều chuyện xẩy đến với chúng tôi. Từ những phấn khởi khi nghĩ ghe tuy bị hỏng máy nhưng may gặp tàu đánh cá Thái Lan giúp sẽ sắp sửa cặp bến Bangkok sớm cho đến nỗi kinh khiếp khi bị lừa bắt trói trên boong tàu của chúng. Lúc đó ai cũng nghĩ ḿnh sắp chết đến nơi. Giờ đây, chiếc ghe chúng tôi quay lại ḥn đảo với hoàn cảnh c̣n tệ lậu hơn lúc trước nữa. Không ai buồn nói với ai một lời. Ai cũng một tâm trạng buồn bă. Bước dọc theo bờ cát, đến một mặt đá lớn bằng phẳng, tôi vất các túi xách và nằm vật ra đó. Một lát sau, Dũng bước đến và cũng nằm xuống gần ngay bên tôi. Dũng cũng cầm túi xách của nó và của Mỹ An. Tôi quay qua nh́n Dũng, mắt nó nhắm nghiền, nằm đó trong im lặng. Trải qua cảnh này ai mà không như vậy. Tôi biết nó cũng mệt mỏi như tôi. Gần đó không xa, những người đến trước đến sau đều t́m một chỗ nằm đây đó gần bên nhau trên các mặt đá phẳng. Không ai có cảm giác đói khát ǵ cả mà chỉ một nỗi lo sợ, thất vọng pha lẫn chán chường và mệt mỏi.

    Trời bắt đầu tối rồi tối hẳn. Tất cả chúng tôi nằm yên lặng trên các tảng đá như vậy và giấc ngủ dần dần đến với mọi người. Nửa khuya về sáng, trời đổ cơn mưa nhưng chúng tôi vẫn nằm im ngủ như vậy, bất chấp mưa rơi trên mặt và thấm ướt áo quần của ḿnh. Chúng tôi mệt mỏi quá rồi. Rồi trời hết mưa, thỉnh thoảng có các cơn gió lạnh nhưng nhưng mọi người vẫn im lặng nằm ngủ. Rồi b́nh minh đến chung với tiếng chim chóc, côn trùng trên đảo kêu vang vang trong tia nắng sớm. Chợt có tiếng người nào đó hét lớn thảng thốt:

    - Ghe ḿnh trôi tuốt đằng xa rồi kia ḱa! Làm sao đây bà con ơi? Dậy ngay đi.

    Tôi và Dũng nghe vậy vội choàng dậy và chạy ngay ra xem. Chiếc ghe đă trôi tắp vào các ghềnh đá sát bờ không xa chỗ chúng tôi đổ bộ vào lúc chập choạng chiều hôm qua. Những ghềnh đá nầy là chỗ mà chúng tôi đă cố tránh không chèo ghe đi vào. Sợi dây mà các tài công cột từ chiếc ghe nối vào cành cây ở trên bờ đă bị đứt từ lúc nào. Có lẽ đêm khuya khi nước triều dâng cao, nước đẩy chiếc ghe lên và ḥn đá làm neo không đủ sức giữ chiếc ghe đứng yên tại chỗ nên đă làm chiếc ghe dạt sang nơi khác. Dây nối từ ghe vào bờ quá nhỏ và v́ bị kéo căng quá nên đă đứt. Không một ai trong chúng tôi liệu trước được sự việc ghe sẽ bị trôi vào ghềnh đá như vậy. Cứ tưởng là đă cột dây và có làm neo th́ chiếc ghe sẽ an toàn nào ngờ. Chúng tôi vội chạy đến gần chỗ chiếc ghe vừa tắp vào. Chiếc ghe bị nước lùa đập vào các bờ đá và cơ khổ, nó đă bị gẫy ra làm hai khúc. Nước biển theo từng lọn sóng nhỏ vẫn vỗ từng đợt từng đợt vào thân ghe làm nó càng lúc càng nát thêm ra.

    Cả bọn chúng tôi nh́n nhau trong tuyệt vọng. Không có chiếc ghe th́ chuyện đi đứng sẽ làm sao đây hả trời?

    Thân chiếc ghe dập dềnh phần nổi phần ch́m theo từng con sóng xô mạnh vào các ghềnh đá rồi lại theo từng con sóng giật ra ngoài làm càng lúc càng nát hơn cho đến khi nó bị hất lên, nằm kẹt hẳn lại ở một bờ đá nhỏ. Tất cả đám nam giới chúng tôi đứng rải rác ở trên bờ buông mắt nh́n những phần c̣n lại của chiếc ghe trong im lặng. Mỗi người theo đuổi riêng tư ư nghĩ của ḿnh. Thế là hết, không c̣n chiếc ghe th́ niềm hy vọng sẽ tiếp tục cuộc hải hành coi như đă chấm dứt. Chợt có tiếng người rít lên:

    - Đ.M ! Trước mắt phải đập cho hai thằng tài công một trận rồi chuyện khác tính sau.

    Đó là tiếng của thằng Minh. Liền đó là tiếng những cú đấm, cái đá cùng giọng người kêu thét. Anh Tấn vội nhẩy vào can thiệp vụ xô sát giữa mấy người trẻ tuổi. Tôi cũng đến bên thằng Minh, giữ chặt lấy tay nó. Minh nh́n tôi, nh́n anh Tấn và các người khác rồi vừa thở vừa nói:

    - Các anh thử nghĩ tại sao em lại oánh hai thằng nó. Em với các anh là khách đi không biết chút ǵ về ghe về máy th́ đă đành. C̣n tụi nó là tài công mà lại để cho ghe chết máy rồi bây giờ lại dạt vào đá tan tành như vậy th́ hỏi sao mà em không tức. Hai thằng nó đă được đi chùa cả vợ lẫn chồng mà c̣n để ghe như vậy. Cũng do tụi nó mà cả đám ḿnh mới vướng tay bọn hải tặc.

    Tôi thấy lời thằng Minh nói rất đúng. Nếu ngày hôm qua mà máy ghe không bị hư th́ chúng tôi đâu có bị vướng tàu hải tặc và không chừng giờ nầy ghe chúng tôi đă đến được bờ biển nào đó của Thái Lan. Hai người tài công mắt hoe đỏ trong dáng điệu thật thiểu năo, một người nói với anh Tấn:

    - Anh coi, hai đứa em cũng đă cố hết sức mà không sửa được máy. Cũng không biết nguyên do tại sao nữa. Mọi lần trước, máy có hư th́ em sửa nó nổ lại liền. Không hiểu sao ... Em cũng đâu có muốn bị như vậy. Vợ em bị hải tắc bắt mất rồi ḱa ... Hu hu ...

    Anh Tấn đứng bên cạnh hai người tài công nầy, quay nói với thằng Minh:

    - Thôi em, chuyện đă xong rồi đừng nhắc lại làm ǵ thêm buồn. Có lẽ chiếc ghe ḿnh cái số của nó phải ch́m xuống biển nên trời mới xui khiến nó bị như vậy. Chiều tối hôm qua th́ ai cũng mệt mỏi không buồn nói chuyện với nhau nữa. Anh thấy hai cậu đây cũng đă làm hết sức họ rồi. Máy móc có khi c̣n mới toanh mà nó vẫn bị trục trặc. Có ai biết trước được đâu em. Bây giờ không c̣n ghe th́ ḿnh hợp sức lại cùng tính chuyện khác hơn là gây gổ với nhau.

    Anh Tấn kín đáo ra dấu cho tôi d́u thằng Minh đi về hướng khác. Lần lượt từng người tản ra. Tôi, Dũng và thằng Minh đi trở về chỗ nằm cũ. Gió buổi ban mai từ hướng biển thổi vào bờ mát lạnh. Chỉ vài tiếng sau tôi đă biết sơ về ḥn đảo. Nó nhỏ hơn ḥn đảo ngày hôm qua khi ghe chúng tôi ghé vào và cũng có các nguồn nước ngọt từ trong các hốc đá chẩy ra. Cây cối trên đảo thưa thớt nhưng đều là loại cây khá lớn. Các chùm lan Ngọc Điểm hoa tím mọc tầm gửi đó đây trên các cành hoặc trên thân cây cao. B́nh thường mà trông thấy hoa phong lan th́ chắc chắn tôi sẽ t́m cách để trèo lên gỡ nó xuống cho bằng được nhưng ở hoàn cảnh này th́ cũng chẳng thiết ǵ đến chúng. Gần trưa, ai nấy đều cảm thấy đói bụng. Đi trở lại chỗ chiếc ghe bị sóng đánh tan hoang, vài người chúng tôi cố men theo các ghềnh đá ra được chỗ ghe bể để thu nhặt tất các túi xách phụ nữ, nồi niêu chén bát và ít gạo c̣n sót lại trong các thùng nhựa. Gạo mang lên bờ, anh Tấn đổ ra đong được cả thẩy là 33 chén vừa đúng với số 33 người chúng tôi có mặt trên đảo. Bây giờ lại ngay cơn nước ṛng, trơ ra các băi cát, bờ đá. Anh Tấn liền phân công chúng tôi người th́ đi thu nhặt ốc biển và lật các ḥn đá để bắt Cua bắt C̣ng hoặc Cá nhỏ mắc cạn, người th́ thu gom củi khô và nhóm bếp để nấu cháo ăn ngay. Anh Tấn nói mọi người:

    - Mỗi bữa chúng ta chỉ nấu một chén gạo thôi. Ba bữa cháo cho một ngày ăn cầm chừng xem sao đă. Chúng ta phải chấp nhận chịu đói một chút. Nhớ là gặp trái cây lạ trên đảo th́ đừng có ăn ngay.

    Không có bàn tay phụ nữ trong việc nấu ăn, đám nam giới chúng tôi chật vật khá lâu mới gầy được nồi cháo cho cả bọn. Cũng giống như lúc ở ḥn đảo ngày hôm qua, chúng tôi bắt được khá nhiều ốc, cua, cá trong các chỗ cạn. Tuy vậy nồi cháo vẫn loăng v́ ít gạo. Ngồi gần bếp lửa, tôi hỏi anh Tấn về vệt máu ở trên mũi và vết bầm nơi g̣ má anh th́ anh cho biết ngay lúc vừa lên tới sàn tàu, khi bọn hải tặc giở tṛ, anh đă đánh trả lại chúng ngay và chỉ bị khuất phục bởi họng súng lục của gă đầu đảng. Anh nói: " Vết bầm ở g̣ má là do thằng đầu đảng dùng báng súng đánh vào đó, tới giờ mà anh vẫn c̣n rêm ". Như vậy chỉ có anh Tấn là người duy nhất trong ghe bị bọn hải tặc đả thương. Cháo nấu chín, chúng tôi múc đều ra cho từng người ăn lần lượt và anh Tấn là người ăn sau cùng. Xong, tôi kiếm một chỗ khuất để xem lại túi xách của Ánh Phương. Hai bộ quần áo cùng các áo ngực, quần lót của nàng c̣n đây mà bây giờ t́nh cảnh nàng ra sao không biết nữa? Mở xem lại chiếc bóp nhỏ xinh xắn của nàng, tôi thấy có hai thỏi son môi, một bút ch́ kẻ mắt, một cái gương soi bé tí nằm lẫn lộn với chai dầu gió Song Thập cùng vài viên kẹo và một lọ nhựa nhỏ đựng ít viên thuốc cảm, thuốc chống ói bên trong. Một phong b́ cũ với địa chỉ của anh trai nàng ở bên nước Úc. Tôi cầm xem tấm thẻ Chứng Minh Nhân Dân của nàng. Hoàng Thị Ánh Phương số nhà... phường 12, quận 10. Ánh Phương! Ánh Phương ơi! Tôi gọi nhỏ tên nàng. Ánh mắt của em khi nh́n tôi trong những giây phút cuối trên con tàu Thái Lan cũng như sự đau nhói trong tim tôi khi đó, chúng ta đă là một phần đời của nhau, ít nhất là trong lúc này. Sẽ không bao giờ tôi quên được h́nh ảnh của em. Bỏ quê hương, xa ĺa người thân ruột thịt để trốn chạy bọn Cộng Sản vô luân mà đâu ngờ chúng ta lại sa vào tay bọn hải tặc Thái Lan hung ác. Tội nghiệp thân em quá! Tôi xem lại ảnh của Ánh Phương trên tấm thẻ rồi nhớ lại khuôn mặt nàng trong ngày hôm qua. Ánh Phương hiền lành khả ái mà không lẽ phần số em lại bất hạnh quá vậy sao! Tôi ngồi im, thẫn thờ nh́n ra hướng biển. Con tàu hải tặc Thái Lan khốn kiếp đó đă mang em đi nơi nào rồi? Tôi đă giữ tấm Chứng Minh Nhân Dân đó và nhờ nó cùng các vật dụng trong cái bóp nhỏ mà gần mười năm sau tôi mới t́m lại được Ánh Phương. Nhưng đó là chuyện về sau.

    Cũng theo phân công của anh Tấn, chúng tôi chia nhau thành hai nhóm năm người đi ngược về hai phía để thám sát ḥn đảo. Mong rằng trên đảo hoang sẽ có loại cây nào cho trái chín để chúng tôi ăn thêm. Chúng tôi cũng trông thấy các vỏ kem đánh răng hiệu Như Ngọc, vỏ chai x́ dầu hiệu Nam Dương ... vất rải rác ở vài chỗ trên đảo. Chúng tôi c̣n gặp một cái bếp làm bằng ba ḥn đá chụm lại nằm trong một chỗ kẹt kín gió. Tro đen, các mẩu củi nấu dở vẫn c̣n sót nguyên. Trên một tảng đá bằng phẳng ở dưới một tàng cây bóng mát, nằm trơ trọi hai cái chén và một cái nồi nhỏ đầy nước cùng rêu xanh bám chung quanh. Một cái áo kiểu Thanh Niên Xung Phong được máng chặt vào kẽ cành cây ở gần ngay đó. Chiếc áo cũ mốc cứng ngắc. Nó được tay người nào đó máng ở đây từ rất lâu rồi. Những người Việt vượt biên nào đă dùng bữa cơm trên tảng đá ở đây? Chúng tôi đi dọc theo bờ ḥn đảo như vậy cho đến khi cả hai nhóm gặp lại nhau.

    - Đảo nầy ở gần bờ th́ không có cây trái ǵ ăn được hết. Không biết bên phía trong th́ sao nữa? Một người trong nhóm kết luận.

    Quay trở về chỗ cũ, loay hoay không làm ǵ mà trời đă bắt đầu xế chiều. Bữa ăn chiều của chúng tôi cũng chỉ duy nhất là món cháo ốc hoặc ăn thêm vài con cua, cá bắt được thôi. Một người chép miệng than phải chi ghe giữ lại được một tay lưới th́ bây giờ c̣n có cái để bắt cá mà ăn. Đương không lại đem cho ghe Phú Quốc hết tất cả. Ai cũng tiếc rẻ nhưng có ai biết trước chuyến đi để mà liệu được!

    Hai ngày trôi qua rồi ngày thứ tư và hôm nay là ngày thứ năm chúng tôi đă sống trên đảo hoang. Mỗi khi chiều xuống th́ từng con dơi lớn bay ra kiếm ăn từ tàng cây cao nào đó trên đảo. Đây là loại dơi quạ. Thân h́nh chúng thật to với sải cánh khá rộng. Khi chúng bay vút qua gần chúng tôi, ai cũng thấy rơ đầu chúng như đầu con chó nhỏ với cái miệng há lớn đỏ ḷm cùng răng nanh trắng bóc. Có người thắc mắc những con dơi đó bay đi kiếm ăn ở đâu? Nghe tiếng kêu, tiếng vỗ cánh của chúng làm ai cũng sợ chúng đáp bám lên người rồi hút máu của ḿnh. Đêm về trời lạnh, có người lôi c̣n cả quần áo sót lại của nữ giới ra đắp lên người thay cho chăn nữa. " Có úm chút hơi hám của các em th́ thấy ấm hơn nghe mấy cha ", một người trong ghe nói đùa. Hai người tài công cho là sẽ gặp lại vợ họ v́ sau khi bọn hải tặc chán chê với đám đàn bà-con gái trên ghe th́ chúng sẽ đem họ trở về đây. Nhưng năm ngày trôi qua rồi mà vẫn không thấy bóng hai chiếc tàu Thái Lan đâu, giờ trông mặt họ buồn bă thấy rơ. Ai cũng quả quyết hải tặc bắt đám đàn bà-con gái ở ghe vượt biên th́ không đời nào có vụ chúng quay trở lại để trả người. Thêm vào chuyện cháu bé trai con chị Ân nữa. Cứ chiều đến là cháu bắt đầu khóc đ̣i mẹ v́ nhớ và v́ đói bụng. Do vậy mà chúng tôi mới biết c̣n có một thanh niên em ruột của chị Ân đi cùng ghe nữa. Hoàng, tên người thanh niên này cho biết về cháu ruột ḿnh:

    - Tên nó là Sang. Cha nó năm năm trước đây vượt biên mà không ai nghe được tin tức ǵ cả. Chắc ghe đă ch́m hay bị hải tặc ǵ đó. Giờ th́ đến phiên mẹ của nó. Tội nghiệp cho thằng nhỏ! Sang ơi Sang! Mầy đừng khóc nữa. Mầy càng khóc th́ càng làm cậu thêm đau ḷng, rối trí lắm mầy biết không?

    Không c̣n ghe, chuyện vượt biên của chúng tôi coi như tắt lịm. Bây giờ chúng tôi chỉ cầu mong có ghe, tàu nào đó ghé vào đây để giải cứu chúng tôi. Nếu gặp được tàu ngoại quốc rồi họ sẽ đưa chúng tôi đến một trại tị nạn trong vùng th́ càng tốt nhưng trong vùng vịnh Thái Lan này và nhất là chúng tôi đang ở trên một ḥn đảo nhỏ xa khuất th́ chuyện hy vọng có tàu ngoại quốc ghé vào là điều rất mong manh. Cầu có ghe, tàu nào đó biết có người lâm nạn kẹt trên đảo để đến cứu dù biết sự giải cứu này có thể sẽ dắt chúng tôi vào nhà giam. Thà là vậy mà c̣n đường sống hơn là chết đói dần ṃn ở đây nên, sau khi tập họp tất cả 32 người lại bàn bạc anh Tấn đă quyết định phải đốt các đống lửa thật lớn. Chúng tôi lấy thêm dầu từ dưới ḷng ghe bể rồi tản nhau ra đi thu gom các cành cây khô và làm thành hai đống củi khá lớn ở gần bờ biển rồi bắt đầu đốt lửa cho cháy liên tục. Cứ kiếm thêm được củi th́ vất ngay vào hai đống lửa để giữ cho nó khỏi tắt. Anh Tấn cũng nói chúng tôi căng các sợi dây để treo quần áo của đám đàn bà-con gái bỏ lại để mong có ghe, tàu trông vào sẽ nghĩ là có phụ nữ trên đảo th́ có nhiều cơ may được họ giải thoát hơn. " Ḿnh phải làm vậy thôi ", anh Tấn kết luận. Sau, mới biết suy tính của anh Tấn rất chính xác.

    Sáng sớm ngày thứ bẩy có ai đó báo cho anh Tấn biết có bóng tàu lảng vảng ở ngoài khơi xa. Chúng tôi vội vất thêm củi vào các đống lửa đốt chúng cháy to hơn. Bóng tàu hướng vào bờ và cả thẩy là hai chiếc một lớn một nhỏ. Chiếc nhỏ cỡ ghe chúng tôi nhưng là loại tàu đi biển. Hai chiếc này có màu xám đen và không có vẻ ǵ là ghe đánh cá. Rồi khi chúng đến gần, chúng tôi biết đây là tàu nhỏ của hải quân. Một cây súng đại liên 12 ly 7 gắn ở ngay đầu mũi chiếc lớn và một lá cờ nửa đỏ nửa xanh dương với h́nh 5 ngọn tháp vàng trên nóc buồng lái của chiếc nhỏ. Vậy, đảo hoang chúng tôi tá túc thuộc lănh hải của nước Khmer rồi. Chúng tôi chạy vội núp sau các gốc cây lớn trong nỗi lo sợ khi nh́n thấy bốn người Khmer tay vơ trang súng AK 47, B 41 và RPD đang từ chiếc tàu nhỏ bước lội từng bước vào bờ.

    Ngay khi vừa đặt chân lên được bờ đảo. Gă Khmer thủ cây súng RPD quỳ một chân xuống, tay y hướng ṇng súng lên ngọn các hàng cây gần chỗ ẩn nấp của chúng tôi và khạc một tràng liên thanh. Tiếng súng nổ đinh tai cộng với tiếng cành cây rơi gẫy cùng tiếng kêu táo tác của những con chim trên đảo đă làm cho chúng tôi càng sợ thêm. Chuyện ǵ sẽ xẩy ra nữa đây? Chúng tôi đốt lửa để mong có ghe tàu biết t́nh cảnh người lâm nạn trên đảo mà đến cứu. Giờ có người đến th́ chúng tôi lại sợ. Kỳ lạ chưa !

    Chúng tôi mạnh ai nấy chạy tuốt vào rừng t́m các chỗ kín đáo dưới các gốc cây, hốc đá để trốn. Tôi, Dũng và anh Tấn ngồi núp chung một nơi không xa chỗ hàng ngày chúng tôi thường nấu cháo mà gần đó là hàng dây phơi quần áo mầu mè của đám đàn bà-con gái. Ngồi đây nh́n bốn người Khmer đó mà không biết họ lành dữ như thế nào? Sau loạt đạn súng trường RPD thị uy, bốn người Khmer đi thẳng lại chỗ đặt bếp của chúng tôi. Họ nh́n vào cái nồi cháo trống trơn sau đó đi đến hàng dây phơi quần áo và lật vài chiếc áo chiếc quần ra xem xong họ nh́n chung quanh, miệng th́ thào nho nhỏ. Không thấy bóng một người nào trong số chúng tôi, bốn người Khmer chụm vào nhau bàn bạc trong chốc lát rồi một người hướng mặt vào trong rừng gọi lớn:

    - Nghe đây, tất cả người Duôn (người Khmer gọi người Việt là Duôn) phải ra bên ngoài ngay. Hai tay đưa phải lên đầu, nghe rơ chưa. Người Khmer nói bằng tiếng Việt và y lập đi lập lại: " Chúng tôi đến đây là để giúp người Duôn. Đừng sợ hăi. Ra ngay đi. Hai tay đưa lên đầu. Nghe chưa? ".

    Vài người đă đi ra rồi sau đó thêm nhiều người nữa ra tiếp. Trong số họ có cả nhóm của thằng Minh, hai cậu cháu Hoàng-Sang và các thanh niên khác. Những người đi ra làm thành một đám lố nhố đứng chung quanh bốn người Khmer rồi người Khmer biết tiếng Việt bảo những người trên ghe đi vô rừng kêu hết tất cả người đang trốn phải đi ra hết. Tiếng thằng Minh gọi lớn:

    - Anh Vũ, anh Tấn ơi ra đi. Các anh khác nữa ra đi. Đừng bỏ trốn nữa. Mấy người lính Kampuchia đến giúp ḿnh chứ không làm hại ḿnh đâu. Đừng sợ họ. Ra ngay đi.

    Tôi và Dũng đưa mắt nh́n anh Tấn, hỏi: " Tính sao bây giờ đây hả anh Tấn? Ḿnh cũng đi ra chứ anh? ".

    Anh Tấn im lặng, nh́n hai chúng tôi mà không trả lời. Vừa lúc đó, hai người tài công từ chỗ nào đó chạy đến nhập bọn chung với ba người chúng tôi. Một trong hai người nói:

    - Đừng có đi ra. Coi chừng bọn lính này là tụi Khmer Đỏ đó.

    Anh Tấn lắc đầu, trả lời họ:

    - Cờ nửa đỏ nửa xanh dương với 5 ngọn tháp vàng là của phe Khmer Hiêng Xom Rin chứ không phải bọn PolPot-Iêng Sa Ri đâu. Họ là đàn em của tụi Việt Cộng đó. Thôi ḿnh ra cho rồi xem sao đi các em.

    Anh Tấn nói đúng, bọn đầu lănh CS Hà Nội khi dựng đám Khmer tay sai đă vẽ cho họ một lá cờ y chang cờ của đám Việt Cộng tức Mặt Trận Giải Phóng trước đây trong thời chiến tranh Việt Nam. Tôi và Dũng đứng lên cùng một ư nghĩ chung với anh Tấn nhưng hai người tài công lại quyết định khác. Họ nói là phải trốn không ra để chờ, hy vọng vài ngày nữa th́ các tàu hải tặc Thái Lan sẽ đem đám đàn bà-con gái về trả lại. Họ sẽ gặp mặt lại vợ họ rồi họ hỏi tôi và Dũng có trốn trong rừng chung với họ không? Tôi và Dũng cùng lắc đầu.

    - Mấy ông không thương vợ mấy ông sao? Một người tài công hỏi hai đứa tôi.

    Trời đất! Th́ ra hai người tài công đă nghĩ Ánh Phương, Mỹ An là hai người vợ của tôi và của Dũng. Thảo nào họ mới chạy đến chỗ tôi và Dũng đang trốn để mong có thêm bạn đồng hành chung với họ.Tôi cho họ biết là hai cô gái đó với chúng tôi mới quen nhau khi xe phải ghé Mũi Nai v́ trễ chuyến hẹn. Sự thân mật của tôi và Ánh Phương cũng như giữa Dũng và Mỹ An nên khiến hai người tài công đă nghĩ chúng tôi là các cặp vợ chồng cùng đi chung chuyến vượt biên như họ.

    - Tôi cũng nghĩ như mấy chú tài công, dè đâu cô cậu chỉ mới quen nhau thôi ... Không phải là vợ chồng. Anh Tấn ngập ngừng nói.

    - Vậy các anh định sẽ đi ra thật sao? Người tài công đó nh́n tôi và Dũng mà hỏi tiếp.

    - Phải đi ra thôi anh. Ḿnh đốt lửa mấy hôm nay là để mong có người lại giải thoát mà. Theo tôi nghĩ th́ các anh cũng nên ra đi, đừng t́m cách ở lại đảo không tốt và cũng đừng nghĩ là bọn hải tặc đó sẽ quay trở lại đây để trả người. Tôi ân cần trả lời.

    Nhưng hai người tài công vẫn nhất định trốn ở lại. Họ quả quyết chỉ vài ngày nữa thôi th́ tàu hải tặc Thái Lan sẽ quay trở lại đảo hoang và rồi họ sẽ gặp lại các người vợ của họ.

    - Các chú chắc mọi việc sẽ xẩy ra như vậy? Anh Tấn chợt xen vào, hỏi.

    Hai người tài công nh́n nhau rồi nh́n ba người chúng tôi và khẽ gật đầu. Anh Tấn tiếp:

    - Nếu suy nghĩ của các chú là đúng đi rồi với 18 người đàn bà-con gái đó cộng thêm hai chú nữa th́ lấy ǵ để ăn, lấy ghe đâu ra mà đi vượt biên tiếp? Tôi nghĩ ḿnh nên ra cho xong. Trốn ở lại đây rồi cũng chẳng đi đến đâu.

    Hai người tài công dụ dự không trả lời nhưng khi ba chúng tôi chuẩn bị bước ra th́ vội dặn chúng tôi đừng nói ǵ về họ cho đám người Khmer biết rồi cả hai chạy phắt ngay vào trong rừng luôn. Tôi hiểu t́nh cảnh của hai người tài công. Thật tội nghiệp! Họ quá thương vợ họ đến nỗi vẫn tin là bọn hải tặc Thái Lan sẽ quay lại đảo để trả đám đàn bà-con gái nhưng suy nghĩ của họ thật viển vông. Tôi chưa từng nghe chuyện hải tặc Thái Lan bắt được đàn bà-con gái Việt rồi sau đó lại đem trả người về cho ghe. Nói là nói vậy thôi chứ nếu Ánh Phương mà là vợ tôi thật th́ có thể tôi cũng sẽ hành động giống như họ. Họ đă rối trí rồi. Cầu mong một phép mầu nào đó đến với hai người tài công chung t́nh.

    Ba chúng tôi là những người đi ra sau cùng. Người Khmer biết tiếng Việt thấy chúng tôi th́ hất hàm, hỏi: " Đàn bà con gái Duôn đâu? Gọi họ ra đây luôn, trốn làm chi nữa ". Chúng tôi nói là không có phụ nữ nào cả th́ y chỉ tay vào số quần áo nằm phơi trên dây hỏi vậy quần áo này ở đâu ra? Chúng tôi liền kể vắn tắt cho người Khmer biết sự việc đă xẩy ra trong ngày hôm đó. Y lắng nghe chăm chú rồi hỏi ai là leader của ghe th́ nhiều người đưa mắt về phía anh Tấn nhưng anh Tấn thanh minh anh không phải là leader mà cũng chỉ là một khách đi b́nh thường như các người khác. Hỏi đến các tài công th́ không thấy nên người Khmer đó nói chúng tôi phải gọi họ đi ra. Chúng tôi lại đi vào rừng t́m, cố sức gọi lớn mà cũng chẳng thấy họ đâu cả. Sau cùng, những người Khmer bảo chúng tôi dắt họ đến chỗ chiếc ghe bị hỏng. Họ trèo qua các ghềnh đá để vào xem xét chiếc máy của ghe rồi quyết định là chúng tôi phải tháo cái máy đó và mang ra chỗ bờ biển cho họ. Người Khmer biết tiếng Việt lấy tay chỉ định tôi, anh Tấn, Dũng, thằng Minh và 4 thanh niên khác cho việc tháo máy. Tháo máy ra th́ không khó nhưng tám người chúng tôi đă chật vật vô cùng mới mang được cái máy ghe đến một bờ cát trống trải sát bờ nước biển theo lệnh của người Khmer đó. Tay chân chúng tôi ai cũng bị các mảnh sắc của loải ṣ bám cứng ở bề mặt các tảng đá cứa đứt nhiều chỗ, chảy máu khá nhiều. Khi có cái máy ghe nằm ở bờ cát rồi, những người Khmer dùng một sợi dây cáp nối từ ṛng rọc trên tàu họ, cái máy của ghe chúng tôi đă được kéo thẳng lên tàu luôn. Xong xuôi, mấy người Khmer mang vào bờ cho chúng tôi ít gạo, hai hộp thịt heo kho, ít cá khô và một bắp cải tươi, bảo chúng tôi nấu cơm để ăn chung với họ. Chúng tôi vội nhóm bếp lại và gần một giờ đồng hồ sau đă có một bữa cơm ngon lành cho cả bọn. Ăn uống no nê, các người Khmer này đă gom hết tất cả quần áo của đám đàn bà-con gái trên dây phơi vào trong các túi xách của họ rồi ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị rời đảo hoang để theo họ về tàu.

    Không thấy hai người tài công đi ra, các người Khmer để lại nồi nấu cơm cùng một bao độ 10 kg gạo và ít cá khô trên bờ đá cạnh chỗ nấu ăn rồi bảo chúng tôi viết ít chữ là 15 ngày nữa khi đi tuần tra th́ tàu của họ sẽ ghé lại đây. Thôi vậy cũng được, mong rằng đến khi đó th́ hai người tài công sẽ theo về với chiếc tàu tuần duyên Khmer. Tất cả chúng tôi bước lội từng bước theo chân những người Khmer để ra con tàu nhỏ. Từ con tàu nhỏ, chúng tôi được các người Khmer chuyển sang qua chiếc tàu lớn. " Tàu tụi tui sẽ chạy về đảo Cô Tan ", người Khmer biết tiếng Việt nói với chúng tôi. Dơi mắt nh́n đảo hoang một lần cuối, tôi vẫn thấy hai đống lửa trên bờ cháy nghi ngút với cột khói nhỏ. Chắc chắn là đâu đó dưới các tàng cây, bờ đá ... các tài công cũng đang nh́n hai chiếc tàu càng lúc càng xa dần họ. Cái nồi, bao gạo 10kg, gói cá khô vẫn c̣n nằm nguyên ở chỗ cũ. Chẳng thấy người tài công nào ra lấy chúng hết. Tôi cố nh́n măi nhưng sau cùng, h́nh ảnh này xa dần, nhỏ dần và mất hẳn.

    Tàu sẽ chạy về đảo Cô Tan. Hai tiếng Cô Tan tôi thấy rất quen. H́nh như tôi đă nghe một câu chuyện nào đó về cái tên đảo Cô Tan ở trong vùng vịnh Thái Lan nhưng mà là chuyện ǵ th́ chịu, không nhớ ra được. Cố gắng lục lọi trí nhớ của ḿnh mà cứ mài mại hoài vẫn không ra. Thôi! Đành nghĩ chuyện khác vậy. Quan sát chung quanh chiếc tàu đang chở chúng tôi. Chiếc nhỏ chạy song song mé phía sau nhưng tốc độ của nó cũng chẳng kém ǵ chiếc lớn. Đây là các loại tàu tuần duyên hải quân. Tuy nhỏ hơn chiếc tàu đánh cá Thái Lan và thân tàu bằng thép nhưng sức chạy của chúng rất nhanh để lại đằng sau hai vệt nước dài trắng xoá. Đúng là tàu hải quân. Tôi thầm đếm có cả thẩy là tám người Khmer trên con tàu lớn. Tàu nhỏ bên kia th́ chỉ năm người. Vậy là đúng cấp số của một tiểu đội lính. Quần áo những người Khmer mặc là loại kaki màu phân ngựa. Chân họ đi loại giầy bata như loại giày của bộ đội Việt Cộng. Gần mũi tàu là một cây đại liên 12 ly 7 ṇng chỉa thẳng về phía trước. Các khẩu súng AK 47, B 41 và RPD cùng các dây đeo băng đạn để nằm đây đó trên tàu. Đám 31 người chúng tôi ngồi sát bên nhau trên mặt sàn tàu và cả trong buồng lái nữa. Tôi nói nhỏ với anh Tấn:

    - Anh coi súng ống của họ ḱa. Để sơ hở vậy không sợ bọn ḿnh có thể chộp lấy các cây súng này mà uy hiếp cướp tàu họ luôn sao?

    - Lính Khmer là đầy tớ của đám Việt Cộng bên nước ḿnh. Bọn Việt Cộng là chủ của tụi nó nên khi nó thấy ḿnh người Việt chắc cũng nghĩ như vậy. Chủ th́ có bao giờ t́m cách lật đổ thằng đầy tớ đâu, phải không? Anh Tấn cười cười, nói thêm: " Ḿnh ghét bọn Việt Cộng thật nhưng phải nh́n nhận là chúng đă làm cho bọn Khmer sợ nên ḿnh mới được đám hải quân Khmer đối xử như vầy chứ Vũ biết dân Khmer có đời nào ưa người Việt nước ḿnh. Mối thù truyền kiếp mà . Do quan hệ ngoại giao cả thôi ... Y như ḿnh không ưa bọn Tàu vậy đó ". Ngừng một lát anh Tấn nói tiếp: " Sự thực là bọn Việt Cộng đâu có tử tế ǵ với người vượt biên ḿnh. Chúng đă từng rượt theo ghe vượt biên rồi dùng cây 12 ly 7 bắn thẳng vào ghe nữa đó Vũ. C̣n ḿnh mà cướp tàu họ rồi làm sao mà lái đây. Tài công đâu? Có cái máy ghe hư c̣n bó tay th́ có cho không cái tàu sắt này cũng đành đầu hàng thôi. Đám lính Khmer nầy họ cũng biết điều đó chứ bộ ".

    Tàu chạy qua rất nhiều ḥn đảo. Chúng tôi thấy khá nhiều tàu đánh cá Thái Lan y chang loại tàu đă trấn lột và bắt nữ giới trên ghe chúng tôi rồi tàu lướt qua những chiếc ghe nhỏ bé của ngư dân Khmer nữa. Trời chiều bảng lảng th́ tàu chạy vào một vùng có nhiều ḥn đảo liền lạc với nhau rồi nó từ từ chạy chung quanh một đảo lớn nhất. Đám lính Khmer trên tàu bắt đầu đeo các dây đạn vào người và cầm vũ khí của họ trở lại. Chúng tôi sắp sửa đặt chân lên đảo Cô Tan rồi đây. Tàu giảm tốc độ dần dần và cập vào một cầu tàu bằng bê tông xây cạnh ngay sát bờ đảo. Theo chân những người Khmer, toàn bộ 31 người chúng tôi đi trên con đường trải đầy đá sỏi dẫn vào bên trong đảo. Tiếng ai đó trong nhóm chúng tôi nói vui: " Chúng ta đang đi trên đường sạn đạo đó nha ". Vài người Khmer từ phía trong chạy ra đón những người lính trên tàu vừa đến. Tiếng họ nói líu lo với nhau mà cặp mắt trắng dă đôi lúc nh́n về phía người chúng tôi. Rồi một người c̣n khá trẻ trong đám lính khoát tay ra dấu cho chúng tôi phải đi theo. Gă Khmer đó dẫn chúng tôi băng qua vài dẫy nhà gạch lợp tôn rồi quẹo trái, đi thêm qua vài dẫy nhà nữa th́ y dừng lại trước một căn nhà khá lớn. Gă lấy ch́a khóa mở cửa, bật công tắc điện chiếu sáng trong pḥng rồi quay ra nói và với chúng tôi bằng tiếng Việt thật sơi:

    - Tôi là Sok Sammath. Các anh ở tại đây đêm nay. Không ai được tự ư đi lang thang qua các nhà khác và chỉ được phép đi nhà đái nhà ỉa ngay phía đàng sau khi cần thôi. Điện sẽ tắt vào lúc 10 giờ tối. Tôi sẽ mang đèn dầu ngay cho các anh. Các anh tự sắp xếp lấy chỗ riêng cho từng người đi. Nghe rơ chưa?

    Nhiều cái đầu trong chúng tôi cùng gật, có người th́ nói dạ. Gă Khmer quay ra ngoài căn nhà liền. Chúng tôi tản ra nhanh chóng để kiếm chỗ nằm riêng. Đây là một căn nhà thật lớn, rộng và không hề có giường, tủ mà thay vào đó là các hàng bàn ghế như loại bàn ghế học sinh trong trường học. Mỗi người chúng tôi liền chiếm lấy một cái bàn. Tôi, Dũng và anh Tấn lựa ba cái bàn nằm kề sát nhau ở gần cuối hàng. Chúng tôi phải lấy quần áo bẩn của riêng ḿnh để phủi bụi bám ở trên mặt bàn. Căn nhà này đă bị bỏ phế không dùng từ lâu. Một cái bục gỗ loại dành cho người đứng diễn thuyết được đặt ngay ở bên trái một góc pḥng. Tôi thấy một tấm bảng lớn mà ai đó đă tháo để nằm dưới mặt đất sát vách tường. Đến gần, thấy mặt sau bảng có viết ḍng chữ ǵ đó, tôi vẫy anh Tấn lại cùng xem. Chúng tôi lật tấm bảng, một hàng chữ Nhà Truyền Thống mầu vàng chói trên đỏ chói.

    - Nơi đây đă từng là căn cứ của bọn Việt Cộng em à. Anh Tấn nói nhỏ.

    Tôi chưa kịp nói với anh Tấn th́ tiếng một người nào đó vang lên:

    - Ê! Có báo cũ nữa nè mấy cha. Lấy ra mà lót nằm cho nó sạch.

    Th́ ra ở dưới các hộc bàn có xếp đầy những tờ nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cũ. Tôi lấy ra vài tờ báo xem thử. Báo cũ thật. Số ra từ ngày 12 tháng 5 năm 1983 lận. Vài người lấy báo đang định trải trên mặt bàn th́ ai đó lên tiếng: " Đừng tự ư lấy báo trải lên bàn. Phải hỏi xem họ có cho không đă ". Người khác th́ nói: " Báo chữ Việt tụi Khmer này biết cóc ǵ mà đọc ". Tiếng người khác đáp lại: " Không biết tiếng Việt hả? Thế cha Khmer trên tàu và cha nội vừa rồi nói với ḿnh bằng tiếng ǵ vậy? Theo tôi, cứ để yên đó rồi hỏi họ trước xem sao, phải không anh Tấn? ". Anh Tấn gật đầu, trả lời:

    - Đúng, cứ để yên chỗ. Biết đâu người Khmer để dành báo Việt Nam như một kỷ niệm hữu nghị ǵ đó của họ. Đang trong tay họ th́ ḿnh đừng làm cái ǵ khiến cho họ ghét.

    Vừa lúc, hai người Khmer bước vào, một người trên tay cầm cây đèn dầu khá lớn c̣n người kia th́ tay ôm quả mít chín bốc mùi thơm nồng nặc. Một trong hai gă Khmer nói: " Tôi cho các anh quả mít chín, bây giờ cần ba người cùng đi theo tôi để lấy thức ăn nghe ".

    Dũng, thằng Minh và một thanh niên khác liền đi theo hai gă Khmer. Không lâu sau đó, một nồi lớn ḿ sợi ăn liền đă nấu sẵn c̣n nóng, bốc hơi thơm lừng được Dũng và thằng Minh khệ nệ xách về. Cậu thanh niên một tay lỉnh kỉnh tô-muỗng, tay kia xách theo một ấm nước nóng. Chúng tôi chia ḿ ra cho mỗi người một tô khá đầy cùng ăn xong rồi quây quần ngồi bên nhau ăn mít chín. Đây là loại mít ướt khi chín rất mềm chỉ cần dùng tay lay cuống, tách vỏ ra rồi bốc từng múi ăn. Kể từ hôm xuống ghe vượt biên ở Vàm Rầy đến hôm nay chúng tôi mới được ăn trái cây tươi. Sok Sammath từ bên ngoài đi vào nh́n cả bọn chúng tôi đang ăn uống bên nhau, y khẽ mỉm cười. Gă cán bộ hải quân Khmer này có khuôn mặt đẹp trai và nụ cười rất tươi. Hàm răng y trắng đều làm tôi nhớ lại h́nh quảng cáo anh Bẩy Chà của hiệu kem đánh răng Hynos thời trước. Sok Sammath cho biết từng người chúng tôi sẽ phải làm việc với ban chỉ huy đảo về sự việc đă xẩy ra trong chuyến đi. Y cũng cho biết tối nào cứ đúng 10 giờ th́ máy phát điện sẽ ngừng chạy. Do vậy, mọi người nên thu xếp làm các việc ǵ cần kíp ngay v́ khi điện cúp rồi sẽ phải giới hạn chuyện đi lại. Anh Tấn hỏi về các tờ báo cũ th́ Sok Sammath nói chúng tôi cứ việc lấy dùng nếu cần rồi y cho biết thêm khi bộ đội Duôn rút khỏi đảo Cô Tan, trại xếp chúng vào các hộc bàn cho gọn chứ cũng chưa biết để làm ǵ. Rồi y đi đến chỗ cháu Sang ngồi, hỏi thăm ít câu trước khi rời khỏi căn pḥng.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  4. #4
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Ngày hôm sau, chúng tôi được phát gạo để tự nấu ăn lấy. Cá tươi từ các tàu đánh cá cung cấp cho đảo hàng ngày rất nhiều đến nỗi có lúc chúng tôi ăn không hết, phải đem vất bỏ. Có hôm được cả tôm thẻ, mực ống nữa. Rau tươi ngoài bắp cải, bí đỏ từ đất liền tiếp tế ra th́ c̣n rau muống rau lang cùng bí, bâu... trồng đầy trên đảo. Những ngày kế, lần lượt chúng tôi được gọi đi làm việc thật. Làm việc là khai báo tất cả các sự việc đă xẩy ra. Đến phiên tôi, Sok Sammath hỏi tôi thật kỹ từng chi tiết từ ghe xuất bến tại đâu ở Việt Nam rồi đi bao lâu phải ngừng ở đảo và diễn tiến câu chuyện khi gặp các tàu hải tặc Thái Lan. Y hỏi bằng tiếng Việt, tôi trả lời xong, y ghi biên bản bằng chữ Khmer ngoằn ngoèo như chữ Thái Lan. Vậy mà cũng mất cả mấy tiếng đồng hồ mới xong. Sau khi chấm dứt buổi làm việc, y nói sẽ sắp xếp cho chúng tôi gặp ông lớn người chỉ huy đảo. Anh Tấn, Dũng th́ gặp hai người Khmer khác làm việc cũng một cung cách như của Sok Sammath. Ngoài việc nói và nghe tiếng Việt trôi chảy, chúng tôi không biết những người lính Khmer đó có biết đọc biết viết chữ Việt hay không? Có phải họ gốc gác sinh ra từ một làng quê nào ở miền Nam Việt Nam mà người ta thường gọi họ là người Khmer Krom? Những ngày sau nữa, Sok Sammath gọi anh Tấn, tôi và vài người nữa lên gặp ông lớn. Đó là một người Khmer trung niên bụng phệ, có cái đầu hói. Ông lớn có dáng dấp như một thương gia hơn là một cán bộ quân đội. Sok Sammath là người phiên dịch trong buổi gặp. Ông lớn đă lấy ra một xấp h́nh chụp các con tàu đánh cá Thái Lan cho chúng tôi xem để nhận dạng hai chiếc tàu hải tặc nhưng chúng tôi thấy hầu hết các con tàu trong h́nh rất giống nhau nên chuyện nhận dạng không thành. Xem kỹ các h́nh, chúng tôi mới biết tàu đánh cá Thái Lan nào cũng có hàng số bên hông nằm ngay phía gần mũi. Tôi nhớ các tàu hải tặc khi đó đă ranh ma lấy tấm vải che kín số tàu nên chẳng ai thấy được. Manh mối duy nhất là trên tàu hải tặc nhỏ có một người đầu bếp biết tiếng Triều Châu và chỉ vậy thôi. Ông lớn cho biết có khoảng 200 tàu đánh cá Thái Lan trong vùng biển nước Khmer. Nếu chúng tôi biết con số ghi trên thân hai tàu Thái Lan đó th́ bằng hệ thống viễn liên, ông sẽ cho gọi các tàu kể trên đến đảo để chúng tôi nhận dạng ngay. Ông cười với chúng tôi, nói:

    - Tụi tui cứ nửa tháng một lần cho tàu đi tuần tra các đảo xa. Đều là đảo hoang không có người ở. Các anh biết hôm đó, khi nghe tàu tuần báo cáo trông thấy các đám lửa lớn cầu cứu rồi lại có cả y phục phụ nữ nữa nên tui mới ra lệnh các chiến sĩ vào xem sao và họ đưa các anh về đây. Ngừng một chút ông tiếp: " Vài năm nay có xẩy ra vụ hải tặc nào đâu. Tui rất bực v́ nghe chuyện đă xẩy ra trong vùng biển do ḿnh trách nhiệm. Tui sẽ báo cho hải quân Thái Lan về các sự vụ này để mong họ hợp tác, phăng ra được các đầu mối mà giải thoát phụ nữ Duôn các anh ".

    Ông lớn cũng nói bập bẹ được chút tiếng Việt và chiếu cố đặc biệt đến cháu Sang. Những ngày sống tại đảo Cô Tan, cháu Sang đă ăn chung bữa ăn với ông lớn. Những người lính Khmer cũng hay cho cháu Sang kẹo bánh hoặc dắt cháu đi chơi đây đó trên đảo. Có lẽ là lính đồn trú xa gia đ́nh xa các người thân nên khi gặp cháu Sang, những lính Khmer ở đây coi cháu như con cái ruột thịt. Tôi nh́n người Khmer với làn da đen tóc quăn mắt trắng dă đầy vẻ man rợ rồi liên tưởng những câu chuyện kể về các vụ tàn sát người Việt mà họ gọi là Cáp Duôn trong các thời kỳ trước đây. Bây giờ, đối chiếu với hành động và thái độ tử tế của những người Khmer ở đây dành cho đám người Việt trong các ngày qua. Rơ là ở nước nào, cũng có người tốt người xấu, kẻ hiền lương thật thà và người cùng hung cực ác.

    - Ngay từ lúc đầu trên đảo hoang khi nghe họ nói bằng tiếng Việt th́ ḿnh hy vọng sẽ gặp việc lành mà quả thật như vậy. Anh Tấn hỏi thêm tôi và Dũng: " Các cậu biết sao không? Trong ḷng có thích nước nào th́ mới chịu khó học tiếng nước đó. Tâm lư con người ta là vậy ".

    Ở gần một tuần lễ, chúng tôi được phép tự do thong dong đi lại trên đảo trong phạm vi gần doanh trại. Chúng tôi mới biết có hàng trăm cây mít, xoài và dừa được trồng dầy đặc ở trên đảo Cô Tan. Bây giờ th́ chưa phải mùa xoài. C̣n mít chín lúc nào cũng sẵn. Ai muốn ăn mít th́ cứ chịu khó lội trong các hàng cây rồi khi ngửi thấy mùi thơm, lần tới được gốc thể nào cũng hái được quả chín. Có khát nước, muốn uống dừa tươi th́ cứ việc trèo lên hái nhưng phải cẩn thận v́ cây dừa ở đây thân rất cao. Gần các dăy nhà của ban chỉ huy trại, chúng tôi c̣n thấy trồng cả cây trà xanh. Từ thói quen uống nước trà tươi của người miền Bắc, tôi nghĩ chắc chắn cán bộ CS Bắc Việt khi đóng quân tại đảo đă trồng chúng. Không biết rơ số lính Khmer đóng ở Cô Tan có bao nhiêu cả thẩy v́ quanh quẩn hàng ngày, gặp mặt nhau chỉ khoảng trên dưới 30 người thôi. Nhưng nh́n các dăy nhà cửa trong trại, thấy có nhiều căn nhà bỏ trống và cả trăm cây ăn trái được trồng rồi nh́n bề rộng của các ao rau muống, vườn lang.... Tôi biết khi bộ đội Việt Cộng c̣n đóng tại đảo, chắc chắn quân số phải rất đông.

    Một buổi trưa đang thiu thiu ngủ th́ một người lính Khmer đến gọi chúng tôi dậy để ra ngoài cầu tàu gấp. Chúng tôi vội vă theo chân các người lính Khmer ngay. Ra đến cầu tàu, một chiếc tàu hải quân đậu ở đó đang chuyển hàng hóa tiếp liệu cho đảo cùng với các hàng quân sự. Công việc của chúng tôi là vác từng viên đạn đại bác 105 ly được đựng trong các ống giấy cứng tṛn nhuộm đen từ tàu hải quân lên nhà kho tuốt trên đỉnh một ngọn đồi. Mỗi người chúng tôi chỉ được phép vác mỗi lần một quả đạn thôi c̣n các hộp đựng sáu ng̣i nổ đầu đạn được lính Khmer vác riêng ra. Hôm đó, cá nhân tôi đă vác cả thẩy 12 viên đạn đại bác 105 ly. Đạn vác lên được cất trong kho một căn nhà hầm. Gần kho chứa đạn, tôi thấy các khẩu đại bác che kín ṇng trong các ụ. Lần đi trở xuống đồi, t́nh cờ mắt tôi thấy khối sắt lớn có h́nh dáng như chiếc máy bay trực thăng nằm gần một băi đá. Gặp Sok Sammath trên đường đi, hỏi th́ y cho biết đó là xác của một trong các trực thăng Mỹ bị lính PolPot bắn rơi trong một trận chiến giải cứu tù binh tại đây từ khá lâu rồi. Qua lời kể vắn tắt của Sok Sammath, tôi nhớ lại cái tên đảo Cô Tan mà tai đă nghe từ đài BBC, VOA... vào giữa tháng 5 năm 1975 về chuyện một tàu buôn của Hoa Kỳ bị hải quân Khmer Đỏ bắt giữ. Đảo Cô Tan có tên tiếng Anh là Koh Tang. Các thương thuyết ngoại giao về con tin không thành và chính phủ Hoa Kỳ đă phải cho lực lượng biệt kích đổ bộ lên đảo để giải cứu các thương nhân tù binh Mỹ. Cuộc giao tranh đă xẩy ra rồi các thương nhân được cứu thoát nhưng phía Mỹ đă để lại xác các trực thăng và vài mạng lính biệt kích. Thương thuyền đó có tên Mayaguez. Nh́n xác chiếc trực thăng, trí tưởng tôi nghĩ về h́nh ảnh trận chiến chớp nhoáng trong ngày hôm đó. Tiếng súng nổ... thây người ngă vật... tiếng phành phạch của cánh quạt máy bay trực thăng. Đảo Cô Tan nổi tiếng với thế giới tương tự vụ đột kích giải cứu tù binh phi công của biệt kích Mỹ trong một nhà tù ở Sơn Tây gần Hà Nội năm xưa.

    Chuyển xong số đạn pháo, Sok Sammath cho đám chúng tôi hai thùng nước ngọt CoCa Cola, một thùng bánh bisquit và một cây thuốc lá Apshara kèm theo lời nhắn:

    - Hai ngày nữa tàu hải quân sẽ chở các anh về cảng Kompong Som.

    Họ sẽ chở chúng tôi về cảng Kompong Som bằng chiếc tàu hải quân chở hàng tiếp liệu và vũ khí cho đảo Cô Tan. Khi về đến cảng Kompong Som th́ số phần chúng tôi sẽ ra sao? Ai cũng lo lắng, thắc mắc. Anh Tấn bảo: " Kệ cha nó, nghĩ nhiều thêm mệt. Cái ǵ đến nó sẽ đến. Ḿnh có tính cũng chẳng được ". Ngày kế tiếp, nhiều lính Khmer trên đảo bớt th́ giờ của họ để đến thăm cả bọn chúng tôi. Họ mang cà phê, thuốc lá, bánh kẹo và mời chúng tôi cùng ăn cùng hút với họ cho vui. Ông lớn chỉ huy đă lấy máy ảnh ra chụp h́nh cả nhóm chúng tôi chung với lính trên đảo để giữ làm kỷ niệm. Có lẽ, chuyện chúng tôi ghé vào ḥn đảo Cô Tan này là một việc hăn hữu. Dầu ǵ đi nữa chúng tôi cũng là người ngoại quốc ở trên đất nước họ. Anh Tấn có hỏi về số phận hai người tài công th́ Sok Sammath cho biết theo tua tuần tra biển, vài ngày sắp tới sẽ có tàu ghé lại đảo để t́m họ.

    - Thật tầm bậy tầm bạ hết sức, mấy người đó bộ khùng điên rồi nên mới ở lỳ lại đảo không ra về theo các anh. Hết thực phẩm th́ sẽ chết đói. Chúng tôi cố gắng t́m mang họ về đây. Nhưng về đây rồi, sẽ phải chờ khá lâu nữa mới có tàu từ Kompong Som đi ra. Sok Sammath chắt lưỡi.

    Hôm nay là ngày tàu nhổ neo chạy về Kompong Som. Nhà bếp tổ chức ăn chung cho toàn đảo ngay tại căn nhà Truyền Thống như một bữa tiệc nhỏ. Sau bữa cơm, chúng tôi và lính Khmer đă thân ái ôm chào tạm biệt nhau trong những giọt nước mắt. Ông lớn mắt rướm lệ trên khoé, thân ái cầm tay cháu Sang đi theo ra tận cầu tàu. Phút biệt ly đến làm ai cũng một tâm trạng buồn bă. Chỉ một thời gian sống chung với nhau ngắn ngủi mà t́nh cảm chúng tôi tự nhiên gắn bó với lính Khmer như người thân thích ruột thịt. Chia tay với ông lớn với Sok Sammath, người đầu bếp cùng các người lính Khmer trên đảo, chúng tôi bồi hồi bước lên con tàu. Tàu đột ngột kéo một hồi c̣i thật dài trước khi rời đảo. Từ trên boong, tôi quay đầu nh́n về phía cầu tàu nơi những người lính Khmer vẫn đang đứng yên tại chỗ. Tạm biệt các ân nhân... tạm biệt Cô Tan. Một ḥn đảo với đầy kỷ niệm đẹp trong ḷng tôi.

    Giờ đây, chúng tôi đứng ngồi hoặc nằm la liệt đây đó trên boong tàu rộng răi. Tàu tuy lớn nhưng chỉ vơ trang bằng hai cây súng đại liên 12 ly 7 ở trước mũi và phía sau lái. Dưới hầm và mặt boong tàu đầy nhóc những sọt cần xé dừa khô quà của đảo tặng cho các chiến sĩ trên tàu. Tàu chạy chậm răi, êm ả khá lâu trên biển. Đó đây, vài cánh chim hải âu lướt vội qua đầu chúng tôi. Chập choạng tối, tàu tiến đến gần Kompong Som, hải cảng biển nước sâu duy nhất của quốc gia Khmer. Có một thời kỳ, Kompong Som mang tên Sihanoukville là tên vị quốc vương Norodom Sihanouk. Tôi biết Kompong Som có các băi biển rất đẹp thu hút khách du nước ngoài nằm dọc theo cảng. V́ trời đă xẩm tối nên dù hết sức để ư, tôi chẳng thấy các băi biển du lịch đâu cả. Sau cùng tàu vào hẳn trong cảng. Ánh sáng rực rỡ từ các con tàu bỏ neo nằm ở bến, từ các nhà kho và băi trên bờ hắt mầu vàng lung linh trên mặt nước biển. Cảng Kompong Som xem ra phồn thịnh hơn so với cảng Bạch Đằng tại Sài g̣n.

    Tàu cập bến, chúng tôi được lệnh trèo lên một chiếc xe tải nhà binh phủ bạt che kín nằm pha đèn ở trên bờ. Xe chở chúng tôi chạy thẳng vào một doanh trại của hải quân Khmer nằm không xa hải cảng. Xe ngừng tại một dăy nhà lớn, những người Khmer trên xe bàn giao chúng tôi cho vài cán bộ Khmer đứng chờ sẵn. Rồi, các cán bộ Khmer ra dấu cho chúng tôi đi vào một căn nhà to rộng nằm trong dăy nhà. Dưới ánh vàng vọt của bóng đèn tṛn duy nhất gắn trên trần, nơi chúng tôi ở tối nay chỉ là nền nhà xi măng mà không có bất kỳ vật dụng nào khác. Cán bộ Khmer lại không biết tiếng Việt, chỉ lấy tay ra dấu. Trên tường có dán các tấm giấy ghi những câu tiếng Việt như: Không được đi ra khỏi khu vực. Luôn giữ trật tự trong sinh hoạt. Khai báo trung thực sự việc cho cán bộ. Những tấm giấy làm cho chúng tôi hoang mang, lo lắng. Mọi người tản ra, tự kiếm chỗ nghỉ ngơi trong căn nhà đêm nay. Căn nhà tương tự một pḥng giam rộng lớn chỉ khác ở chỗ không có các song sắt và cửa khóa chặt cùng với công an canh gác bên ngoài. Có lẽ trước đây là một nhà kho hay một cơ xưởng ǵ đó của hải quân Khmer. Dũng ngồi gần bên tôi, nói nhỏ:

    - Tệ hơn lúc ngoài đảo Cô Tan. Coi bộ không khá mầy Vũ.

    Ai trong chúng tôi cũng chung một nhận xét như thằng Dũng. Lạ chỗ và lo lắng cho ngày sắp tới khiến tôi không sao chợp mắt, yên giấc.

    Nằm trằn trọc măi vẫn không ngủ được, tôi và anh Tấn kéo nhau ra phía bên ngoài hành lang căn nhà ngồi nói chuyện cho qua đêm. Ánh sáng từ các nơi trong khu vực phản chiếu cho thấy căn nhà nơi chúng tôi ở biệt lập hẳn với các dăy nhà khác nằm khá xa chung quanh. Con đường phía trước căn nhà được trồng lẫn lộn những cây cao, thấp với khoảng cách đều nhau. Không biết loại cây ǵ nhưng nh́n chúng, làm tôi thấy lại h́nh ảnh đường phố Sài G̣n. Chỗ chúng tôi ở im vắng quá, lỡ có xẩy ra chuyện ǵ th́ cũng chẳng ai biết cho và cũng không biết cầu cứu với ai nữa. Anh Tấn móc thuốc lá ra hút rồi kể chuyện về bản thân:

    - Tôi người tỉnh Cần Thơ quận Thốt Nốt, đi lính sư đoàn 25 bộ binh VNCH ḿnh đó Vũ. Tôi đồn trú trong căn cứ Đồng Dù ở vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa. Vũ biết Đồng Dù nguyên là căn cứ của một sư đoàn Mỹ bàn giao lại khi họ rút về nước. Thực ra căn cứ có tên Hoàng Diệu, c̣n Đồng Dù là bọn Việt Cộng gọi vậy. Ngày 29 tháng 4 năm 1975 đơn vị tôi theo chân sư đoàn rút bỏ Đồng Dù chạy về Sài G̣n sau khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ. Cả đơn vị bỏ chạy nhưng khi vừa tới cầu Bông gần Hóc Môn-Thành Ông Năm th́ kẹt lại. Đường phía trước mặt đă bị đặc công Việt Cộng chiếm mất, phía đằng sau th́ đại binh của chúng đang truy đuổi sát nút. Bọn chúng tôi đành phải dạt vào một cánh đồng lúa rộng lớn khá xa đường lộ. Dàn trận tại đây trong các hố cá nhân đào vội dưới gốc cây của rặng trâm bầu sát cạnh các thửa ruộng hoặc nấp sau các thân xe tăng M 113, xe GMC... Chúng tôi thấy từng đoàn quân xa Molotova, xe tăng T 54, PT 76... của Việt Cộng chạy khơi khơi trên mặt lộ không xa lắm. Đường về Sài g̣n bị địch cắt đứt, chúng tôi kẹt ở giữa cánh đồng lúa. Cố sức liên lạc truyền tin với cấp chỉ huy cũng không được. Dường như không có người trực máy v́ chúng tôi gọi tới gọi lui nhiều lần mà không có ai trả lời. Sau mới biết đám trực máy đă bỏ chạy di tản hết cả. Khi đó, chúng tôi hoang mang lắm, không biết sẽ phải làm ǵ? Đoàn xe Việt Cộng chạy nối đuôi nhau trên đường lộ cũng trông thấy chúng tôi chứ Vũ nhưng chúng bỏ mặc, không đánh mà chỉ tiếp tục hành quân về Sài g̣n thôi. Trận đánh lần đó rất lạ Vũ à! Làm như mục tiêu tiến chiếm của Việt Cộng là Sài g̣n và chúng phải vào đó càng nhanh càng tốt. Hễ nơi nào mà phe bên ḿnh chống lại th́ chúng mới đánh, c̣n không th́ chúng phớt lờ coi như không thấy.

    Rít thêm một hơi thuốc Apshara, anh Tấn kể tiếp trong làn khói trắng phà ra từ hai lỗ mũi.

    - Khoảng 4 giờ chiều hôm đó khi đang ngồi dưới hố cá nhân, tai tôi nghe tiếng trực thăng bay rất gần rồi gần hơn. Tôi vội nhổm dậy nh́n và thấy rơ ràng một UH đang bay thật thấp hướng về phía chúng tôi. Những người lính khác trong đơn vị cũng thấy chiếc trực thăng và đều nghĩ nó đến để yểm trợ đây. Có yểm trợ của trực thăng, tinh thần tụi tôi phấn chấn hẳn. Tôi nh́n lại vũ khí của ḿnh rồi dơi mắt theo chiếc máy bay, miệng nhủ thầm chuẩn bị tinh thần để tác chiến. Chiếc trực thăng bay gần tới th́ bị trúng đạn của bọn Việt Cộng từ hướng nào không rơ bắn lên. Một vệt khói đen từ máy bay tỏa ra và tiếng động cơ của nó đă khác. Máy bay lảo đảo thật thấp về phía đội h́nh chúng tôi và nó rớt sau một rặng cây không xa lắm. Tiếng máy bay im bặt trả lại sự im ắng của khu vực trong sự thương tiếc của tôi cùng những người lính có mặt. Vũ biết trong những lần tác chiến, mỗi khi trông thấy máy bay của phe ḿnh từ phản lực cho đến trực thăng bị rớt v́ hỏa lực của Việt Cộng th́ trong ḷng ḿnh đau xót lắm chứ. Nó tương tự như ḿnh vừa làm mất một món tài sản thật quư giá. Tôi cùng vài người lính khác vội chạy đến chỗ máy bay rớt xem sao. Băng qua các thửa ruộng và những rặng trâm bầu những bụi dứa dại cùng các lùm b́nh bát, chúng tôi đến gần chỗ xác máy bay. Nó vạch một đường khá dài trên mặt ruộng lúa và chúc đầu vào một doi đất tiếp nối với bờ đê của con rạch nhỏ. Tôi và các người lính bước b́ bơm dưới ruộng lúa đến bên chiếc máy bay. Qua khung cửa mở của buồng lái, tôi thấy duy nhất viên phi công vẫn ngồi yên lặng trên ghế. Tôi cất tiếng gọi nhưng ông ta không trả lời. Nghĩ phi công đă bị thương nên tôi cùng với một người lính khác nhẩy ngay lên sàn tàu để t́m cách giúp đem ông ra khỏi máy bay nhưng đă muộn. Ông ta đă chết. Chút máu ộc từ miệng chảy ra thành vệt nhỏ trên mép. Tôi nh́n kỹ mặt, thân thể viên phi công và không thấy vết thương nào khác dù ông đă chết thật. Người ông lả ra, bất động. Khói từ phần đuôi máy bay vẫn c̣n nghi ngút tỏa lan theo chiều gió. Một người lính nói vội.

    - Coi chừng máy bay có thể nổ. Ḿnh lôi cha nội phi công ra ngoài đi.

    Chúng tôi phụ tay cởi bỏ dây đai an toàn và chuyển xác phi công ra khỏi máy bay. ̀ ạch khiêng ông lên bờ ruộng rồi đặt nằm ngay ngắn trên một bờ đất phẳng ở gần một con rạch. Tôi quay nh́n lại chiếc máy bay, hai cây đại liên 60 ly vẫn nằm yên gục đầu ở hai phía bên cửa trống với những dây đạn vàng choé. Cánh quạt lớn trên nóc máy bay vẫn đảo nhè nhẹ theo cơn gió đồng...

    - Anh có coi phía sau lưng người phi công không? Có thể ông ta bị trúng đạn hay miểng ǵ đó xuyên vào tim th́ sao? Tôi cắt lời anh Tấn, hỏi.

    Nh́n tôi, anh Tấn khẽ lắc đầu rồi kể tiếp:

    - Không. Vũ à! Như tôi vừa kể, không có vết thương ǵ trên người ông ta hết. Ổng chết v́ bị một chấn động quá mạnh mà những anh em khác trong đơn vị tôi lúc đó nói hiệu ứng G forces. Những máy bay khi rớt, người trên đó hay bị như vậy. H́nh như chấn động lúc máy bay tiếp đất đă làm hệ thần kinh trong xương sống bị giăn ra rồi co lại đột ngột nên làm ông ta chết. Họ nói vậy... tôi cũng không rơ lắm.

    - Không có xạ thủ trên máy bay vậy trực thăng đến đó làm ǵ để cho bị bắn rớt? Tôi lại hỏi tiếp.

    - Tôi nghĩ có lẽ chiếc trực thăng bay đến để bốc ông tướng tư lệnh sư đoàn hoặc định bay về để đón thân nhân nào đó sống trong vùng Củ Chi-Hậu Nghĩa hay Trảng Bàng... nhưng đă hỏng nhiệm vụ. Có điều lạ, ông phi công không mặc đồ bay như vẫn thường thấy mà là bộ đồ sơ-vin dân sự áo trắng quần xanh. Cũng chẳng có Colt 45 hay Ru lô trái khế ǵ trên người ông phi công nữa Vũ. Đặt xác phi công nằm yên trên mặt đất xong, tôi và mấy người lính quay trở về chỗ cũ của ḿnh. Chiếc trực thăng nằm im ĺm một đống lù lù trên mặt ruộng lúa, vẫn c̣n tỏa các vệt khói và chưa bị nổ tan như tụi tui nghĩ. Về lại chỗ đóng quân, cả ngàn người lính chúng tôi, súng ống c̣n đủ với hàng chục xe tăng M 113, súng cối, súng DKZ... bên cạnh mà phải án binh bất động suốt cả đêm trên cánh đồng lúa. Đêm dài qua chầm chậm, tai chúng tôi vẫn nghe tiếng súng tiếng nổ lớn từ hướng Sài G̣n vọng lại. B́nh minh đến rồi gần trưa th́ đơn vị tan đội h́nh khi nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng trên làn sóng phát thanh. Sau khi bàn bạc, các sĩ quan chỉ huy đă lệnh cho một binh sĩ trong chúng tôi phất cờ trắng ra hàng bọn Việt Cộng đang chờ sẵn ngay ngoài mặt đường lộ chính. Lần lượt chúng tôi bỏ các xe GMC, xe tăng vẫn c̣n nổ máy để kéo nhau đầu hàng tập thể. Súng ống, quân dụng vất thành đống bên bờ ruộng. Đủ cả... từ Colt 45, súng trường M16, súng phóng lựu M79, M72, mũ sắt cá nhân, máy truyền tin PRC 25, ba lô và cả giầy trận nữa. Vất, vất tuốt. Có người không chịu đầu hàng lại tự ḿnh tự sát tại chỗ. Thật kiêu hùng và cũng thật bi thương cho những cái chết vào giờ cuối cuộc chiến. Có người khóc ngon lành, nước mắt ràn rụa trên má như trẻ thơ. Lúc đấy, tôi cũng hoang mang và tuyệt vọng lắm. Cả một đạo quân lớn mạnh như vậy mà phút chốc phải giải giáp quy hàng. Tôi cũng định... đoàng một phát cho rồi đời lính Cộng Ḥa nhưng nghĩ ḿnh c̣n mẹ già nên lại thôi.

    Nh́n anh Tấn, mái tóc có nhiều sợi bạc trên khuôn mặt dăi dầu sương gió từng trải, tôi hỏi:

    - Rồi sau đó th́ sao nữa hả anh? Có bị tập trung tù cải tạo không? Khi đó anh cấp bậc ǵ?

    - Trả nợ tụi nó hơn bốn năm chứ ít ǵ. Tôi khi đó mới thiếu uư thôi mà c̣n bị vậy. Sau khi được thả, quay về địa phương bị đám công an nó trù dữ quá nên vượt biên nhiều lần mà không lọt. Giờ, ghe thoát ra khỏi nước th́ tưởng đă êm nào ngờ. Số phận ḿnh đen quá hả Vũ?

    Tôi nh́n lại anh Tấn nhủ thầm: " Số anh đen, tôi cũng đâu có đỏ ǵ cho cam. Anh Tấn ơi! Số phần tất cả người dân miền Nam VNCH bại trận đều đen như mơm chó kể từ sau cái ngày định mệnh 30 tháng 4 năm đó " rồi tôi ngồi im, chung nỗi buồn với anh.

    Chúng tôi quay trở lại chỗ nằm khi thấy có ánh đèn pha của một chiếc xe chạy gần. Tiếng xe chạy đến chỗ căn nhà chúng tôi th́ chậm hẳn rồi sau đó nó bỏ chạy luôn. Có lẽ là chiếc xe tuần tiễu ban đêm. Về khuya, vài người ra ngoài nhà muốn đi tiểu nhưng t́m không thấy chỗ vệ sinh ở chung quanh. Đi đâu giải quyết chuyện cần kíp đây? Chúng tôi nh́n nhau ráng nín vậy. Trời sáng dần để thấy bên kia đường có một khu rừng nhỏ dầy đặc những cây bạch đàn. Thôi th́ đành phải vào đó cho xong việc. Căn nhà cũng không có nước để rửa mặt mũi nữa. Tôi đi ṿng ra bên ngoài nhà quan sát. Khu vực lính Khmer để chúng tôi trú ngụ đầy vẻ hoang phế xưa cũ với các dăy nhà trông in hệt căn cứ hải quân gần bến Bạch Đằng-Sài G̣n. Như vậy, chắc chắn nó được người Pháp xây từ rất lâu trước đây. Những con đường tráng nhựa năm xưa nay đă loang lổ những ổ gà lớn nhỏ trên mặt đường. Hai bên đường giờ mới trông rơ những gốc cây cổ thụ c̣n sót lại chung với những hàng cây xoài c̣n non tuổi.

    Nơi ở mới c̣n tệ hơn ngoài đảo Cô Tan v́ cho đến quá trưa mà chúng tôi chẳng thấy bóng dáng một người Khmer nào cả. May chúng tôi có mang theo ít bánh ngọt bisquit và nước lă đóng chai khi rời đảo nên tạm giải quyết được cái khát cái đói. Măi đến gần chiều mới có một chiếc xe quân đội như loại xe Dodge 4 chạy đến, chở một thùng nước nóng khoảng 30 lít và một sọt nhỏ các ổ bánh ḿ cùng ít nải chuối chín cho chúng tôi. Theo tay chỉ của hai gă lính Khmer trên xe, chúng tôi khệ nệ khiêng các thứ đó vào nhà. Xong việc, chiếc xe chạy mất hút để mặc chúng tôi tự lo liệu với nhau. Nh́n vào sọt, bánh ḿ đă cũ cứng ngắc, mỗi ổ dài khoảng hai gang tay. Cả thẩy là 37 ổ. Chia mỗi người một bánh ḿ và phần c̣n lại chúng tôi chia nhỏ đều cho từng người. Chuối cũng vậy nhưng may mắn đủ hai trái cho mỗi mạng. Nước, v́ không có ly cốc, ai khát cứ kê miệng vào cạnh nồi mà uống.

    Từ đó cho đến tối khuya cũng chẳng thấy chiếc xe quay lại. Thêm một đêm dài qua đi. Ngày hôm sau, chúng tôi cũng phải chờ cho đến chiều mới gặp lại chiếc xe cùng hai người lính Khmer đó. Lần này, cũng một thùng thiếc đựng nước nóng tương tự nhưng cái sọt lót bằng lá chuối khiêng vào nhà th́ không phải bánh ḿ và chuối như mọi người đă nghĩ. Đầy gần miệng sọt là các củ khoai ḿ khoai lang luộc chín cùng ít cá khô nướng chín. " Ăn uống kiểu ǵ kỳ lạ vậy ta! ". Một người trong chúng tôi hỏi và có tiếng đáp: " Cơm cho tù mà ".

    Một gă lính Khmer theo chân chúng tôi vào căn nhà. Y giơ tay ra hiệu cho mọi người đứng tập trung lại gần với nhau. Lấy ra một xấp giấy từ túi vải đeo bên hông, y phân phát cho chúng tôi mỗi người một tờ. Đưa thêm cho hai cây viết mực nguyên tử, gă lính miệng nói tiếng Khmer, tay ra dấu ghi lên tờ giấy mới phát. Thấy vài người trong nhóm gật đầu tỏ ư hiểu lời nói, gă lính vội vă bỏ đi. Tai nghe tiếng xe chạy mà mắt nh́n xuống tờ giấy, tôi giật ḿnh khi thấy hai chữ in Bản Khai to tướng ngay chính giữa cùng với những hàng nhỏ: Tên, Năm Sinh, Địa chỉ... theo thứ tự ở dưới. Bản Khai! Nơi đây đă từng giữ người Việt vượt biên bị bắt và có sự cộng tác với chính quyền CS Việt Nam.

    - Họ sẽ giải giao ḿnh cho bọn công an. Chết cả đám rồi Vũ ơi! Anh Tấn nh́n tôi ngao ngán.

    Cầm tờ giấy Bản Khai trong tay, ai trong chúng tôi cũng thắc mắc ở mục ghi Quá Tŕnh Vượt Biên rồi hỏi nhau ḿnh phải khai như thế nào đây? Anh Tấn nói lớn cho tất cả cùng nghe với bản khai chữ Việt như vậy và nh́n các tấm giấy treo trên tường th́ chắc chắn cả bọn ḿnh sẽ gặp cán bộ Việt Cộng. Chỉ chưa biết là khi nào thôi.

    - Nhớ đây không phải như hồi ở ngoài đảo Cô Tan đâu nha. Ngoài đó cán bộ Khmer ghi biên bản bằng chữ của họ. Lần này, họ đưa giấy bảo ḿnh tự khai th́ ai viết ra lời khai thế nào th́ ráng mà nhớ cho kỹ để rủi công an Việt Cộng khi bắt khai lại mới ăn khớp và càng ngắn gọn ít chi tiết th́ càng tốt. Anh Tấn nói thêm.

    Quả là sự từng trải của người đă ở tù Việt Cộng trong nhiều năm trời. Hai cây viết mực nguyên tử lần lượt được chuyền tay. Không có bàn, chúng tôi phải dùng mặt xi măng láng ở nền nhà để đặt giấy viết. Đến lượt anh Tấn viết xong bản khai, dường như linh cảm một chia tay sắp đến với tôi và Dũng. Anh Tấn xé vỏ gói thuốc lá Apshara, viết địa chỉ của anh rồi đưa cho tôi và Dũng mỗi người một mẩu nhỏ rồi nói: " Đây là địa chỉ của anh, có dịp rảnh th́ ghé xuống nhà anh chơi. Anh rất mến hai tụi em ". Tôi và Dũng cũng trao cho anh địa chỉ của hai đứa.

    Như ngày hôm qua, đến chiều các gă lính Khmer mới xuất hiện. Dừng xe tắt hẳn máy, họ vẫy chúng tôi đến gần để khiêng hai thùng giấy khá lớn vào nhà. Đặt các thùng giấy nầy ngay trên mặt sàn xi măng, chúng tôi vội mở ra xem. Một thùng đầy nhóc những gói giấy c̣n thùng kia là các bịch nước mía đá lạnh cùng ống hút nhựa kèm theo. Hai gă lính Khmer đi theo chúng tôi lấy các gói, bịch nước mía ra đưa cho từng người một. Xong họ bỏ đi ra ngoài căn nhà đứng hút thuốc lá và tṛ chuyện với nhau. Tôi mở gói giấy ra xem. Cơm trắng trộn lẫn với trứng gà chiên-thịt kho-cà chua kiểu như loại cơm chiên Dương Châu trong món ăn Tàu. Chẳng có muỗng nĩa ǵ cả. Cứ vậy mà bốc ăn bằng tay thôi. Có tiếng người khen:

    - Nay cho ḿnh ăn ngon quá vậy ta... Cả nước mía đá lạnh giải khát nữa chứ!

    Chúng tôi nh́n nhau mỉm cười. Ăn vừa xong bữa, có tiếng xe mô tô hai bánh ngừng ngay phía trước cửa. Hai người đàn ông phục sức rất gọn gàng, tay cầm cặp bước đến nói chuyện x́ xào nho nhỏ với hai gă Khmer vài câu rồi cả bốn người họ bước vào hẳn bên trong căn nhà. Nh́n hai người mới đến, chúng tôi biết họ là người Việt Nam và quả đúng như vậy. Người mới đến nói giọng miền Bắc:

    - Chúng tôi Vũ Văn Dũng và Huỳnh Thới Kỳ thuộc tổng lănh sự quán Việt Nam tại đây.

    Mọi người trong pḥng im lặng nh́n hai gă cán bộ Việt Cộng. Đảo mắt khắp lượt chúng tôi, Vũ Văn Dũng hỏi:

    - Tại sao các anh lại vượt biên? Hử! Tại sao các anh bỏ nước ra đi? Nói tôi nghe.

    Không ai trong chúng tôi lên tiếng trả lời. Vũ Văn Dũng xổ luôn một hơi:

    - Nước nhà độc lập thống nhất từ lâu mà vẫn không chịu yên tâm lao động sản xuất. Hở ra là vượt biển vượt biên, gây xáo trộn cho xă hội. Bộ các anh nghĩ cứ sang được bên Mỹ th́ bọn Mỹ sẽ coi các anh là ông nội lũ nó chắc. Ở đâu th́ ai cũng phải làm mới có cái ăn nghe chưa. Chúng tôi thật xấu hổ khi gặp các anh trong t́nh cảnh như vầy. Hôm nay, chúng tôi đến để bảo lănh các anh ra từ tay các đồng chí hải quân nước bạn. Nếu chúng tôi từ chối bảo lănh, họ sẽ giam các anh cho đến chết. Các anh nghe chưa? Cũng v́ t́nh thương đồng bào Việt Nam cả thôi... Các anh đâu biết.

    Nói xong, Vũ Văn Dũng mở miệng cười. Nghe giọng nói, tôi biết y gốc gác người Hà Nội.

    Chúng tôi nh́n nhau trong chốc lát. Gă cán bộ Việt Cộng c̣n lại cất giọng miền Nam:

    - Nước nhà c̣n nhiều khó khăn th́ các anh phải thông cảm chứ. Đảng và chính phủ nào muốn vậy. Đừng vượt biên nữa nguy hiểm lắm. Các anh dùng bữa cả rồi phải không? Bản khai ngày hôm qua mọi người đă viết xong hết cả th́ đưa đây ngay cho tui.

    Chúng tôi lục tục gom các tờ giấy đưa lại cho hai gă cán bộ Việt Cộng. Gă người Bắc sắp xếp gọn các tờ giấy rồi y cầm đọc lướt vài tờ xong ngẩng đầu lên nh́n đám chúng tôi, nói:

    - Lănh sự quán sẽ theo từng địa chỉ ghi trong đây để gửi về địa phương thông báo sự vụ các anh. Nhưng chúng tôi biết các anh chỉ ghi láo ghi lếu cả thôi. Rồi y đọc tên một người cùng địa chỉ người đó trong tờ giấy và tiếp: " Đây nhá, thử đến ngay địa phương... rồi hỏi chính quyền xem biết liền. Có người tên như vầy th́ cứ đem đầu tôi ra mà chặt. Xong, y cười h́ h́, lộ vẻ khoái trá. " Làm cho có thủ tục vậy thôi. Bây giờ các anh được trả tự do cả đấy ".

    Tôi và anh Tấn khẽ nh́n nhau. Đúng y boong lời hắn nói. Không ai trong chúng tôi viết đúng tên cùng địa chỉ trong tờ giấy Bản Khai. Rơ ra kinh nghiệm của một cán bộ ngoại giao Việt Cộng đă từng tiếp xúc nhiều phen với người vượt biên trên đất Khmer. Một người trong chúng tôi giơ tay, hỏi vội:

    - Cán bộ nói chúng tôi được trả tự do, tôi rất mừng nhưng làm sao về được tới Việt Nam? Không ai c̣n đồng tiền trong người, hải tặc lột sạch hết cả.

    Vũ Văn Dũng nh́n người vừa hỏi sau đó đảo mắt qua cả đám chúng tôi, y gằn từng tiếng:

    - Chúng tôi không cần biết chuyện đó. Các anh sang đây được th́ các anh phải về Việt Nam được. Bảo lănh cho các anh ra khỏi đây, đă thể hiện t́nh cảm với các anh lắm rồi.

    Nghe gă cán bộ trả lời như vậy, tôi liền nói:

    - Cán bộ ơi, nghe giọng cán bộ tôi biết người gốc Hà Nội. Tôi cũng người gốc Hà Nội đây. Cán bộ nói t́nh thương đồng bào th́ xin thương cho trót. Cố giúp chúng tôi có phương tiện để về tới Nông Pênh cũng được. Đến đó rồi chúng tôi sẽ liệu tiếp.

    Nh́n tôi, Vũ Văn Dũng lắc đầu, nói chậm răi dứt khoát:

    - Lănh sự quán không có tiền. Biết hoàn cảnh các anh chứ nhưng thực sự chúng tôi cũng không có tiền... Anh hiểu chưa!

    Tay Việt Cộng miền Nam nghe hai bên đối đáp như vậy liền xen vào, giọng y nhỏ nhẹ:

    - Mong các anh thông cảm. Ngân khoản của lănh sự quán hạn hẹp lắm. Bây giờ ít có vụ vượt biên chứ trước đây hầu như vài ngày tụi tui cứ phải đi lănh người Việt ra hoài. Thôi! Các anh ráng xoay trở làm sao đó th́ làm nghe.

    Tôi, anh Tấn và thằng Dũng nh́n nhau rồi kín đáo lắc đầu, thầm nghĩ cán bộ Việt Cộng nói như vậy th́ hết cách. Vừa lúc, một xe tải nhà binh chạy đến và ngừng ngay ở ngoài sân phía trước căn nhà. Một lính Khmer bước xuống và ra dấu cho cả bọn chúng tôi trèo lên thùng xe. Hai cán bộ Việt Cộng vẫn đứng yên trên thềm nhà chuyện tṛ với lính Khmer của chiếc xe đến trước. Khi chúng tôi trèo lên thùng xe xong xuôi, xe tải nhà binh từ từ lăn bánh chạy ṿng vèo trong khu vực. Đúng đây là một trại hải quân v́ huy hiệu quân đội Khmer với cái mỏ neo ở chính giữa được treo trên cửa ra vào của một ṭa nhà khá lớn. Nhà cửa nơi đây cùng một kiểu Pháp giống y khu hải quân tại cảng Bạch Đằng-Sài G̣n. Ba người Khmer đang đi dọc theo con đường và một trong số họ vẫy tay thân ái với chúng tôi. Đây đó, vài trẻ em Khmer chạy chơi, đùa giỡn gần các căn nhà. Khói lam từ một nhà bếp mang mùi thơm của thức ăn theo gió chiều đến tận xe chúng tôi. Hai phụ nữ, người quấn xà rông đang ngồi bên nhau trên ghế trước cửa một căn nhà dơi mắt nh́n chiếc xe chở chúng tôi chạy ngang qua. Trời bắt đầu xâm xẩm tối rồi. Gă lănh sự Vũ Văn Dũng nói chúng tôi được trả tự do nhưng không biết xe sẽ chở cả nhóm đi đâu đây? Qua hết các dẫy nhà, xe bắt đầu ra khỏi cổng căn cứ hải quân và chạy vào vùng ngoại ô. Những ruộng lúa cùng các căn nhà sàn vách gỗ mái ngói đỏ nằm rải rác cạnh vệ đường. Nước Khmer sau hoạ diệt chủng của chế độ PolPot chỉ c̣n ít dân nên đất đai bỏ hoang rất nhiều. Xe vào thành phố, chạy ṿng vèo trong các khu thị tứ hoặc trên các con đường với hai hàng cây tương tự như các con phố ở Sài G̣n. Các cửa tiệm đă mở đèn sáng chưng. Sau cùng, xe ngừng tại một bến xe nằm đối diện với một khu chợ khá sầm uất. Hai lính Khmer từ cabin bước xuống và ra dấu cho chúng tôi phải rời khỏi xe họ ngay. Lần lượt kẻ trước người sau nhẩy ngay xuống đất và tức khắc, xe tải nhà binh đánh một đường ṿng rồi quay đầu bỏ chạy thẳng.

    Đứng ngồi lố nhố từng đám nhỏ trong cái bến xe, chúng tôi trông thật khác hẳn với dân Khmer đang có mặt. Vài người Khmer ngồi trong quán gọi nhau nói chuyện mà ánh mắt, ngón tay họ chỉ trỏ về hướng chúng tôi. Tôi, Dũng và anh Tấn nh́n nhau lo lắng. Không người quen trên xứ lạ, túi rỗng tiền mà trời th́ sắp tối đến nơi. Chúng tôi sẽ ở đâu, làm ǵ trong đêm hôm nay? Chợt có tiếng c̣i tu huưt ré lên cùng giọng nói lớn:

    - Chết mẹ! Mấy cha kia bị công an Kampuchia bắt rồi ḱa.

    Tôi hoảng hốt đưa mắt nh́n. Hai người Khmer đồng phục kaki vàng nghệ như công an Việt Cộng đang chận một nhóm bốn người thằng Minh ở ngay vệ đường trước cổng bến xe. Anh Tấn quay qua nói nhanh với tôi và Dũng:

    - Tản ra ngay thôi. Ḿnh chia tay ở đây nghe các em. Tạm biệt Vũ, tạm biệt Dũng.

    Mỗi người liền vọt ngay một hướng. Bến xe không có xây tường bao chung quanh và các xe tải, xe chở khách đậu sát trước cửa nhà dân tương tự bến xe trong vùng ngă bẩy Petrus Kư-Sài G̣n. Do đó khi cắm đầu đi thẳng được một khúc đường, gặp có một hẻm nhỏ, tôi vội rẽ vào và bước dọc theo con hẻm dưới ánh sáng của các ngọn đèn đường. Trời bây giờ đă thật tối. Hẻm nhỏ dẫn tôi đi ḷng ṿng qua các con hẻm khác nữa rồi lại quay ra ngay phía hông cái chợ trước bến xe. Tôi vào trong chợ. Người ra kẻ vô khá đông và cũng chẳng ai để ư đến tôi. Có những gian hàng, người chủ đang thu dọn để nghỉ nhưng có gian hàng khác mới bắt đầu dọn ra bán. Tôi băng ngang qua một khu bán thức ăn. Những xe thùng bán hủ tiếu, cơm, chè, món nhậu... tương tự như bên nước Việt. Mùi xào nấu bốc thơm lừng mũi. Vài người bán hàng vẫy tay mời tôi ghé vào quầy hàng của họ nhưng tôi lắc đầu, im lặng lầm lũi bước. Đi tới lui măi, sau cùng tôi ra khỏi chợ. Nh́n chung quanh không c̣n bạn đồng hành trong chiếc ghe với tôi nữa. Chân rảo bước trên con hẻm dọc theo chợ mà trong tôi đang lo lắng nơi nào ḿnh sẽ đi tiếp đây. Gặp một rạp chiếu phim Video nhỏ với các tấm pano quảng cáo h́nh bộ phim đang chiếu bằng loại chữ Khmer và chữ Tàu, tôi dừng lại đứng gần đám đông người trước cửa rạp chiếu phim. Vờ xem các h́nh quảng cáo nhưng tôi kín đáo quan sát và lắng nghe tiếng tṛ chuyện của người chung quanh xem coi có đồng hương Việt Nam không. Không gặp người Việt nào cả. Tôi bỏ rạp chiếu phim, quay ra đi thẳng rồi băng ngang qua một ngă tư vào một khu phố với khá nhiều cửa tiệm đèn sáng choang. Dân Khmer sống ở phố chợ cũng giống người Việt Nam dùng mặt tiền nhà làm tiệm buôn bán. Dọc theo con phố, tôi đi ngang một tiệm cà phê có vài khách đang ngồi xem TV gắn ở trên tường. Tôi dừng chân nh́n các cảnh trên TV đang chiếu. Một cô gái trẻ ngồi ở chiếc bàn nhỏ ngay sát hàng hiên ngẩng đầu nh́n tôi, trong tay cô cầm một quyển sách khá dầy. Thấy tôi đứng nh́n vào quán, cô gái hỏi vài câu Khmer. Không hiểu lời cô gái, tôi mỉm cười với cô rồi nh́n xuống quyển sách. Những hàng chữ Việt trên các trang giấy. Tôi nh́n kỹ đúng là chữ Việt. Mừng quá đi! Buột miệng, tôi hỏi liền:

    - Cô là người Việt Nam... Phải không? Cô là người Việt Nam?

    Cô gái nghe tiếng tôi liền gật đầu, hỏi lại:

    - Anh! Anh... thuộc nhóm người Việt vừa có mặt ngoài bến xe lúc chập tối. Phải không?

    Tôi gật đầu nhưng thầm nghĩ tại sao cô ta lại biết tôi trong nhóm người Việt ở ngoài bến xe? Thấy tôi đứng yên, cô cho biết khách uống cà phê trong tiệm nói về một nhóm người Duôn vừa xuống xe tại bến đă bị công an Khmer bắt giữ. Công an Khmer bắt v́ nghĩ người Duôn đến Kompong Som để t́m cách vượt biên sang Thái Lan. Khi nghe vậy, cô vội chạy ra chỗ bến xe để xem có người quen không. Bốn người đang bị giữ tại đồn công an ở gần cửa chợ c̣n các người khác bỏ chạy hết. Cô gái kéo ghế mời tôi ngồi, xưng tên Hường rồi tiếp:

    - Mấy thằng công an em quen mặt cả. Họ lại đây uống cà phê thường ngày. Em vô đồn công an gặp bốn người bị bắt và nghe họ kể chuyện ghe vượt biên rồi. Em đă nói cho công an Khmer biết nhưng bọn nó nói phải liên lạc với lănh sự quán Việt Nam trước đă. Em nghĩ họ sẽ thả hết bốn người bọn anh, đừng lo. Nói xong, cô gái quay vào phía trong gọi khá lớn: " Liên, Liên ơi! Ra đây có chuyện này hay lắm ". Một thiếu nữ từ bên trong quầy đi ra. Nh́n mặt hai cô gái, tôi đoán họ trạc tuổi với tôi. Hường nói qua loa với Liên về tôi rồi cả hai dẫn tôi ra phía đằng sau nhà. Ở đó có một phụ nữ Việt khá lớn tuổi đang ngồi ăn cơm tối. Hường, Liên nói là mẹ và giới thiệu tôi với bà. Bà cụ bảo tôi ăn cơm tối chung. Tôi vừa ăn vừa kể cho ba người nghe về chuyến đi bất thành. Sau bữa ăn, tôi xin đi tắm ngay v́ từ lúc rời đảo Cô Tan không có nước để rửa ráy, thân thể rất bẩn. Tắm xong, Hường làm cho tôi ly cà phê đá. Uống nó thật ngon, nước lạnh chảy tới đâu tôi cảm thấy mát ngay tới đó. Bà cụ, mẹ của Hường và Liên kể thêm về hoàn cảnh:

    - Gia đ́nh tôi đi vùng kinh tế mới tại huyện Vĩnh Cửu thuộc tỉnh Đồng Nai vào cuối năm 1975 sau khi nhà nước đổi tiền mới. Lên đó được vài năm, nhà tôi chết v́ sốt rét rừng. Mẹ con tôi chán nản hết sức, muốn trốn về Sài g̣n nhưng nhà cửa th́ không c̣n. Chưa biết làm ǵ thời may gặp cái vụ nhà nước xây cái đập thủy điện Trị An. Một số nhà hàng ở Sài G̣n lên hỏi mua những khu đất gần chỗ xây cái đập để mở hàng quán cho đám công nhân xây dựng. Lô đất nhà tôi lại ngay chỗ nhà hàng cần mua. Họ cho người đến thương lượng. Gặp dịp tôi bán liền lại bán được giá thật hời. Tiền bán khu đất, lúc đầu tôi định về Sài G̣n kiếm mua căn nhà nhỏ rồi liệu kế làm ăn nhưng mấy đứa trong nhà lại nghe lời họ hàng rủ nhau vượt biên. Đám tổ chức vượt biên đường bộ bằng ngă Kampuchia. Một hai bảo đảm sẽ sắp xếp gia đ́nh tôi đi lọt trong ṿng tuần lễ. Tính chuyện rất dễ nhưng khi đến được Kompong Som gia đ́nh tôi bị lừa mất sạch vàng. Không vượt biên được nữa, phải ở nhà trọ rồi kéo nhau đi làm thuê kiếm miếng ăn qua ngày, thảm lắm cậu. Bà cụ ngừng kể, mắt khẽ nhắm như đang hồi tưởng những ngày cũ. Một thoáng trôi qua, bà tiếp: " Gia đ́nh phải sống dựa vào đám bộ đội Việt Cộng đóng quân ở đây, tội nghiệp nhất là hai đứa con gái tôi... lúc đó đành phải... ", rồi bà cụ chợt im lặng. Hường ngồi gần tôi, tiếp lời mẹ:

    - Cả nhà em dành dụm măi mới đủ tiền sang lại nhà và mở quán bán cà phê suốt từ đó. Trước đây c̣n khá đông bộ đội người Việt tụi em buôn bán rất ngon. Bây giờ họ rút về hết rồi thêm người mở quán cạnh tranh làm gia đ́nh em buôn bán cũng kém. Chưa biết sẽ phải xoay trở làm ăn cái ǵ khác đây? Hầu như người Việt ḿnh từ quê nhà sang Kompong Som đều tính chuyện vượt biên cả nhưng thấy vậy mà đi khó lọt lắm anh. Bị đám tổ chức gạt, có khi c̣n bị bắt rồi hết tiền không về quê nhà được giống gia đ́nh em nên đành chấp nhận sống ở đây luôn.

    - Cái hồi gia đ́nh tôi bị bỏ rơi ở Kompong Som may mắn bộ đội Việt Cộng không thèm bắt nữa. Mấy năm trước vượt biên sang đây đi lạng quạng ở các bến xe hoặc nhà trọ, công an Kampuchia bắt được giao cho bộ đội Việt Cộng giải về Việt Nam tống vô tù liền. Bà cụ kể.

    - Hồi đó gia đ́nh em không bị bắt v́ bộ đội Việt Cộng muốn nhiều người Việt ḿnh sống ở nước Kampuchia trước khi họ phải rút về Việt Nam. Liên chen vào.

    Hường kéo tôi trở ra một bàn trong quán, vài khách địa phương ngồi gần nhưng không ai buồn để ư đến ai. Mắt họ dán vào màn h́nh TV. Tôi ngồi im lặng, thỉnh thoảng ngó ra bên ngoài mong gặp được anh Tấn, thằng Dũng hay người trong ghe. Chợt Liên đến ngồi chung bàn, kể chuyện:

    - Người Việt ḿnh ở đây sống rải rác nhiều nơi nhưng ai cũng đều chung cảnh nghèo, đi làm thuê làm mướn cả. Chuyện quay về quê nhà lập nghiệp thật xa vời không ai nghĩ đến, do vậy mới lập hội Việt Kiều để tương trợ lẫn nhau. Chị Hường em nói sáng mai sẽ đưa anh đi gặp hội, xem coi họ có thể giúp ǵ cho anh được không?

    Nói với Liên, tôi may mắn đă gặp được gia đ́nh nàng chứ nếu không c̣n đang phải lang thang ở đâu đó. Trời về khuya quán sắp đóng cửa, Cao về tới. Cao là em trai út của Hường-Liên, làm thuê cho một tiệm ăn Tàu ở chợ và cũng vừa dọn dẹp ngoài đó xong xuôi. Nằm trong chiếc mùng Cao vừa căng cho tôi sát bên các bàn ghế trong quán, tôi hồi tưởng những chuyện xẩy ra trong ngày và câu Hường nói: " Anh đừng lo, những người bị công an bắt chập tối họ sẽ thả sớm sáng ngày mai ". Thằng Minh ở trong số người bị bắt này. Dầu sao, nó cũng có chỗ ngủ đêm nay. Chỉ lo cho thằng Dũng và anh Tấn giờ đang ở đâu, ra sao?

    Cũng y như tiệm cà phê bên quê nhà, quán của hai chị em Hường-Liên ngày nào cũng mở rất sớm và đóng thật trễ. Mới 6 giờ sáng cả nhà đă lục tục dậy để dọn dẹp chuẩn bị cho một ngày mới. Tôi thức dậy cùng với gia đ́nh và định phụ một tay nhưng hai chị em Hường-Liên bảo tôi cứ ngồi yên uống cà phê. Cao vẫn đang ngủ say. Hường nói ngày nào cũng vậy, Cao bắt đầu đi làm lúc gần trưa cho đến tối khuya mới xong việc. Bà cụ cũng dậy sớm, đang lúi húi làm món cơm chiên cho mọi người ăn sáng lót dạ. Khách lai rai vào uống cà phê, họ là dân lao động phải dậy đi làm sớm đầu ngày nên ghé vào quán uống vội một ly cho tỉnh ngủ cho ấm bụng rồi bỏ đi ngay. Ở xứ nào, dân lao động cũng vất vả như nhau.

    Khoảng xế trưa bớt khách, để Liên coi tiệm Hường dẫn tôi đi gặp các người Việt gần chợ Kompong Som. Đầu tiên, tôi và Hường đến nhà người đại diện hội Việt Kiều. Ông ta tên Hai, trạc ngoài 50 tuổi, khuôn mặt hiền lành đầy vẻ nhẫn nại. Sau khi nghe tôi kể vắn tắt lại câu chuyện của ḿnh, ông yên lặng, thở dài rồi cho biết người Việt sinh sống ở Kompong Som rất nghèo v́ hầu hết đă mất tiêu tài sản cho canh bạc vượt biên không thành. Lưu lạc xứ người lại không nghề nghiệp trong tay nên ai cũng phải làm thuê vác mướn sống qua ngày. Có người phải dành dùm rất lâu mới có đủ tiền để về lại Việt Nam. Đó là người c̣n gia đ́nh bên quê nhà. Không thân thích ruột thịt, đành chọn Kompong Som làm quê hương thứ hai. Ông Hai nói đúng y lời Hường và Liên đă kể.

    - Chúng tôi làm thuê bất cứ nghề ǵ mà người Khmer cần cậu à. Phu khuân vác, thợ hồ, thợ nề... Thậm chí làm cả người ở giúp việc trong nhà nữa. Nói ra cho cậu thấy hoàn cảnh chúng tôi. Sống ở xứ người nhưng có khấm khá ǵ đâu. Mong ngày đủ hai bữa cơm là tốt. Gặp cậu, thêm đồng hương tôi rất vui nhưng nói thật, muốn giúp cậu cũng chẳng biết phải giúp sao đây v́ ai cũng nghèo túng cả. Cậu cứ tiếp xúc các người Việt khác đi rồi sẽ thấy. Gửi cậu 200 Riel mong cậu hiểu cho t́nh cảnh tôi.

    Nhờ có Hường hướng dẫn, tôi mới gặp được nhiều gia đ́nh người Việt Nam. Gặp nhiều Việt kiều nhưng đúng như lời ông Hai, người Việt sinh sống tại Khmer quá sức nghèo. Có gia đ́nh, cuộc sống của họ c̣n khổ hơn lúc c̣n ở Việt Nam. Tôi cảm thấy áy náy khi phải gơ cửa ḷng nhân ái của họ, những người Việt tha hương bất hạnh. Từng là nạn nhân của các vụ lừa đảo vượt biên nên số Việt kiều tôi gặp dễ dàng thông cảm nhưng chính v́ vậy lại đặt họ vào hoàn cảnh khó xử. Thật ḷng họ muốn giúp nhưng túi không tiền. Mở miệng từ chối lại không nỡ. Có người thú thật trong nhà không c̣n một đồng bạc và đang chờ người thân đi làm về mới có cái mua đồ ăn. Có gia đ́nh chỉ biết an ủi, giữ tôi và Hường ở lại ăn bữa cơm trưa. Thức ăn chỉ món mắm cùng canh chua bắp chuối hột nấu với ít cá ḷng tong. Có nhà khi thấy tôi và Hường đến, họ liền đóng sập cửa không tiếp. Tới chiều tối, tôi và Hường mệt mỏi quay trở về quán. Toàn bộ tiền tôi xin được trong ngày hôm nay chỉ vỏn vẹn 1600 Riel. Hường cho biết từ Kompong Som về Nông Pênh bằng xe khách hạng bét là xe chở hàng Kamaz cũng phải mất 5000 Riel tương đương với 5 phân vàng y 24. Lạ một điều đi gặp Việt kiều suốt cả ngày, không nghe ai nói với tôi về những người khác trong chuyến ghe. Không lẽ chỉ có một ḿnh tôi đi gặp họ? Tôi phân vân. Anh Tấn và thằng Dũng đă đi đâu sau lúc chia tay vội vă ở bến xe? Tôi lại nghĩ lúc c̣n ở trên ghe, anh Tấn, Dũng và các người khác đă nuốt kịp vàng vào bụng và nhờ vậy họ đă có cái để bán? Có tiền trong tay, thuê nhà trọ nghỉ chân và họ đă đón xe về Nông Pênh hết cả rồi. Có thể lắm! Mong họ được như điều tôi nghĩ.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  5. #5
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Bữa cơm tối, bà cụ kể thêm cho tôi nghe những cơ cực của những ngày đầu phải lưu lạc tại vùng Kompong Som sau chuyến vượt biên không thành. Từng lâm cảnh khổ v́ bị gạt vượt biên nên gia đ́nh Hường-Liên đă cố sức giúp tôi có tiền để về lại quê nhà.

    - Em chưa biết nếu ghe anh đi lọt sang được đất Thái sẽ ra sao chứ bằng đường bộ th́ ai cũng phải vào mấy cái trại sát biên giới như Dongrek, Nong Chan hay Nong Samet... ǵ ǵ đó. Tuy mang tiếng trại tị nạn nhưng bọn lính Khmer và lính Thái ở đó coi mạng người vượt biên Việt không bằng một con gà. Đàn ông con trai người Việt ḿnh, chúng muốn hành hạ hay giết th́ tùy hứng. Đàn bà con gái th́ thôi khỏi nói. Trước sau ǵ cũng bị... tay chúng hết. Gia đ́nh em đi không lọt chứ lọt mà phải sống trong các trại tị nạn đó th́ không biết số phận sẽ như thế nào. Người Việt ḿnh sao thời bây giờ khổ quá anh, ở bên quê nhà đă khổ, sang đây cũng khổ. Hường buồn bă, chép miệng.

    Liên thuật cho tôi nghe mấy tay công an Khmer đến quán uống cà phê lúc quá trưa cho biết họ đă thả bốn người Duôn bị bắt tối hôm trước. Thằng Minh vậy đă được tự do. Nó ra sao bây giờ? Biết hoàn cảnh tôi, bà cụ bảo nếu không muốn về Việt Nam ngay th́ cứ ở lại đây rồi theo Cao ra ngoài chợ xin việc làm trong các tiệm ăn! Có nhiều tiệm ở chợ nếu họ nhận cho làm, chịu khó tằn tiện rồi tôi cũng góp đủ tiền. Hường, Liên phụ họa: " Anh ráng ở đây một thời gian ngắn làm việc, đừng ngại chỗ ăn chỗ ở ". Nghe vậy, tôi nghĩ ḿnh không c̣n chọn lựa nào khác, tạm thời phải ở lại, đi kiếm việc làm. Ở trọ nơi quán cà phê được hai ngày, theo Cao đi hỏi các tiệm ăn trong chợ nhưng không ai cần thêm người làm, tôi đành quay về không. Tối nằm ngủ, tôi nghĩ phải t́m cách để về Nông Pênh. Gia đ́nh Hường-Liên tuy tốt bụng nhưng tiệm cà phê khách chỉ có lai rai, ở nán lại trong nhà họ ngày nào coi như thêm gánh nặng ngày đó. Đường đi nước bước ở nơi miệng ḿnh, chỉ kẹt tôi không biết tiếng Khmer. Tôi phân vân nhưng quyết định dứt khoát phải về. Trong lúc ăn cơm, nói điều ḿnh định cho cả nhà biết, Hường và Liên liền giúp mỗi người 500 Riel nữa tổng cộng tôi có 2600 Riel. Tôi nhủ thầm, ḿnh cứ liều thử đón xe xem sao. Có đi mới biết.

    Khi trời c̣n mờ sương buổi sớm mai, Hường đă dẫn tôi ra bến xe để t́m cách về Nông Pênh nhưng những xe khách ở đó đ̣i giá tới 6000 hoặc 7000 Riel cho một chỗ ngồi. Giá vé chênh lệch tùy theo t́nh trạng xe mới hay đă cũ nhưng khách phải trả tiền trước. Như đă kể, bến xe rất rộng phải đi tới lui loay hoay ḍ hỏi măi rồi Hường cũng gặp được một xe đồng ư cho lên sau khi Hường nói tôi chỉ có 2500 Riel. Đây là một xe vận tải cũ hiệu Kamaz của các nước Đông Âu Xă Hội Chủ Nghĩa viện trợ cho các quốc gia trong khối CS như Việt Nam, Cu Ba và Kampuchia... Móc trong túi lấy toàn bộ tiền ḿnh hiện có đưa cho gă lơ rồi sau đó theo ngón tay y, tôi vội vàng trèo lên cái rờ moọc khá lớn chất đầy hàng hóa kéo ở phía sau xe. Tôi hành khách duy nhất ngồi trên đống hàng hóa ở cái rờ moọc. Xe sắp sửa chạy, tài xế bóp c̣i và rú ga vài lần.

    - Về đi Hường, cho anh gửi lời thăm bà cụ, Liên và Cao. Không bao giờ anh quên được em và ngày hôm nay. Cầu xin Thượng Đế phù hộ cho gia đ́nh em. Cảm ơn em rất nhiều. Mong rằng có một ngày nào đó anh sẽ gặp lại em cùng gia đ́nh. Tôi thân mật nói lời từ biệt với cô gái tốt bụng khi xe Kamaz bắt đầu lăn bánh trên con đường gập gềnh, đầy ổ gà của bến xe Kompong Som. Hường đứng yên lặng bên vệ đường, khuôn mặt lộ vẻ buồn khi nh́n tôi và khẽ vẫy tay cho đến khi chiếc xe khuất sau một khúc quanh.

    Xe chạy dần ra phía ngoại ô, cảnh vật hai bên đường là các vùng đất vắng lặng nhưng vẫn thấy rơ dấu vết của làng mạc nay không c̣n người ở. Những khung nhà sàn đổ nát, hư cũ và các vệt vườn cây ăn trái c̣n sót lại ở nhiều nơi. Những vạt ruộng bỏ hoang cùng những băi đất trống xuất hiện khi xe chạy ngang qua. Chế độ Polpot-Iêng Sa ri khi cầm quyền đă tận diệt các phát minh của nhân loại trên đất nước Khmer. Tiền, một trong số các điều mà bọn người Khmer CS này đă tiêu hủy. Không cho lưu hành tiền trong xă hội và c̣n dẹp luôn chuyện buôn bán. Người dân muốn có muốn cần cái ǵ trong cuộc sống, chỉ đơn thuần trao đổi với nhau như kiểu thời sơ khai. Nếu không có tiền hôm nay làm sao tôi có thể đón xe để về Nông Pênh được! Một xă hội không dùng tiền trong giao dịch thương măi, giả dụ người có ḅ muốn có dê nuôi th́ người đó sẽ phải đi đâu mới gặp người chăn dê đang t́m ḅ để cùng nhau trao đổi qua lại? Đến chết chưa chắc đă gặp. Phải có chợ buôn bán th́ mọi việc mới ổn thỏa. Làng mạc bị bỏ hoang nhiều v́ chế độ Khmer Đỏ đă tàn sát rất nhiều dân lành vô tội. Người thuộc chế độ cũ bị tàn sát v́ thù hận đă đành nhưng các sư săi đạo Phật các tu sĩ tôn giáo khác đă làm ǵ nên tội mà cũng bị giết? Coi như một gánh nặng cho phúc lợi xă hội, người tàn tật cũng bị dứt bỏ và ngay cả người đeo cặp kiếng trắng cũng bị tận diệt v́ gán cho là thành phần trí thức. Được cha mẹ cho du học tại Pháp rồi về nước với mảnh bằng kỹ sư và những đưa đẩy của lịch sử, Polpot cầm quyền để rồi làm cho đất nước tan hoang chỉ sau ít năm gă cùng tay chân cai trị. Không hiểu v́ mối thù hận ǵ mà những lănh tụ Khmer Đỏ lại giáng lên đầu lên cổ người dân? Không lưu hành tiền, không c̣n các sinh hoạt xă hội như bao đời và phải sống tập trung như thời sơ khai... người dân Khmer sống trong giai đoạn cộng sản cầm quyền chắc chắn phải khổ sở vô cùng.

    Ngồi trên chiếc rờ moọc sau xe, tầm mắt tôi tiếp tục dơi mắt ngắm nh́n cảnh vật bên đường. Có những khu vực, cây Thốt Nốt được trồng hoặc mọc tự nhiên trải dài đến tận chân trời. Những cây Thốt Nốt nằm gần sát đường khoe các chùm trái mầu xanh hoặc nâu tím tṛn bóng lưỡng và có một cái núm nhỏ như đôi vú của thiếu nữ đương th́. Có thấy những cánh đồng cây Thốt Nốt mới hiểu tại sao nước Khmer làm ra được nhiều loại đường mầu vàng ngà ngon nổi tiếng. Ở thùng xe Kamaz, khách Khmer chen chúc ngồi bó gối chật cứng trên đống hàng hóa. Hàng hóa là thổ sản địa phương như cá khô, dừa... chất trong các sọt cần xé hoặc các bao gạo. Các thùng thuốc lá hút ngoại quốc cùng những thùng carton bọc kín mít không biết chứa thứ ǵ bên trong. Ngồi một ḿnh trên đống hàng hóa của cái rờ moọc, tôi thật không an toàn khi xe chạy. Những lúc xe Kamaz đổ dốc chạy rất nhanh qua cua gắt làm tôi phải bám chặt vào các kiện hàng v́ sợ bị hất ngă văng xuống đường. Đường từ Kompong Som về Nông Pênh thật xấu. Xe chạy ngang qua các cầu bị phá hủy từ thời chiến tranh nay được chắp vá bằng thân cây lớn ghép lại. Lúc vượt cầu như vậy rất nguy hiểm, tài xế sơ sẩy chút xíu, xe sẽ lọt xuống ḍng nước đang chảy bên dưới ngay. Đường hư hỏng, ngồi trên cái rờ moọc nên mỗi lần xe lọt ổ gà, người tôi thêm một phen ê ẩm. Đây là đường duy nhất nối liền hải cảng Kompong Som về thành phố Nông Pênh tương tự như quốc lộ 20 bên quê nhà từ Dốc Mơ đi Đà Lạt. Những vùng hoang vắng trên trục lộ giao thông xe đang chạy ngang, nơi nào từng là cánh đồng giết người trong thời PolPot cai trị? Mặt trời bắt đầu chói chang, tôi đổi hướng ngồi để tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào mặt. Đột nhiên, chiếc xe từ từ ngừng lại. Vài người Khmer vơ trang đứng ở dưới đất tiến lại gần ngang bên hông, chỉ trỏ vào hàng hoá rồi nói chuyện với hai gă lơ-tài xế. Gă tài xế đưa tiền cho những người Khmer vơ trang của cái chốt bên vệ đường. Đám vơ trang cho xe chạy, chạy tiếp cho đến khi gặp chốt gác mới lại phải dừng xe. Mỗi lần gặp chốt vơ trang lại diễn màn mặc cả tiền măi lộ. Ngồi im lặng trên cái rờ moọc, tôi kín đáo quan sát đám người Khmer có vũ khí trong tay không biết họ là lính của phe nào. Khmer Hiêng Xomrin hay tàn quân PolPot-Iêng Sa Ri? Y phục họ mặc bát nháo giữa quần áo lính xanh, rằn ri chung với thường phục và xà rông. Người chân mang giầy trận, người chỉ đôi dép mỏng.

    Xe đă chạy được hơn hai tiếng đồng hồ. Hai bên đường hầu hết như rừng hoang vắng chỉ đôi lúc xe qua một xóm dân cư Khmer rất thưa thớt lèo tèo độ chục nóc nhà sàn. Đường quá xấu, xe chở nặng nên tốc độ rất chậm. Chạy kiểu nầy không biết c̣n bao nhiêu km đường, mấy giờ đồng hồ nữa xe mới đến được Nông Pênh? Chắc chắn khi đến được th́ trời sẽ chiều tối. Tôi lo lắng ḿnh sẽ ở đâu trong đêm tại Nông Pênh? Có gặp được người tốt bụng như anh chàng cán bộ Sok Sammath hay người đồng hương như chị em Hường-Liên? Vừa vượt qua một con dốc khá cao, chiếc xe ngừng lại. Hai gă lơ và tài xế bước xuống xe đến chỗ chiếc rờ moọc, lấy chỉ tay vào tôi và nói những câu Khmer xa lạ. Tiếng Khmer tôi mù tịt c̣n tiếng Việt hai gă lại không biết. Hai gă Khmer nói cái ǵ với ḿnh vậy? Lúc đầu tôi không hiểu nhưng rồi qua cử chỉ, tôi biết hai gă muốn tôi phải trèo xuống khỏi cái rờ moọc. Không chở ḿnh đi tiếp nữa! Tôi có chút sững sờ v́ ở bến, hai gă Khmer đă đồng ư khi cho tôi lên xe. Cầm tiền Hường trả bây giờ lại đuổi tôi xuống. Biết nói ǵ bây giờ? Chợt nhớ tối hôm qua trước giờ ngủ, Hường và Liên đă cố sức chỉ cho tôi nói vài câu Khmer để pḥng những lúc cần. Lúc chia tay ở bến xe Kompong Som, Hường đă nhét vội vào túi áo tôi một mảnh giấy dặn khi nào anh quên th́ lấy ra đọc cho nhớ. Có bí kíp trong túi mà không biết dùng, tôi liền lấy nó ra trong lúc hai gă lơ-tài xế cùng những người Khmer khác đang nh́n chằm chằm. Như bao người Việt sinh sống tại xứ Chùa Tháp, chị em Hường-Liên chỉ biết nói và không biết viết cũng như đọc được chữ Khmer. Thấy tôi mở túi áo, nghĩ tôi lấy tiền nhưng không, chỉ một mẩu giấy nhỏ. Mở vội ra, tôi đọc to những câu viết thành chữ Việt trên giấy:

    - Bon cùm đâu nhum chênh lan (Anh đừng đuổi tôi xuống xe).

    Những khách Khmer nh́n tôi, có gă cười mỉm, vài người khác nói nhỏ câu ǵ đó với nhau. Nh́n hai gă lơ và tài xế rồi nh́n vào tờ giấy, tôi đọc tiếp một hơi:

    - Nhum oóc lui hơi (Tôi hết tiền rồi).
    - Nhum chon tư Nông Pênh (Tôi muốn đi Nông Pênh).
    - Bon chui nhum (Anh giúp tôi nghen).

    Thưa quư bạn đang đọc bài viết nhất là các bạn biết tiếng Khmer. Có thể tôi đă nhớ không đúng những câu Khmer mà Hường viết trong mẩu giấy. Nhiều năm trôi qua làm sao trí năo có thể nhớ rơ được. Có sai sót, mong các bạn thông cảm. Đọc xong mẩu giấy, tôi nh́n các người Khmer và mỉm cười với họ. Tôi lập lại vài lần nữa nhưng thái độ của hai gă lơ-tài xế vẫn không thay đổi. Qua cử chỉ và lời to tiếng, tôi biết họ nhất quyết muốn tôi xuống khỏi cái rờ moọc. Vài khách Khmer khác thấy tôi làm mất th́ giờ nên bắt đầu nổi cáu khi to tiếng giận dữ phụ hoạ chung với hai gă. Không cho ḿnh đi nữa, tôi đành leo xuống khỏi cái rờ moọc. Chiếc xe Kamaz chạy dần xa xa mất dạng sau một khúc trũng trên đường.

    Lang thang một ḿnh dọc theo đường lộ dưới trời trưa nắng cả tiếng đồng hồ, tôi gặp các xe khác chạy ngang hướng về Nông Pênh và đă giơ tay vẫy nhưng không một chiếc nào chịu ngừng lại cho quá giang. Đi dưới trời trưa nắng nóng, tôi phải dừng chân, bước vào các hố gần cạnh đường để vốc nước uống và rửa mặt cho đỡ cơn khát. Lấy cái áo trong giỏ xách ra, tôi nhúng ướt nước rồi trùm trên đầu cho dễ chịu. Cứ đi như vậy cho đến khi vừa qua khỏi khúc quanh đường, xa xa một bọn người đang đi ngược chiều với tôi trong tay họ vung vẩy cây súng AK 47. Tôi dừng lại, tự hỏi những người đang đi phía trước mặt là ai? Chắc ḿnh phải lánh mặt vào bên vệ đường xem sao nhưng đă muộn, những người đó đă trông thấy tôi. Họ gọi nhau í ới và chỉ tay về tôi. Tôi đứng yên tại chỗ, đưa hai tay choàng lên đầu ḿnh. Đám Khmer đó lại gần, túa ra vây chung quanh và lăm lăm súng hướng thẳng vào người tôi. Mặt họ đen nâu đầy vẻ hung dữ. Khăn rằn quấn ở cổ, đầu đội mũ sắt hoặc mũ lưỡi trai. Chân họ đi giầy vải hoặc dép râu. Họ lăm lăm nh́n tôi rồi hỏi cả tràng tiếng Khmer. Tôi chỉ biết lắc đầu tỏ ư không hiểu. Một gă tiến đến, dùng tay nắn vào người tôi lục soát. Thấy không có ǵ, gă ấn tôi ngồi xuống đất. Chết ḿnh rồi! Chung quanh đây vắng lặng, tôi nhủ thầm.

    Để tôi ngồi đó, cả đám Khmer quay ra nói chuyện với nhau. Khá lâu sau, một gă khác tiến sát lại gần bên, vỗ lên vai tôi và ra dấu đứng dậy. Nh́n thẳng vào mặt tôi, y tuôn ra một câu.

    - Anh làm ǵ có mặt ở đây?

    Nh́n gă Khmer, quá mừng v́ gặp người nói được tiếng Việt, tôi lắp bắp quên trả lời câu y hỏi:

    - Ô! Anh... Anh là người Việt Nam? Anh nói được tiếng Việt...

    Gă Khmer lập lại câu hỏi. Tôi liền kể tóm tắt sự việc đă xẩy ra ở xe Kamaz nhưng dấu chuyến vượt biên bất thành. Thay vào đó, tôi bịa chuyện theo người quen đến Kompong Som làm ăn. Mới nhận được tin nhắn phải về Việt Nam gấp v́ vợ đau nặng đang nằm nhà thương và rất cần có mặt tôi chăm sóc.

    - Tại sao xe Kamaz đuổi anh xuống giữa đường? Anh làm chuyện ǵ trên xe họ? Gă Khmer hỏi dồn.

    Tôi trả lời không biết lư do. Đuổi xuống th́ xuống nhưng thâm tâm tôi nghĩ v́ thiếu tiền vé nên tài xế cho đi nửa đoạn đường. Có thể xe Kamaz đă chi tiền măi lộ dọc đường nhiều nên bực ḿnh đuổi tôi xuống. Cũng một cách họ dằn mặt những người khách Khmer khác. Không có tiền th́ đừng đi, trả tiền nửa chuyến đi nửa chuyến... không nói lôi thôi. Vả lại, tôi đâu phải dân Khmer mà cũng có thể hai gă lơ-tài xế đó không thích người Việt. Chỉ suy đoán vậy.

    Đám Khmer vơ trang 7 người ngồi xuống gần bên tôi và quay qua, x́ xồ nói chuyện với nhau. Họ lấy thuốc lá điếu ra hút và mời nhưng tôi lắc đầu từ chối. Ngồi cho đến khi hút tàn điếu thuốc th́ cả bọn gọi nhau đứng lên và rảo bước quay về hướng cũ. Tôi được lệnh đi theo. Lầm lũi giữa đám Khmer, tôi đi nhưng không biết cái ǵ sẽ xẩy ra. Được một quăng đường khá xa, đám Khmer bỏ con đường nhựa và lội thẳng vào hướng rừng bên cạnh. Tôi bắt chuyện với gă lính biết tiếng Việt:

    - Ḿnh đi đâu hả anh?

    Gă lính chỉ im lặng không trả lời. Khi nghe hỏi lại lần nữa, gă đứng ngay lại nói gằn từng tiếng:

    - Bảo anh đi là đi, không được hỏi lôi thôi với tui nghe chưa.

    Nh́n mặt gă Khmer thật khó đoán được tâm tính y. Gă tươi cười vui vẻ khi nói chuyện với đồng bọn. Với tôi, gă lại cộc cằn. Nước da gă đen, thân h́nh dong dỏng cao. Khuôn mặt gầy, tóc gă quăn tít có lọn ḷa x̣a trước trán. Nh́n mặt, tôi đoán gă khoảng 25, 26 tuổi và có vẻ chỉ huy bọn lính. Gă biết tiếng Việt, chắc cùng một dạng như Sok Sammath? Nghĩ vậy, tôi nh́n lại hoàn cảnh ḿnh mà lo trong bụng. Bọn này dẫn ḿnh vào rừng để làm ǵ? Chân bước đều theo bọn người Khmer nhưng trong tôi đang run lập cập.

    Tôi cùng đám lính lặng lẽ đi trên lối ṃn trong một cánh rừng thưa được hơn 100 m đường th́ đến chỗ nước ngập, cả đám phải lội b́ bơm trong nước. Có lúc nước cao tới đầu gối rồi qua khỏi chỗ ngập th́ con đường dốc lên dần và cây cối cũng thưa thớt hơn. Đi len qua vài mỏm đá quanh co, gă lính biết tiếng Việt dẫn tôi tách riêng đi hướng khác rồi dừng bước trước một căn hầm lớn nằm dưới các tàng cây cao to. Nh́n căn hầm trông giống kiểu hầm chữ A trong mật khu bên quê nhà. Ai đă từng bị chính quyền Cộng Sản bắt đi vùng kinh tế mới trên các vùng rừng miền Đông Nam Bộ sau ngày 30-4-1975 chắc có dịp trông thấy căn hầm chữ A do Việt Cộng đào trú ẩn giữa rừng trong thời c̣n chiến tranh. Gọi hầm chữ A v́ h́nh dáng của nó. Vách hầm là hai hàng cây lớn dựng xiên vào nhau, đất được đổ kín, lèn chặt chung quanh và chỉ chừa một lối ra vào duy nhất. Hầm làm kiểu này sức chịu đựng với bom đạn khá chắc. Tôi theo gă lính bước vào, căn hầm có các ô trống trên vách lấy ánh sáng bên ngoài vào trong. Một cái bàn gỗ lớn đóng dính liền với ghế nằm ch́nh ́nh ở giữa sàn hầm. Một cái đèn dầu to tướng cùng vài quyển sổ, bút bi... bỏ nằm trên mặt bàn. Phía góc hầm khuất sau cái bàn, một gă to béo đeo kiếng mát, mặc áo thun quần short đang đung đưa ḿnh trong cái vơng mắt lưới. Sợi dây da nâu vắt qua vai gă với bao da súng ngắn nằm gọn ngay dưới nách. Khẩu súng trong bao da chắc phải rất nhỏ. Nhận ra có người lạ, gă bỏ kiếng nh́n tôi trong chốc lát cùng lúc tay lính nói vài tiếng Khmer. Tôi đứng yên nh́n căn hầm, nhiều khẩu súng trường được dựng đứng dựa vào vách ở một góc. Gă to béo khoảng 40 tuổi, tôi đoán chỉ huy cả bọn lính và quả đúng như vậy. Gă lính quay qua với tôi:

    - Ông lớn chỉ huy đó, anh nói chuyện với ông ấy đi.

    Chưa kịp biết nói ǵ, người được gă lính gọi bằng ông lớn buột miệng hỏi tôi:

    - Anh bạn ăn uống ǵ chưa? Có hút thuốc không?

    Tôi lắc đầu, ông lớn nói vọng ra bên ngoài vài câu Khmer. Một gă lính trẻ bước vào hầm, tay bưng cái nồi và lon đồ hộp. Đặt các thứ trên mặt bàn trước mặt tôi, gă mỉm cười rồi đưa cho tôi muỗng chén xong loay hoay mở lon đồ hộp. Ông lớn vẫn nằm trên vơng nói:

    - Anh tự nhiên ăn cơm đi. Ăn hết luôn nghe... Chiều mấy lính sẽ nấu nồi khác.

    Tôi ngồi lại bàn, nh́n vào nồi cơm c̣n khá nhiều và món đồ hộp là thịt kho mặn. Từ sáng tới giờ trong bụng nào có hột ǵ đâu, họ cho tôi ăn như vầy quá sức ngon. Chưa biết kết cuộc rồi sẽ ra sao nhưng trước mắt phải no bụng đă. Nghĩ vậy, tôi múc cơm ăn liền. Gă lính đi cùng đến ngồi đối diện tôi rồi móc thuốc lá điếu ra hút và cùng ông lớn tṛ chuyện bằng tiếng Khmer. Thỉnh thoảng đầu họ gật gù với nhau khi cả hai đưa mắt nh́n về tôi. Hai người Khmer này đang bàn chuyện ǵ đó về ḿnh? Bữa ăn chấm dứt mau chóng, gă lính trẻ quay vào dọn sạch nồi, lon không rồi đưa cho tôi lon nước cam. Bây giờ, ông lớn quay sang tôi:

    - Sarek nói tui biết câu chuyện của anh bạn rồi. Anh đừng về Việt Nam nữa. Ở lại đây với chúng tui cho vui. Vài tháng hay cùng lắm vài năm th́ anh cũng y chang tụi tui hà. Đừng có về Việt Nam nha anh bạn Duôn.

    Trời ơi! Th́ ra họ muốn ḿnh làm lính. Gă đi cùng, bây giờ tôi biết tên là Sarek mỉm cười phụ hoạ với ông lớn:

    - Anh thích xài súng nào th́ lựa cho ḿnh một cây. Miệng nói, tay y chỉ về phía góc căn hầm nơi có đống súng AK 47, CKC, M 16, B 41... dựng sát cạnh bên nhau. Thấy tôi yên lặng, gă tiếp: " Anh biết không! Người Duôn trong quân đội Khmer đông lắm. Ở luôn đây nha anh. Không về Việt Nam nữa nghe ". Y mỉm cười, giọng khẩn khoản.

    Ngồi yên trên ghế, tôi ngẫm nghĩ lời hai người Khmer vừa nói. Họ người Việt Nam nay đă thành dân Khmer? Nhưng khuôn mặt cùng vóc dáng họ không có vẻ ǵ người Việt Nam cả. Tóc xoăn, da đen, tướng tá của họ rơ khác biệt với tôi. Không lẽ họ là người Việt gốc Khmer như sắc dân Khmer Krom sống ở các làng quê miền Nam Việt Nam lâu năm rồi hoàn cảnh đưa đẩy họ đến đây và thành người lính. Nếu đúng vậy, hai người họ ở đây được v́ dầu sao cũng là bản quán thật. C̣n tôi, người Việt Nam, quê hương và thân thuộc không ở đây. Phải từ chối. Nghĩ vậy tôi trả lời liền:

    - Tôi thích đi lính lắm, nh́n các khẩu súng này tôi cũng muốn chọn một cây nhưng không thể được.

    - Sao lại không được? Tại sao? Ông lớn hất cằm hỏi dồn.

    - Vợ tôi đau nặng mà chưa biết sống chết ra sao bên quê nhà. Tôi phải về ngay. Nếu c̣n độc thân th́ dễ tính quá nhưng không được, tôi phải về gặp mặt vợ tôi. Các anh thông cảm, đừng bắt tôi ở lại đây. Tội nghiệp.

    - Anh không được ra khỏi đây. Đă đến th́ ở lại với chúng tui luôn. Ông lớn quyết định như vậy. Đây là mệnh lệnh nghe chưa, không được căi. Bây giờ không nói nữa, nằm nghỉ trưa đi. Sarek nh́n tôi, khoa tay dứt khoát.

    Xong, y nằm lăn ra trên băng ghế dài. Tưởng y làm một giấc ngủ trưa nhưng không, Sarek nằm đó tṛ chuyện với tôi. Tôi cũng nằm dài trên băng ghế, trong ḷng lo lắng xen lẫn buồn bă. Sarek cho biết đơn vị y có cấp số tới hơn một đại đội và phân tán thành từng nút chận trải dài trên trục lộ giao thông suốt từ Kompong Som cho tới gần phi trường Pochentong, cửa ngơ dẫn vào thành phố Nông Pênh ở hướng Nam-Bắc.

    - Anh đi xe chắc có gặp các chốt chận dọc đường chứ? Sarek hỏi nhưng trả lời luôn: " Các chốt đó là lính của đơn vị tui ".

    Im lặng trong chốc lát, Sarek tiếp: " Thực ra không phải tất cả các chốt chận đều thuộc lính ở đây. Bộ đội địa phương trong vùng cũng lập chốt và đôi khi cũng có cả tàn quân PolPot nữa ".

    - Tàn quân PolPot. Tôi ngạc nhiên, hỏi lại Sarek: " Vẫn c̣n tàn quân PolPot sao! Họ có đông không, hoạt động ǵ dọc theo đường? ".

    - Ít thôi, chủ yếu lén lút ṃ ra quấy phá cầu đường. Đó tại sao cây cầu nào cũng có lính đóng chốt.

    - Họ vơ trang, quân phục ra sao hả anh?

    - Trước kia tụi nó mặc đồ đen, bây giờ tạp nham cũng như tụi tui. Vơ trang chỉ AK 47, B 41 thôi... Yếu lắm, không có súng cộng đồng.

    - Sao anh biết họ là tàn quân PolPot?

    - Biết chứ! Lính chúng tui biết mặt nhau hết. Với lại, bọn nó chạy vào rừng ngay khi thấy tụi tui.

    - Gặp vậy các anh có truy nă họ không?

    - Trước kia có đấy nhưng giờ đám tui chán cảnh đánh nhau lắm anh. Bọn nó cũng vậy, thấy bên tui là tránh liền.

    Sarek kể lúc nhỏ y sống nguyên thời ấu thơ bên Việt Nam rồi theo cha mẹ về lại Khmer cho đến khi PolPot lên nắm quyền. Trên đường tản cư về miền quê theo lệnh của chính quyền mới, Sarek đă lạc gia đ́nh. Về một vùng quê lạ, gă bị cán bộ Khmer Đỏ tập họp lại với các trẻ em khác sống chung trong khu tập trung có tên Phum Cùm Hu. Sarek phải dấu việc đă từng sống bên Việt Nam kể cả chuyện y biết tiếng Việt khá sơi. Sarek thuật lại các vụ Khmer Đỏ hành quyết ghê rợn những người đă dính líu đến Việt Nam trong thời gian đó. Sống tập trung trong phum cho đến khi gặp bộ đội Việt Cộng. Biết tiếng Việt, Sarek được Việt Cộng chọn huấn luyện riêng nhưng sau đó gă đă trốn trại huấn luyện để đi t́m lại cha mẹ. Gă đi kiếm nhiều nơi nhưng hoài công. Khi về Nông Pênh để kiếm việc làm, t́nh cờ Sarek gặp lại bạn cũ và người đó dẫn y đến nhập lính ở đây.

    - Cha mẹ tui không c̣n sống đâu anh. Ang Ka dạy tụi tui phải biết căm thù người Duôn căm thù luôn cả những người Khmer có liên hệ với dân Việt Nam. Ang Ka giết người nhiều quá nên chắc ông bả chết cả rồi. Khmer bây giờ lớp người trẻ như tui mồ côi cha mẹ nhiều lắm, lớn lên mà không thân nhân cũng không biết gốc gác gia đ́nh ở đâu ra. Sarek buồn bă kể chuyện sống trong phum thời PolPot nhưng khi nói về Việt Nam, giọng y vui vẻ hẳn: " Gặp được anh tui rất mừng. Tui vẫn nhớ những bạn người Duôn thuở xưa khi sống bên Việt Nam ". Sarek kể lại thời niên thiếu sống trong làng ở miền Nam nước Việt, về các kỷ niệm với bạn bè chung lớp tiểu học. Mỗi lần phấn khích trong câu chuyện, y lập lại: " Anh ở đây chung với tụi tui nha. Chỉ có tui với ông lớn biết tiếng Việt giờ thêm anh nữa càng vui ". Nhớ lại Sarek khô khan, lạnh lùng trong lần đầu mới gặp tôi thật khác hẳn với thái độ y bây giờ. Định mệnh cay nghiệt đă đổ xuống gia đ́nh và bản thân y nên biến Sarek có lúc thành con người cộc cằn, thô lỗ nhưng tận cùng, tôi nghĩ Sarek là người tốt.

    Ông lớn nằm yên không góp chuyện. Nghĩ ông đă ngủ say nhưng chợt tai tôi nghe một tiếng thở dài đánh sượt. Ai thở vậy? Tôi nhổm đầu dậy nh́n chung quanh. Ông lớn nằm yên trên vơng, hai mắt thao láo nh́n lên trần hầm. Vẻ mặt ông trông thật hiền. Chuyện Sarek kể chắc tương tự chuyện riêng đời ông, đă dắt ông về các hoài niệm cũ làm ông nhớ đến các thân nhân và ông đă buồn. Chắc vậy! Không biết thời PolPot cai trị, hoàn cảnh riêng của ông ra sao? Câu chuyện quay về tôi khi Sarek một mực bảo phải ở lại và không về Việt Nam nữa.

    - Chúng ta bạn của nhau từ bây giờ. Anh xuống xe đ̣ ngay chỗ tui đóng quân, có nghĩa số phận chúng ta gặp nhau và sẽ gắn liền sống chết bên nhau. Phải không? Sarek ngồi dậy, mỉm cười nh́n tôi và ông lớn sau câu nói.

    Ở lại đây và sống chết bên nhau với họ. Nếu hai người Khmer nầy muốn vậy th́ làm sao ḿnh về tới Việt Nam được đây. Biết cớ sự như vầy thà tôi nghe lời Hường-Liên ở nán lại Kompong Som c̣n hơn cố về nhà để mắc kẹt... Nhưng làm sao mà biết trước được để tránh. Tôi phân vân, rối trí quá. Mới vài tiếng đồng hồ trước c̣n ngồi trên xe hàng mà giờ phải bó tay trong căn hầm xa lạ này. Biết làm ǵ đây? Tôi thật sự tuyệt vọng và buồn cho hoàn cảnh ḿnh. Tại không có đủ tiền xe mà ra... Tiếng Sarek cắt đứt mối suy tư của tôi.

    - Sao! Ở lại đây ha anh bạn? Im lặng là đồng ư mà... Ha ha...

    Tôi ngồi dậy nh́n hai người Khmer rồi khăng khăng nói phải về Việt Nam với lư do vợ bệnh nặng đang nằm chờ ở nhà thương. Khi bịa ra chuyện có vợ bệnh, trí óc tôi nghĩ đến Ánh Phương tự dưng làm tôi chảy nước mắt. Tiềm thức về số phận Ánh Phương khiến tôi khóc dễ dàng.

    - Thôi đừng khóc nữa... Đừng khóc nữa. Đủ rồi! Em thương con vợ bên quê nhà dữ ghê ha! Anh hiểu em rồi, em trai ơi! Ha ha... Ông lớn đột ngột thay đổi cách xưng hô. Ông cười to tiếng, bước rời khỏi chiếc vơng và đến bên vỗ vào hai vai tôi. Sarek cũng im lặng nh́n tôi mà không nói một lời.

    Vừa lúc, một gă lính chạy vào hầm nói một tràng tiếng Khmer xong y quay chạy trở ra ngay. Ông lớn xốc dây súng trên người cho gọn gàng rồi với tay lấy cái ống nḥm treo trên vách và đội mũ vải hoa dù lên đầu. Sarek cầm khẩu AK 47, miệng y hối tôi đi theo ngay. Ba chúng tôi bước nhanh ra khỏi căn hầm chữ A đi đến một cái hầm khác nhỏ hơn có một gă lính ngồi cạnh cái bàn gỗ. Tay gă lính cầm ống nghe truyền tin áp sát vào tai bên phải. Gă đưa cái ống nghe cho ông lớn rồi cầm vào cái cần bên cạnh một hộp máy và quay liền vài ṿng. Loại máy truyền tin dùng dynamo quay tay cổ lỗ trong quân đội của khối Cộng Sản. Ít phút sau, tôi theo chân ông lớn và Sarek băng qua các vạt cây rừng cùng các tảng đá để đi lên một bờ dốc cao. Đứng trên bờ dốc, ông lớn và Sarek dừng lại chuyền tay nhau cái ống nḥm nh́n ra một hướng thấp thoáng vài chiếc xe đậu xa xa. Tôi quay nh́n khu vực chung quanh, các hầm trú ẩn, bờ đá lô cốt pḥng thủ cùng các lỗ châu mai c̣n sót lại của một căn cứ hay trại lính cũ.

    Theo con đường khác với lối cũ buổi trưa, tôi đi cùng ông lớn và Sarek ra trở lại mặt đường lộ. Một dăy xe vận tải lớn hiệu Hino-Isuzu của Nhật đang nổ máy, đậu dọc sát lề đường trước mặt tôi. Từng thùng ḿ gói, thuốc lá thơm Ăng-Lê ba số 555, bia lon, kẹo bánh cùng đồ hộp... được lính Khmer chuyển tiếp từ trên các xe tải này xuống bỏ nằm lăn lóc dưới đất. Nh́n đoàn xe vận tải, chiếc nào cũng ken các cọc cây khá cao để chở thêm hàng hóa. Hàng trên thùng xe hầu hết là mô tô Honda hư cũ, loại xe người trong nước gọi chung cái tên là cúp cánh én hai bánh nghĩa địa. Chúng được nhập cảng vào nước Khmer từ các băi phế thải ở Nhật Bản, Đài Loan hoặc Hàn Quốc sau khi chạy được quăng đường 5000 km. Đoàn xe vận tải vừa từ cảng Kompong Som về.

    Một gă Khmer to lớn mặc áo thun mỡ gà đến nh́n tôi xong khoát tay ra dấu theo y đi lại chiếc xe ở đầu đoàn. Loại xe ca bin đôi, gă Khmer mở cửa cho tôi trèo lên ngồi vào băng ghế rồi y bỏ đi. Thêm hai người Khmer trèo vào trong ca bin xe ngồi chung băng ghế với tôi. Nh́n bên ngoài, tôi chợt lo khi thấy Sarek và ông lớn cùng gă Khmer áo thun mỡ gà đến cạnh xe nhưng họ không lộ ra thái độ ǵ. Ông lớn, Sarek và gă Khmer đứng đó tṛ chuyện với nhau. Chốc lát sau gă Khmer leo lên xe, tôi nh́n ông lớn và Sarek, cả hai mỉm cười rồi vẫy tay từ biệt tôi.

    Đoàn xe từ từ lăn bánh tiếp tục chạy về hướng Nông Pênh.

    Xe chạy khá xa tôi mới thật yên tâm. Ông lớn đă đổi ư vào phút cuối và c̣n giúp tôi có phương tiện để về Nông Pênh. Tạ ơn Thượng Đế. Chuyện đời Sarek kể thêm các giọt nước mắt của tôi đă đánh động ḷng ông. Cuộc đời ông chắc từng biệt ly với người thân nên ông đă đồng cảm với hoàn cảnh tôi? Họ tuy dân Khmer nhưng nói tiếng Việt rất rành rọt. Khi gặp tôi, đă vui như gặp được đồng hương nơi xứ lạ nên muốn tôi ở lại với họ lâu dài. Tôi nghĩ họ từng có bạn người Việt và t́nh bạn giữa họ cùng những người Việt đó phải rất tốt nên họ mới có mối hảo cảm với cá nhân tôi. Nếu sống b́nh yên êm ả trong một thôn xóm, gặp người như họ để tôi làm bạn thiết cũng điều rất nên.

    Ca bin xe tổng cộng năm người, tài xế và gă Khmer áo thun mỡ gà ngồi ở băng ghế trước. Băng sau, tôi và một đôi nam nữ khác ngồi chung. Đôi nam nữ nhắm mắt như ngủ v́ mệt hoặc đang nghĩ về sự việc vừa xẩy ra cho cả đoàn xe? Băng trước, tài xế và gă Khmer áo thun mỡ gà cũng im lặng. Có lẽ họ biết tôi không nói được tiếng Khmer c̣n họ cũng không biết tiếng Việt. Ông lớn gửi gấm tôi cho họ sao đây? Muốn bắt chuyện để biết sự vụ nhưng tôi chịu, đành dơi mắt ra ngoài nh́n cảnh vật hai bên đường. Nước Khmer sau khi Việt Cộng rút về chỉ trong một thời gian ngắn, đời sống người dân khấm khá thấy rơ. Khi c̣n bên quê nhà, người dân Việt chạy xe Honda nghĩa địa nhập cảng từ ngoại quốc về. Có gặp đoàn xe vận tải, tôi mới biết chúng từ các lái buôn Khmer tập trung và chuyển về tiêu thụ bên Việt Nam. Tất cả xe Honda nghĩa địa ở Việt Nam đều một loại tay lái cánh én 50 phân khối cylinder. Ở Kompong Som, dân Khmer không thèm dùng loại xe cúp cánh én. Đa số họ chạy xe Honda Dream hay tệ hơn th́ cũng xe Suzuki 100 phân khối. Có lẽ họ chê Honda cánh én v́ xe nhỏ, yếu và trông không đẹp mắt.

    Càng về gần Nông Pênh đường lộ càng ít hư hỏng và nhờ vậy tốc độ của đoàn xe chạy nhanh hơn. Xe vận tải Hino-Isuzu rất tốt, bỏ xa loại xe Kamaz của khối Đông Âu Cộng Sản. Sau chốt kiểm soát đó, đoàn xe không gặp thêm các chốt chận khác của lính Khmer hoặc phe Polpot nữa. Hai bên đường thấy nhiều khu nhà dân hơn trước rồi đoàn xe đi vào một trạm kiểm soát của công an-quan thuế Khmer. Những chiếc xe đ̣, xe chở hàng Kamaz mà tôi và Hường gặp hồi sáng sớm ở bến xe Kompong Som đang đậu dọc bên lề đường để chờ nhân viên đến xem xét. Khá đông người Khmer bán hàng rong vây chung quanh xe y như ở các trạm kiểm soát bên Việt Nam. Thấy đoàn xe Hino-Isuzu, vài người bán hàng chạy vội đến ngay. Tiếng họ rao vang vang chung quanh xe nhưng một nhân viên trong bộ đồng phục đă hướng dẫn đoàn xe chạy vào lối riêng khác. Người bán hàng rong không được phép đi theo vào với đoàn xe. Chạy từ từ dọc theo lối đi đến một dăi nhà dài và hẹp nằm cạnh một hàng cây rậm rạp, đoàn xe ngừng lại. Gă Khmer áo thun mỡ gà cùng vài người ở các xe khác xuống xe, đi vào trong gian nhà tŕnh giấy. Chốc lát, cả bọn quay ra, trở về xe và tiếp tục chuyến đi.

    Ngang qua phi trường Pochentong, vài máy bay sơn trắng dân sự cánh quạt đậu yên trên phi đạo gần hàng rào kẽm gai sát vệ đường. Cảnh trông không khác ở phi trường Tân Sơn Nhứt ngay khu vực Bà Quẹo thuộc quận Tân B́nh-Sài G̣n. Gặp phi trường Pochentong có nghĩa Nông Pênh cũng chẳng c̣n bao xa. Nông Pênh chính là Nam Vang trong tiếng Việt. Hồi c̣n ấu thơ bên quê nhà, nghe cha tôi kể thời tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, dân Việt chạy xe mô tô b́nh bịch từ Sài G̣n sang Nam Vang mua sắm hàng hóa, ăn hủ tiếu, du ngoạn... Đi và về chỉ nội nhật trong ngày nhưng khi đó đang trong các giai đoạn thanh b́nh của miền Nam VNCH.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  6. #6
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Đến Nông Pênh lúc 3:45 phút chiều, đoàn xe chạy ṿng vèo trong các con phố, những con đường với vỉa hè không khác ở Sài G̣n. Người người bước dạo trên vỉa hè dưới các tàng cây trồng trước cửa tiệm. Xe cộ đó đây chạy ngược xuôi hú c̣i inh ỏi. Một rạp chiếu bóng trông bề ngoài giống hệt rạp Casino gần chợ Bến Thành cùng những tấm pano quảng cáo phim trước cửa. Sau rốt, đoàn xe chạy vào một sân bê tông rộng với bờ tường vây chung quanh và tắt máy ngừng hẳn. Gă Khmer áo mỡ gà ra dấu tôi rời khỏi ca bin. Nhiều xe vận tải khác đậu xa xa trong sân. Gă Khmer dẫn tôi đến một xe tải khác trong đoàn. Gă chuyện tṛ với ba người ở xe đó rồi một người trẻ trong số họ tách ra ngoắc tôi theo y ra tuốt bên ngoài cổng. Ra ngoài cổng, gă Khmer trẻ yên lặng nh́n xuôi ngược ḍng xe hai bánh đang chạy trên đường như mong chờ ai đó. Chợt gă ngoắc tay, một xe Honda ôm quay đầu ngừng lại bên cạnh. Gă Khmer trẻ hất đầu ngầm bảo tôi trèo lên yên xe. Xe chở ba người chạy ḷng ṿng trong thành phố rồi ngừng lại cạnh một toà nhà khá lớn. Xuống xe, gă Khmer trẻ lấy tiền trả cho tài xế và ra dấu tôi đứng chờ phía trước của ṭa nhà rồi y đi thẳng vào bên trong. Hơn 5 phút rồi 10 phút tôi chờ, vẫn chưa thấy gă Khmer trẻ quay ra. Tài xế xe Honda ôm sốt ruột hỏi vài câu Khmer nhưng tôi lắc đầu, khua tay tỏ ư không hiểu lời y. Rảo vài bước chân, tôi nh́n vào trong ṭa nhà. Qua ô cửa kiếng rộng, hàng chữ Hotel de Bayon gắn nổi trên tường dưới ánh sáng đèn chiếu. Gă Khmer trẻ vào khách sạn này làm ǵ? Các mặt tường khách sạn ốp đá cẩm thạch mầu xanh lá cây cùng cửa kiếng mầu phớt tím bóng lộn trong suốt. Các nhân viên tiếp tân trong đồng phục xanh cúc mạ vàng đang đứng tại quầy tṛ chuyện với nhau. Chùm đèn trắng lớn buông thỏng từ trần nhà rọi sáng các bụi kiểng trang trí cùng vài bức tranh thật đẹp treo trên tường. Hai khách trọ từ phía trong đi ra nhưng không phải gă Khmer trẻ tôi đang chờ. Quay ra bên ngoài, tôi nh́n sang bên kia đường đối diện với khách sạn. Một công viên nhỏ với các hàng cây, bụi hoa được cắt tỉa thật đều, gọn đẹp. Vài khách du đang chậm răi tản bộ trên các con đường nhỏ trong công viên và một người già ngồi xem báo ở băng ghế đá. Tôi đế ư đến khối kiến trúc khá lớn h́nh tṛn sơn mầu vàng nằm phía cuối con đường cắt ngang một giao lộ. Không biết nó là chợ hay một trụ sở hành chánh của chính quyền nhưng kiến trúc đó trông khá lạ mắt.

    Vừa quay nh́n lại bên trong khách sạn, tôi thấy gă Khmer trẻ đi ra cùng với một người đàn ông khác. Tṛ chuyện với nhau xong, gă Khmer trẻ giơ tay ra dấu từ biệt người đàn ông rồi y leo lên xe Honda ôm vẫn chờ tại chỗ. Xe nổ máy chạy liền ngay, người đàn ông c̣n lại đến bên tôi, nói:

    - Chào anh. Anh khỏe không? Ḿnh đi xuống bến Tắc Ca Mau ngay bây giờ nghe.

    Tôi gật đầu, mỉm cười với ông ta. Nh́n vào đồng hồ đeo tay, người đàn ông như chợt nhớ điều ǵ nói thêm: " Ồ! Bây giờ c̣n sớm lắm... Hay chúng ta đi ăn uống cái ǵ đă rồi tính sau nghe... Với lại, tui với anh cũng chưa biết ǵ về nhau mà. Phải không? Tui là Danh Ngạnh c̣n anh tên ǵ vậy? ".

    Tôi nói tên và nh́n vào khuôn mặt ông. Danh Ngạnh chắc đă trên 40 tuổi, có vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khắc khổ đen sạm nhưng cười rất tươi với hàm răng trắng đều đặn. Vừa lúc, một xe Honda ôm bỏ khách xuống ngay gần bên đường, ông vội ngoắc chiếc xe lại rồi mặc cả. Tài xế chở chúng tôi đến một khu vực bán hàng ăn uống khá rộng nằm không xa khách sạn Hotel de Bayon. Trời bây giờ chiều hẳn, đèn điện trong các cửa hàng trên đường và trong khu bán hàng đă cháy sáng. Khá đông thực khách đang ăn bữa chiều hay lai rai ba sợi y chang các điểm ăn nhậu bên Việt Nam. Hễ nước càng nghèo th́ càng nhiều hàng quán bán đồ ăn uống, một người nào đó đă nói với tôi. Ngẫm nghĩ thật đúng. Mở hàng bán thức ăn, bữa nào rủi vắng khách th́ gia đ́nh chủ quán dùng ngay các món bán ế thay cho bữa cơm trong ngày. Danh Ngạnh đưa tôi lên tầng hai một cửa hàng và chọn chiếc bàn ẩn khuất sau bụi dừa kiểng. Ngồi đó, tôi thấy lại xa xa khối nhà lớn mầu vàng h́nh tṛn lúc đứng chờ ở khách sạn. Hỏi, Danh Ngạnh cho biết đó là chợ Ô Sây, một chợ lớn nhất nh́ ở Nông Pênh tương tự như chợ B́nh Tây trong vùng Chợ Lớn-Sài G̣n. Một người hầu gái trong quán tiến đến chào, đặt tờ thực đơn trên bàn. Danh Ngạnh nh́n tờ thực đơn nói tôi tùy ư chọn món. Ngỏ ư muốn ăn hủ tiếu Nam Vang để xem coi tại nơi gốc món này có hương vị ra sao nhưng vừa nghe tôi nói, Danh Ngạnh xua tay liền:

    - Chọn món khác đi anh bạn. Hủ tiếu Nam Vang thường lắm, có ǵ lạ đâu mà ăn.

    Đành để Danh Ngạnh chọn món ăn. Y gọi các món lươn, ốc... và cả bia nữa nhưng tôi nói không uống được bia xin cho thứ khác. Nghe vậy Danh Ngạnh mỉm cười, lắc đầu chê tôi đàn ông mà yếu quá vậy. Vừa ăn vừa nói chuyện, Danh Ngạnh hỏi về sự việc của tôi. Vắn tắt tôi thuật lại câu chuyện cho Danh Ngạnh nghe, từ lúc xuống cá lớn ở Vàm Rầy-Hà Tiên cho đến khi bị sa vào tay hải tặc Thái Lan. Những ngày ở đảo hoang cùng đảo Cô Tan rồi phải lang thang trên đường v́ không đủ tiền vé trong chuyến xe Kamaz. Gặp toán lính Sarek cùng với ông lớn rồi được họ giúp cho quá giang đoàn xe Hino-Isuzu về Nông Pênh và sau cùng gặp được y. Nghe xong chuyện tôi kể, Danh Ngạnh ngồi yên trong chốc lát rồi nói:

    - Tui nghĩ anh quá sức hên là hên khi gặp Sarek. Nói thật, lúc lang thang trên đường nếu gặp bọn PolPot th́ chưa biết mạng anh sẽ ra sao? Cầm chắc chúng sẽ kéo anh vào rừng rồi giết anh ngay. Giết chết tươi đó nghe.

    - Ghê vậy. Ḿnh có làm ǵ họ đâu anh? Tôi hoảng hồn.

    - Vậy! Chúng muốn giết th́ giết, muốn tha th́ tha. Chả biết đâu mà lường trước được. Tụi lính Polpot, nhiều thằng rất thù ghét người Việt nhưng có đứa lại không. Ai xui xẻo mới gặp mấy thằng hung thần đó... Ngay cả người Khmer tụi tui, bọn nó cũng không tha. Mà nghĩ cho cùng cũng do số phần cả thôi anh.

    Dứt câu, khuôn mặt Danh Ngạnh trầm ngâm lộ vẻ buồn buồn. Y ép tôi ăn uống cho mạnh vào để bù những ngày thiếu thốn vừa qua. Ăn xong, chúng tôi rời quán, đón một xe Honda ôm xuống bến tàu đ̣ chạy đường sông Châu Đốc-Nông Pênh. Bến đ̣ có tên Tắc Ca Mau hay c̣n gọi bến đ̣ Cây Nhăn. Trời bắt đầu tối nhưng vẫn rơ cảnh nhộn nhịp trong bến tàu. Mấy chục ghe bầu khá lớn nằm liền bên nhau ở sát cạnh bờ. Người lên bờ, kẻ xuống ghe nườm nượp. Bảng hiệu ở các điểm giao dịch, các tiệm ăn trong bến và dọc sát bờ tuy viết bởi ba ngôn ngữ Khmer-Tàu-Việt nhưng tai tôi chỉ nghe lời tṛ chuyện, gọi nhau oang oang bằng tiếng Việt. H́nh ảnh bến tàu, tiếng rao của dân bán hàng rong cùng tiếng phu khuân vác ơi ới khiến tôi có cảm tưởng đang đứng ở một bến đ̣ nào đó bên quê nhà. Thấy tôi và Danh Ngạnh, vài người chạy vội đến nhao nhao:

    - Anh Hai đi ngay bây giờ hay đi chuyến kế để thằng em lo vé cho. Đệ tử có vé tốc hành đây, lấy một hay hai vé hả các huynh?

    Danh Ngạnh lắc đầu từ chối lời mời của các tay c̣ bán vé. Ông im lặng, đi dọc theo cạnh bờ nh́n vào các ghe bầu rồi đột ngột dừng lại ở một chiếc và bảo tôi đứng chờ. Danh Ngạnh theo tấm ván gỗ bắc thẳng từ trên bờ xuống dưới ghe. Cơn triều đang lên kéo theo một mùi tanh tanh của nước của cá và bùn non trong cơn gió bốc thẳng vào mũi tôi. Cái mùi của bến đ̣ thủy không lẫn vào đâu được. Nh́n về hướng Tây, sao Hôm đă xuất hiện lấp lánh trong bầu trời chập choạng tối. Chợt nghe tiếng gọi, tôi vội quay đầu nh́n lại ghe. Danh Ngạnh ngoắc tay ra dấu cho tôi bước xuống. Chầm chậm từng bước tôi lần theo tấm ván, những giề lục b́nh xanh hoa tím cùng rác rưởi nổi rập dềnh theo con nước sát cạnh thân ghe. Một phụ nữ từ phía sau lưng Danh Ngạnh bước ra nh́n mặt tôi, hỏi:

    - Cậu này đây hả? Để tui lo cho, anh Hai cứ yên tâm.

    Chị phụ nữ vóc dáng cao ráo nước da bồ quân, người quấn xà rông đen cùng áo bó sát thân. Chị cười thật tươi phô hàm răng trắng, quay lưng đi trước dẫn Danh Ngạnh và tôi vào bên trong ḷng ghe. Mái tóc chị đen bóng mượt, kẹp thành một lọn dài sau lưng phảng phất mùi dầu dừa. Ghe bầu ở bến đ̣ Tắc Ca Mau thân to, rộng, dài và chia ra thành ba tầng. Tầng dưới và tầng trên cùng làm nơi chứa hàng hoá của dân buôn. Tầng giữa, nơi khách đi ghe nghỉ ngơi. Hàng chục dân buôn nam nữ ngồi hoặc nằm trong các tấm vơng căng sát cạnh nhau, mắt họ dán vào màn h́nh TV lớn đang chiếu một phim Video quyền thuật Hồng Kông. Đến một tấm vơng bỏ trống, chị ta quay qua nói với tôi:

    - Cậu trẻ nằm ở vơng này nghe. Muốn đi vệ sinh th́ ra thẳng phía đằng sau ghe. Cần ǵ th́ cứ hỏi tui nha cậu, đừng có ngại. Lúc nào mệt cứ nằm nghỉ như ở nhà.

    Danh Ngạnh cho tôi biết ghe sắp sửa rời bến, ông tiếp: " Sớm mai anh sẽ đặt chân lên Châu Đốc. Mọi việc sẽ ổn, tui về nghe ".

    Danh Ngạnh vỗ vai tôi từ biệt. Đi theo ông ra phía bên ngoài phần mép chiếc ghe bầu nơi đặt tấm ván nối lên bờ, tôi lí nhí nói lời cảm ơn nhưng Danh Ngạnh chỉ khoa tay không trả lời. Đảo mắt nh́n những người khách đang nằm hoặc ngồi trong các chiếc vơng ở ḷng khoang ghe, Danh Ngạnh miệng cười tủm tỉm, cúi đầu nói nho nhỏ vào tai tôi:

    - Giấc khuya thấy mấy người ở đây làm tṛ ǵ th́ đừng có ngạc nhiên nghe cha nội.

    Tôi im lặng nh́n Danh Ngạnh, ông ta nói vậy là sao? Thấy tôi chưa hiểu lời vừa nói nhưng Danh Ngạnh chỉ cười cười, vẫn không cho biết rơ. Tôi nh́n kỹ mặt Danh Ngạnh, ḷng nhủ thầm ông quá tốt với tôi như những người Khmer Sok Sammath, ông lớn. Những chuyện kể về mối thù truyền kiếp giữa người Việt và người Khmer cùng h́nh ảnh đoàn người Khmer tay lăm lăm vũ khí, mắt trắng dă man rợ đuổi bắt rồi tàn sát người Việt trong chuyện kể Cáp Duôn đă ít nhiều tan biến trong tôi. Chị phụ nữ mà Danh Ngạnh gọi tên Ba từ trong đi ra đến gần bên, nh́n hai chúng tôi trong yên lặng. Danh Ngạnh đến trước mặt tôi, đặt hai tay lên bờ vai, thân mật hỏi:

    - Sống ở đâu bên Việt Nam vậy, em trai?

    - Cần Thơ anh. Tôi buột miệng trước mặt hai người Khmer này.

    Nghe tôi trả lời, mắt Danh Ngạnh sáng lên:

    - Cần Thơ. Ồ! Chỗ nào vậy? Anh từng sống một thời gian ở Cần Thơ đó em.

    Trời ơi! Tại sao tôi lại nói dối với Danh Ngạnh. Chút ân hận, mắc cỡ lan tỏa trong ḷng tôi. Thói quen luôn dấu diếm, nói dối hoặc nói trí trá loanh quanh trong xă hội cộng sản bên quê nhà đă lậm vào người tôi rồi. Nói dối cả lúc không cần thiết và ngay với các ân nhân của ḿnh. Danh Ngạnh vừa đổi cách xưng hô, coi tôi như đứa em trai ông. Tôi bối rối và một thay đổi nho nhỏ trong tâm hồn, tôi biết mặt đă đổi sắc. Mong trời trong lúc xẩm tối, Danh Ngạnh và chị phụ nữ không thấy nét biến đổi trên mặt để biết tôi vừa nói láo với họ. Danh Ngạnh mỉm cười, tiếp tục câu chuyện:

    - Trước đây anh sống gần bến Ninh Kiều. C̣n em ở đâu Cần Thơ, có gần đó không?

    Phóng lao th́ phải theo lao, tôi tiếp tục v́ đă lỡ: " Nhà em ở đường Mậu Thân, anh à ".

    - Ồ! Anh nhớ rồi. Nhà cửa chỗ đó khó kiếm lắm đa. Đánh số lộn xộn tùm lum hà.

    Nói xong câu, Danh Ngạnh chợt nh́n đồng hồ đeo tay nên vội quay đầu bước theo tấm ván hướng lên bờ và nói vói lại: " Chị Ba đây sẽ lo cho em. Anh về nghe, chúc em thượng lộ b́nh an ".

    Danh Ngạnh dần dần khuất khỏi con đường sát cạnh các ghe bầu. Trời đă tối nhưng sinh hoạt của bến đ̣ vẫn nhộn nhịp. Tiếng máy đ̣ vang vang đây đó cùng với tiếng gọi nhau của thương lái và phu khuân vác. Cứ vừa có ghe xuất bến th́ một ghe khác ở đâu cặp vào thế chỗ liền. Tấm ván được phu khuân vác ở trên bờ kéo ra khỏi ghe bầu. Tiếng máy nổ lớn hơn, ghe từ từ chạy lui ra xong quay trở đầu ṿng lại để bắt đầu chuyến hải hành. Tôi sắp sửa rời xa Nông Pênh, một cảm giác luyến tiếc trong ḷng. Phải chi có tiền bạc cùng dư dả th́ giờ chắc tôi sẽ ở lại để đi xem Chùa Tháp hoặc đi thẳng về hướng Tây, làm một chuyến viếng thăm hai ngôi đền cổ Angko Vat-Angko Thom nổi tiếng. Tôi quay vào trong và đi lần ra phía đuôi ghe, một khoảng trống khá rộng sau buồng lái được dùng làm chỗ bán hàng ăn uống. Chị Ba cùng một bà lăo Khmer đang lui cui nấu món ăn hoặc pha nước uống cho khách buôn trong ghe. Thấy tôi, chị hỏi muốn uống cà phê, nước ngọt hay ăn uống ǵ để chị làm. Tôi mỉm cười với chị, lắc đầu nói vừa mới cùng Danh Ngạnh ăn xong trước khi xuống ghe nên bụng vẫn c̣n no. Ở đây có buồng tắm và pḥng vệ sinh cho khách buôn và thấy sẵn nước, tôi vội vàng rửa ráy qua loa thân thể rồi thay bộ quần áo khác xong giúp chị Ba mang cà phê hoặc thức ăn cho khách buôn ngồi trong vơng. Các người Khmer biết tiếng Việt tôi đă gặp như Sok Sammath, Sarek, ông lớn, Danh Ngạnh cũng như chị Ba đều nói bằng giọng miền Nam vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tôi chưa gặp người Khmer nào nói tiếng Việt bằng giọng miền Trung hoặc miền Bắc. Khi đă rảnh tay, chị Ba cho biết chị tên là Thạch Sa Thi, người gốc Trà Vinh. Nghe chị hỏi về quan hệ với Danh Ngạnh, từ từ tôi thuật câu chuyện từ đầu đến cuối. Xong, chị nói:

    - Lúc đầu ổng xuống dưới ghe nhờ giúp cho cậu về Việt Nam được an toàn, tui cứ nghĩ cậu trong đường dây làm ăn của ổng rồi gặp chuyện rắc rối ǵ đó với công an nên phải về Việt Nam gấp gáp. Ai ngờ!

    Chị Sa Thi kể Danh Ngạnh trước đây nằm trong nhóm đưa người Việt và cả người Khmer vượt biên đường bộ sang đất Thái Lan. Tổ chức đi lọt được nhiều lần nhưng trong chuyến lo cho vợ con và bản thân của Danh Ngạnh th́ lại bị kẹt. Đám Việt Cộng và bọn Khmer đỏ dắt đường v́ trục trặc ăn chia sao đó đă bỏ khách giữa chừng. Vợ con của Danh Ngạnh mất tích chung với đám khách Việt trong rừng sâu vùng Battambang. Danh Ngạnh bị bắt nhưng sau đó đường dây lo lót cho ông ra khỏi nhà giam. Khi làn sóng vượt biên giảm bớt, nhóm làm ăn của Danh Ngạnh xoay qua bắt mối tiêu thụ hàng tàu viễn duyên từ cảng Kompong Som về. Nghe chuyện, tôi hiểu tại sao Danh Ngạnh lộ vẻ buồn khi ở quán ăn và v́ chung cảnh ngộ nên ông đă sốt sắng giúp đỡ tôi. " Do số phần cả thôi ", tôi nhớ lại lời Danh Ngạnh nói lúc chiều.

    Ghe chạy đều đều, êm ả trong đêm tối. Thỉnh thoảng kéo từng thôi c̣i dài khi gặp ghe chạy ngược chiều hoặc vượt mặt một chiếc khác. Ngang những khúc sông gần khu thị tứ, thấy rơ phố xá cùng xe cộ chạy gần bờ dưới ánh sáng của dàn đèn đường. Về khuya bớt việc, chị Sa Thi bảo tôi đi nghỉ cho khỏe v́ phải gần sáng ghe mới đến bến xuống. Đung đưa trên vơng, tôi quan sát những khách thương hồ chung quanh trong ánh sáng lờ mờ của màn h́nh TV. Vơng đàn ông vơng phụ nữ, người nằm kẻ ngồi xen kẽ căng sát cạnh nhau đang xem một đoạn phim Video ma Hồng Kông. Vừa xem họ vừa nói chuyện với nhau về công việc làm ăn hoặc về những đoạn tin thời sự. Gió sông thổi luồn vào khoang ghe thoảng mát không một tiếng muỗi vo ve. Thấy phim chiếu dở, tôi đổi chiều nằm trên vơng định ngủ. Nằm yên lại nghĩ về Ánh Phương, về hai chị em Hường-Liên. Ánh Phương, Mỹ An cùng các cô gái khác trên tàu hải tặc Thái ra sao rồi? Khi tàu hải quân của Sok Sammath ghé lại đảo hoang, hai tài công có chịu theo về Cô Tan hay tiếp tục trốn ở lại? Tôi nghĩ về Dũng, thằng Minh và anh Tấn. Họ ở đâu? Từ lúc gặp hai gă cán bộ lănh sự quán Việt Cộng tới giờ đă được vài ngày chắc người trong đoàn ghe cũng đă về tới Việt Nam. Mong những suy nghĩ của tôi sẽ đúng. Khẽ đung đu nhè nhẹ vơng, kư ức tôi đảo đi đảo lại những chuyện vừa xảy ra. Lúc trưa tưởng phải ở luôn với đám lính Khmer nào ngờ nhờ vậy mà ḿnh lại có mặt trong chiếc ghe bầu tối nay. Mới chiều tối hôm qua tôi và Hường c̣n ngồi với nhau dưới gốc cây trứng cá ở sân sau nhà nàng chứ có lâu la ǵ. Hường lấy tay hất mái tóc dài của nàng về đằng lưng, giọng buồn bă:

    - Em có lúc vẫn muốn đi tiếp nhưng chuyện vượt biên thành công thấy thật khó. Với lại em đi nữa th́ gia đ́nh sẽ ra sao? Liên coi vậy nhưng nó vụng lắm c̣n mẹ em đă yếu hơn trước. Chỉ mong có chuyến nào thật an toàn sẽ cho Cao đi nhưng mà...

    Hường bỏ lửng câu nhưng tôi biết điều nàng muốn nói. Làm sao biết chuyến đi nào sẽ thật an toàn để mà yên tâm vượt biên? Ngay cả nếu không bị lừa mất vàng th́ chưa chắc trên đường đi ghe đă êm xuôi đến được trại tị nạn. Bà cụ đă bộc bạch muốn lo Cao thoát được ra nước ngoài để có tương lai nhưng lại sợ những rủi ro khi nói: " Gia đ́nh tôi chỉ trông vào ḿnh nó, nếu có mệnh hệ ǵ tôi ăn nói làm sao với ông nhà dưới suối vàng ". H́nh ảnh của Hường đứng bên vệ đường trong buổi sáng nay khi nàng tiễn tôi và đă chờ cho đến khi xe khuất bóng khỏi bến Kompong Som. Sau lúc đưa tôi mẩu giấy viết vài câu Khmer, Hường trải ḷng:

    - Thân em bây giờ coi như bỏ đi, chỉ nghĩ cho mẹ và cho gia đ́nh thôi. Về nhà an toàn, có chuyến mới xin anh cố gắng báo cho em biết để gia đ́nh lo cho Cao đi chung. Giả dụ nếu anh về, gặp khó khăn không yên với công an th́... cứ chạy sang đây với gia đ́nh em nha anh Vũ. Chỉ biết nói vậy thôi, em chúc anh mọi việc sẽ may mắn.

    Chưa biết khi về được tới nhà sẽ ra sao với bọn công an khu vực v́ chuyến đi của tôi đă khá lâu và điều lo nhất trong ghe có người đă bị hải tặc Thái bắt mất. Tôi ch́m vào giấc ngủ lúc nào cũng không biết. Thật lâu sau tôi chợt tỉnh giấc khi chung quanh im vắng cách lạ thường. Mắt tôi nhắm nhưng tai nghe tiếng rên rỉ từ đoạn phim trên màn h́nh. Chồm người dậy, tôi định bụng rời cái vơng để ra phía đuôi ghe đi tiểu. Tôi thấy một việc lạ. Những tấm vơng cạnh tôi bây giờ bỏ trống không người nằm. Khách buôn ở các vơng đi đâu? Tôi biết ghe chạy chưa tới Châu Đốc mà. Tiếng phụ nữ ở màn h́nh rên rỉ tiếp. Tôi nh́n lên, phim Video đang chiếu một cảnh con nhà nghèo trong ánh sáng lờ mờ và tôi cũng thấy rơ ràng chuyện đang xẩy ra trong khoang ghe. Từng cặp người ôm nhau trên mặt sàn ghe ngay dưới các tấm vơng. Không ai trong số họ thèm để ư chung quanh hoặc xem phim Video nữa. Một cô gái nằm bên dưới thân của người đàn ông gần vơng tôi chợt hé mắt nh́n lên. Bắt được tia mắt cô gái, tôi vội vàng thụp ḿnh nằm xuống trở lại. Tôi bật cười, hiểu lời Danh Ngạnh trước phút chia tay.

    Khách thương hồ trong khoang ghe đang tự đóng phim riêng với nhau. Chắc chắn họ không phải vợ chồng và chỉ buôn hàng chung chuyến ghe. T́nh nhân mới táo bạo, liều lĩnh như vậy. Đúng dân buôn hàng chuyến biên giới kiếm tiền dễ nhưng cũng dễ bỏ nhau như vài gia đ́nh chạy hàng trong khu phố gần nhà tôi. Thảo nào!

    Tôi nằm yên xem phim, một cảnh ái ân nam nữ thật cuồng bạo. T́nh dục, món quà tặng của Thượng Đế dành cho người yêu nhau có thực dữ dội, mănh liệt và dung tục như đôi nam nữ đang diễn trong phim? Chỉ chốc lát ngắn ngủi tôi đă thấy chán và nhắm mắt ngủ lại. Muốn ngủ nhưng thực sự thật khó v́ tiếng rên rỉ cùng tiếng động chạm xác thịt vẫn vọng đến tai, đă kích thích khiến tôi rạo rực định nhổm dậy khỏi vơng để nh́n trộm những cặp người đang quấn chặt nhau dưới sàn buồng ghe. Tôi lại sợ họ bắt gặp tại trận như ánh mắt cô gái vừa rồi nên thôi. Phim Video chấm dứt khá lâu nhưng tiếng động, rên, cười khoái trá vẫn tiếp diễn cho đến khi đèn trong khoang ghe đột ngột bật sáng th́ sinh hoạt mới trở lại b́nh thường. Thật không khác trong một rạp phim, khách buôn ngồi lại trong vơng, ai cũng vẻ mặt tỉnh queo làm như không hề có các chuyện vừa xẩy ra. Tôi rời vơng để đi ra phía sau chiếc ghe và khi quay vào, gặp chị Sa Thi đang lui cui sắp xếp các ly tách trong gian hàng. Thấy tôi, chị Sa Thi ngoắc tay dừng lại, nói:

    - Ḿnh sắp đến trạm kiểm soát hỗn hợp của hai nước. Trước khi đến trạm, ghe sẽ ngừng lại để cho khách xuống và rước thêm các khách mới. Em sẽ phải xuống ngay. Nếu đi tiếp khi đến trạm kiểm soát, công an Khmer và công an Việt Nam sẽ biết em không phải khách buôn. Họ sẽ bắt em ngay.

    - Trời ơi! Phải rời ghe. Rồi em sẽ đi đâu tiếp? Tôi lo lắng.

    - Đừng sợ em trai. Đừng sợ! Mọi chuyện chị sẽ lo cho em. Em sẽ đặt chân lên Châu Đốc ngay sáng sớm cho xem. Chị Sa Thi cười rồi tiếp: " Lúc tối ngủ ngon chứ? Chị làm cà phê sữa đá cho em uống nha. Cứ ngồi yên chỗ, khi nào chị nói em xuống th́ mới xuống ".

    Khoảng tiếng đồng hồ sau, ghe bầu chạy chậm để đón khách lên hoặc xuống khỏi ghe. Tiếng người rao đổi tiền Việt sang tiền Khmer vang vang trong khoang ghe. C̣n duy nhất trong người một tiền giấy 100 Riel mầu đỏ nhưng tôi giữ lại làm kỷ niệm v́ giá trị nó quá nhỏ. Chị Sa Thi đến vẫy tay tôi theo chân chị xuống khỏi ghe bầu. Phía trước mặt, trong ánh đèn điện vàng vọt, các xuồng tắc rán nhỏ chở khách đang băng sang phía bên kia sông. Tắc rán nào cũng có một đèn băo treo lủng lẳng dưới mái che. Dẫn tôi đến gần một tắc rán chạy sát bờ, chị Sa Thi gấp gáp dặn:

    - Em theo tắc rán qua bên kia. Lên bờ rồi hễ gặp xe Honda ôm chạy về bến Cồn Tiên th́ mới đi. Khi đến Cồn Tiên, em ngồi chờ khi nào thấy có chẹt th́ đón ngay. Chẹt là phà nhỏ, sẽ chở em qua khỏi cồn. Qua được cồn, em đặt chân vào Châu Đốc. Kế tiếp, em đón xe Chành hay nếu gặp Honda ôm càng tốt. Bảo tài xế chở đến chỗ xe đ̣ tốc hành chạy hướng Cần Thơ. Nhớ hết tất cả lời chị dặn chưa? Đây, chị gửi em ít tiền. Em xuống tắc rán bây giờ nha, nó đến rồi. Chúc em đi đường b́nh an.

    Xuồng tắc rán cập vào, tôi bước xuống với hai người khác cùng qua sông. Lên được bờ, đám chạy Honda ôm nhao nhao bằng tiếng Việt hoặc Khmer ghé đến t́m khách. Tôi chọn một người chạy xe ôm c̣n trẻ. Cậu ta phóng xe thật nhanh trong đêm tối chở tôi đến bến Cồn Tiên khi trời vẫn chưa sáng. Các quán ăn trên bờ đă mở hàng thật sớm. Chọn một quán gần bờ nhất để tầm mắt tôi có thể nh́n thấy được chiếc chẹt đón khách như lời chị Sa Thi dặn và ngồi đó nhâm nhi ly cà phê nóng như khách địa phương b́nh thường. Dù vậy, tôi vẫn mối lo v́ c̣n ở trong địa giới nước Khmer. Qua được bên kia cồn an toàn hơn nhưng cũng chưa chắc. Trời b́nh minh dần, chỉ ít phút nữa tôi sẽ đặt chân vào Châu Đốc. Mọi sự sau đó diễn ra đúng như chị Sa Thi dự liệu.


    Trong chiếc xe đ̣ tốc hành chạy tài nhất đi Cần Thơ, tôi nh́n cảnh vật hai bên đường mà ḷng thoáng buồn v́ chuyến vượt biên bất thành phải quay về. Hết buồn lại đến mối lo khi nhẩm tính đă rời nhà cả tháng trời. Thời gian vắng nhà lâu như vậy, công an khu vực có biết chuyện ḿnh vượt biên? Bây giờ ḿnh về nhà có thực an toàn không? Thằng Minh trong khu phố đă về nhà chưa hay c̣n ḷng ṿng đâu đó bên Campuchia? Tôi nghĩ đến Ánh Phương, thằng Dũng và cả anh Tấn nữa. Lục trong túi xách, tôi xem lại tấm Chứng Minh Nhân Dân của Ánh Phương, tự hỏi có nên t́m đến nhà để báo tin cho thân nhân nàng biết chuyện không may? Trời càng lúc càng sáng rơ, gió sớm mai thổi vào xe mát lạnh có lúc làm tôi nổi da gà. Thỉnh thoảng xe dừng lại đón thêm khách bên đường. Ở một chỗ ngừng gần một ngă ba nhỏ, vài gă công an áo vàng đứng tṛ chuyện với nhau mà không buồn để mắt đến khách trên xe. Cuối cùng, xe chạy tới Cần Thơ và vào trong bến. Xuống xe, kiểm tiền trong túi tôi c̣n đúng 2000 tiền già Hồ. Chị Sa Thi đă lo thật chu đáo nhưng tôi c̣n phải về tận Sài G̣n. Nói nhà ở Cần Thơ nên chị giúp về tới Cần Thơ, giờ làm sao tôi có tiền để đón xe đi tiếp? Chợt nhớ đến người bạn tôi đă quen trong lần tù vượt biên trước đây tên Thành nhà ở đường Mậu Thân. Khi nói với Danh Ngạnh sống ở đường Mậu Thân, tôi cũng từ chuyện anh Thành mà ra. Gặp anh, tôi sẽ mượn tiền để về Sài G̣n ngay hôm nay và cho em gái mang xuống trả lại sau. Người đạp xe Chành chở tôi đến đường Mậu Thân chóng vánh. Trả tiền cuốc xe, tôi ḍ từng căn nhưng số nhà lộn xộn không theo thứ tự liền nhau. Đúng boong lời Danh Ngạnh đă nói, đi tới đi lui mỏi cả chân nhưng tôi vẫn không t́m được. Hỏi thăm vài người sống tại đây th́ họ lắc đầu không biết. Mệt mỏi đành ngồi nghỉ chân trên thềm một căn nhà đóng cửa, tâm trí tôi vừa bực bội lẫn lo lắng th́ thật may, nhà anh Thành nằm ch́nh ́nh xeo xéo phía đối diện. Kiếm măi không thấy, ngồi không lại hiện ngay trước mặt. Tôi bước vội sang gơ cửa kêu tên anh Thành thật to, một bà cụ từ bên trong lê dép lẹp xẹp bước ra, hé cửa hỏi:

    - Cậu là ai? Quen biết sao với thằng Thành con tui?

    Kể sơ về quan hệ giữa tôi và anh Thành cho bà cụ nghe. Bà mời tôi vào trong nhà dùng nước rồi buồn bă nói:

    - Thành nó vắng nhà 2 năm nay mà không có tin tức ǵ. Lúc nẫy nghe thấy cậu gọi tên nó tui mừng quá, nào ngờ.

    Ngồi nghỉ chân trong chiếc ghế dựa, tôi nhớ buổi đầu khi gặp anh Thành. Hơn ba năm trước trong một chuyến vượt biên tại huyện Xuyên Mộc, tôi bị du kích địa phương chận bắt giải giao cho xă Phước Thuận. Trong trại tạm giam của công an, gă cán bộ chấp pháp tên Mười Lư đă ra giá người bị bắt viết thư về nhà báo gia đ́nh mang một cây vàng 24 cara lên nạp, y sẽ thả tự do ngay. Ai không có vàng sẽ bị y giải giao cho công an huyện. Giam chung pḥng, tôi và anh Thành nhanh chóng làm bạn với nhau. Bị bắt từ chuyến vượt biên một tuần trước, anh hiện đang chờ tin của người nhà. Lớn hơn tôi ba tuổi, anh Thành gốc lính tác chiến trong Sư đoàn 9 Bộ binh VNCH. Ít ngày sau, mẹ tôi t́m đến nơi đóng vàng cho gă cán bộ Mười Lư. Khi chia tay, tôi và anh Thành cho địa chỉ nhưng chưa lần nào có dịp rảnh rỗi để ghé thăm nhau. Bác Tư, mẹ anh Thành kể:

    - Mười Lư nó đ̣i một cây vàng mới chịu thả thằng Thành mà cậu coi nhà tui đâu có khá giả ǵ. Tui mang được 5 chỉ vàng 24 thôi. Lấy 5 chỉ rồi nhưng không thả thằng con tui, một hai bắt phải mang tiếp cho chúng 5 chỉ nữa mới đủ số. Nói trong nhà không c̣n vàng chúng đâu chịu tin. Ở trên đó tới ba ngày, tui làm dữ với đám ác ôn, nói nếu không thả thằng Thành th́ trả lại 5 chỉ vàng đó rồi giải giao đi đâu th́ tùy. Tụi nó xuống giá bảo đưa thêm 3 chỉ rồi 2 chỉ... tui một mực lắc đầu. Cuối cùng, không moi được thêm, thằng Mười Lư cũng phải thả con tui.

    Tôi cạo râu rửa mặt mũi sạch sẽ sau đó dùng bữa cơm trưa vội vă với gia đ́nh. Không gặp anh Thành lại nghe chuyện bà cụ kể, tôi cũng buồn. Nhiệm, em gái út trong nhà cho biết thêm về chuyến đi 2 năm trước của anh trai ḿnh:

    - Em chỉ biết ảnh vượt biên bằng đường bộ băng ngang Campuchia đến Thái Lan. Từ đó đến nay gia đ́nh không nghe tin ǵ hết, cha mẹ em lo buồn lắm anh. Nhiệm lắc đầu, tiếp: " Không biết ảnh ở đâu, ra sao? Nay có anh đến nhà, em mới biết chuyện người Việt vượt biên sống bên Campuchia. Tội nghiệp họ quá há anh! Em hàng đêm vẫn đốt hương cầu mẹ sanh mẹ độ phù hộ cho anh Thành em. Mong ảnh được b́nh yên sống đâu đó ở bển ".

    Tôi thật ái ngại số phần anh Thành khi nhớ lời kể của Hường-Liên về các trại tị nạn người Việt ở Dongrek, Nong Chan và Nong Samet nhưng chỉ biết an ủi Nhiệm và hai ông bà cụ. Tôi lấy tờ giấy bạc 100 Riel đỏ c̣n lại trong người làm quà tặng bác trai trước khi chia tay với gia đ́nh. Quay trở lại bến xe Cần Thơ và đón kịp chuyến xe tốc hành sắp rời bến, tôi về được xa cảng miền Tây-Sài G̣n vào lúc xẩm tối. Ngồi nhâm nhi cà phê cho đến khi trời tối hẳn tôi đón xe Honda ôm về. Mẹ và các em gái trong nhà bàng hoàng khi gặp lại tôi, chắt lưỡi nói gầy g̣ hốc hác quá nh́n không ra. Ai cũng nghĩ chuyến ghe đă đến được trại tị nạn v́ thời gian qua khá lâu. Tôi hỏi thăm về thằng Minh, vẫn chưa thấy nó ló mặt. Thật lạ! Vậy nó ở đâu? Tôi dặn các cô em gái phải giữ kín chuyện để ḍ t́nh h́nh trong khu phố xem sao.

    Âm thầm về trong đêm tối tưởng không ai biết nhưng ngay ngày hôm sau bà Sáu mẹ thằng Minh đă ṃ đến nhà tôi để hỏi thăm chuyến đi và tin tức đứa con trai. Tôi lần lượt kể lại mọi chuyện cho bà nghe. Bà ta vật ḿnh khóc lóc than van gây sự chú ư của những gia đ́nh gần bên. Tôi trấn an: " Bác về nghỉ ngơi, cố b́nh tĩnh đừng khóc. Nay hoặc mai thằng Minh sẽ về tới. Khóc chẳng giúp ǵ, để công an biết th́ chết cả đám luôn ".

    Trước giờ, ai đi vượt biên không thành nếu yên ổn quay về và đừng để công an biết th́ không sao. Trong khu vực do chúng kiểm soát, biết ai vắng mặt để vượt biên th́ chuyện sẽ khác. Chuyến tôi đi đă hỏng c̣n bị hải tặc bắt mất người, tôi càng nghĩ càng lo nhưng thực sự tôi chưa biết cách thức sẽ phải đối phó? Những ngày kế vẫn chưa thấy thằng con trai, bà Sáu lại đến nhà cật vấn đủ điều làm như tôi phải chịu trách nhiệm về chuyến đi. Bà Sáu ỷ ḿnh thuộc gia đ́nh cách mạng, quen biết nhiều cán bộ trên phường trên quận nên không sợ, cứ đi ḷng ṿng ghé nhiều nơi trong khu phố kể lể chuyện thằng Minh rồi lại khóc than ầm ĩ. Bà sót thằng con trai chưa về, mẹ tôi bảo vậy. Tôi cố làm mặt tỉnh khi có chuyện đi ra bên ngoài. Vài người trong khu phố kín đáo nh́n tôi. Họ đă biết chuyện từ miệng bà Sáu, công an cũng sẽ biết.

    Hai tuần sau, lúc uống cà phê trong một quán thiết kế kiểu sân vườn ở gần nhà, tôi gặp ông Nam chủ tịch khu phố ngồi ở bàn không xa. Thấy tôi, ông ngoắc tay gọi qua ngồi chung. Gốc dân Bắc Kỳ di cư 1954 nhưng ông hoạt động nằm vùng cho Việt Cộng từ lâu. Nhà ông, một địa chỉ đỏ trong bản danh sách gia đ́nh cách mạng địa phương. Do quen biết khá thân với thầy mẹ tôi từ lâu nên biết chuyện ǵ từ phường hay quận, ông vẫn thường báo cho gia đ́nh biết trước để pḥng. Nh́n ông Nam, tôi biết có việc liên can và chắc chỉ chuyện vượt biên. Đảo mắt chung quanh quán một lần cuối, ông Nam nói nhanh:

    - Tụi thằng Hùng thằng Tứ vừa mới họp với ủy ban cho biết nay mai sẽ làm việc với cháu về chuyến đi vừa rồi. Gia đ́nh liệu sao th́ liệu... càng sớm càng tốt. Về nhà nhớ cho bác gửi lời thăm mẹ cháu.

    Hai chữ Làm Việc của công an Cộng Sản mang cái nghĩa điều tra-thẩm cung. Nghe ông Nam báo tin dữ, tôi càng sợ. Điều tra-thẩm cung là khai báo rồi bị đánh đập, cùm kẹp và nhốt tù. Hùng và Tứ, tôi không lạ hai gă công an hung thần của nhiều nạn nhân sống trong địa phương. Cả hai đều to xác, mặt mũi bậm trợn và rất dữ đ̣n. Mẹ tôi nghe kể gặp ông Nam, nói:

    - Con lên Đà Lạt chỗ nhà cậu Khánh sống ở đó một thời gian xem sao. Mẹ tôi lại đổi ư liền: " Thôi đừng. Đà Lạt xa lại lạnh lắm hay con thử lánh mặt trên rẫy của chú Kim đi. Dầu sao cũng gần Sài G̣n và an toàn hơn ở nhà ". Chú Kim em ruột ba tôi, có rẫy cà phê ở vùng Túc Trưng gần Dốc Mơ-Gia Kiệm.

    Nghe mẹ tôi nói vậy, các cô em gái trong nhà lên tiếng:

    - Mấy nơi mẹ vừa nói, anh Vũ cũng không thoát khỏi tay bọn công an đâu ngoại trừ một chỗ.

    - Chỗ nào? Mẹ tôi hỏi liền.

    - Nước ngoài. Anh Vũ chỉ an toàn khi ở nước ngoài thôi. Kim Thu, em gái út tôi cười khi trả lời.

    - Mẹ biết, nhưng làm sao có chuyến đi ngay bây giờ? Thế mới khổ!

    Quá lo, lúc ăn lúc ngủ ḷng tôi chẳng yên. Một sáng tôi dậy sớm, lách ḿnh ra khỏi nhà rảo bước định đến tiệm phở Quỳnh ngay ngă ba đầu khu phố th́ tiếng xe hai bánh thắng gấp ngay trước mặt. Hai gă thanh niên lạ hoắc, mặc thường phục nh́n tôi, hỏi:

    - Anh tên Vũ phải không? Phạm Thắng Vũ?

    Vừa gật đầu th́ nhanh như một tia chớp, tên ngồi phía sau tót xuống lấy tay đẩy tôi lên yên xe Honda SS 67 ngay. Y ngồi kẹp tôi vào chính giữa, gă cầm lái rồ máy vọt thẳng ra đường chính. Trong chốc lát ngắn ngủi, xe ngừng lại trước cửa trụ sở công an quận. Gă ngồi sau đẩy tôi băng qua cổng nhỏ đi thẳng vào trong một căn pḥng đầy bàn ghế rồi nói:

    - Anh ngồi đây chờ gọi làm việc và không được đi đâu hết. Nghe chưa?

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  7. #7
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Gă quay ra ngoài và tiếng xe nổ lớn chạy xa bỏ tôi ngồi một ḿnh ở căn pḥng vắng vẻ trong cơn hoảng hốt. Ḿnh mới ra khỏi nhà, chúng phục sẵn bắt liền, hàng xóm có ai biết việc vừa xẩy ra? Hai gă lạ mặt bắt tôi tên ǵ, chức vụ? Một lúc sau, sự b́nh tĩnh dần dần trở lại trong tôi. Cái ǵ tới nó sẽ tới, tôi tự trấn an ḿnh phải b́nh tĩnh. Thật b́nh tĩnh để t́m cách thoát. Hai gă này lạ mặt, chắc vừa bổ sung về quận từ trường đào tạo công an. Lát nữa khi bị gọi làm việc với hai gă, tôi phải thật khéo léo. Nếu không thoát được, bất quá chấp nhận ngồi tù vượt biên vài năm. Cơn sợ qua đi, tôi cảm thấy buồn v́ đă hai lần ra khỏi nước c̣n phải quay trở về chịu tù. Bỏ nghề dậy học, mất việc làm khi vượt biên rồi sáng nay phải ngồi đây chưa biết số phần sẽ ra sao? Hay số ḿnh không thể vượt biên đi thoát? Đang suy nghĩ, một phụ nữ bước vào căn pḥng chào tôi rồi bà lặng lẽ quét nhà và sắp xếp các ghế ngồi cho gọn gàng. Căn pḥng có các dăy ghế dài xếp gần bên nhau và hai cái bàn đặt riêng. Ghế dài cho dân ngồi chờ và hai cái bàn để công an làm việc? Chắc vậy. Tôi đứng dậy, nép ḿnh bên cửa sổ quan sát khuôn viên toàn trụ sở công an quận. Ba dăy nhà nối thành h́nh chữ U với các pḥng nằm liền sát nhau. Có pḥng cửa đă mở sẵn, vài gă công an đi vào đi ra. Cửa lớn ngay cổng đóng kín mít chỉ dùng cửa phụ nhỏ bên hông. Một công an viên ngồi trực trong chốt gác nhỏ sát bên cánh cửa phụ. Dân địa phương có việc phải vào trong trụ sở hay đi ra ngoài đều qua tay gă này xem xét.

    Chị phụ nữ dọn dẹp xong căn pḥng th́ đă có người lục tục kéo vào ngồi chờ. Bắt chuyện với người đàn ông gần bên tôi mới biết đang ở trong pḥng tiếp dân của công an quận. Hỏi thêm, ông ta nói đến v́ giấy mời do liên can vào một vụ ấu đả tại gia. Hỏi một chị phụ nữ khác th́ cho biết đến để làm giấy bảo lănh người con trai từ trại giam Bố Lá về nhà. Ai có công chuyện mới có mặt ở đây và người nào người nấy đều lo lắng, sợ hăi. Gă thanh niên lạ mặt đẩy tôi vào pḥng nói chờ làm việc nhưng chắc chắn chỉ chuyện vượt biên. Cũng một phần do cái miệng bà Sáu nên công an mới biết. Khóc lóc, than văn với bà con trong khu phố cũng đâu giúp thằng Minh về ngay được. Nay mai khi con bà ló mặt tới nhà, nó sẽ biết tay công an. Bà Sáu ơi! Bà thật quá dở... tôi lẩm bẩm.

    Hai công an một nam một nữ vào pḥng ngồi riêng ở mỗi bàn và bắt đầu tiếp chuyện từng người một. Nh́n về phía cổng, thấy những người xong việc thơ thới đi ra bên ngoài khiến tôi nẩy ra một ư. Làm vẻ mặt thật tỉnh, tôi đi ra cửa như một người vừa xong việc nhưng gă công an trực tại chốt chận ngay lại, hỏi:

    - Anh đi đâu đây?

    Tôi hoảng hồn, cố lấy vẻ tự nhiên trả lời: " Ra bên ngoài mua thuốc lá hút ".

    - Không được. Gă công an lắc đầu.

    - Mua xong quay vào liền mà. Tôi nhỏ nhẹ.

    - Anh đi vào trong ngay. Không được ra ngoài đây. Gă nói dứt khoát.

    Tôi trở vào pḥng, ngồi yên kín đáo quan sát. Dân thường, nhiều người ra hay vào cái cửa nhỏ ở cổng thật dễ đâu bị gă công an chận hỏi. Tại sao gă chỉ đế ư đến ḿnh tôi? Hay gă thấy tay thanh niên đẩy tôi vào đây lúc sáng và được dặn ḍ riêng? Nếu ḿnh nghĩ đúng, coi như kẹt rồi, tôi thất vọng. Ngồi măi không ai hỏi đến tôi và cũng không gặp lại hai gă thanh niên lạ mặt hồi sáng. Chờ đợi quá lâu, tôi cảm thấy mệt. Gần trưa, pḥng tiếp dân bớt dần người. Đói bụng, mắt nhíu buồn ngủ tôi chẳng thiết việc chung quanh cho đến khi nghe tiếng chân dừng ở bên cạnh và giọng một phụ nữ:

    - Anh đến đây có chuyện ǵ, sao không cho tui biết?


    Tôi mở mắt nh́n, một nữ công an trẻ tuổi đứng trước mặt hai tay ôm chồng giấy tờ, ánh mắt chiếu thẳng ḍ hỏi. Tôi sửa lại thế ngồi, trả lời không có chuyện ǵ hết. Một thoáng ngạc nhiên, cô ta hỏi tiếp giọng miền Nam:

    - Không có việc cần sao anh ngồi ở đây? Lạ vậy!

    Nghe cô ta hỏi, tôi im lặng rồi nhớ một chuyện vừa xẩy ra trong khu phố liền buột miệng trả lời:

    - Tôi đến đây để làm nhân chứng cô à.

    - Làm nhân chứng... mà vụ ǵ? Ở đâu?

    - Một vụ trộm tài sản tư nhân ở gần nhà. Tôi nh́n cô công an, trả lời.

    Hai ngày trước, trong khu phố đă xẩy ra một vụ trộm lúc gần khuya. Kẻ gian bẻ khoá vào nhà một gia đ́nh cán bộ trẻ nhưng đang lúc tẩu tán món trộm, vợ chồng chủ gia trở về đúng lúc. Hai tên trộm liền vất hàng bỏ chạy thoát thân. Không biết rơ mặt hai tên trộm, gă cán bộ lại đổ cho một thanh niên sống trong khu phố. Dân pḥng theo lời cáo giác liền kéo đến nhà nghi can. Đến nơi mới biết anh ta đang xỉn với bạn nhậu ở quán cóc trong một hẻm khác cùng khu phố. Dù chủ quán lẫn bạn nhậu làm chứng t́nh trạng ngoại phạm nhưng gă cán bộ vẫn quả quyết anh thanh niên vừa nhập nha nhà y. Gă ta một hai buộc dân pḥng phải bắt nhốt ngay anh thanh niên say rượu. Dân pḥng bỏ về khi thấy anh thanh niên loạng choạng chỉ vài bước chân đă nằm vùi luôn tại quán. Chuyện có vậy, tôi bịa thêm gă cán bộ làm đơn thưa vụ trộm và anh thanh niên đó nhờ tôi làm nhân chứng. Nghe kể, cô ta hỏi:

    - Giấy mời làm việc anh đâu, đưa cho tui xem.

    - Không có giấy mời nào cả. Làm vẻ ngạc nhiên, tôi lắc đầu.

    - Anh không có giấy mời sao! Vô lư. Cô công an nhăn đôi lông mày trên khuôn mặt khá đẹp.

    - Sáng nay có một anh trong này chạy xe đến nhà gặp tôi, hỏi về chuyện trộm tối hôm đó rồi chở tôi đến đây nói làm nhân chứng... Tôi chờ măi chẳng thấy ai hỏi ǵ hết cho đến khi gặp cô, cô à! Tôi tỉnh bơ một hơi.

    - Anh nhớ ai đă chở anh đến đây không? Anh biết tên người đó không? Cô ta hỏi vặn.

    Tôi lắc đầu, thừ người trong ghế. Đứng yên một lát rồi nh́n đồng hồ trên tay, cô công an bảo tôi ngồi chờ và đi ra khỏi căn pḥng. Sau đó, cô ta quay lại cùng một thanh niên trẻ và nói:

    - Bây giờ trưa rồi. Đồng chí đây chở anh về nhà ăn cơm. Ăn xong, ảnh sẽ chở anh về lại đây ngay. Phiên làm việc chiều, tui sẽ hỏi các đồng chí khác về chuyện anh vừa kể.

    Nói xong câu, cô ta bỏ đi về phía nhà nhỏ để xe cán bộ. Một công an khác ngồi tại chốt ở cửa cổng thay cho gă cũ đă chận tôi hồi sáng. Dắt chiếc xe Honda SS 67 ra khỏi cổng, tay thanh niên trẻ đạp máy bảo tôi ngồi lên yên sau lưng y. Xe chạy, y hỏi tôi địa chỉ và trong chốc lát đến ngay trước cửa nhà. Nghe tiếng xe ngừng bên ngoài, mẹ tôi cùng đứa em gái trong nhà chạy ra.

    - Con đi đâu từ sáng tới giờ lại không nói cho ai hay vậy. Ăn cơm ǵ chưa? Mẹ tôi hỏi.

    - Đói bụng quá sức phải về ăn cơm nè mẹ. Tôi mỉm cười, trả lời.

    Nghe thế, mẹ tôi hối đứa em gái vào trong dọn cơm rồi quay sang gă thanh niên, bà tiếp:

    - Cháu cũng bạn với Vũ hả? Tiện thể, vào dùng cơm luôn với gia đ́nh bác nghe cháu?

    Gă thanh niên ngồi yên trên xe không trả lời. Tôi nh́n y ḍ ư. Chợt gă ngoắc tay vẫy tôi lại gần, nói nho nhỏ:

    - Anh tranh thủ vào ăn cơm với gia đ́nh ngay đi. Cho anh 15 phút, tui đi đằng này một lát sẽ quay lại ngay. Nhớ nghe, 15 phút nữa tui quay lại đây đó.

    Dứt câu, gă chào hai mẹ con chúng tôi rồi quay đầu xe chạy thẳng ra hướng ngoài đường lớn. Mẹ tôi thấy gă bỏ đi ngay, liền hỏi:

    - Bạn con hả? Đứa nào thế? Sao nó không vào nhà lại bỏ đi ngay vậy.

    Im lặng, tôi nh́n theo chiếc xe Honda cho đến khi hút bóng khỏi ngơ hẻm liền cất tiếng gọi em gái tôi. Mẹ tôi đứng yên, ngơ ngác. Cô em gái chạy đến, tôi thúc hối lấy ch́a khoá và dắt xe Honda ra khỏi nhà ngay.

    - Chuyện ǵ từ từ giải quyết sau, vào ăn cơm đă rồi tính. Mẹ tôi gắt giọng.

    Cầm tay lái xe Honda từ cô em gái, tôi ngồi lên yên rồi đạp cho nổ máy. Nh́n cả hai người, tôi nói chậm răi:

    - Thằng vừa rồi là công an quận, đâu phải bạn con. Lúc sáng sớm có hai thằng đến bắt con mà không ai biết. May lừa được tụi nó cho về nhà ăn cơm nè. Giờ con phải đi ngay kẻo không c̣n dịp. Lát nữa thằng đó quay lại, mẹ cứ nói con đang ăn cơm th́ có người đến gọi chở đi rồi. Nếu tụi nó đến nhà ḿnh hỏi thêm, mẹ liệu đường mà trả lời. Đưa con ít tiền để con đi ngay bây giờ.

    Tôi cùng cô em gái chạy xe một lèo lên Hố Nai tá túc nơi nhà người bà con họ bên ngoại. Ở được hai ngày, em gái tôi lên cho biết tin về Dũng. Một thanh niên được thả từ trại giam công an huyện Bến Cầu-Tây Ninh t́m đến nhà thằng Dũng, báo tin nó bị bắt tại cửa biên giới Mộc Bài-Svay Rieng và đang bị nhốt trong trại giam huyện. C̣n Ánh Phương, cứ nấn ná măi chưa kịp t́m đến nhà nàng để bây giờ tôi bị kẹt ở đây. Măi gần 10 năm sau tôi mới biết các tin tức của Ánh Phương khi đến gặp gia đ́nh nàng. C̣n anh Tấn? Theo địa chỉ anh ghi trong mẩu giấy năm xưa, thân nhân anh rất mừng khi gặp tôi, nghĩ tôi đến cho họ biết tin về anh nhưng đă thất vọng. Gia đ́nh bặt tin anh sau chuyến vượt biên tại Vàm Rầy-Hà Tiên năm đó. Tôi không bao giờ quên lúc chia tay vội vă với anh tại bến xe Kompong Som. Vĩnh biệt anh Tấn, một trong những người tôi rất mến.

    Ba ngày sau nữa, em tôi chạy xe đến thăm cho biết gia đ́nh đă t́m được mối cho chuyến vượt biên mới. Chuyến vượt biên ra khỏi nước lần thứ ba trong đời tôi.


    Chương Ba

    Đến Trại Tị Nạn Galang, Cửa Ngơ Vào Thế Giới Tự Do Nhưng... Chưa Thoát.


    Sống tạm trú tại nhà người cậu ruột ở vùng Hố Nai được hai ngày trong tâm trạng lo sợ có thể bị công an bắt lại được khiến tôi vẫn ăn ngủ không yên. Miền Nam VNCH bị Cộng Sản chiếm đoạt đă hơn mười lăm năm trời. Mạng lưới tai mắt, t́nh báo nhân dân cho công an đă h́nh thành khá lâu ở nhiều nơi. Do đó, người lạ mặt lảng vảng tại địa phương, sớm muộn ǵ cũng bị người dân trong vùng báo cho chúng biết. Dân báo tin không v́ cảm mến dành cho chế độ mà do sợ hăi nên phải cộng tác. Vài năm trước, hai người thân trong họ từ miền Bắc vào thăm gia đ́nh tôi, mới ở được ba ngày th́ đă bị công an khu vực nửa đêm ập vào nhà xét coi giấy tờ. Biết họ từ miền Bắc vào, công an không làm khó nhưng kín đáo cảnh cáo gia đ́nh tôi phải lên ủy ban phường ghi danh bất kỳ thân nhân ghé tạm trú trong nhà. Hàng xóm nào đă báo cho công an biết về hai người bà con miền Bắc? Gia đ́nh không biết nhưng chính vậy khiến tôi đâm sợ những láng giềng đến nhà cậu mợ bây giờ. Tôi cảnh giác, lúc nào cũng thu ḿnh ở trong buồng kín.

    Một buổi chiều cuối tuần, mẹ tôi cùng em gái lên cho biết đă t́m được chuyến đi mới và sẽ khởi hành sớm. Theo đó, tôi sẽ lên đường ngay sáng hôm sau. Gia đ́nh đă chồng đủ vàng cho đám tổ chức. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi vượt biên nhiều lần, làm bà hao tốn của cải c̣n phải lặn lội đi thăm nuôi hoặc chung vàng chuộc mạng khỏi tay công an nữa. Nếu chế độ CS không phân biệt, hành xử vô luật pháp với người dân miền Nam VNCH, chắc có mấy ai tính chuyện vượt biên. Vượt biên đâu như một chuyến du lịch dù thực tế có nhiều ghe may mắn gặp được tàu nước ngoài vớt khi vừa mới ra ngoài biển lớn không xa. Mỗi lần vượt biên, mỗi lần đánh đu với tử thần. Đêm tối đến, mẹ tôi ở lại nhà người cậu ruột c̣n cô em gái chạy xe về lại Sài G̣n để lo cho chuyến đi sáng mai. Cậu mợ tôi có hai người con trai tuổi lớn hơn tôi nhiều nhưng lại vai em. Họ có gia đ́nh và đă ra ở riêng. Có người Việt suốt đời không bao giờ nghĩ đến chuyện vượt biên dù họ cũng không thích sống dưới chế độ Cộng Sản. Họ từng bị chúng ngược đăi, đày đoạ, bỏ tù oan ức... nhưng vẫn không nghĩ chuyện đào thoát khỏi quê nhà. Đơn giản v́ họ không muốn rời khỏi quê hương và sống nơi xa lạ nước ngoài. Tâm trạng hai người con trai cậu tôi cũng tương tự. Cả hai đều an phận, bằng ḷng với đời sống thường ngày. Sau bữa cơm tối, họ nán lại chuyện tṛ khá lâu với tôi trước khi từ giă, chúc tôi thượng lộ b́nh an, vượt thoát đến trại tị nạn sớm và không hề đá động đến chuyến đi. Trong huyết quản hai người họ không có máu vượt biên. Mẹ tôi dặn ḍ đủ điều như chưa bao giờ có dịp như vậy. Có lẽ bà linh cảm chuyến tôi đi lần này sẽ thành.

    Lúc trời mờ sáng, tôi từ giă gia đ́nh cậu mợ và ra xe đi ngay. Cô em gái chạy xe chở tôi ngược về hướng Sài G̣n đến gần xa cảng miền Tây rồi dừng lại t́m xe tốc hành. Đón được xe, tôi đến ngă ba Trung Lương liền xuống t́m vào một quán ăn bên đường theo chỉ dẫn của cô em gái. Ngồi ở quán chờ người trong nhóm đến đón về Bến Tre. Một thanh niên chạy xe Honda vào quán nhận tôi ra rồi chở thẳng về Bến Tre. Nhóm tổ chức chuyển tôi qua nhiều chặng đường cho tới khi gặp Chợ Thơm. Nghỉ ăn cơm lấy sức rồi tiếp tục đi nữa, khi bằng xe Honda hoặc bằng ghe nhỏ gắn máy... vượt qua nhiều cầu, nhiều chợ nằm dọc gần bờ. Cứ vậy cho đến chỗ ngừng sau cùng trong căn nhà ở vùng Rạch Dầu gần biển thuộc huyện Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre. Nhóm tổ chức ém tôi trong buồng nhỏ của căn nhà lợp ngói vững chắc. Chủ nhà tên Ba, một người đàn ông trộng tuổi. Trong buồng nhỏ ngoài tôi thêm hai cô gái người miền Nam tên Bẩy và Đào có mặt từ trước. Hỏi thăm, cô Bẩy nhà ở phường Thắng Tam ngoài Vũng Tàu-Bà Rịa. Cô Đào người Mỹ Tho, nhà ở phường 9 gần cầu Quay. Ba người chúng tôi là dân thành thị nên bà Ba tiếp đón, lo cơm nước rất chu đáo. Chỉ một khó chịu nhỏ, giường và ghế trong căn buồng có quá nhiều rệp. Bắt hơi người lạ, lũ rệp từ các ngơ kín ḅ ra cắn đến nỗi không ai dám nằm trên giường hay ngồi trên ghế. Cả ba ngồi bệt xuống sàn nhà, dựa lưng sát tường ngủ ngồi gà gật như vậy cho đến sáng. Buổi trưa qua đi rồi chập choạng chiều, một người đàn ông vào buồng cho cả ba chúng tôi biết sẽ lên đường ngay trong giấc khuya. Ông ta niềm nở:

    - Tui tên Hai Nghệ, cứ gọi bằng anh đừng ngại. Giờ an toàn rồi, ba người ra khỏi buồng không cần ém nữa.

    Tôi, Bẩy và Đào cầm túi xách bước theo chân anh Hai Nghệ ra pḥng khách, khép nép ngồi xuống ghế bên chiếc bàn gỗ mặt đá rửa mầu xanh ngọc thạch h́nh chữ nhật trước cái tủ thờ. Ông bà Ba chủ nhà, vẻ mặt hiền lành ngồi không xa ở bộ ván ngựa lên nước láng bóng. Tôi nh́n sơ căn pḥng. Bộ lư đồng cùng hai chân nến xỉn màu đặt trên nóc tủ thờ. Một lư sành nhỏ chi chít chân nhanh nằm trước các khung h́nh người quá cố. Trên cao sát với mái ngói, hai trang thờ phủ kín vải đỏ. Không có h́nh Phật Thích Ca hay tượng Phật Bà trong nhà. Nh́n qua các cột gỗ, tôi sững người khi thấy các tấm biển tổ quốc ghi công với chữ kư của gă thủ tướng Phạm Văn Đồng cạnh dấu tṛn đỏ. Kín đáo liếc nh́n ông bà Ba, nhủ thầm ḿnh đang ở trong nhà một gia đ́nh cách mạng. Quay nh́n mé sau lưng, vài bảng nhỏ huân chương kháng chiến hạng hai, hạng ba treo trên vách nhà. Tôi đâm sợ v́ các tấm biển ghi công, huân chương nhưng lại bớt lo. Gia đ́nh cách mạng nằm trong đường dây tổ chức, chuyến vượt biên sẽ an toàn. Đón rồi ém ba chúng tôi trong nhà, ông bà Ba làm y như trước đây với cán bộ Việt Cộng khi c̣n hoạt động. Niềm tin vào chủ thuyết cộng sản chỉ c̣n trên giấy và trong khẩu hiệu. Tôi mỉm cười v́ ư nghĩ trong ḷng, chợt nghe anh Hai Nghệ nói:

    - Ḿnh đi bằng ta xi đến điểm hẹn tối khuya nay. Khi đủ khách, cá lớn chạy khoảng 4 tiếng đồng hồ th́ sẽ gặp biển.

    - Bốn tiếng đồng hồ gặp được biển. Sao nhanh giữ vậy anh? Tôi hỏi.

    - Đây với biển gần lắm mấy em. Anh Hai Nghệ trả lời.

    - Các cháu có tắm rửa, thay đồ ǵ th́ làm ngay bây giờ chứ để xuống dưới ghe rồi đi mấy ngày mới tới bển khó chịu lắm. Bà Ba chen vào.

    Hai Nghệ ra bên ngoài nhà xách thêm nước đổ vào lu trong buồng tắm cho ba người chúng tôi. Hai cô gái lần lượt đi tắm trước để ḿnh tôi ngồi với hai ông bà. Ông Ba cho biết trong vùng chỗ nào cũng gặp kênh rạch cùng nhà cửa cất sát bên cạnh. Đi đâu một bước phải dùng xuồng hay ghe. Nhà dù giàu hay nghèo cũng phải có cái xuồng, chiếc ghe để làm chân đi. Ai không có ghe có xuống rất bất tiện. Ghe xuồng ở đây như xe gắn máy hai bánh của dân thành phố. Hỏi về các tấm biển tổ quốc ghi công hoặc huân chương kháng chiến, bà Ba nói của hai người con một nam một nữ đă chết từ lâu. Cô gái út c̣n sống là vợ anh Hai Nghệ. Điều tôi không ngờ, anh Hai Nghệ đi lính Sư đoàn 7 Bộ binh VNCH. Nhiều gia đ́nh tại Việt Nam có t́nh trạng tréo ngoe tương tự. Người ở bên phía miền Nam VNCH, người đi theo phe Việt Cộng.

    - Anh Hai lính chế độ cũ hả bác? Anh có đi chuyến tối nay không? Tôi hỏi ông Ba.

    - Nó muốn đi lúc nào mà không được cháu, nhưng nó nói tiếng Tây tiếng U không biết sang đó làm giống ǵ ăn. Cháu coi, đi đâu cũng phải làm mà ở đây sống dễ chịu quá nên vượt biên làm chi. Lại nữa, nó nói bây giờ bắt đầu có tuổi rồi c̣n ham hố ǵ. Ông Ba cười nụ, trả lời.

    Thiệt t́nh! Người muốn vượt biên lúc nào cũng có dịp lại không thèm, người t́m đủ cách vẫn không ra. Thậm chí có người bị lừa mất vàng, bị bắt c̣n chưa sờ tay được vào thân cá lớn nữa.

    Hai Nghệ châm thêm nước xong, hối tôi đi tắm. Những giọt nước mát xối lên người cho tôi một cảm giác khoan khoái dễ chịu vô cùng. Tôi thử hớp một ngụm nước, nó có vị lờ lợ nhưng cũng rửa sạch lớp cặn mồ hôi bám lên tóc lên người trong suốt thời gian rời khỏi nhà người cậu ruột cho tới giờ. Tắm xong, tôi giặt vội bộ quần áo và đem phơi nó trên hàng dây bên hông tường. Gió từ hướng vườn cây đằng sau nhà thổi rất mạnh. Gió cùng hơi nóng buổi chiều sẽ làm bộ quần áo mau khô để tôi mang theo tối khuya nay. Đằng sau căn nhà ông bà Ba, chục khạp mầu nâu h́nh quả dừa chứa nước mưa để uống để nấu ăn được đậy kín miệng nằm dưới cḥi lá. Nước sinh hoạt tắm giặt, gia đ́nh ông bà Ba lấy từ con rạch gần nhà. Cơn triều lên, họ kín nước đổ đầy lu, phi sắt rồi đánh phèn làm trong trước khi dùng. Sau cḥi lá, hàng cây ăn trái xum xuê cùng các bụi chuối thấp thoáng. Điệu lư cải lương réo rắt từ máy cassette xa xa vọng lại lúc nhỏ lúc to trong tiếng gió. Vùng đồng quê miền sông nước thật êm ả, b́nh dị khác với vùng Hố Nai ồn ào chỗ nhà cậu mợ tôi. Giờ này chắc mẹ tôi đă về nhà dưới Sài G̣n. Lúc c̣n ở nhà cậu mợ, bà kể gă thanh niên trẻ chạy xe đến đón đă chưng hửng khi nghe nói có người ghé nhà chở tôi đi khỏi không lâu. Nghe vậy, gă thanh niên vọt xe máy chạy liền và chiều hôm đó quay lại nhà tôi với một công an khác. Hai gă hỏi người trong gia đ́nh về chuyện đón tôi đi lúc trưa. Mẹ tôi đành phải xí gạt, nói hoàn toàn không biết ǵ thêm. Ḍ la măi không ra manh mối, hai gă công an hậm hực bỏ đi. Em gái tôi cho biết thằng Minh vẫn biệt tăm tích chưa về.

    Người dân sống trong vùng sông nước ở đây trồng nhiều loại cây ăn trái như cam, măng cầu, ổi, mít, xoài, chuối... và loại trái nào cũng ăn rất ngọt. Dọc đường đi, tôi đă qua các vườn cây rậm rạp, trù phú nhưng thấy chỉ có dừa được trồng nhiều nhất. Đủ loại dừa từ loại dừa lửa nhỏ trái, dừa bị xanh to hoặc dừa xiêm vừa vừa cho nước uống ngọt thanh. Dừa nhiều, dân trong vùng làm thành kẹo dẻo ăn rất ngon. Trời tối hẳn, bà Ba dọn cơm ra bàn cùng ăn chung với ba chúng tôi bữa tối cuối cùng ở nhà. Kinh nghiệm từ các chuyến đi vượt biên, tôi không dám ăn no trước khi xuống ghe. Đào, Bẩy cũng sợ say sóng sẽ ói nên chỉ lùa vài miếng qua loa. Bữa cơm chấm dứt mau lẹ, bà Ba dọn dẹp rồi mang nước lá dứa nóng và kẹo dừa ra bàn. Anh Hai Nghệ ghé miệng vào sát ngọn đèn dầu hỏa, bập vài hơi mồi lửa điếu thuốc rê rồi nói:

    - Bây giờ mấy đứa có buồn ngủ th́ ngủ ngay đi c̣n không ngồi chơi với tía má anh. Có kẹo ngọt nước nóng cứ nhâm nhi cho vui miệng. Anh đi liên lạc xem đưa đón ra sao khuya nay.

    Ba người chúng tôi vẫn ngồi yên chỗ, sắp xuống taxi có ai ngủ được. Đào, Bẩy mặc bộ quần áo mầu đen cho tiệp với bóng đêm, tôi th́ bộ đồ công nhân xanh cũ. Trong ánh đèn dầu vàng mờ, chúng tôi quây quần như người cùng một gia đ́nh tṛ chuyện sau bữa cơm tối. Bà Ba thỉnh thoảng châm thêm nước cho mọi người uống, xởi lởi:

    - Từ đây ra ngoài vàm không xa đâu. Lên được ghe lớn rồi chịu cực vài bữa mấy cháu tới bển liền.

    Ông Ba hỏi thăm về gia đ́nh tôi ở Sài G̣n. Từ hôm trú ẩn trong căn buồng gói cho tới giờ mới có dịp ngồi cạnh ông, tôi muốn hỏi nhiều việc để biết. Vùng này gần biển, dân cư đă sống từ lâu hay mới về lập vườn lúc gần đây. Không biết thời c̣n chiến tranh có ai sống đây không hay chỉ thuần một vùng đất hoang? Nh́n các tấm ảnh thờ trên tủ và những tấm biển ghi công huân chương, tự nhiên tôi ṭ ṃ:

    - Hai người này chết chắc lâu? Gia đ́nh bác liệt sĩ cách mạng hả?

    Nghe câu tôi hỏi, ông Ba nhăn mặt im lặng, bà Ba cũng ngưng chuyện dở dang với hai cô gái và khẽ liếc mắt nh́n tôi. Thấy cử chỉ của hai ông bà, tôi chột dạ thầm nghĩ ḿnh vụng về đă làm hỏng bầu không khí đang vui. Tôi vội lập bập với ông:

    - Cháu lỡ lời làm bác giận, xin bác...

    - Đừng hỏi chuyện ngày xưa nữa mậy. Gia đ́nh tao dám chứa tụi bây vượt biên th́ cũng đủ hiểu rồi mà c̣n bá láp. Mầy làm tao ghét quá! Thằng Bắc Kỳ con. Ông Ba khoát tay, đột ngột đổi cách xưng hô.

    Nói xong câu, ông hầm hầm ngồi yên và xoay mặt nh́n qua chỗ khác. Tôi thật dở ẹt khi hỏi kiểu điều tra về chuyện riêng gia đ́nh làm ông Ba hiểu lầm, đành luống cuống ngồi im. Đào và Bẩy không biết rơ chuyện nhưng kín đáo nh́n tôi với ánh mắt trách cứ. Không khí im lặng ngột ngạt, tôi chưa biết phải làm ǵ chợt bà Ba xen vào:

    - Ông này, có ǵ chấp nhứt mấy đứa cho mất vui. Lại c̣n Bắc Kỳ với Nam Kỳ nữa!

    Dứt câu bà cười x̣a nh́n cả ba chúng tôi đầy thân thiện, thông cảm. Ông Ba không nói một lời, đứng lên bỏ đi vào trong buồng riêng. Tôi liền xin phép bà Ba đi nằm nghỉ ở bộ ván ngựa. Đào, Bẩy tản ra lấy giỏ sách rồi sắp xếp lại quần áo cùng vật dụng bên trong. Nằm trên bộ ván, tôi nhắm mắt vờ ngủ nhưng mong chuyến taxi mau đến. Đồng hồ trên tay đă 8:17 tối.

    Gần tiếng đồng hồ sau th́ anh Hai Nghệ về tới và hối ba chúng tôi theo chân đi ngay. Bà Ba ở lại coi nhà, cả bọn cùng kéo nhau ra bên ngoài. Xuyên qua các tàn lá cây trong vườn, bầu trời trên cao vắng lặng đầy sao không một gợn mây. Anh Hai Nghệ cầm đèn pin đi trước dẫn đường, gió thổi nhẹ lay động những tàu lá chuối cùng các cành của bụi cây thấp. Chúng tôi băng qua vườn cây cùng những con mương nhỏ dẫn nước đến chỗ taxi là chiếc xuồng ba lá đang nằm chờ sẵn dưới hàng dừa cạnh một con rạch. Hai cô gái bước xuống xuồng, tôi đứng lại từ giă anh Hai Nghệ. Quay qua ông Ba, tôi ấp úng xin lỗi về chuyện lỡ lời làm ông giận khiến anh Hai Nghệ ngạc nhiên nh́n trân trối. Nghe tôi nói, ông Ba cười độ lượng, nắm chặt tay ân cần:

    - Cháu đừng bận tâm chuyện đó nữa, bác cũng nóng giờ đă quên hết. Thằng Hai gốc lính Cộng Hoà c̣n làm rể trong nhà th́ cháu phải hiểu gia đ́nh bác. Chúc cháu với hai cô tối nay đi đường b́nh an.

    Tôi ngồi vào giữa xuồng đối mặt với cô Bảy đằng trước và cô Đào sau lưng. Hai người đàn ông chèo xuồng dặn cả ba tuyệt đối ngồi yên, giữ im lặng. Xuồng bắt đầu tiến nhè nhẹ giữa hai bờ rạch tối đen, cây cối lùm xùm. Quen đường đi nước bước, hai người phu dễ dàng chèo chiếc xuồng ra khỏi con rạch và nhập vào ḍng kênh rộng hơn. Cứ vậy, xuồng ba lá chạy gần một giờ th́ gặp sông lớn. Trăng lờ mờ hiện ra ở đường chân trời. Gió xuôi cùng con nước ṛng giúp hai người phu chèo xuồng thật nhanh thật nhẹ. Nước chảy rất xiết nên xuồng chỉ dám chạy sát bờ trong làn hơi nước từ mặt sông ḥa với gió thổi mát lạnh. Nh́n mặt nước rộng, tôi không thấy được phía bờ đối diện và cũng không rơ đang ở trên sông nào? Khi chia tay ở xa cảng miền Tây, em gái tôi cho biết có thể cá lớn sẽ ra biển bằng ngă B́nh Đại nhưng lại không chắc. Đám tổ chức đă chở tôi vượt qua Mỏ Cày trước khi xuống tới Rạch Dầu-Thạnh Phú. Từ đây muốn đến B́nh Đại phải qua Giồng Trôm và như vậy tôi phải ở phía bên kia sông lớn. Hồi c̣n học giờ địa lư bậc trung học, tôi nhớ Bến Tre thông ra biển bằng các cửa sông Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và cửa Đại. Học từ lâu nay đă quên hết, định buột miệng hỏi hai người phu nhưng nhớ lời họ đă dặn nên tôi ngồi im. Cửa sông nào cũng được, miễn sao cá lớn ra biển an toàn, tôi nhủ thầm. Ngồi yên lại nhớ chuyến đi không thành vừa qua, nhớ về mẹ tôi cùng các cô em gái trong nhà. Nhớ những lúc ngủ ngồi gà gật liền mấy ngày trong căn buồng đầy rệp đói và chuyện vô t́nh khiến cho ông Ba hiểu lầm. Thường th́ người hiền lành ít nói như ông Ba lại có tính rất cục, lẽ ra tôi không nên hỏi vớ vẩn với ông. Đột nhiên tôi nhớ ḿnh đă bỏ quên bộ quần áo giặt sạch phơi bên hông nhà hồi lúc chiều.

    Chạy trên ḍng sông lớn chưa lâu, ba người khách chúng tôi một phen hốt hoảng khi bị một ghe gắn máy chận lại. Hai người phu chèo xuồng vội cập sát vào chiếc ghe máy đó và giúp cả ba trèo qua. Bóng điện nhỏ xíu gắn bên vách mái ghe soi sáng một dăy hơn mười người ngồi bó gối trong khoang che kín mít. Tiếng máy ghe nổ đều nhẹ, không ai nói với ai một lời, cứ im lặng tuân theo sắp xếp của người tổ chức. Ba chúng tôi chui vào ngồi yên xong xuôi, ghe máy tách khỏi xuồng ba lá rồi tăng tốc chạy tiếp. Đây mới ghe taxi, xuồng chèo tay vừa rồi chỉ chuyển tiếp v́ nó không thể chở khách đến thẳng cá lớn đang chờ đâu đó trên mặt sông rộng. Ghe taxi có lúc giảm tốc độ rồi lại chạy thật nhanh hoặc đảo hướng chạy ngược về đoạn sông cũ. Khách ngồi trong khoang ai cũng lo sợ, căng thẳng. Sát bên tôi, cô Đào thở hắt từng hơi hồi hộp.

    Quần tới quần lui cả hơn nửa giờ đồng hồ trên sông, ghe taxi mới gặp được cá lớn. Ghe chậm dần và cập lại bên hông cá lớn trong sự vui mừng của khách vượt biên. Lần lượt từng người chui ra khỏi ghe taxi và nhanh chóng trèo sang cá lớn. Tôi chui ra sau cùng, trèo qua đứng loay hoay trên mặt sàn cá lớn. Gió trên sông thổi mạnh hơn cùng tiếng nước vỗ vào thân ghe làm tôi có cảm giác sờ sợ. Một người đứng gần liền cầm tay tôi, ấn tôi chui tọt ngay xuống khoang hầm. Trong khoang hầm, mùi dầu máy, hơi người quyện cùng mùi dầu gió xanh con ó nồng nặc. Cái mùi quen thuộc trong các chuyến vượt biên khi trước. Cá lớn chạy chầm chậm nhận thêm khách chuyển tiếp ở các ghe taxi khác. Khoang hầm càng lúc càng đông người cho đến khi có tiếng phản đối: " Chỗ đâu nữa mà nhét hả các cha nội ". Nói th́ nói, khách vẫn được chuyển tiếp lên cá lớn và nhồi xuống luôn khoang hầm. Thật lạ lùng, đông người vậy mà vẫn đủ chỗ. Nam hay nữ ǵ bất kể, mặt kề sát vào lưng hoặc đè lên chân lên thân của nhau.Tôi thấy khó chịu, phải ngửa mặt lên ô trống cửa khoang hầm mong t́m chút không khí để thở. Chắc chắn sẽ có người xỉu nếu cứ ở lâu trong khoang hầm tối đen nóng nực, ngột ngạt và chật chội. Chợt tiếng người trên mặt sàn ghe nói vọng xuống:

    - Cá lớn bắt đầu chạy, tụi tui phải đậy kín nắp hầm đó. Ráng chịu đựng một chút nghe bà con.

    Tiếng máy nổ to hơn, cá lớn rùng ḿnh và từ từ tăng tốc độ. Tiếng nước vuốt sát vào ván thân ghe kêu rào rạo. Cá lớn chạy rồi, ai nấy thở phào mừng rỡ. Nắp khoang hầm nói đậy kín nhưng chỉ che hờ, nhờ vậy gió bên ngoài thổi tốc xuống dưới làm không khí bớt ngộp bớt nóng. Tôi mỏi mệt khắp cả người, cảm giác tê dại lan dần xuống hai đùi rồi hai chân nhưng vẫn không cách nào nhúc nhích thân ḿnh được. Cá lớn chạy được một lúc khá lâu th́ người ngồi ngay trước mặt giơ hai tay choàng vào cổ tôi và sau đó gục hẳn đầu xuống. Từ từ người đó chúi đầu vào ngực tôi, x̣a những lọn tóc dài phủ trên hai cánh tay. Một cô gái và không phải Đào hay Bẩy v́ mầu áo trắng nhờ nhờ. Cô gái này chúi đầu măi th́ làm sao có thể thở được và sẽ càng say sóng hơn. Nghĩ vậy, dùng hai tay tôi nâng người cô ngồi thẳng dậy rồi nói:

    - Cô ráng ngửa mặt lên mà thở, sẽ thấy dễ chịu. Đừng cúi đầu xuống măi, chóng mặt lắm.

    Làm theo lời vừa nghe nhưng chỉ được chốc lát, cô ta lại chúi đầu tiếp vào ngực tôi. Mỗi lần như vậy tôi phải nâng người cô ngồi thẳng lên. Tôi cũng quá sức mệt mỏi rồi thiếp đi cho đến khi cửa hầm được mở hẳn ra, kéo theo luồng không khí mát lạnh vào khoang kèm cùng lời báo.

    - Ḿnh ra biển lớn rồi bà con ơi. Ra biển lớn rồi!

    Không một tiếng người trong khoang hầm đáp lại. Ai nấy đều mệt nhoài v́ say sóng v́ ngồi măi một thế trong chỗ ngột ngạt. Ra tới biển lớn, không khí trong khoang ghe bớt ngộp th́ một cảm giác khó chịu khác xuất hiện. Sóng biển vỗ mạnh vào thân ghe làm mọi người nôn nao, bần thần say sẩm. Tôi bắt đầu chóng mặt và buồn ói dù trong bụng lép xẹp. Lúc chiều khi ở nhà ông bà Ba, tôi chỉ ăn uống qua loa nên giờ thức ăn trong bụng đă tiêu hết. Buồn ói nhưng chỉ ợ toàn hơi nhưng nhờ ợ được mới thấy dễ chịu trong người. Chung quanh tôi, tiếng người rên v́ mệt v́ kiệt sức hoặc v́ nôn ọe. Một ḍng âm ấm chảy từ từ xuống ngực rồi lan xuống bụng tôi, cô gái ngồi trước mặt đă ói. Cô ta tiếp tục ợ rồi ói luôn vào người tôi. Được một lúc, cô th́ thào:

    - Em mệt lắm anh ơi. Em xin lỗi anh... Khó chịu quá, chắc em chết.

    Nghe giọng cô, tôi biết là người miền Bắc và c̣n trẻ. Ngửa mặt lên, cô ta rùng ḿnh nhiều lần rồi lại ói nữa. Mùi chua nước chanh pha lẫn mùi béo hủ tiếu ḿ cùng mùi thịt nướng bốc lên từ bệt ói trên người, tôi ghê quá, rồi nghĩ ḿnh mặc duy nhất bộ quần áo lấy đâu ra bộ khác để thay. Ói đầy người tôi, cô gái này làm phiền quá nhưng cũng không trách được. Khoang hầm tối hù không ai biết mặt ai, người nằm rũ đè lên người khác. Chỗ nào cũng bê bết những vệt nước bẩn, đồ ói của nhau. Có người càu nhàu, than văn v́ bị nước đái thấm ướt người.

    Cá lớn cứ chạy cho đến khi trời sáng dần. Ánh sáng chiếu vào mới thấy có quá đông người trong khoang hầm. Người lớn, trẻ em, nam và nữ... san sát bên nhau trong một không gian nhỏ xíu. Người người bó gối, cong lưng, nằm ngang, dựa ngửa, nửa đứng nửa ngồi lom khom sát vách hầm hoặc đè lên nhau chịu đựng. Ai nấy nhắm mắt như ngủ, gục đầu gật gù hoặc ngửa mặt lên phía cửa khoang. Trước chuyến đi nhiều người đă uống thuốc chống ói nhưng cũng chẳng ăn thua. Ói vẫn cứ ói. Cô gái ói vào người tôi mặc chiếc áo có mầu hồng nhạt, ngồi gục đầu bất động rũ rượi. Tai tôi nghe có tiếng con nít kêu khóc đâu đó trong ghe rồi tiếng phụ nữ dỗ nhè nhẹ. Trẻ em đi cùng cha mẹ trên cá lớn và chúng đang ở đâu? Trong khoang hầm bên cạnh hay ở trên buồng máy? Được một lát tôi lại ngủ thiếp đi, ngủ rồi thức sau đó lại ngủ tiếp cho đến lúc có tiếng người vọng xuống báo tin cá lớn đă ra khỏi vùng biển Việt Nam.

    Cá lớn đă ra khỏi vùng biển Việt Nam, chúng tôi đă thoát tay công an biên pḥng. Tài công cho phép ai muốn lên trên mặt ghe th́ lên nhưng phải cẩn thận khi đi lại. Rủi bị rớt xuống biển không ai biết th́ ráng chịu mà ngay cả có người trông thấy cũng chưa chắc ghe sẽ quay lại vớt. Các tài công nói thêm nếu ai cảm thấy ở dưới khoang ghe được th́ cứ ở dưới, đông người trên mặt sàn ghe cũng không tốt. Nghe xong, vài người ngồi gần cửa hầm đă lấy sức đu thân trèo hẳn lên trên rồi lại có thêm một số người khác leo ra tiếp. Không khí ở khoang hầm bớt nóng nhưng mùi đồ ói, mùi nước tiểu, mùi dầu máy ghe hoà với mùi dầu gió xanh vẫn nồng nặc khiến tôi nghĩ ḿnh phải ra khỏi đây. Liền đó, tôi lách người kéo cô gái ngồi dậy và nhẹ nhàng dời cô dựa lưng vào sát vách ghe. Cô ta ngửa mặt lên hé mắt nh́n tôi, miệng thều thào: " Em cám ơn anh ". Đúng như tôi nghĩ lúc khuya, cô gái này c̣n rất trẻ, chắc trên dưới 20 tuổi. Nét mặt cô mệt mỏi, tiều tụy nhưng trông rất xinh. Bước tới chỗ nắp cửa hầm, lấy sức tôi đă chồm tới được và một người ngồi ngay cạnh liền nắm tay giúp leo hẳn lên. Trên mặt sàn ghe đầy nhóc người ngồi nằm la liệt bên nhau. Nh́n đồng hồ đeo tay đă 6:25 chiều, tôi cúi người lết lại một chỗ trống gần phía mũi ghe và nằm ngửa vật ra đó. Cá lớn vẫn chạy băng băng có lúc cỡi sóng làm văng nước tung toé vào mặt vào người bọn chúng tôi nhưng vẫn thật dễ chịu so với lúc chen nhau chật cứng dưới khoang hầm. Trời xâm xẩm tối dần rồi đêm hẳn. Bầu trời trong vắt đầy sao lấp lánh, cá lớn chạy hết tốc lực mà tôi cảm giác ḿnh vẫn đang nằm yên tại chỗ. Tôi luồn tay nắm chặt đoạn dây thừng nối từ mũi ghe cho an toàn và cứ nằm yên cho đến lúc lại ngủ thiếp nữa. Rồi thức rồi ngủ trong đêm dần dần qua cho đến khi trời b́nh minh. Một tṛng đỏ trứng gà từ từ nhô lên trên mặt biển xanh ở phía đông xiên xiên cạnh bên thân cá lớn. Bóng tṛn đỏ mặt trời lơ lửng trên bầu trời buổi sớm mai và in h́nh phản chiếu trong làn sương mờ của mặt nước xanh dương không một gợn mây. Cảnh b́nh minh trên biển trông thật đẹp. Đă qua cơn say sóng, tôi ngồi nhổm thẳng dậy nh́n xuống quần áo ḿnh. Những bệt loang lổ đă khô của thức ăn ói hồi khuya giờ dính cứng trên mặt vải. Thầm nghĩ ḿnh bẩn quá nhưng lấy đâu ra quần áo sạch để thay! Không thấy Đào và Bẩy trong số người ngồi trên mặt sàn ghe, tài công đă ém hai cô gái vào chỗ nào trong đêm tối khi từ ghe taxi chuyển sang? Bây giờ, t́nh trạng hai cô ra sao.

    Không c̣n say sóng, tôi đi lần ra đằng sau cá lớn, nh́n vào buồng lái thấy khá đông phụ nữ cùng trẻ em chen chúc sát bên nhau trên cái sập gỗ. Phần đuôi ghe sau buồng lái cũng đầy người đang ngồi hoặc nằm la liệt ở mặt sàn hầm máy tàu. Hai phụ nữ đang lui cui nhóm lửa bếp dầu hôi để chuẩn bị nấu bữa ăn. Một cái nồi khá lớn đầy ḿ gói bẻ vụn, cơm nguội và thịt băm nhỏ để trong dĩa ngay bên cạnh. Gần đó, một phi nhựa lớn nước lă được người đàn ông trộng tuổi ngồi kế bên canh giữ. Tôi lại gần xin ông ta chút nước uống. Ông liền mở nắp phi nhựa, múc ít nước bằng cái ca mủ nhỏ xíu đưa cho tôi rồi nói:

    - Uống vậy thôi nha cậu, c̣n phải để dành cho người khác nữa.

    Ḿ nấu chín, hai phụ nữ múc lần lượt cho từng người một bát nhỏ. Nhận bát ḿ, có người cố nuốt lấy sức nhưng vài người lắc đầu từ chối. Từ lúc xuống cá lớn tới giờ không một chút ǵ bỏ bụng nên khi bát cháo chuyền đến, tôi cầm lấy và húp liền từng ngụm. Cháo nấu lạt nhách. Hai người phụ nữ đă cố ư nấu cháo lạt v́ những gói bột nêm c̣n nguyên nằm cạnh bếp ḷ. Cho bột nêm vào nồi cháo, người trên cá lớn khi ăn xong sẽ phải uống thêm nước mà nước rất giới hạn cho từng người.

    Cá lớn vẫn chạy êm ả suốt trọn buổi sáng trên mặt biển bao la, vắng lặng không một bóng tầu. Những người ngồi nằm gần bên tôi vẫn lừ đừ cơn say sóng. Cả bọn chúng tôi mệt mỏi, áo quần bẩn thỉu nh́n nhau không ai buồn nói chuyện với ai. Có anh thanh niên nằm như đang ngủ chợt ngồi nhổm dậy, lết đến sát mép ghe và ói ra chút nước đặc quánh mầu vàng. Anh ta đă ói ra mật? Nh́n đồng hồ trên tay đă 2: 45 chiều, chợt tai tôi nghe tiếng nói lớn:

    - Ê! H́nh như có tàu lạ đuổi theo ghe ḿnh bà con ơi.

    Nghe lời báo động, tôi đứng hẳn người lên nh́n ở mé sau cá lớn. Lờ mờ một chấm đen nhỏ bằng cỡ hạt đậu xanh tuốt tận đằng xa xa. Vài người khác cố đứng lên nh́n chấm nhỏ đó rồi có tiếng hỏi:

    - Sao ông biết tàu đó đuổi theo ghe ḿnh! Có chắc không?

    - Tui để ư cả tiếng đồng hồ từ lúc nó mới chỉ như một cái chấm. Nó cứ chạy theo ḿnh, có vẻ càng lúc càng nhanh hơn. Tui phải báo tin cho mấy cha tài công biết.

    Dứt câu, người đó đi vào trong buồng lái ghe và ngay sau quay trở ra với một người đàn ông trung niên vẻ mặt mệt mỏi như vừa thức dậy sau giấc ngủ vùi. Bước đến gần chỗ chúng tôi, ông đó lấy tay che mắt, tránh những tia nắng phản chiếu từ mặt nước biển để nh́n cái chấm đen. Đứng yên im lặng suy nghĩ trong chốc lát rồi hướng mặt về buồng lái, ông ta nói:

    - Thử đổi hướng khác xem sao Thuận ơi.

    Ông này là chủ ghe và chỉ huy đám tài công cùng thợ máy trên cá lớn? Khuôn mặt ông xương xương, để râu mép, da hơi đen, thân người gầy g̣ và dáng vẻ khắc khổ. Ông đến cạnh phi nhựa đựng nước lă, người đàn ông ngồi đó đưa ngay ra một ca mủ lớn. Ông cầm và múc một ca nước đầy đến miệng. Uống ngay vài ngụm rồi bước ra sát mép ghe, ông đổ nước vào tay thấm ướt mặt, xúc miệng lục bục rồi sau đó nhổ thẳng xuống biển. Đúng là xếp x̣ng v́ người đàn ông ngồi giữ phi nước không hề phàn nàn ǵ, lại hỏi:

    - Có lấy thêm nước nữa không anh Tám?

    - Không. Vậy đủ rồi anh. Ông ta lắc đầu.

    Cá lớn đă đổi hướng chạy, cả bọn chúng tôi ngồi yên nghĩ mọi việc đă qua mối lo nhưng không lâu sau, người đàn ông tên Tám cau mặt, lẩm bẩm:

    - Cha chả! Nó cũng đổi hướng chạy theo ḿnh cà. Thuận ơi, đổi hướng khác lần nữa xem mậy.

    Tàu lạ cũng đổi hướng bám theo cá lớn chúng tôi. Người đàn ông tên Tám quay vô buồng lái rồi trở ra tay cầm theo một cái ống nḥm khá lớn. Loại ống nḥm quân đội miền Nam VNCH trước đây thường dùng. Ông ta đứng dựa lưng sát vào cột gỗ sau buồng lái, chỉa ống nḥm nh́n về chấm đen. Ông im lặng quan sát khá lâu rồi đưa cái ống nḥm cho vài người chung quanh của nhóm tổ chức. Họ lần lượt chuyền tay cái ống nḥm nh́n con tàu lạ. Người đàn ông tên Tám ra lệnh:

    - Thuận ơi! Cho máy chạy hết tốc lực đi.

    Đám người tổ chức ngồi hẳn xuống sàn ghe ngay cái bếp nấu, mặt người nào người nấy nh́n nhau căng thẳng. Vài người ngồi gần hỏi mượn cái ống nḥm để nh́n con tàu lạ. Đến phiên tôi, nghĩ ḿnh thử nh́n xem con tàu lạ ra sao! Tôi hướng ống nḥm nh́n cái chấm đen xám. Nó lớn hơn khi nh́n so với bên ngoài nhưng khó mà đoán được h́nh dáng thực. Chỉ biết tàu lạ vẫn cố bám theo sau chúng tôi. Tôi chuyền cái ống nḥm cho người khác. Người đàn ông tên Tám trấn an bảo ai nấy b́nh tĩnh đừng lo lắng ǵ. Ông giao cái ống nḥm cho một thanh niên và dặn tiếp tục theo dơi. Nghe lời ông, đám chúng tôi tản ra nhưng trong bụng ai cũng vẫn mối lo.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  8. #8
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    Cá lớn chạy măi cho đến khi trời và nước đổi sang màu xám của hoàng hôn. Chiều xuống, gió thổi càng lúc càng dữ dội và v́ vậy mặt biển nổi đầy những cơn sóng khá mạnh làm ai cũng sợ. Trời đă 5 giờ rồi 6 giờ... mặt biển dần xẩm tối và sóng nhẹ hơn trước. Anh thanh niên cầm ống nḥm cất tiếng gọi:

    - Anh Tám ơi lại xem ngay nè, có thêm một tàu nữa đuổi theo ghe ḿnh đó.

    Nghe báo, chúng tôi vội đứng lên nh́n và sau đó lại chuyền tay nhau cái ống nḥm. Rơ ràng thấp thoáng thêm tàu thứ hai chạy xiên xiên nhắm hướng về cá lớn trong làn sóng nhấp nhô. Tài công Thuận cho máy chạy hết tốc lực nhưng khoảng cách giữa hai bên đă gần hơn trước nên người trên ghe thấy rơ h́nh ảnh của hai tàu lạ. Với tôi, chúng trông rất quen và thôi chết, tôi đă nhận ra hai tàu đánh cá Thái Lan. Quay đầu nh́n nhóm người của ông Tám, tôi định nói cho họ biết về ư nghĩ của ḿnh th́ một thanh niên th́ thào:

    - Hai tàu đánh cá Thái Lan. Ḿnh gặp bọn hải tặc rồi.

    Ai có mặt tại chỗ đều nghe rất rơ lời anh thanh niên. Một luồng ớn lạnh chạy dọc cơ thể hằn lên nỗi sợ hăi trên mặt mọi người chúng tôi. Người đàn ông tên Tám vụt đứng lên, vỗ hai tay vào nhau và nói lớn:

    - Nghe đây! Chúng ta đang cơn nguy hiểm bà con ơi. Rồi ông tiếp liền một hơi: " Tàu hải tặc theo sát ghe ḿnh. Tui là Tám Kiệt, chủ ghe này. Mong bà con b́nh tĩnh góp sức với anh em tui để chống lại bọn chúng ".

    Tám Kiệt cho biết trước khi vượt biên, dự trù ghe có thể gặp tàu công an hoặc bọn hải tặc truy đuổi nên ông đă đích thân xem xét thân ghe thật kỹ, cho gắn máy mới và mang theo ít vũ khí pḥng thân. Ông tiếp:

    - Tụi tui có một quả da láng (lựu đạn M 26 h́nh tṛn, vỏ láng bóng như quả vú sữa) và hai trái mini (lựu đạn trái nhỏ, các đơn vị biệt kích quân đội miền Nam VNCH thường sử dụng). Súng th́ một AK 47 báng gấp và một Cabin cưa bỏ báng gỗ. Đạn mỗi súng chỉ có một băng 30 viên thôi. Rất cần các anh các chú giúp, ai từng đi lính quốc gia hoặc bộ đội hăy ra góp sức với tụi tui ngay.

    Những người có mặt trên sàn cá lớn không c̣n cảm thấy say sóng hay buồn ngủ nữa, ai nấy đều tỉnh hẳn. Tám Kiệt vừa dứt lời, tiếng vài người nói ngay: " Chú ơi để cháu sử dụng cây AK cho " hoặc " Anh để tôi thủ cây Cabin nghe ". Tiếng một người khác: " Đưa tui trái mini đi, tui ném chết mẹ tụi nó luôn ". Trong chốc lát những người hưởng ứng ngồi quây quần chung quanh Tám Kiệt và một phương án tác chiến cấp tốc được họ vạch ra. Kinh nghiệm từ những ghe vượt biên gặp hải tặc trước đây kể lại trong thư gửi về cho thân nhân th́ hai tàu hải tặc sẽ chạy ép ghe chúng tôi vào giữa. Ép cho đến khi ghe vượt biên phải ngừng lại, chúng sẽ nhẩy qua dở tṛ. Tám Kiệt cho biết khi hai tàu hải tặc áp sát bên cá lớn th́ đúng dịp thuận tiện gần tầm tay nhất, người thủ lựu đạn phải mở kíp ném thẳng sao cho lọt vào tàu hải tặc. Ném lọt được xuống hầm máy tàu chúng càng tốt. Người thủ súng AK hay Cabin phải hổ trợ bắn gục ngay bất kỳ tên hải tặc nào định nhào qua hay vừa nhẩy sang được mặt sàn cá lớn.

    - Mini rút chốt xong sẽ nổ lập tức khi ném và sức sát thương rất lớn. Do vậy, tôi đề nghị hai quả mini được ném liên tiếp ngay vào hai tàu chúng. Ai cầm quả da láng phải hờm sẵn trong tay, nếu thấy quả mini nào không nổ hoặc nổ nhưng không phá được tàu chúng th́ phải ném bồi tiếp liền. Nhớ nghe, mini rút chốt phải ném ngay. Da láng phải đếm từ một đến năm mới được ném. Ném sớm quá, coi chừng bọn hải tặc nhặt được rồi quăng lại bên ghe ḿnh th́ khốn. Một người đàn ông nói giọng Bắc góp ư.

    Tất cả những điều họ nói ra thật đúng. Phải chờ khi hai tàu hải tặc Thái sáp lại cạnh bên hông cá lớn đúng tầm và ném được lựu đạn lọt vào trong tàu chúng th́ chúng tôi mới có hy vọng thoát nạn. Điều quan trọng đừng để bọn hải tặc biết trên cá lớn có vũ khí v́ như vậy chúng sẽ húc thẳng cho bể ghe thay v́ áp sát vào để bắt sống người.

    - Ḿnh có ống nḥm, biết đâu chúng cũng có để theo dơi ḿnh đó. Cẩn thận đừng để chúng thấy vũ khí ḿnh cầm trong tay. Một người khác góp ư.

    Cầm cây viết, Tám Kiệt vẽ phác h́nh hai tàu Thái Lan kè sát cá lớn vào giữa. Thật không ngờ nét vẽ của ông khá đẹp. Cung cách và nét vẽ của ông ta, tôi nghĩ Tám Kiệt không phải một chủ ghe b́nh thường. Tám Kiệt cùng nhóm tác chiến sắp xếp vị trí phải đứng, thủ vũ khí ǵ trong tay để có thể tiếp ứng cho nhau trong việc đối đầu với hai tàu hải tặc. Chợt ánh đèn pha sáng rực từ hai tàu Thái chiếu thẳng vào ghe chúng tôi làm ai nấy chói mắt. Chúng vừa mở đèn và khoảng cách đă gần kề cá lớn hơn trước. Tám Kiệt lấy tay che mắt nh́n hai tàu Thái rồi nói:

    - Nếu bọn chúng chỉ có một chiếc ḿnh cũng chẳng sợ v́ nó đuổi th́ đuổi ḿnh chạy cứ chạy. Tui biết ghe ḿnh gắn máy Yanmar đời mới thật nhưng làm sao chạy bằng tàu Thái được, máy tàu tụi nó loại Ray 6 chạy nhanh hết biết nhưng ḿnh cứ chạy hết tốc lực, nếu nó sáp lại gần th́ ḿnh tách ra. Giờ nó có tới hai chiếc th́ việc lại khác, các anh các chú đă nhận trách nhiệm th́ phải thật b́nh tĩnh đối phó với bọn chúng. Muốn tránh gặp chúng mà không được, ḿnh đành phải tự bảo vệ lấy thôi. Lựu đạn khi nổ có thể sẽ văng miểng gây thương tích người trên ghe nhưng đành phải chịu. Giữa cái xấu và cái tồi tệ, chúng ta phải chọn cái xấu. Biết đâu bọn chúng cũng có súng và như vậy sẽ có người của phe ḿnh bị thương hoặc chết. Chúng ta phải chấp nhận may rủi. Phải không?

    Một người tham gia tác chiến phụ họa: " Tàu hải tặc Thái chỉ có trên dưới mười thằng trong khi ḿnh tới sáu bẩy chục nam giới và có cả vũ khí nữa, không lẽ chịu thua bọn chúng sao! Ḿnh phải ĺ, b́nh tĩnh khi hành động và đừng có sợ tụi nó ".

    Ông ta nói đúng. Mỗi tàu đánh cá Thái Lan có rất ít ngư phủ. Ỉ tàu lớn và ghe vượt biên nhỏ nên chúng sáp lại ăn hiếp. Nếu gan dạ đối đầu, chưa chắc bọn chúng làm ǵ được ghe vượt biên. Chúng tôi phải can đảm đối mặt và không c̣n sự lựa chọn nào khác.

    Đột nhiên có tiếng súng nổ từ hướng hai tàu Thái. Tiếng súng lại nổ tiếp từng phát một vang vang. Chúng bắn chỉ thiên hay bắn thẳng vào cá lớn? Tám Kiệt đă tiên liệu đúng, tàu hải tặc có súng. Tám Kiệt liền bảo khách ngồi trên sàn ghe chui xuống khoang hầm cho an toàn nhưng chỉ một vài người chịu nghe lời ông. Đă trải qua cái mệt, ngột ngạt khi ở dưới khoang hầm nên bây giờ bảo họ chui xuống trở lại rất khó. Chết th́ chết, họ vẫn cứ ngồi trên mặt sàn ghe, chờ đợi những chuyện sắp sửa xẩy đến. Hai tàu Thái đến gần hơn, y chang những tàu hải tặc tôi đă gặp trong chuyến vượt biên kỳ trước. Dàn đèn pha sáng rực chiếu thẳng vào cá lớn cùng tiếng loa kêu stop... stop văng vẳng trong gió từ hướng hai tàu hải tặc. Bất chấp tiếng súng nổ tiếng loa gọi, cá lớn chúng tôi vẫn chạy. Sợ và dừng máy lại để chết vào tay chúng sao. Có mà điên! Đă có kế hoạch tác chiến rồi, hai tàu hải tặc áp sát lại hai bên hông cá lớn đi sẽ biết. Tám Kiệt lệnh lấy ngay túi vũ khí ra phân phát cho những người tác chiến và ông dặn phải thật khéo đừng để bọn tàu Thái trông thấy. Nhưng thật không ngờ! Túi đựng vũ khí không có trong cá lớn dù tay chân Tám Kiệt kiểm đi soát lại mọi ngóc ngách cùng các túi xách cá nhân ở trên ghe. Không ai t́m thấy túi đựng vũ khí đâu cả mà hai tàu hải tặc đến quá gần cá lớn rồi. Chúng chạy song song với nhau chỉ để một khoảng hẹp giữa hai thân tàu. Khoảng hẹp dành để ép cứng cá lớn chúng tôi phải dừng đứng lại. Tám Kiệt hoảng hốt thật sự, thúc hối t́m bằng được túi đựng vũ khí ngay nhưng vô vọng. Ai đó trong nhóm tổ chức đă bỏ quên nó dưới một ghe taxi khi vội vă chuyển người sang cá lớn. Biết sự thực phũ phàng, Tám Kiệt ngồi bệt hẳn xuống sàn ghe, hai tay ôm đầu rầu rĩ. Th́nh ĺnh ông ta đứng bật dậy, gầm lớn:

    - Đ.M tụi chúng mầy làm ăn như con C. Việc quan trọng như vậy mà làm cũng không xong. Bây giờ lấy cái ǵ để chơi với tụi nó đây? Tao đă dặn đi dặn lại mà vẫn quên. Trời ơi là trời!

    Tám Kiệt lảo đảo tiến đến dựa vào cây cột phần đuôi ghe, nhóm người tay chân im lặng nh́n ông rồi quay ngó nhau trong bối rối. Tám Kiệt từ từ ngồi bệt xuống sàn ghe, mặt thiểu năo nh́n hai con tàu Thái, khẽ lẩm bẩm trách móc:

    - Tao đă quá tin tưởng tụi bay... Lẽ ra phải tự tay tao làm...Tội nghiệp con tui vợ tui... Làm sao bây giờ?

    Một hồi c̣i lảnh lót vang lên từ phía hai tàu Thái làm chúng tôi giật nẩy ḿnh. Hồi c̣i như tiếng cười tiếng hú của loài ác thú sắp vồ được con mồi sau đoạn đường rượt đuổi. Tiếng hú đắc thắng trước con mồi nhỏ, cố chạy v́ không phương chống cự và sắp sửa sa vào tay chúng. Tôi nh́n Tám Kiệt cùng đám người tay chân. Ánh mắt thất thần của họ làm tôi nhớ lại khuôn mặt của anh Tấn và hai tài công trong chuyến vượt biên vừa qua. Khuôn mặt hối lỗi v́ một toan tính sai lầm để gây hậu quả không may cho cả ghe. Tôi thấy lại khuôn mặt của Ánh Phương và của Mỹ An đang hiển hiện trong ánh mắt các phụ nữ trên sập gỗ ở buồng lái cá lớn. Những phụ nữ, thiếu nữ vẻ mặt tuy tiều tụy nhưng vẫn xinh đẹp, hấp dẫn bọn quỷ sống. Chận được cá lớn tối nay, sau khi vơ vét tài sản th́ có thể chúng chỉ bắt đi toàn bộ nữ giới và tha không giết đàn ông-thanh niên như ở ghe tôi vượt biên. Tôi nghĩ vậy nhưng cũng không chắc v́ khi đó chuyến tôi đi đang ở trong vịnh Thái Lan nơi có nhiều ghe thuyền qua lại khiến chúng chùn tay. Giờ đây, cá lớn ở trong vùng biển quốc tế bao la và nhất là đang trong đêm tối. Bóng tối đồng lơa với tội ác, chắc chắn số phận bi thảm sẽ đến cho người trên cá lớn chỉ trong một chốc lát nữa. Vài thiếu nữ luống cuống cố thu ḿnh trước ánh đèn pha hai tàu Thái và có người đă rấm rứt khóc. Đám nam giới chúng tôi ngồi bất động yên lặng, không có vũ khí trong tay nên ai cũng mất tinh thần. Người nào người nấy nh́n nhau thầm hỏi biết làm cái ǵ để thoát tay hai tàu Thái. Tôi nghĩ về mẹ tôi cùng các em trai em gái trong nhà, ḿnh vừa thoát tay công an giờ lại gặp bọn hải tặc. Tôi nhớ lời dặn ḍ của Hường nếu gặp chuyến vượt biên phải báo tin cho nàng biết để gia đ́nh sắp xếp gửi Cao đi cùng. Mấy ngày ẩn náu ở nhà ông Ba, thâm tâm tôi đă ray rức v́ không làm tṛn điều Hường gửi gấm. Không ngờ như vậy lại may cho gia đ́nh nàng. Tôi nghĩ tới thằng Dũng với lời nó từng kể: " Số tao, mấy người coi tử vi nói đi vượt biên khó thành v́ mệnh có cách ngựa què Chiết Túc Mă " mà hoang mang hay mạng của bản thân ḿnh cũng thế? Tôi đă gặp hải tặc một lần và đă thoát nhưng c̣n bây giờ? Thêm hồi c̣i lanh lảnh rít lên từ hai tàu Thái khiến tôi phải ngẩng mặt nh́n chúng. Một chữ T lớn nổi rơ ngay mũi con tàu cao vút phăng phăng lướt sóng theo sát sau chúng tôi. Tiếng loa stop... stop chung với tiếng c̣i vang vang làm ai nấy trong cá lớn khiếp đảm, tay chân run rẩy kinh hoàng. Ngồi thu ḿnh cạnh cột gỗ, tôi cúi đầu lẩm bẩm: " Mẹ ơi! Tàu Thái đến gần quá rồi, con sắp chết đây ".

    Bất ngờ, thật bất ngờ. Một việc xẩy ra nhanh như cái chớp mắt và tương tự phép lạ đă giúp ghe vượt biên chúng tôi thoát tay bọn hải tặc chỉ trong gang tấc.

    Sự việc xẩy đến thật nhanh và bất ngờ trong lúc tôi đang nghĩ về mẹ tôi. Người mẹ hiền, cao tuổi, suốt một đời lo lắng và săn sóc từng chút một khi tôi sống bên bà. Trong mắt bà, tôi vẫn chỉ đứa con bé nhỏ dù bây giờ đă hơn ba mươi tuổi. Tôi khiếp sợ lúc thấy hai con tàu Thái đến quá gần v́ biết khi ép bắt được cá lớn, chúng chẳng cần giết đám nam giới làm ǵ cho mệt sức. Chỉ quăng từng người một xuống biển là xong. Sóng biển cùng cơn nắng nóng chỉ trong vài ngày cả bọn người trên cá lớn chúng tôi sẽ từ từ kiệt sức và chắc chắn là chết. Đó là chúng không giết ngay, c̣n không th́ với dao to bản, đ̣ng (sào cây dài gắn dao sắt nhọn như dáo dùng để đâm cá dữ trong lưới) là đồ nghề của ngư phủ cũng sẽ thành vũ khí để chúng thanh toán thuyền nhân nào c̣n lóp ngóp dưới nước. Khi c̣n ở trên tàu hải tặc trong chuyến vượt biên lần trước, tôi thấy chúng c̣n có cả búa tạ, mỏ lết lớn và các đ̣n sắt dài nữa. Một trong các thứ đó sẽ phạm vào người ḿnh, tôi nhắm mắt ôm chân cột của mái che cá lớn mà rên rỉ. Ôm chân cột hay đang ôm chân từ mẫu, tôi lầm thầm xin bà tha thứ cho các lỗi lầm đă làm th́ tai nghe tiếng động rào rào đều khắp. Tiếng rào rào phát ra từ trên nóc ca bin buồng lái càng lúc càng lớn hơn và át cả tiếng máy ghe cùng tiếng người gọi nhau lao xao. Những giọt nước lạnh bắn hất vào người làm tôi bừng tỉnh, mở to mắt nh́n. Một cơn mưa bất thần đổ xuống cá lớn và hai con tàu Thái. Trong phút chốc, hai tàu hải tặc thành các vệt đèn pha mờ đục ngay sau cá lớn chúng tôi. Hạt mưa phản chiếu ánh sáng từ dàn đèn pha vô t́nh đă tạo thành một bức chắn che mù đôi mắt loài cú nh́n mồi ngon. Mưa dầy nặng hạt quất xối xả vào thân cá lớn làm tôi phải lách người vào sâu hơn trong mái che để tránh nước kịp thấy Tám Kiệt đứng bật dậy lao tới buồng máy, hét lớn:

    - Tắt máy... Tắt đèn... Ngừng ghe ngay, Thuận ơi!

    Máy ghe liền im bặt, cá lớn chạy chậm từ từ. Thuận tắt luôn cả các bóng đèn nhỏ nơi buồng lái và mái che phía sau cá lớn. Chớp mắt, hai con tàu Thái lướt nhanh qua rồi mất dạng trong cơn mưa mù mịt, tầm tă. Chúng đă không thấy cá lớn chúng tôi giữa đêm trường thăm thẳm. Cơn mưa vẫn rớt xối xả khá lâu mới nhẹ hạt dần và từ từ dứt hẳn. Chúng tôi nh́n mặt biển tối đen chung quanh, hai con tàu Thái giờ chỉ là đốm đèn sáng nằm cách chúng tôi tít đằng xa nơi một chân trời. Tám Kiệt cho nổ máy ghe trở lại và dùng ngay đốm sáng của hai con tàu Thái làm điểm chuẩn, y đổi hải tŕnh chạy sang một hướng khác. Cơn mưa bất ngờ đă cứu mạng ghe vượt biên chúng tôi.

    - Chúng ta thoát nạn rồi bà con ơi. Ha ha!

    Tám Kiệt nói và cười hoan hỉ với những phụ nữ vẫn c̣n đang trong tâm trạng sợ sệt ngồi đầy trên sập gỗ ngay sau lưng y. Vài người hét lên v́ quá vui trước chuyện may bất ngờ. Chúng tôi, ai nấy thở phào nhẹ gánh mối lo. Bây giờ đến phiên Tám Kiệt chạy ghe thay cho tài công bước ra khỏi buồng máy. Thuận đến gần chỗ tôi ngồi và dọn sơ những mảnh vụn ḿ sợi vương văi trên sàn ghe ướt nước rồi anh nằm vật ra ngủ thật ngon lành.

    B́nh minh đến với h́nh ảnh cũ, một ḷng đỏ trứng gà từ từ nhú lên khỏi mặt biển xanh phẳng ĺ. Gió thổi nhè nhẹ, mặt biển buổi sáng thật yên lặng không một lọn sóng. Trong cá lớn, hầu hết mọi người vẫn đang cơn ngủ say. Vài người cho nhau biết họ buồn tiểu nhưng dù cố hết sức vẫn không rặn ra được một giọt. Không hiểu tại sao hay đây là dạng sinh lư cơ thể người say sóng biển. Tôi lại kiếm chỗ ngủ cho đến khi tai nghe tiếng người gọi nhau ơi ới để xem cảnh cá heo bơi đua song song với cá lớn. Cá heo cả bầy 3, 4 con có lúc vọt hẳn thân h́nh xám trắng thon gọn lên mặt nước như thách thức tốc độ, trông thật ngoạn mục. Ở mặt sàn, tài công Thuận ngủ li b́ khá lâu như chưa bao giờ anh có giấc ngủ như vậy. Cũng phải thôi, anh đă cầm lái suốt từ lúc cá lớn c̣n ở trên sông bên quê nhà cho đến tối đêm qua. Nh́n Tám Kiệt bên tay lái ghe, tôi phục ông đă nhanh trí cho ngưng máy đúng lúc. Ngẫm lại cũng là chuyện lạ v́ mưa đến rất nhanh, hai con tàu Thái vừa vượt qua cá lớn một quăng xa th́ cơn mưa đó liền dứt đột ngột. Một phối hợp nhịp nhàng chính xác lạ lùng. Không ai ngờ đă có cơn mưa kịp lúc và đă mở sinh lộ cho đám người vượt biên chúng tôi. Nếu mưa mang niềm vui cho người này th́ sẽ mang nỗi buồn cho kẻ khác như khi ḿnh so sánh giữa người làm ruộng và người bán nước mía khi cả hai cùng trong một cơn mưa.

    Cá lớn vẫn chạy đều đều êm ả. Mặt biển chung quanh vẫn một mầu nước xanh và không một bóng tàu, ghe qua lại. Biển ở đây có mầu xanh lá cây rất đậm và có lúc đổi sang tím thẫm. Trời về trưa làm bầu không khí nóng nực, vài người mặt mũi đỏ bừng v́ ở ngoài nắng nhiều giờ. Những cụm mây trắng đứng yên trên bầu trời xanh trong vắt không một cánh hải âu. Sau cơn hoạn nạn người trên cá lớn cảm thấy thân thiết hơn, ngồi bên nhau, bàn luận rôm rả về chuyện hai con tàu hải tặc hồi hôm. Ai cũng mừng v́ một kết cuộc may mắn đă đến với mọi người trên ghe. Chuyện đă qua, giờ nghĩ lại nếu khi đó chúng tôi có vũ khí và không có cơn mưa th́ chưa biết hậu quả của hai bên sẽ ra sao. Có người quả quyết:

    - Ghe chúng ta có ông bà theo phù hộ cho con cháu nên mới khiến đổ mưa đột ngột như vậy. Bầu trời trước đó trong veo tui có thấy mây thấy miếc ǵ đâu.

    - Lúc đó tui cứ nghĩ ghe ḿnh tiêu tùng rồi. Nói thật, vái đến được trại tị nạn tui sẽ cạo đầu ăn chay một tháng liền. Một thanh niên vẻ mặt chất phác, góp lời.

    Ai cũng đồng ư chuyện ghe bị tàu Thái đuổi đêm qua mới biết hải tặc lúc nào và thời nào cũng có. Thực ra chúng là ghe đánh cá nhưng hễ có cơ hội th́ sẵn sàng xuống tay liền. Bàn luận vui vẻ, chúng tôi mới biết thêm về từng người trong nhóm hưởng ứng tác chiến hồi hôm. Dũng, thanh niên nói Tám Kiệt cho sử dụng cây AK vốn từng là bộ đội Việt Cộng thuộc Trung đoàn Gia Định. Người dành sử dụng cây Cabin là cựu lính địa phương quân thời trước 30-4 và người thủ lựu đạn mini từng có thời gian đi lính trinh sát thuộc sư đoàn 7 bộ binh miền Nam VNCH. Đàn em Tám Kiệt là những người nhận quả da láng hổ trợ hoặc quả mini c̣n lại. Cả bọn ngồi bên nhau thân thích như bạn bè hay họ hàng ruột thịt đă xa cách lâu ngày mới vừa gặp lại. Tôi sáp lại ngồi gần họ cho vui. Ông cựu binh địa phương quân nói: " Mấy anh biết, tui nhận cây Cabin mà lo không biết có tỉa trúng táo thằng giặc Thái nào không, lâu rồi đâu có cầm đến súng ". Một thanh niên ngồi đối diện ông cựu binh, góp lời:

    - Tui cũng vậy, lúc nhận lời anh Tám thủ lựu đạn để ném sang tàu chúng, tui cũng lo lắm v́ không biết có làm được như ư ḿnh muốn không. Ông cựu lính trinh sát cười nụ, nói: " Bây giờ sức bọn lính ǵa như ḿnh cũng đâu có c̣n được như mấy cậu trẻ. Có điều như anh Tám nói, ḿnh không c̣n sự chọn lựa nào khác, đành phải làm thôi ".

    - Ông nói đúng đa! Giờ nghĩ lại tui mới thấy sợ. Lựu đạn nổ đúng theo ư ḿnh định đi rồi AK hoặc Cabin quất ngă vài đứa tụi nó và bên ghe ḿnh cũng bị chúng bắn sang làm bị thương hay chết người. Giả dụ tàu bọn chúng bị lựu đạn nổ có thể ch́m. Có thể lắm chứ v́ mấy ông biết, sức nổ của mini th́ ngay cả lô cốt bê tông c̣n chịu không nổi huống chi là thân tàu gỗ. Tất nhiên ghe ḿnh cũng có thể bị ảnh hưởng v́ cự ly hai bên quá gần mà, phải không. Nếu ghe ḿnh an toàn chạy được đến trại tị nạn sẽ phải khai báo ra sao đây? Rắc rối chứ chẳng chơi dù bọn ḿnh trong t́nh trạng tự vệ. Người đàn ông giữ phi nhựa chứa nước ngọt nói vọng xuống.

    Rơ ràng, cơn mưa đột ngột đă vô t́nh giúp cho cá lớn thoát tay hải tặc và việc đàn em Tám Kiệt bỏ quên túi vũ khí cũng một điều may cho cá lớn cũng như cho cả hai con tàu Thái. Hai phía đă tránh được một đối đầu tàn khốc. Ai nấy đồng ư thêm một điều giúp cá lớn chạy thoát là có máy ghe quá tốt. Từ lúc khởi hành tới giờ chỉ ngưng máy một lần ngắn ngủi, thời gian c̣n lại chạy suốt mà tiếng nổ vẫn ḍn vẫn êm. Tài công Thuận tỉnh dậy đă vào thay cho Tám Kiệt đi nghỉ. Trời bắt đầu về chiều, gió thổi mạnh làm mặt nước biển sao động thành những cơn sóng. Mỗi khi chiều xuống, mặt trời vừa tắt bóng th́ gió biển bắt đầu thổi mạnh liền. Gió thổi càng mạnh, cơn sóng càng lớn thay nhau nhồi lắc thân cá lớn. Những lúc đó, cảm giác say sóng làm cơ thể mệt nhoài trở về với nhiều người trên ghe. Chỉ đến khuya th́ trời bớt gió bớt sóng, mọi người khi đó mới dễ chịu hơn và hầu như ai cũng lăn ra ngủ để hồi phục sức lực cho đến lúc b́nh minh ló dạng. Mặt biển sẽ hoàn toàn êm ả trong ánh nắng ban mai của một ngày mới.

    Trời tối dần rồi một đêm êm ả trôi qua, cá lớn vẫn không gặp bất kỳ chiếc tàu chiếc ghe nào khác trên mặt biển bao la. Trưa đứng bóng, Tám Kiệt cùng đám tay chân chụm đầu bàn chuyện riêng mà mặt cả đám lộ vẻ lo âu. Tám Kiệt cùng vài người trong nhóm tác chiến theo ông leo lên nóc buồng lái. Trên mặt ván bằng phẳng, Tám Kiệt trải tấm hải đồ khu vực biển tiếp giáp giữa vùng cực nam Việt Nam với nam Thái Lan và Malaysia rồi y nói với những người chúng tôi vây chung quanh:

    - Ghe chúng ta đă đi lạc, tui nghĩ chắc chắn vậy. Bây giờ thực sự tụi tui không biết phải làm sao v́ nếu cứ chạy ghe ḷng ṿng măi rồi sẽ đến lúc hết dầu, mong các anh em góp ư cho đám tổ chức tụi tui.

    Tám Kiệt cho biết v́ phải đổi hướng chạy liên tục từ lúc gặp tàu hải tặc và sau cơn mưa nên cá lớn đă không theo đúng hải tŕnh như hồi đầu. Nh́n trời bao la không một bóng chim và mầu nước biển xanh đen thẫm, chẳng nói th́ ai cũng biết cá lớn hiện đang ở trong vùng biển rất xa với đất liền.

    - Lẽ ra theo tính toán th́ ghe chúng ta đă phải gặp các dàn khoan dầu Mă Lai từ ngày hôm qua. Chỉ vào tấm hải đồ, Tám Kiệt tiếp: " Tụi tui không biết ghe ḿnh đang ở đâu trong vùng lănh hải này? Các anh từng ở trong quân đội, thử nghiên cứu xem có cách nào giúp cho cả ghe ".

    Cá lớn tuy có hải bàn, hải đồ và tài công chạy ghe giỏi nhưng đâu phải là hoa tiêu tàu hải quân viễn duyên chuyên nghiệp. Ông tên Hưng, cựu lính trinh sát sư đoàn 7 bộ binh miền Nam VNCH nh́n Tám Kiệt và hết thẩy chúng tôi, nói:

    - Hồi trước mỗi lần đi công tác trong mật khu Việt Cộng, tụi tui từng dùng địa bàn định phương hướng và vị trí đứng trên mặt đất liên tục để khi xong nhiệm vụ hoặc lỡ khi bị bọn nó phát giác th́ gọi trực thăng UH đến bốc cả toán ra khỏi vùng địch ngay. Khi đó th́ có mang theo bản đồ với tỷ lệ xích rất rơ nên việc xác định tọa độ không khó. Ngoài địa bàn và bản đồ, tụi tui c̣n dựa vào mỏm núi hoặc con suối hay cây to trong vùng để biết chính xác vị trí. C̣n bây giờ... Người cựu binh ngập ngừng: " Cái này... chắc tui chịu anh Tám à ".

    - Tàu hải quân viễn duyên ngoài hải bàn, hải đồ hướng dẫn th́ họ c̣n có các dụng cụ khác như kính lục phân đo chiều cao bóng mặt trời và tầm xa đường chân trời khi muốn biết tàu của họ đang ở toạ độ nào giữa kinh tuyến, vĩ tuyến trên mặt biển. Thêm vào đó, họ c̣n phải có niên giám hàng hải cập nhật hàng năm để đối chiếu các dịch chuyển của ḍng nước biển nữa. Muốn biết chính xác hơn, các sĩ quan hoa tiêu trên tàu c̣n phải tính toán cả độ dời sóng. Phải dùng compa, thước kẻ đo đạc và tính toán ngay trên hải đồ. Trời! Chuyện này khó lắm các ông. Một người nói giọng miền Bắc khoát tay phân bua.

    Thật đúng, biết được chính xác vị trí ghe tàu trên mặt biển bao la đâu phải một chuyện dễ dàng với những người không phải dân hải quân chuyên nghiệp như Tám Kiệt cùng đám đàn em.

    Chúng tôi ngó tấm hải đồ rồi nh́n nhau, lắc đầu xác nhận bó tay. Tám Kiệt lập lại nỗi lo của y khi cho biết dầu diesel chạy máy chỉ c̣n khoảng trăm lít, cá lớn cứ chạy ḷng ṿng không phương hướng măi th́ rồi sẽ đến lúc cạn dầu phải ngừng và khi đó sẽ phải thả trôi vô định trên biển. Thấy cả bọn chúng tôi không ai góp tiếng, Tám Kiệt bồi tiếp:

    - Nước uống trong phi nhựa cũng sắp cạn, đâu ngờ ḿnh lại chạy lạc như vậy. Không có đồ ăn c̣n cầm cự được vài ngày nhưng cạn nước uống th́ sẽ có người chết ngay. Tui lo nhất là mấy đứa trẻ, các anh em không giúp được th́ đành trông vào tàu nước ngoài, may ra gặp được.

    Đi vượt biên ai cũng sợ ghe đi lạc ngoài chuyện gặp hải tặc hoặc băo tố, chúng tôi buồn lo v́ bó tay không giúp được chuyện Tám Kiệt cần. Tám Kiệt lệnh cho một thanh niên trong nhóm ông ở lại nóc ghe dùng ống nḥm theo dơi mặt biển chung quanh. Xong, ông cùng cả bọn chúng tôi leo xuống trở lại sàn ghe. Cá lớn giờ đây chỉ chạy tốc độ cầm chừng, ai cũng mong gặp được tàu viễn duyên và nếu họ vớt hết người chúng tôi th́ quá tốt. Nếu không được như vậy, ít ra cũng sẽ có thêm nước, thực phẩm cùng dầu diesel chạy máy. Ngoài ra, điều quan trọng nhất là chúng tôi sẽ biết vị trí cá lớn ở đâu trên mặt biển và hiện đang cách đất liền bao xa.

    Nắng dịu dần và gió bắt đầu thổi mạnh từng cơn khi trời bắt đầu gần chiều. Chợt anh thanh niên trên nóc ghe tḥ đầu xuống, thảng thốt báo tin: " Anh Tám ơi! Có tàu lớn phía sau ghe ḿnh, ở hướng 8 giờ đó ".

    Tám Kiệt cùng cả bọn chúng tôi vội trèo lên nóc ghe trở lại và lần lượt chuyền tay nhau cái ống nḥm để xem. Một chiếc tàu lớn mầu trắng chạy tuốt đằng xa và chờ khi nó đến khá gần cá lớn th́ Tám Kiệt ngồi chồm hổm cúi đầu xuống buồng lái, nói lớn:

    - Thuận. Thuận ơi! Tạm ngừng máy đi mậy... thả trôi ghe xem sao.

    Chúng tôi đứng hết cả lên, hồi hộp nh́n con tàu lạ càng lúc càng rơ. Nó đang đến gần ghe chúng tôi đây. Một con tàu viễn duyên to như ngôi nhà lớn sơn mầu kem trắng lừng lững lướt qua trong ánh mắt theo dơi, trầm trồ của tất cả người đứng người ngồi trên cá lớn. Nhưng! Suốt dọc theo thân tàu, trên hàng barrie an toàn ở các khoang và cả trong cabin cửa kiếng trong vắt, chúng tôi không thấy một bóng người lai văng. Con tàu này trông khác với h́nh ảnh thường thấy ở chỗ nó có bốn cái bồn tṛn khổng lồ chiếm hết mặt khoang. Tiếng la tiếng hét cùng những cánh tay vẫy từ người ở nóc ghe, trên mặt sàn... mong có ai đó trên tàu viễn duyên thấy mà ngừng lại nhưng con tàu khổng lồ vẫn êm ả lướt nhanh làm như các hoa tiêu đă xếp đặt máy móc để nó chạy tự động. Chúng tôi tuyệt vọng nh́n vét đuôi con tàu đang dần dần trôi xa. Ai cũng cảm thấy chán nản, mệt mỏi v́ con tàu viễn duyên... vô t́nh. Một người trong đám tay chân Tám Kiệt bực bội, hỏi đổng :

    - Sao nó không ngừng lại ta? Kỳ vậy! Bộ bọn người trên tàu đó đi ngủ hết cả rồi chắc?


    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  9. #9
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    - Tàu nước nào mà không thấy treo cờ ǵ cả, phải chi ḿnh có súng bắn hỏa pháo lên để họ biết. Một người đàn ông bảo.

    Con tàu chạy đă thật xa, mọi người trên nóc ghe thất vọng, từ từ ngồi xuống trở lại. Thuận ở dưới buồng lái hỏi vọng lên: " Ḿnh chạy theo đuôi nó hả anh Tám? Em nghĩ cứ bám đằng sau th́ thế nào cũng gặp hải cảng hà ".

    Ư kiến thật hay! Tám Kiệt đă cố t́nh cho tắt máy ghe, hy vọng con tàu trông thấy may ra sẽ dừng lại giúp nhưng nó bỏ đi thẳng vậy th́ ḿnh phải chạy theo nó. Bám theo, chúng tôi rồi sẽ t́m được đất liền v́ tàu hàng viễn duyên nào cũng phải ghé vào một hải cảng. Tám Kiệt gật đầu, trả lời đồng ư. Thuận vừa cho máy ghe nổ ṛn ră và chuẩn bị vào số để chạy th́ có tiếng nói của ai đó: " Ê! Bà con! Tàu nó quay đầu lại ḱa ". Chúng tôi lại nh́n về con tàu viễn duyên đó. Đúng vậy! Nó đánh một ṿng cua rồi quay mũi chạy ngược thẳng về phía chúng tôi. Tám Kiệt thấy vậy vội nói lớn:

    - Tắt máy đi, nó quay lại ḱa. Tắt ngay đi... Thuận.

    Tiếng máy của cá lớn lại tắt phụt, chúng tôi hồi hộp nh́n con tàu. Khi chạy đến gần, con tàu kéo một hồi c̣i rền vang như gửi lời chào rồi nó giảm bớt tốc độ, từ từ đánh một ṿng chung quanh cá lớn và sau cùng dừng hẳn lại. Một nhúm 6, 7 người đứng lố nhố bên nhau sát cạnh hàng song sắt barrie gần một cabin cao vút. Một người trong số họ cầm cái loa pin trong tay, nói bằng Anh ngữ vang vang:

    - Các bạn biết nói tiếng Anh không?

    Tiếng trả lời có thật lớn cùng một lúc vọng vang từ ghe chúng tôi. Người cầm loa tay đó cho biết không thể vớt chúng tôi được v́ trên tàu chở hoá chất nguy hiểm nhưng họ sẽ giúp thực phẩm và nước uống. Nghe họ báo, tôi nh́n kỹ 4 cái bồn tṛn khổng lồ, đoán hóa chất chắc chứa bên trong đây. Hèn ǵ mà họ không thể giúp. Rồi, người cầm loa tay hỏi có cần thêm những thứ ǵ khác, chúng tôi nói cần dầu diesel chạy máy. Liền sau đó, vài thùng thực phẩm, nước lọc và các can nhựa đựng dầu diesel được con tàu viễn duyên vất thẳng xuống mặt biển. Trước khi bỏ đi, người cầm loa tay cho biết tàu họ đang trên đường đến cảng Kelang của Malaysia. Nghe vậy, chúng tôi vội hỏi cảng Kelang khoảng cách bao xa, ở đâu th́ được họ trả lời độ 2 giờ đồng hồ đi biển cùng hướng mà cá lớn phải đi.

    Chúng tôi cho nổ máy ghe trở lại và chạy t́m vớt các thùng hàng các can nhựa của chiếc tàu vừa giúp. Hai thùng giấy bọc nhựa kín chứa bánh ngọt loại cracker, ḿ gói ăn liền và ba thùng nước lọc đóng trong các chai nhựa nhỏ. Ba can nhựa chứa tổng cộng khoảng 90 lít dầu diesel. Bánh cracker và ḿ gói được chia đều cho mọi người nhấm nháp ăn liền tức khắc. Vỏ các gói thức ăn in bằng tiếng Anh và một ngôn ngữ lạ không phải tiếng Tàu hay tiếng Nhật. Nhưng khi đọc thấy hàng chữ nhỏ xíu Made in the Democratic People's Republic of Korea trên một gói ḿ sợi th́ ai nấy hết hồn. Vài năm trước đă có vụ ghe vượt biên gặp tàu Liên Xô vớt tưởng đă an toàn nào ngờ tàu Liên Xô đó vừa từ Việt Nam ra. Vớt người vượt biên xong, tàu Liên Xô đă quay mũi trở lại cảng Vũng Tàu và giao nộp toàn bộ người trên ghe cho công an Việt Cộng. Tàu Bắc Hàn này lại khác với chuyện về tàu Liên Xô bắt người vượt biên năm xưa mà cũng có thể v́ cá lớn chúng tôi đang trong vùng hải phận Malaysia nên họ mới hành xử như vậy. Thuận cho cá lớn chạy theo đuôi con tàu Bắc Hàn giờ chỉ là một chấm nhỏ nhưng không lâu nó cũng mất hút dưới đường chân trời. Nó chạy quá nhanh so với ghe chúng tôi nhưng không hề chi v́ Tám Kiệt đă biết phương hướng rồi.

    Không một ai trong chúng tôi biết cảng Kelang nằm ở đâu bên nước Malaysia. Làm chuyến vượt biên nhắm hướng Malaysia, thâm tâm Tám Kiệt và đám đàn em nghĩ sẽ dễ dàng đến được đảo tị nạn Bidong nhưng do đi lạc, giờ đây sẽ phải ghé vào cảng Kelang nên ai cũng lo lắng lẫn háo hức. Cảng Kelang này ra sao, cách đảo tị nạn Bidong bao xa? H́nh ảnh bến Bạch Đằng cùng các cầu tàu vùng Khánh Hội lại trở về trong trí người gốc Sài G̣n như tôi, Kelang có giống như vậy không?

    Nói chỉ 2 giờ đi biển th́ sẽ gặp cảng Kelang vậy mà chúng tôi phải chạy ghe tới hơn 4 tiếng đồng hồ mới thấy được vầng sáng phản chiếu của một vùng đất liền khu vực gần cảng. Lúc này th́ trời đă sâm sẩm tối rồi. Thấy đến được đất liền, ai nấy trên cá lớn đều mừng rỡ la hét rùm trời. Ngay cả những người nằm dưới khoang hầm cũng cố sức leo lên mặt sàn ghe để nh́n cho rơ. Chúng tôi sắp sửa đặt chân lên một vùng đất nước ngoài chỉ trong buổi tối nay hay sáng sớm ngày mai thôi. Chuyến vượt biên thành công, ai nấy đều nghĩ như vậy và nh́n nhau cười rạng rỡ. Thôi nhé, những ngày lao động chết người, cơn sốt rét rừng ở vùng kinh tế mới, đêm ngủ bất an v́ sợ tiếng đập cửa xét nhà th́nh ĺnh, ánh mắt cú vọ ḍ xét của công an khu vực... Tất cả, xin vĩnh biệt từ giờ phút này. Thật là mừng.

    Tám Kiệt cho cá lớn chạy chầm chậm dọc theo bờ biển khá lâu nhưng vẫn không t́m được lối dẫn vào cảng Kelang dù thấy đường phố, đỉnh lầu các ṭa nhà và các dome tṛn nhà thờ đạo Hồi thấp thoáng xa xa sau các rặng cây xanh đen trong ánh sáng đèn chiếu đô thị. Vài ghe ngư dân địa phương chạy ngược chiều với cá lớn chúng tôi. Người trên các ghe đó lấy tay chỉ trỏ vào phía bờ biển phủ khói sóng như làn sương xám. Tám Kiệt rất muốn các ghe dân địa phương này ngừng lại để hỏi thăm nhưng họ bỏ chạy xa mất. Dọc bờ biển, nhiều chỗ là các vách đá cao làm chúng tôi sợ vướng đá ngầm ở gần nên không dám chạy thẳng ghe vào. Thấy trời càng lúc càng tối đen khó mà quan sát, Tám Kiệt lệnh cho Thuận kiếm chỗ an toàn, ngừng máy rồi buông neo để sáng hôm sau sẽ tính. Ai nấy rôm rả tṛ chuyện toàn về các tin vui rồi sau đó lăn ra ngủ ngon lành, một giấc ngủ thực sự an tâm kể từ lúc đặt chân lên cá lớn.

    Khi những tia nắng mặt trời ban mai vừa mới ló dạng xua bớt đám sương mù la đà sát mặt nước biển, một chiếc canoe có gắn hàng chữ Pilot từ phia trong chạy ra và đến sát bên cá lớn chúng tôi. Ba người trên chiếc xuồng máy đó bằng Anh ngữ, cho biết họ sẽ chạy trước dẫn đường ghe chúng tôi lối vào cảng Kelang. Các Malaysian này nói họ đă biết cá lớn từ tối hôm qua và định chạy ra đón ngay v́ sợ chúng tôi có thể đi vào vùng đá ngầm nguy hiểm nhưng thấy đă neo ghe lại nên họ để yên. Chiếc canoe dẫn chúng tôi đến một vùng cảng tấp nập các con tàu to đùng đang neo gần bên nhau. Tàu hóa chất Bắc Hàn nằm yên lặng khuất sau một bờ kè không xa lắm. Chúng tôi chạy băng ngang qua những cần cẩu khổng lồ gầm gừ, vươn các cánh tay dài vận chuyển hàng hóa lên hoặc xuống cạnh các con tàu lớn. Nhiều người trên ghe xuưt xoa khi lần đầu trong đời được tận mắt thấy một vùng đất của nước ngoài. Hải cảng Kelang này quá rộng, quá đẹp so với thương cảng Bạch Đằng ở Sài G̣n.

    Xuồng máy Pilot đó dắt cá lớn chúng tôi đến một băi vắng vẻ cách xa khu vực cảng và những toà nhà trên bờ. Lấy tay chỉ vào một băi cát thoai thoải nằm khuất sau một bờ đá, một người Malaysia trên xuồng máy bảo chúng tôi lái ghe tắp vào đó và đậu yên chờ chính quyền họ sẽ đến tiếp xúc sau. Chờ cho tài công Thuận chạy cá lớn vào sát bờ và tắt hẳn động cơ, xuồng máy Pilot mới chịu quay mũi đi ngược trở ra. Đợi một lúc khá lâu để chắc chắn xuồng Pilot đi khuất xa hẳn, Tám Kiệt hối Thuận nhanh chóng nổ máy ghe trở lại, chạy lùi ra một quăng khá xa bờ. Từ nơi này, Thuận đă để máy nổ hết tốc lực rồi cho ghe lao thẳng như tên bắn lướt qua mặt nước, nằm phơi gần hết cái lườn trên băi cát thoai thoải sát bờ.

    Cá lớn đă làm xong nhiệm vụ của nó. Tám Kiệt bước sát bên lườn ghe, ngó xuống mặt nước rồi quay lại nói: " Thử cho ghe chạy lui xem coi Thuận ". Tiếng máy nổ vang vang, ghe nhúc nhích cố thụt lùi nhưng chỉ giần giật vài cơn. Thuận tăng tốc, máy nổ to hơn mà chiếc ghe vẫn đứng yên không thể chạy lùi ra được. Lườn nó đă bám sát dính vào mặt cát như có keo dán. Tám Kiệt mỉm cười, khoát tay ra dấu cho Thuận tắt máy ghe. Tiếng máy im bặt trả lại sự vắng vẻ, tĩnh mịch của khu vực. Kinh nghiệm từ những người vượt biên trước viết thư về kể lại, chúng tôi mong khi thấy cá lớn mắc cạn, chính quyền địa phương sẽ không đẩy ghe quay trở lại biển cả. Nh́n mớn nước sát với bờ cát mịn thoai thoải, hiện thời không ai biết con nước đang lên hay xuống. Thấy nước cạn, vài người cả nam lẫn nữ vội tuột xuống bước lội vào bờ, xuyên qua các hàng cây để làm việc vệ sinh cá nhân. Tôi nh́n bao quát chung quanh, xuồng Pilot dẫn cá lớn cập vào một vùng ở đây thật vắng vẻ không bóng người qua lại. Bờ biển rất nhỏ, khuất sau một khu rừng và các đụn cát thâm thấp trải dài rơ là chỗ tắm vắng người. Sau đêm dài ngon giấc, chúng tôi ai nấy đều tỉnh hẳn người kéo nhau bỏ khoang hầm, ngồi chật cứng trên mặt sàn ghe. Dầu vậy, khuôn mặt người nào trông cũng tiều tuỵ v́ trải qua những ngày đi biển vất vả và trong bộ quần áo bẩn thỉu.

    Chợt có tiếng máy xe nổ gần đâu đây và rồi một chiếc xe sơn mầu xanh lá cây vượt ra từ một bờ cát dọc theo bờ biển tiến thẳng lại chỗ chúng tôi. Một chiếc xe tải quân đội. Chiếc xe dừng hẳn lại, ba người đàn ông da ngâm đen dáng vạm vỡ cao to, mặc quân phục hoa dù, đầu đội mũ beret đỏ nâu, tay thủ súng trường M 16 lần lượt nhẩy xuống. Ba người lính đứng trên bờ dưới các hàng cây im lặng quan sát bọn chúng tôi. Quân phục họ mặc y chang lính nhẩy dù, biệt động quân miền Nam VNCH trước đây. Chiếc xe đánh ṿng quay đầu và chạy biến mất sau một bờ cát. " Mấy cha lính này có nhiệm vụ canh giữ cá lớn pḥng ngừa ḿnh gặp dân địa phương đây ", chúng tôi nghĩ vậy. Ánh nắng ban mai chói lọi rực rỡ, trời đă sáng hẳn rồi, vài phụ nữ trên cá lớn giơ tay vẫy chào ba người lính gác. Họ nh́n chúng tôi, mỉm cười phô hàm răng trắng đều và vẫy tay chào đáp trả. Một dấu hiệu thân thiện.

    Gần 2 giờ đồng hồ sau, lại có thêm ba chiếc xe nhà binh chạy đến. Một xe chở đầy lính, một xe đầy các bao bố loại 50 kg căng phồng cùng hai thùng phi sắt nằm trên sàn và chiếc xe thứ ba kéo theo một rờ moọc đằng sau. Đám lính nhanh chóng làm một hàng người sát bên nhau thẳng từ trên bờ xuống cạnh cá lớn rồi họ dùng tay chuyền từng bao bố lên cho chúng tôi. Người trên ghe phải dồn lại để có chỗ chất những bao bố. Chuyền xong các bao bố, đám lính chia ra hai toán chiết nước uống từ cái rờ moọc và dầu diesel ở hai thùng phi sắt sang các can nhựa loại 20 lít. Can nhựa đựng nước uống và dầu diesel cũng được chuyền lên trên cá lớn luôn. Nh́n việc đám lính vừa làm, Tám Kiệt làu bàu:

    - Chết mẹ rồi. Nó tiếp tế cho mấy thứ này là để tống cổ ḿnh đi khỏi đây đó mấy cha.

    Đúng vậy. Xong xuôi th́ một gă lính trên bờ ra lệnh chúng tôi nổ máy và chạy lùi ghe trở ra. Thuận đành phải nổ máy, ai nấy trên ghe hồi hộp chờ chuyện sẽ xẩy đến. Sau chuyến hải hành, cặp được vào bờ an toàn th́ người trên ghe rất sợ phải chạy tiếp trên biển. Có sợ cũng phải chấp nhận. Tiếng máy ghe nổ ḍn, cá lớn nhúc nhích nhưng không lùi được dù đă gầm rú hết sức. Thật may cho chúng tôi, mớn nước đă lùi khỏi thân ghe v́ biển bắt đầu cơn ṛng. Đám lính trên bờ chụm đầu tṛ chuyện rồi khoát tay ra dấu bảo tắt máy ghe và họ tản ra chờ đợi. Không lâu sau, chiếc xuồng máy Pilot hồi lúc sáng và một tàu đánh cá Malaysia lớn hơn chạy đến ngay sau cá lớn chúng tôi. Một thủy thủ nhẩy xuống, lội sang và dùng dây buộc chặt vào hai cột của nóc buồng máy cá lớn. Hai đầu dây c̣n lại th́ được nối thẳng vào mũi chiếc xuồng Pilot và tàu đánh cá. Thuận lại được lệnh của họ cho nổ máy ghe trở lại. Tiếng máy vang lên ṛn ră, ai trên ghe đều hiểu chuyện bọn người Malaysia làm. Thế là xong, chúng tôi thật lo v́ nghĩ chắc sẽ phải làm tiếp chuyến hải hành.

    Thuận cho máy nổ ḍn chạy số lùi hợp với sức kéo từ hai con tàu Malaysia chực sẵn cố lôi ghe chúng tôi ra khỏi chỗ cạn. Tiếng động cơ của ba cỗ máy gầm rú từng chập nhưng cá lớn chỉ rung nhẹ và vẫn nằm yên tại chỗ. Nước biển đang ṛng, cát dán chặt lườn ghe dính chắc luôn vào băi. Gă chỉ huy trên bờ nói lớn hiệu lệnh cho cả đám lính chạy xuống biển đến sát dọc bên lườn cá lớn và khom người cố sức đẩy. Thấy cá lớn không nhúc nhích, đám lính x́ xồ miệng, tay ra dấu lệnh chúng tôi phải nhẩy xuống nước cùng phụ đẩy với họ. Trên cá lớn hầu như chỉ c̣n phụ nữ và trẻ em. Quá đông người nhưng đứng chùm nhum trong một diện tích nhỏ nên dù loay hoay hợp sức đẩy với đám lính một hồi mà cá lớn vẫn chẳng hề xoay chuyển. Chúng tôi mừng thầm v́ rơ ràng con nước đă ṛng mạnh, ghe thực sự mắc cạn và lườn bị cát hít dính như keo dán. Thấy chuyện định làm nhưng không thành, đám lính kéo nhau bỏ hết lên bờ. Một gă đến gần ra lệnh cho chúng tôi rời ghe lên bờ nghỉ ngơi, xuồng máy Pilot và tàu đánh cá cũng đă tháo dây bỏ đi. Trước khi đoàn xe nhà binh chạy khỏi băi biển, gă chỉ huy cho biết sẽ quay trở lại sau buổi trưa.

    - Mẹ bà, tụi này nó nhất quyết đẩy bọn ḿnh ra biển đây. Tám Kiệt nói.

    Thấy đám lính đi khỏi, chúng tôi vội chuyền vài bao thực phẩm xuống và tản ra ngồi dưới các bóng cây. Mở miệng một bao ra xem th́ thấy bên trong có ḿ gói ăn liền, bánh biscuit, gạo xấy, thuốc lá, diêm quẹt, trà, cà phê, đường và sữa bột. Bao nào cũng kèm theo cả các muỗng nhựa và khá nhiều lon sắt nhỏ mầu đen. Cầm một lon lắc thử nghe tiếng kêu óc ách. Món ǵ trong lon và sao nó lại sơn đen? Một người reo lên: " Úi cha! Có đồ khui nè, ḿnh thử mở xem cái ǵ bên trong vậy ".

    Nắp chiếc lon vừa mở kéo theo một mùi thơm bốc lên mũi. Cá ṃi sốt với cà chua đỏ đặc sền sệt. Chúng tôi khui thêm các lon khác và cũng món cá ṃi đóng hộp. Không có cơm trắng th́ đành ăn cá ṃi hộp với bánh bisquit mà cũng ngon. Vừa ăn, có người lại thắc mắc tại sao họ phải sơn đen cái lon? Bộ không muốn ai biết lon này chứa thứ ǵ và từ đâu ra! Có lẽ như vậy v́ các gói thức ăn khô ở bao bố được đóng trong bao nylon cũng không một ḍng chữ một tờ nhăn ghi bên ngoài. Đúng như lời Tám Kiệt nói, đám lính Malaysia cố t́nh đẩy ghe ḿnh ra biển sau khi tiếp tế thực phẩm, nước uống và dầu diesel chạy máy. Khi ra biển trở lại, rủi chúng tôi gặp tai nạn th́ sẽ không ai biết ghe đă ghé vào Malaysia nhưng không được chính quyền cho cập bến.

    - Hồi xưa khi bọn CS Bắc Việt chở hàng tiếp tế cho bọn Việt Cộng miền Nam th́ cũng có cái màn xoá hết dấu vết, xuất xứ từ vũ khí, thuốc men, thực phẩm và cả máy móc trên con tàu chúng. Ở nước nào cũng vậy, bọn gây chuyện ám muội th́ bao giờ cũng dấu việc chúng làm. Người đàn ông nói giọng Bắc ngồi dưới một bóng cây mát gần đó cho biết.

    Sẵn có thực phẩm có thuốc lá, chúng tôi bảo nhau phải ăn phải hút trước hết cho đă miệng, mọi chuyện để qua một bên tính sau. Người hút thuốc thả khói thơm lừng, người ngồi dựa lưng vào thân cây nhâm nhi từng cái bánh nhỏ. Có người ăn vă mấy hộp cá ṃi liền mà không ngán miệng. Ăn uống xong xuôi, vài người đi vào khu rừng cây lục lọi sau đó quay ra báo tin có ḍng suối nhỏ nước trong vắt ở gần đó. Tôi cùng vài người ngồi gần vội đến ngay và thật may là suối nước ngọt dù chỉ cách băi biển không xa. Nhiều người thấy có suối nên quá mừng vội cởi ngay quần áo, vục nước lên người tắm kiểu dă chiến. Tôi cũng vậy, giặt sạch bộ đồ bộ đội cũ xong rồi vắt khô mặc trở lại người. Tuy c̣n ẩm ướt nhưng vẫn dễ chịu hơn cứ khoác măi bộ đồ hôi hám, bẩn thỉu. Thêm nhiều người khác nghe tin báo về con suối nên cũng ṃ đến nữa, kể cả phái nữ. Cả mấy ngày liền trên ghe ai nấy quần áo đều dơ dáy, nhơ nhớp nay có dịp gặp nước ngọt nên vội tắm táp, giặt gịa liền. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, có người vất bỏ quần áo bẩn tại chỗ mà không giặt. Thấy quần áo họ vất bỏ, nghĩ v́ chỉ có duy nhất bộ đồ bộ đội đang mặc trên người nên tôi đến, lựa ra được hai áo thun và hai quần dài c̣n khá tốt rồi quay qua chung quanh, hỏi: " Mấy bộ đồ này của ai? C̣n mặc nữa không? Nếu vất bỏ th́ cho tôi xin nha ".

    Không ai lên tiếng trả lời, tôi hỏi thêm lần nữa th́ một thanh niên đứng gần bên nói: " Quần áo này dơ rồi, họ không giặt lại vất ở đây là bỏ đó. Anh muốn th́ cứ lấy xài ".

    Tôi định đem hai bộ quần áo bẩn xuống suối giặt th́ tai nghe có tiếng xe hơi và sau đó giọng người gọi lớn: " Ê! Có mấy người Malaysia đến ḱa " nên vội vàng quay trở ra băi biển. Hai người đàn ông lớn tuổi, mặc thường phục theo kiểu đạo Hồi áo trắng cùng mũ nồi đen đội trên đầu khệ nệ bưng các thùng giấy nhỏ từ trong một xe van mầu trắng ra. Huy hiệu vầng trăng khuyết đỏ thêu trên ngực áo của hai người. Họ là nhân viên hội Hồng Nguyệt, một hội bác ái y như hội Hồng Thập Tự. Cả hai ông mang cho chúng tôi một số hộp nhỏ nước giải khát như trà hoa cúc, sữa đậu nành, rau má, nước mía ép... Tiếc cái họ không nói được Anh ngữ c̣n chúng tôi th́ cũng chẳng biết tiếng Malaysia nên đành cố hiểu nhau qua các cử chỉ ra dấu. Cả hai người họ dường như không muốn chúng tôi quay ghe ra biển đi tiếp. Họ lập đi lập lại hai chữ Sungei Besi, Bidong với nhóm người chúng tôi đứng vây quanh. Trước khi bỏ đi, một trong hai ông kín đáo chỉ vào cá lớn và bằng hai bàn tay chụm lại làm bộ dạng như đang đào vật ǵ đó trên đất. Lập đi lập lại cử chỉ đó nhưng không ai trong chúng tôi hiểu ư định của ông ta. Thấy nhóm người chúng tôi ngơ ngác nh́n nhau, ông ta mỉm cười hiền lành và quay trở về chiếc xe van. Malaysia là một quốc gia Hồi giáo trong vùng đông nam châu Á. Y phục trắng với mũ nồi đen trên đầu, hai người nhân viên hội Hồng Nguyệt trông như các tín đồ đạo Hồi ở vùng Hoà Hưng thuộc quận Tân B́nh-Sài G̣n. Tại đó có một đền thờ đạo Hồi và khá đông tín đồ sống rải rác chung quanh. Nhóm dân đạo Hồi ở Ḥa Hưng không biết chính xác thời điểm bắt đầu cư trú tại địa phương nhưng, nội việc có riêng một nghĩa địa trong vùng th́ ắt hẳn họ đă có mặt từ rất lâu đời. Tuy cùng nói tiếng Việt nhưng khuôn mặt và vóc dáng họ vẫn khác hẳn với người Việt Nam v́ mái tóc quăn, da ngâm đen, mắt có khoen và cơ thể họ cao to hơn.

    Cử chỉ của ông nhân viên hội Hồng Nguyệt khi chụm hai tay đưa lên đưa xuống như đào đất vẫn chưa ai hiểu ư. Đám chúng tôi bàn bạc hay ông ta bảo ḿnh bới cát và đào rănh dưới lườn cá lớn để nó dễ dàng tuột ra khi cơn triều lên? Không phải như vậy v́ ông đă khoa bàn tay lắc lắc khi chỉ ra biến và ngón tay trỏ ông chỉ vào hướng rừng kèm theo các chữ Bidong, Sungei Besi. Cuối cùng, đoán là ông ta muốn chúng tôi ở lại đây và đừng đi tiếp nữa. Ông Hưng, cựu lính trinh sát chợt nghĩ ra một điều nên nói:

    - Tôi nghĩ ông ta bảo ḿnh đục cho thủng ghe, mấy anh thấy sao?

    Chúng tôi nh́n nhau. " Chắc vậy rồi anh Tám. Phải đục lủng ghe thôi ", một thanh niên trong nhóm tổ chức khẽ trả lời.

    Phải đục cho lủng ghe nhưng đục ở chỗ nào để bọn lính khi quay lại sẽ không biết do chúng tôi cố t́nh phá. Nghĩ vậy nhưng lấy cái ǵ để làm việc này? Thuận nói ở dưới ghe có sẵn cái búa nhỏ dùng bửa củi nấu ăn cùng một con dao to bản và nhận sẽ thử làm xem sao. Nghe vậy, Tám Kiệt đảo mắt chung quanh và hối Thuận thi hành ngay nhưng kín đáo đừng để thêm người biết chuyện, nhất là đám đàn bà-con gái. Trời đă quá trưa, ánh nắng chiếu chói chang nóng bỏng. Cảm giác chao đảo khi ở dưới ghe rồi trở về đất liền mà người ta gọi là say đất đă hết thêm có thức ăn, nước uống lại có cả nước suối để rửa ráy mặt mũi tay chân và thay y phục sạch sẽ nên hầu như người nào cũng rút vào trong các bóng râm để nghỉ. Vài bóng hải âu đảo qua đảo lại t́m mồi xa xa ngoài biển. Thấy không một bóng người trên băi cát gần với cá lớn, Tám Kiệt gật đầu ra tín hiệu cho Thuận cùng hai thanh niên khác vọt ngay ra. Biển bắt đầu cơn triều lên, nước đă mấp mé thân cá lớn. Cả ba người nhẩy phóc lên và chui tọt ngay xuống hầm máy ghe. Chốc lát sau họ trở lại mặt sàn và nhẩy xuống nước mà trên vai vác theo một bao thực phẩm cùng hai can nước ngọt làm bộ ra ghe để lấy thêm cho những người cần thêm trên bờ.

    - Xong rồi, nước đang vào. Tụi em đục hai chỗ ở phần đuôi. Thuận mỉm cười, nói tiếp: " Ghe ḿnh coi vậy mà không chắc đâu nha anh Tám. Mới bửa mạnh vài búa mà ván đă bục ra liền. Nước vô xối xả làm em thấy sợ luôn ".

    Đám chúng tôi chờ xem chuyện sẽ đến trong tâm trạng lo lắng. Mọi người tản ra t́m chỗ nghỉ, tôi bẻ vài cành nhỏ có nhiều lá rồi đem trải chúng xuống sát một gốc cây và nằm ngay xuống. Gió từ biển thổi vào thật mát, tôi nhắm mắt lim dim ngủ cho đến khi nghe tiếng xe tiếng người nói và tiếng c̣i huưt toe toe từng chập ngắn. Tôi choàng dậy khi đám lính Malaysia đă quay trở lại đầy đủ ở băi biển. Lần này chỉ một chiếc xe tải nhà binh nhưng lại có thêm một xe ủi đất bánh xích nhỏ. Một gă lính vẫn huưt c̣i gọi tập họp trong khi các gă khác xục hẳn vào từng bụi cây để lùa bọn chúng tôi đi ra hết. Họ ra lệnh chúng tôi đứng gọn tại một chỗ. Nh́n nhau, chúng tôi phải trên một trăm người là ít. Đám lính Malaysia cũng lắc đầu v́ không dè cá lớn lại có thể chứa được nhiều người như vậy. Nước biển đă dâng lên ngang thân cá lớn và thỉnh thoảng có sóng nhỏ làm nó khẽ lúc lắc, xê dịch. Đám lính Malaysia nh́n nhau mỉm cười chắc mẫm lần này việc kéo cá lớn ra khơi dễ dàng và như vậy, công tác của họ sẽ kết thúc chóng vánh. Tiếng ghe máy văng vẳng từ xa vọng đến và chỉ có một chiếc là chiếc xuồng Pilot khi sáng. À! Đám lính Malaysia biết nước biển lên cao chỉ cần chiếc xuồng máy Pilot đă đủ sức để kéo cá lớn chúng tôi ra khỏi chỗ cạn. Nếu chiếc xuồng Pilot không đủ lực, đám lính sẽ dùng thêm xe ủi đất phụ sức đẩy cá lớn xuống hẳn dưới nước.

    - Thôi rồi. Ḿnh sẽ phải đi tiếp trên biển nữa. Có xuồng máy kéo rồi xe ủi đất phụ đẩy, chắc chắn họ sẽ lôi ghe ḿnh ra khỏi chỗ cạn dễ dàng. Một người lẩm bẩm than.

    Xuồng máy Pilot đến sát phía sau cá lớn, một thủy thủ Malaysia phóng xuống nước bơi đứng đến cá lớn và leo lên mặt sàn. Tay y cầm sợi dây định buộc vào cá lớn như lúc sáng đă làm nhưng khi nh́n xuống hầm máy, gă này liền quay mặt hướng về đám lính Malaysia đứng ở trên bờ và xổ ra một tràng. Ngay lập tức hai gă lính khác chạy ra, bước lội đến rồi trèo lên và nh́n xuống khoang hầm ghe. Cả hai gă đi dọc trên mặt sàn và lần lượt nhẩy hẳn xuống khoang hầm xem xét rồi sau đó quay trở về bờ cát trên bờ. Đám lính tụ lại nói chuyện x́ xồ với nhau trong tia mắt giận dữ. Họ đă biết ghe bị chúng tôi đục cho lủng. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua trong sự lo âu lẫn mừng vui của đám chúng tôi. Mừng v́ biết sẽ không bị ngồi xuống ghe kéo ra biển lớn nhưng lo âu những ǵ sắp sửa xẩy đến. Gă chỉ huy khoát tay ra dấu cho xuồng máy Pilot và cái xe ủi đất rút lui. Tiếng c̣i toe toe lại nổi lên, đám lính ra lệnh cho chúng tôi xếp thành một hàng dọc di chuyển theo song song với họ. Vài phụ nữ h́ hục xách theo các gói thức ăn c̣n sót trên bờ nhưng bị mấy gă lính ra hiệu phải bỏ lại trên mặt đất và chỉ được mang các túi xách cá nhân. Đi theo đám lính, chúng tôi vượt qua các đụn cát cùng phần rừng cây thưa thớt rồi đổ xuống con dốc lài và sau cùng băng qua mặt đường nhựa để vào một vườn hoa khá đẹp. Qua khỏi vườn hoa th́ đến một sân gạch tiếp nối vào các căn nhà lớn cửa đóng kín mít, đám lính lệnh chúng tôi phải giữ im lặng và ngồi theo từng hàng mười người một. Sau đó, đám lính tản ra đếm tổng số rồi họ đưa một tập giấy để tự chúng tôi chuyền tay nhau, ghi tên và đánh số của từng người. Ngồi gọn thành từng hàng nên rất dễ đếm và thật không ngờ, tổng cộng người trong ghe chúng tôi là 135 người. Vậy, quá nhiều so với sức chứa của một chiếc ghe đi biển nhỏ tí xíu.

    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

  10. #10
    Member
    Join Date
    22-08-2010
    Posts
    78
    (tiếp theo)

    (tiếp theo)

    Ngồi ở cái sân gạch cả mấy tiếng đồng hồ mà không gặp bất kỳ nhân viên của hội đoàn thiện nguyện quốc tế như Hồng Thập Tự, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR)... làm chúng tôi lo lắng không yên. Muốn bắt chuyện với đám lính để ḍ tin nhưng nh́n quanh thấy họ cố ư đứng ra xa, tách biệt hẳn với đám người Việt chúng tôi. Tuy ngồi thành từng hàng nhưng nhiều người bắt đầu hoán chuyển chỗ với nhau. Họ muốn ngồi gần để có ǵ th́ cùng chịu sống chết bên nhau và chính vậy mới có thêm lệnh mới của đám lính là phải giữ trật tự, ai ngồi đâu yên đấy. Đă có vài người chịu cú đấm, cái đá từ bọn lính rơ là chúng không c̣n vẻ hiền lành như lúc đầu nữa. Trời chiều dần rồi xẩm tối, muỗi rừng đánh hơi người vo ve bay ra đậu trên mặt trên tay và ngay cả ở phần lưng. Kim chúng vừa nhọn vừa cứng thọc xuyên qua cả vải dầy, chích phát nào phát nấy muốn nhẩy nhổm. Tiếng trẻ con khóc cùng với tiếng đập muỗi lép bép nho nhỏ trong bóng đêm tĩnh mịch. Mùi máu tanh từ xác muỗi bết trên da càng lôi cuốn những con khác đến kiếm ăn. Ai thủ được dầu gió xanh th́ c̣n đỡ nếu không phải đành chịu trận, chỉ một cách lấy tay xoa xoa hoặc làm quạt để xua đuổi chúng đi. Đám lính mưu chuyện đẩy ghe chúng tôi trở lại biển không được nên đành phải đưa chúng tôi vào ngồi ở đây lâu như vậy, tuy không tṛ chuyện được với nhau nhưng ai cũng nghĩ chắc để chờ một quyết định từ chính quyền?

    Chợt có tiếng xe hơi cùng ánh đèn chiếu lấp loáng từ xa chạy đến làm chúng tôi phải ngẩng đầu lên nh́n. Một xe bus lớn dừng lại gần, đám lính từ các chỗ tối chung quanh tiến lại bên xe và một gă nói to:

    - Trẻ em cùng phụ nữ lên xe c̣n nam giới ngồi yên tại chỗ, xin quí vị thi hành ngay.

    Ánh đèn pin trong tay các gă lính loang loáng soi cho đám phụ nữ cùng trẻ em thấy đường để lên xe bus. Vài người trù trừ không muốn chia ĺa khi phải đi trước để chồng, thân nhân họ c̣n kẹt lại. Họ dùng dằng nhưng bị đám lính thúc hối phải trèo lên xe ngay. Xe bus vừa chạy khuất trong bóng đêm, đám lính dồn chúng tôi ngồi gọn lại trên sân gạch và tuy không thấy mặt nhau nhưng chúng tôi ai cũng bồn chồn lo lắng v́ cái vụ đi trước đi sau này. Thêm một xe bus nữa có ǵ khó nhưng sao bọn lính Malaysia lại không cho. Chúng tôi ngồi đó chờ tới gần 2 tiếng đồng hồ nữa th́ chiếc xe bus mới quay lại. Lần lượt từng người chúng tôi theo thứ tự đi lên xe. Mọi việc xong xuôi, hai gă lính Malaysia đóng cửa trước cửa sau xe lại rồi đứng trấn tại chỗ. Lên xe rồi mới biết tài xế ngồi lái phiá bên tay mặt và xe chạy giữ lề trái trên đường ngược hẳn với Việt Nam. Xe bus ra khỏi khu vực và nhập vào một con đường to, rộng hơn xa lộ Biên Hoà. Xe chạy rất nhanh rồi rẽ vào một thành phố đèn đuốc sáng rực với các cửa hàng người ra kẻ vô tấp nập. Có lúc xe bus cắt ngang qua các giao lộ đầy nghẹt xe hơi và xe gắn máy nối tiếp đuôi nhau thành ḍng khá dài. Chúng tôi trố mắt nh́n phố xá Malaysia về đêm. Sự phát triển và văn minh một đô thị, có lẽ chỉ dễ thấy nhất khi đêm về qua ánh đèn mầu quảng cáo bên vệ đường hoặc từ mặt tiền các ṭa bin đinh lộng lẫy. Người ngồi trên xe lao nhao, chắt lưỡi tiếc nuối: " Nh́n phố xá nước người ta ḱa, bỏ xa Sài G̣n ḿnh, cũng do cái bọn Việt Cộng mà ra cả ". Chúng tôi c̣n muốn được thấy thêm các khu phố khác nhưng xe bus lại quay trở ra xa lộ và sau đó chui vào một con đường đất dẫn vô rừng cây rậm rạp. Đường rừng nên khấp khểnh nhiều ổ gà và các hố lớn đầy nước giữa hai hàng cây. Ánh đèn pha cùng tiếng xe bus khiến một con chim to như con gà hoảng hốt vỗ cánh bay vội vào bóng tối để lại tiếng kêu táo tác trong đêm trường vắng lặng. Một thân cây khô khá lớn bật gốc phơi nùi rễ xù x́, c̣ng queo cùng cành khô không lá nằm sát lề đường và một g̣ mối nổi hẳn trên mặt đất như ngọn núi nho nhỏ gần ở lối ṃn dẫn vào rừng. Chạy xe vào con đường này, không lẽ họ để chúng tôi sống trong rừng sao? Nghĩ như vậy mà đúng v́ xe bus chậm dần và từ từ tiến vào một băi đất trống rồi ngừng hẳn. Chúng tôi có lệnh rời xe trong trật tự. Đèn điện giăng đây đó trên các hàng cọc bờ rào và từ trong các nhà lều soi rơ khu trại vắng vẻ. Hai nhà lều lớn dựng gần bên nhau và cái lều thứ ba nhỏ hơn, nằm xeo xéo đối diện gần cổng gỗ ra vào. Một trại lính dă chiến giữa rừng.

    Phụ nữ, trẻ em của chuyến xe bus đến trước im lặng, ngồi ṭ hỏ gọn một chỗ trong căn nhà lều lớn nh́n đám nam giới chúng tôi mới đến đang đứng tập trung trước sân trại. Trông thấy mặt nhau, ai cũng thở phào nhẹ nhơm. Nam giới chúng tôi được lệnh vào căn nhà lều lớn c̣n lại sau khi đám lính kiểm danh xong. Tất cả phải để dép ở bên ngoài lều và tự ư sắp xếp chỗ ngồi chỗ nằm của từng người. Nền lều được trải bằng vải bạt dầy nhưng mùi ẩm mốc lẫn với hơi đất vẫn bốc lên mũi. Một gă lính chỉ chỗ nhà vệ sinh rồi thông báo:

    - Khuya lúc 10 giờ th́ máy phát điện sẽ ngừng chạy chỉ c̣n đèn băo (đèn dầu có bóng che kín chịu được gió mạnh), khi đó các anh phải nằm yên trong lều và giới hạn đi lại. Cấm ngặt nam giới không được bước vào lều của nữ giới dù với bất cứ lư do ǵ. Bây giờ mời tất cả quư vị tập trung ra ngoài sân để dùng tạm thức ăn, nước uống thay cho bữa chiều.

    Nam nữ chúng tôi kéo nhau ra hết ngoài lều đứng thành hai dăy dài. Các gă lính phát cho mỗi người một gói bánh biscuit và một chai nước lă để lót dạ trước khi ngủ. Vài phụ nữ kể xe bus chở họ đi trước để vào trại dọn dẹp cho sạch hai cái nhà lều dành cho cả bọn. Một bà chu mỏ: " Tụi tui làm mệt chết mẹ luôn, hai cái nhà lều lâu rồi có ma nào ở đâu, bụi ơi là bụi... Đàn ông-con trai mấy người đi sau khoẻ ru chẳng phải làm cái ǵ hết, vô đến nơi có sẵn chỗ ở rồi. Chỉ tụi nầy là cực ".

    Không lẽ ở các nước Hồi giáo, nữ giới bị xem nhẹ hơn cánh đàn ông? Hay là việc dọn dẹp nhà cửa cho gọn gàng, phụ nữ làm tốt hơn nam giới?

    Được đám lính cho sinh hoạt thoải mái trước khi máy phát điện ngừng chạy, tôi rảo bước nh́n bao quát chung quanh. Căn trại được ngăn cách với rừng bằng một hàng rào gỗ, rác rưởi vương văi cùng cây bụi nhỏ mọc từng chùm đây đó trên mặt sân. Tiếng ́ ́ của máy phát điện nằm dưới một mái che gần bên một rờ moọc đựng nước, loại đă tiếp nước cho cá lớn buổi sáng ở ngoài băi biển. Hai dăy vừa bàn vừa ghế bằng gỗ rừng nằm dưới hàng cây cao to gần cổng ra vào. Rơ ràng đây là một trại bỏ hoang khá lâu không có người ở. Chỉ c̣n ít phút nữa phải vào lều đi ngủ, chúng tôi thỏa thuận ngày mai sẽ sắp xếp lại chỗ cho từng người, bây giờ th́ nằm tạm. Điện tắt, bóng tối phủ trùm trong tiếng côn trùng rỉ rả khúc nhạc bất tận của rừng đêm. Nửa khuya về sáng trời trở lạnh, không chăn mền đắp ai nên cũng co quắp tay chân sát bên nhau t́m chút hơi ấm. Khác hẳn với lúc ngồi trong cái sân gạch, chúng tôi ở đây ở giữa rừng nhưng không một tiếng muỗi, h́nh như bọn lính đă xịt thuốc khử cả rồi. Thao thức nhưng rồi cả đám chúng tôi từ từ ch́m vào giấc ngủ của đêm đầu tiên ở nước Malaysia.

    Tôi tỉnh giấc khi tiếng chim hót cùng tiếng thú rừng kêu râm ran trong làn sương mờ của buổi ban mai. Ở căn nhà lều nhỏ, mấy gă lính Malaysia vẫn cuộn tṛn người trong các tấm vơng. Trời c̣n sớm chưa thể ra bên ngoài được, tôi đành ngồi tại chỗ co duỗi tay chân cho bớt mỏi. Ngồi như vậy cho đến khi có tiếng kẻng báo hiệu mới được ra khỏi lều để làm vệ sinh cá nhân. Đến 8 giờ sáng một xe quân đội khá lớn chạy vào trại, vài đứa nhỏ ṭ ṃ đến gần xem. 3 gă lính từ căn nhà lều nhỏ đi ra và phụ sức với 2 gă khác trên xe khiêng xuống những thùng giấy khá lớn. Có lệnh chúng tôi xếp hàng tập trung theo thứ tự để nhận đồ dùng cá nhân.

    Nghe tin xếp hàng để đám lính phát đồ th́ lập tức có màn chen nhau dành chỗ đứng đầu dẫn đến to tiếng căi cọ. Thấy đám lính bực tức giương mắt nh́n, Tám Kiệt rồi ông Thăng cùng vài người khác vội nói:

    - Xếp hàng có thứ tự đi bà con, lần lượt ai cũng có phần hết. Tranh nhau chỗ đứng làm ǵ, ra khỏi nước rồi mà c̣n kiểu dành giựt như bên quê nhà tụi lính nh́n vào mang tiếng cả đám đó.

    Nói th́ nói, tranh dành vẫn tranh dành và chỉ trật tự khi đám lính can thiệp mới yên. Người nào cũng hai gói một lớn một nhỏ như nhau. Mang phần của ḿnh về căn nhà lều, tôi liền mở gói lớn ra xem thấy có kem đánh răng, bàn chải xúc miệng, xà bông cục, khăn nhỏ, khăn lông tắm, cuộn giấy vệ sinh, ca nhựa có nắp đậy và cái chăn đắp. Gói nhỏ thứ hai gồm bịch bánh biscuit và một bọc trà đường c̣n âm ấm. Cái chăn tuy mỏng tang nhưng khổ đủ rộng cho một người, dầu sao có cái đắp c̣n hơn không. Bữa ăn sáng chấm dứt mau lẹ. Một xe hơi nhỏ chạy vào ngừng ở sân, hai người mặc thường phục một già một trẻ bước ra gặp đám lính. Tiếng c̣i toe toe lại nổi lên, tất cả người lớn chúng tôi được lệnh ra sân tập họp trở lại. Ông Malaysia mới đến hỏi: " Trong quư vị, người nào biết Anh ngữ ". Vài cánh tay giơ lên, ông ta gật đầu rồi hỏi vài câu tiếng Anh sau đó chỉ định hai người làm leader cho cả đoàn. Một là ông Thăng, người nói giọng Bắc. Hai là ông Phát, người giữ phi nước ngọt trên cá lớn trong suốt chuyến hải hành. Không ai ngờ tuy nh́n vẻ bề ngoài chậm lụt, lù đù nhưng ông Phát lại nói Anh ngữ như sáo với các ông Malaysia. Cả hai leader, kể từ lúc này sẽ nhận lệnh từ đám lính và chịu trách nhiệm quản lư số người Việt.

    - Tôi là Alek, nhân viên bộ Nội Vụ. Bên quân đội báo tin có ghe quư vị ghé vào khu vực cảng Kelang và không thể tiếp tục cuộc hành tŕnh nên họ đưa quư vị tạm dung tại đây từ tối hôm qua. Nay, tôi đến thăm và sẽ cố hết sức để liên lạc với viên chức UNHCR về t́nh trạng của quư vị. Trong thời gian tạm dung ở đây, mong quư vị giữ ǵn nội quy của trại, tôi hứa sẽ liên lạc sớm. Ông Malaysia lớn tuổi nói.

    Một gă lính chờ sẵn, cầm tờ giấy đọc lớn các nội quy cho cả bọn chúng tôi nghe. Y đọc to hai lần từng điều một và lệnh cho hai ông Thăng, Phát phiên dịch những việc mà ai cũng biết sẽ phải theo khi sống trong môi trường tập thể như giữ ǵn vệ sinh chung, không được ấu đả, không lấy trộm đồ đạc cá nhân của nhau... Có một nội qui khi nghe ông Phát dịch xong đă làm vài cô gái mắc cở nhưng đám thanh niên lại cười đó là cấm không được làm t́nh với nhau khi sống ở trại.

    Khi hai viên chức bộ Nội Vụ ra về, hai ông Thăng và Phát cho biết tất cả phải đi tắm ngay, đàn ông con trai đi tắm trước xong rồi sẽ đến nữ giới. Được phép đi tắm ai cũng khoái nên vội vă quơ quào quần áo, khăn lông, xà bông theo ngay. Một gă lính tay thủ súng trường M 16 dẫn cả đám nam giới ra khỏi trại hướng vào rừng theo lối ṃn cũ. Cây rừng có nơi rậm rạp mọc lấn ra tận ngoài mặt đường, nơi lại thưa thớt toàn lau sậy cùng các vạt đất trống xanh rêu. Dấu chân của loài thú nhỏ hai móng chẻ in trên đất đă khô ở vài chỗ ngay mặt đường. Qua khỏi một đoạn khoảng 200 thước, gă lính rẽ vào lối đi nhỏ cắt ngang đường ṃn và chỉ hướng dẫn xuống con suối. Y ngồi ở thân gỗ khá lớn gần ngay đó, tựa cây súng trên đùi và bảo chúng tôi tắm giặt trong ṿng một giờ đồng hồ. Con suối khá rộng, nước trong vắt chảy lững lờ uốn cong qua các phiến đá bằng phẳng rồi luồn khuất sau các hàng cây rừng xa xa. Theo một đường dốc thoai thoải, chúng tôi lần lượt đặt chân xuống bờ suối. Không có mặt nữ giới, trong chúng tôi có người cởi bỏ hết quần áo tồng ngồng tắm tự nhiên. Nước buổi ban mai rất lạnh làm ai nấy nổi da gà run rẩy nhưng chỉ lát sau th́ quen dần. Sẵn xà bông, chúng tôi thoải mái tắm gội và giặt giũ quần áo bẩn. Có người nhắc lại lời hứa của ông bộ Nội Vụ và về nội quy của trại nhất là điều bị cấm. Một thanh niên vui vẻ:

    - Không được làm t́nh với nhau dù là vợ chồng. Cấm th́ cấm, dễ ǵ chịu ăn chay hả anh Tám?

    - Nói vậy chứ tao biết anh Tám ḿnh nhát hít hà. Có thèm cũng phải nhịn, sức mấy mà dám mậy. Người khác trả lời.

    Đám thanh niên trẻ cười vang nhưng Tám Kiệt khẽ nháy mắt, kín đáo lấy tay chỉ vào thằng bé con y đang ngồi vộc nước gần đó ngầm ra dấu đừng nói bậy, rồi trả lời nho nhỏ:

    - Mẹ kiếp! Mầy làm như chỉ có ḿnh tao là có vợ đi theo chắc. Thiếu ǵ người trong ghe nha.

    Sau này, tôi mới biết Tám Kiệt không hề là người nhát gan, chính y liều lĩnh đă phá rào bất tuân lệnh cấm của đám lính coi trại.

    Tuy có những đứa con nít khác đang tắm chung với số người lớn nhưng chuyện tầm bậy tầm bạ vẫn được đám thanh niên trẻ tiếp tục kể rồi cười khoái trá với nhau. Suối ở đây, nước từ trong rừng chảy xuống tràn qua một băi đá bằng phẳng rồi tạo thành một cái hồ nhỏ dưới đáy toàn sỏi cát, người đứng chỉ tới ngực. Tắm táp đă đời bù lại nhiều ngày ở dưới ghe hôi hám, có người c̣n nằm lăn trên băi đá để cho nước chẩy tràn trên thân ḿnh. Ánh nắng bắt đầu chiếu xuyên qua các tán lá cây gần bờ suối, cơn lạnh ban mai đă biến mất hẳn, người nào cũng thơm tho mát mẻ và mái tóc không c̣n bết cứng như trước. Tôi cũng vậy, tắm sạch sẽ và giặt xong quần áo bộ đội của ḿnh cùng hai bộ nhặt được ngoài băi biển. Ai cũng muốn ở lại tắm nữa nhưng tiếng c̣i báo hết giờ từ gă lính gác vọng lại khiến cả bọn phải kéo nhau ra về. Đi trên đường, một người thắc mắc, hỏi:

    - Đám phụ nữ cũng tắm ở suối này luôn sao mấy cha. Tắm, theo tôi nghĩ họ sẽ để nguyên áo quần nhưng lấy chỗ nào để thay đồ? Không lẽ phải vào lùm bụi thay như tụi ḿnh hoặc tỉnh bơ ngay bờ suối? Với lại, c̣n thằng lính gác nữa chứ.

    Thắc mắc cũng phải v́ có vợ, con gái họ đi cùng. Hai ông Thăng, Phát cho biết đám lính lệnh đi tắm là đi chứ họ đâu dè ở lộ thiên ngoài suối. Bọn thanh niên quả quyết thể nào tụi lính cũng ŕnh xem lén cho đă mắt nhưng chẳng trách đám lính v́, đang trong tay chúng và thực tế nếu ḿnh là bọn lính th́ cũng làm y vậy. Có tội nghiệp mấy cô con gái tre trẻ thôi c̣n đàn bà sồn sồn lớn tuổi th́ ai mà thèm nh́n. Tiếng cười hô hố phụ họa, ông Phát phải cau mặt:

    - Nữ giới tắm suối mà lính canh trên bờ là nam th́ kẹt thật nhưng coi vậy chứ dễ ǵ mà nḥm lén họ được các cha! Có khăn lông, họ che cho nhau hết, mấy bả hay lắm. Mà thôi, đi vượt biên là phải chấp nhận hết mọi thứ chứ.

    Về tới trại, cả bọn nam giới chúng tôi tản ra phơi quần áo trên các sào ngang ở hàng rào cây. Đang lui cui vuốt cho thẳng các bộ đồ ướt, chợt có tiếng nói sau lưng tôi :

    - Anh... Anh! Cho xin lại mấy quần áo của em.

    Một thanh niên tuổi cỡ 22, 23 mỉm cười sau câu nói, lấy tay chỉ tay vào bộ quần áo tôi đă nhặt và vừa giặt sạch sẽ. Ngạc nhiên tôi hỏi: " Cậu nói ǵ, muốn xin lại bộ đồ này? ".

    Người thanh niên đó ú ớ gật đầu, tôi hỏi tiếp:

    - Sao lúc ngoài băi biển tôi hỏi ai bỏ th́ tôi lấy sao cậu không trả lời? Cậu vất bỏ nó mà, phải không?

    Cậu ta không trả lời câu hỏi mà cứ nằng nặc xin lại bộ quần áo. Nghe tiếng đôi co, một thanh niên mặt bậm trợn khác đứng gần đó tiến lại bênh tôi:

    - Đúng rồi! Khi đó tao có mặt ở đó nè mầy. Ông này hỏi hai ba lần mà không ai trả lời. Mầy cũng có mặt ở đó, bỏ th́ người ta lấy. Giờ đợi người ta giặt sạch sẽ xong xuôi mới đ̣i xin lại. Đ.M mầy tính chơi đểu hả?

    - Em chỉ có hai bộ, tưởng đến trại sẽ được phát quần áo mới, đâu ngờ. Tắm xong em chỉ c̣n quần đùi nè. Cậu ta lí nhí.

    Tôi đang trần x́ độc một quần tà lỏn, khăn lông khoác trên người và nếu không nhặt hai bộ quần áo ngoài băi biển th́ cũng sẽ không khác. Thôi th́! Tôi khẽ gật đầu đồng cho cậu thanh niên đó lấy bộ quần áo. Chờ cậu ta bỏ đi, người thanh niên c̣n lại nh́n tôi, nói:

    - Anh dễ tính quá, phải em là không được. Ban năy ở ngoài suối nó cũng thấy anh giặt quần áo chứ bộ, sao không mở miệng xin lại đi, tới đâu th́ tới em cũng không trả. Anh tên ǵ, em là Đỉnh.

    - Anh tên Vũ, cám ơn Đỉnh. Tôi trả lời.

    Hai chúng tôi rảo bước về căn nhà lều nam giới. Chuyện vừa xẩy ra làm tôi suy nghĩ vẩn vơ không biết sẽ có ai đến xin bộ quần áo c̣n lại nữa đây? Nam giới về trại giờ đến lượt phe nữ đi tắm, Đào đi cùng Bẩy vừa thấy tôi liền bước đến hỏi:

    - Anh Vũ. Nghe nói lính họ cho ḿnh tắm ở dưới suối hả?

    Tôi gật đầu xác nhận, hai cô gái nh́n nhau bối rối. Đào tiếp: " Trời! Ai mà tắm như vậy được ".


    Phạm Thắng Vũ
    (c̣n tiếp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 1
    Last Post: 09-05-2012, 06:04 AM
  2. Thánh Ngôn Cao Đài Song Ngữ Việt - Anh
    By caodaikhaitam in forum Tôn Giáo - Tâm Linh
    Replies: 0
    Last Post: 28-03-2012, 05:02 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 22-01-2012, 09:43 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 30-12-2011, 04:40 AM
  5. Replies: 2
    Last Post: 24-02-2011, 11:25 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •