Page 2 of 24 FirstFirst 12345612 ... LastLast
Results 11 to 20 of 237

Thread: THÁNG TƯ ĐEN UẤT HẬN

  1. #11
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Quốc Hận 30-4-2011: Nhớ tới công đức dựng nước của Tiền-Nhân Và Lá Quốc Kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ VN, Thắm Đầy Huyết Lệ


    Mường Giang

    Nếu tính từ thời các vị vua Hùng dựng nước cho tới ngày nay, sinh mệnh của dân tộc Việt đă có hơn mấy ngàn năm lịch sử. Để có được một giang sơn cẩm tú đẹp đẻ như hiện tại, tổ tiên ta bao đời đă không ngừng dùng máu nước mắt và thân xác, tranh đấu dũng liệt để ngăn chận, chống lại ngoại xâm, nhất là giặc Tàu phương Bắc. Nhờ vậy dân tộc Hồng Lạc mới được trường tồn

    Ngày 30-4-1975, cọng sản quốc tế Hà Nội vào Sài G̣n, gây nên một cuộc đổi đời mạt kiếp, tồi tệ và kinh hoàng nhất qua các thời đại lịch sử, không thua ǵ 10 thế kỷ Bắc thuộc hay 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ. Ba mươi sáu năm qua, cuộc sống của người nghèo cả nước vẫn không có ǵ thay đổi dưới sự cai trị của một chế độ toàn trị bạo tàn, vẫn cướp bốc giết người, đàn áp tôn giáo, trả thù người sống không thuộc băng đảng phe nhóm.

    Cũng vẫn cầy mồ dầy mă người chết, mà điển h́nh là Nghĩa Trang Quân Đội VNCH Biên Ḥa. Nhưng tệ mạt hơn hết là Việt Cơng, to gan lớn mật dám đem đất đai biên giới, đảo biển của đất nước, bán nhượng cho Tàu cộng cũng như khoáng nhượng thế chấp lănh thổ khắp nước cho tư bản trắng đỏ, mục đích cũng chỉ để củng cố đảng cọng sản và thu thập tiền vàng chia nhau hưởng thụ.

    Tóm lại trong ḍng sinh mệnh của dân tộc, người VN chưa bao giờ bị một chính quyền nào, kể cả thời phong kiến quân chủ, chà đạp nhân cách, bốc lột tài sản và khốn khổ thân xác, cho bằng đă sống dưới chế độ cọng sản, qua danh từ hoa mỹ là ‘ xă hội chủ nghĩa’. Thời nước Việt bị giặc Tàu, giặc Tây đô hộ, cũng đâu có cảnh dân chúng đă phải bỏ quê làng, mồ mả tổ tiên một cách tập thể, để di cư từ đất Bắc vào miền Nam hay vượt biển ra nước ngoài để trốn giặc. Thảm thê hơn hết, là thân phận của người phụ nữ thời nay, thà chịu bán trôn cho bọn Tàu Trắng, Tàu Đỏ, Mă Lai, Hàn quốc.thậm chí cả Phi Châu, để vượt thoát ra khỏi nước, rồi trong âm thầm nhục hận như báo chí ngày nào cũng loan tin. Thật là :

    ‘đôi dép râu giẫm nát đời son trẻ

    mũ tai bèo khép kín nẻo tương lai

    Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lư

    Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do..’ ’

    Bỗng dưng thấy thấm thía tận cùng, khi vô t́nh đọc được một bài ca dao cổ, mà các bà mẹ VN bao đời thường hát để ru con :

    ‘ gió Động Đ́nh mẹ ru con ngủ

    Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh

    Tiết trời thu lạnh lành lanh

    Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông

    Bống bồng bông, bống bồng bông

    Vơng đào mẹ bế, con Rồng cháu Tiên.. ’ ’

    Cách đây mấy chục thế kỷ, các tổ Hùng Vương đă mở nước Văn Lang và bao đời, tiền nhân ta tiếp nối xây dựng, bảo tồn và ǵn giữ đất nước. Từ năm 1945 tới nay, trong cuộc chiến ngăn chống sự xâm lăng đồng hóa của chủ nghĩa duy vật cọng sản, đă có không biết bao nhiêu thế hệ thanh niên VN đă gục ngă trước súng đạn và bạo lực. Tuy vậy, trưa ngày 30-4-1975 v́ tuân theo lệnh của Dương Văn Minh, QLVNCH đă buông súng ră ngũ nhưng hầu hết các chiến binh không đầu hàng và chẳng có ai bị cảm hoá hay tẩy năo, dù đă bị giặc cầm giam tại các trại tù khắp nước, trong nhiều năm.

    Tại hải ngoại, suốt ba mươi sáu năm qua (1975-2011), người Việt dù đang sống kiếp lưu vong trên khắp các nẻo đường thế giới, nhưng ai cũng khắc ghi trong tâm khảm lời thề phải quang phục TỔ QUỐC, để lấp kín cái vũng bùn ô uế tanh hôi của thiên đàng cọng sản. Có vậy, ngọn cờ chính nghĩa của dân tộc và người Việt mới có thể, ngẩn mặt sánh vai với thế kỷ văn minh của nhân loại.

    Ba mươi sáu năm trước, những giờ phút cuối cùng của VNCH, người lính trận Miền Nam hầu hết đều ở lại để chiến đấu cho tới khi bị Dương Văn Minh bắt buông súng. Tuy nhiên Chính Phủ Quốc Gia không v́ thế mà bắt bớ trả thù ai vào lúc trong tay vẫn c̣n nắm quyền hành. Ngày nay VC được Mỹ-Trung Cộng-Nhựt và các nước tư bản bợ lưng, nên vào những giờ phút hấp hối của chế độ v́ phong trào đ̣i dân chủ, tự do của cả thế giới đă bùng nổ dữ dội khắp nơi, nhất là Bắc Phi, Trung Đơng và tại VN. Bởi vậy , chúng đă điên cuồng bắt bớ, thủ tiêu và bịt miệng tất cả những ai dám chống lại chế độ. Phiên ṭa man rơ xử Linh Mục Nguyễn Văn Lư cuối tháng 3-2007 và Cù Huy Hà Vũ sáng thứ hai 4-4-2011 , nói lên tính chất phi nhân của Dảng Cộng Sản VN và Bọn Chóp Bu tại Bắc Bộ Phủ, chỉ biết tham tàn, tham nhũng, hai dân bán nước, làm nhục tũi VONG LINH của Tiền Nhân Hồng Lạc bao đời.

    1- GHI NHỚ CÔNG ĐỨC DỰNG NƯỚC CỦA TỔ HÙNG VƯƠNG :

    Theo Việt sử, Họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của nước ta, có quốc hiệu là Văn Lang. Qua truyền thuyết được ghi trong tất ca các bộ sử kư nước Nam, từ trước tới nay th́ nước Văn Lang truyền được 18 đời vua, mới bị mất nước về tay Thục Phán, cũng là một người Việt trong nhóm Bách Việt.

    Đó là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Au Cơ, Hùng Quốc Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Hi Vương, Huỳng Huy Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vị Vương, Hùng Định Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Hiền Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương và Hùng Tuấn Vương.

    Thục Phán đánh bại vua Hùng thứ 18, vào khoảng thế kỷ thứ III trước tây lịch. Do nhà vua là người thuộc nhóm Âu Việt, nên đổi tên nước là Âu-Lạc ( tức là Lạc Việt và Âu Việt), xưng hiệu là An Dương Vương, dời kinh đô từ Phong Châu về Cổ Loa, thuộc Huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (Bắc Phần).

    Riêng về danh xưng quốc tổ Hùng Vương của VN, đă có sự bàn căi sôi nổi của nhiều học giả trong cũng như ngoài nước, cũng chỉ v́ các danh từ Lạc Hầu, Lạc Tướng nên phải có Lạc Vương, chứ không phải Hùng Vương. Đầu tiên là một học giả Pháp tên Henry Maspéro, tiếp theo có Sở Cuồng Lê Dư, Ứng Ḥe Nguyễn Văn Tố, Dào Duy Anh (miền Bắc), Phạm Hoàng Mỹ, Trần Viên Chung (miền Nam).. trước tháng 5-1975. Chung qui cũng vẫn quanh vấn đề, phải gọi vua nước Văn Lang là ‘Hùng vương hay Lạc Vương?’.

    V́ nước ta bị Bắc Thuộc cả ngàn năm, nên hầu như các nguồn sử liệu trước đó, đă bị mất mát hay tiêu hủy, nên chẳng có một chứng tích nào sót lại, ngoài sử do người Tàu thời đó viết, để minh chứng xác thực. Măi cho tới thời vua Trần Thái Tôn vào năm 1217, sử gia đầu tiên của nước ta là Lê Văn Hưu, mới soạn bộ ‘ Đại Việt Sử Kư ‘, gồm 30 quyển nhưng cũng chỉ bắt đầu, từ thời vua Triệu Vũ Đế (207 trước TL ) của Nhà Nam Việt, cho tới cuối nhà Hậu Lư (vua Lư Chiêu Hoàng ) mà thôi. Thời Vua Lê Thánh Tôn, quan Lễ Bộ Thượng Thư là Ngô Sĩ Liên, mới tom góp, sưu tầm và ghi chép lại những huyền thoại, truyền thuyết trong dân gian, qua hai tác phẩm ‘Việt Điện U Linh‘ của Lư Tế Xuyên và ‘Lĩnh Nam Chích Quái‘ của Trần Thế Pháp, để viết bộ ‘Đại Việt Sử Kư Toàn Thư ‘, gồm 15 quyển, chia thành hai phần, trong đó 5 quyển đầu gọi là ‘ Ngoại Kỷ ‘ chép từ đời Hồng Bàng cho tới năm 938 sau TL, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán, mở nền tự chủ cho dân tộc VN tới ngày nay.

    Cũng từ đó, nước ta qua các triều đại, đều làm lễ giỗ Tổ Hùng Vương, vào ngày mồng mười tháng ba (10-3) âm lịch hằng năm. Truyền thống trên bao đời đă khắc sâu vào tâm trí của người Việt cả nước, và phát sinh ra câu phong dao mà ai cũng đều thuộc ḷng :

    ‘ Dù ai đi ngược về xuôi

    nhớ ngày giỗ Tổ, mồng mười tháng ba .’

    Trước năm 1945, giỗ Tổ Hùng Vương được quan Lễ Bộ Thượng Thư, thay mặt nhà vua làm chủ tế, tại đền 18 Tổ Hùng được xây dựng từ thời Hậu Lê (hậu bán thế kỷ XV) và liên tiếp được tu bổ nhiều lần vào thời nhà Nguyễn. Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc đế đô Phong Châu của nước Văn Lang. Miền này nay là xă Hy Cương, Huyện Lâm Thao, Tỉnh Phú Thọ (Bắc Phần).

    Phong Châu là đia linh nhân kiệt, phong cảnh hùng liệt diễm t́nh, phía trước có nhiều sông lớn tụ hội, hai bên có nhiều núi cao chầu hầu.Tại đây đất đai từ trên g̣ xuống tới băi, đều màu mỡ xanh tốt. Đúng là nơi định đô lập nghiệp muôn đời của một dân tộc tuyệt luân phi thường, anh hùng bất khuất nhưng tâm hồn phong thái vẫn ḥa nhă yêu chuộng ḥa b́nh.

    Phong Châu cũng là Bạch Hạc ngày nay, nằm bên tả ngạn sông Lô (Thao), cũng là nơi đă chứng kiến nhiều chiến công của dân tộc trong ḍng sử Việt, mà gần nhất là chiến thắng sông Lô trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp. Do các yếu tố phong thổ đặc biệt trên, nên khi c̣n tại vị, các Tổ Hùng đă dựng đền trên núi Nghĩa Lĩnh hay núi Hùng. Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh hay Hy Cương đều chung một danh xưng chỉ núi Hùng, cao 175m, nằm trong thôn Cổ Tích. Núi Hùng chung quanh được bao bọc bởi 99 ngọn đồi Voi Phục, với cây cối quanh năm xanh tươi mát mẻ. Đền Hùng là nơi tế tự trời đất, thổ thần và tiên tổ của dân tộc Hồng-Lạc. Đền này, từ đó về sau, trải qua các triều đại trong lịch sử, đều được chọn làm Đền Tổ Hùng Vương.

    Phong cảnh đền Hùng muôn đời hùng vĩ, trời xanh nắng ấm vào tiết Thanh Minh nhằm vào tháng ba âm lịch hằng năm. Trong dịp này, Đền đă có dịp soi bóng trên ḍng nước xanh của ḍng Bạch Hạc, là vị trí giao lưu

    Trên đường lên Đền Hùng, dưới chân nuí có Đền Giếng, trong đó tới nay vẫn c̣n chiếc Giếng Ngoc, mà theo truyền thuyết là nơi các vị công chúa con vua Hùng, thường tới tắm gôi, chải tóc và tô môi. Rời Đền Giếng phía ngoài, qua một một cổng xây bằng đá, để vào Đền Hạ. Theo sử liệu được ghi chép trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, th́ chính nơi đây, quốc mẫu Âu Cơ của Đại Việt, một lúc sinh trăm trứng rồi nở thành trăm người con trai. Sau đó mẹ chia phân nửa cho cha là Lạc Long Quân, rồi dẫn những con c̣n lại lên núi. Phần Lạc Long Quân cũng nhường ngôi vua cho con trưởng là Hùng Quốc Vương làm vua nước Van Lang.

    Trong Đền Hạ có chùa Thiên Quang với gác chuông, bia đá cổ, trên đó ghi khắc công đức dựng nước của Tổ Hùng. Chung quanh chùa c̣n nhiều đại thụ như thông, tùng rất lâu đời nhưng vẫn xanh tốt, thân cây vài người nối tay ôm không hết, đă nói lên sự thách thức với thời gian của cây, đồng hành là sự tồn tại của dân tộc Hồng Lạc, trong ḍng sử Việt, từ ấy đến nay.

    Rời Đền Hạ, leo 168 bậc đá là tới Đền Trung. Theo truyền thuyết, Đền Trung là chỗ mà các vị Tổ Hùng luận bàn việc nước với triều thần, mà thời đó được gọi qua danh xưng Lạc Hầu, Lạc Tướng. Đây cũng là nơi vua Hùng thứ sáu, truyền ngôi cho Hoàng Tử Lang Liêu, là người đă trúng giải nhất trong cuộc thi, với hai thứ bánh Chưng và bánh Dầy, món ăn quốc hồn quốc tuư của dân tộc Việt.

    Đền Trung hiện tại là địa điểm đặt TỔ Đ̀NH NAM BANG, thờ kính Mười Tám Vua Hùng. Trên cùng nơi đỉnh núi là Đền Thượng với tấm bảng vàng khắc bốn đại tự : ‘NAM QUỐC SƠN HÀ‘. Đây chính là nới Các Tổ Hùng hằng năm tới làm lễ Tế Trời Đất và Thần Nông, Cũng tại Đền Thượng vào đời vua Hùng thứ sáu, Phù Đổng Thiên Vương tức là Thánh Gióng đă đánh thắng giặc Ân. Phía bên trái đền, có một ngôi mộ đá rất cổ kính và được mọi người tin là chốn an nghĩ ngh́n thu của Hùng Vương thứ 6. Tại đây nh́n chung quanh, có nhiều núi lớn nhỏ, với h́nh tượng rất giống bầy voi đang hường đầu quỳ chầu Tổ.

    Trải qua bao đời, hằng năm dân tộc Việt đều củ hành giỗ Tổ Hùng rất trang trong vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch. Đây được coi là ngày hội lớn nhất của đất nước ta, theo đó dân tộc Việt vốn là Con Rồng Cháu Tiên, qua truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ.

    Trong suốt thời gian tồn tại của VNCH, tại thủ đo Sài G̣n cũng có Đền Hùng, để con cháu hằng năm tới làm lễ cúng giỗ. Chánh phủ Miền Nam đă có một dự án lớn, xây dựng Đền Hùng trên đỉnh nuí Chứa Chan, gần ngă ba ông Đồn, thuôc quận Xuân Lộc tỉnh Long Khánh. Tiếc thay chương tŕnh xây dựng bị hủy bỏ theo vận nước vào ngày 30-4-1975. Hiện nay Đền Hùng đă theo chân người Việt tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại tạm dung, v́ người Việt c̣n th́ ngày giỗ Tổ Hùng vẫn miên viễn không ai có thể xoá hay thay thế bằng một danh xưng nào khác, mà ông cha ta đă dựng lên từ mấy ngàn năm trong ḍng sử Việt :

    ‘Bia đá chẳng ṃn ṭa miếu cũ

    Văn Lang muôn thuở tỏ Hùng Vương ‘

    2- QUỐC HIỆU VÀ QUỐC KỲ VIỆT NAM :

    Theo sử liệu, th́ quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch 1802 là năm mà vua Gia Long đă có công thống nhất được toàn cơi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến triền miên giữa các ḍng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Nguyễn Tây Sơn.

    Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đă thấy xuất hiện trong nhiều tác phẩm lúc đó như Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc , Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Địa Chí của Nguyễn Trải, Tŕnh Tiên Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.. Ngoài ra, các nhà khảo cồ sau này, c̣n t́m thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở Bắc Việt. Trong tất cả các bia kư này, đều thấy có khắc hai chữ Việt Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, th́ hai chữ Việt-Nam lúc đó, mang chung ư nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước Việt ở Nam Phương. Để đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu phương Bắc, mà suốt ḍng lịch sừ, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ, qua danh từ miệt thị ‘An Nam hay Giao Chỉ ‘.

    Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào năm Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đă ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành Việt Nam. Tiéc thay nhà Tây Sơn đă tồn tại trong ḍng sử Việt quá ngắn ngũi, nên việc sử dung quốc hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quá khứ.

    Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác ǵ thân phận của dân tộc Hồng-Lạc nhược tiểu, luôn trôi nổi trong ḍng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đă cử Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định đi sứ sang nhà Thanh, trả lai ấn phong của vua Quang Trung và xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.

    Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lănh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay v́ Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ư nghĩa thiêng liêng và toàn bích.

    Riêng về lá quốc kỳ VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp v́ VN ngày nay đang sử dụng hai lá cờ : Đảng cọng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại Hà Nội, xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cong sản Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến, ngoài ra c̣n xài thêm lá cờ đảng giống cờ nước VN xă nghĩa có vẻ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của Liên Bang Xô Viết cũ.

    C̣n quốc dân VN th́ chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954, đất nước bị chia đôi nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Đồng Hà-Quảng Trị, vào tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ cũ của quốc dân VN. Từ sau ngày 30-4-1975, tuy đất nước VN bị cọng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó, trên khắp mọi nẻo đường hải ngoại, hơn ba triệu ngướ Việt tị nan cọng sản, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quư và chấp nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ, như một biểu tượng cao quư nhất của dân tộc.

    Căn cứ theo tác phẩm ‘Quốc Kỳ Việt Nam‘ của Quốc Duy Nguyễn Văn An, th́ lịch sử h́nh thành lá quốc kỳ của dân tộc, được khởi đầu từ sáng kiến của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Phần là Gia Định, Biên Ḥa và Định Tường, đă bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. V́ không chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng và dùng son đỏ viết trên đỏ bốn đại tự ‘Đại Nam Khâm Sứ ‘. Cũng từ đó, lá cờ trên đă trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Đ́nh Nhà Nguyễn, với lănh thổ c̣n lại gồm Bắc và Trung Phần.

    Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại, ủy nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Đó là lá cờ nền vàng, ba sọc đỏ theo h́nh quẻ Ly (—-) trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông lại chọn bài Đăng Đàn Cung làm Quốc Thiều.

    Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Đông Dương, mục đích tái lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đă bĩ quân phiệt Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Để tiến tới ư đồ bất lương tên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào lănh thổ Pháp , đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng 3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc dân VN phát hiện và chống trả, khến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ư đồ thâu tóm đất đai của người Việt.

    Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này, hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự trị thuộc Pháp.

    Nương theo ḷng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, thẳng thắn đề nghị Thủ Tướng Xuân, sủ dụng danh xưng ‘ Nam Phần VN ‘, để thay thế cái gọi là ‘ Nam Kỳ Cộng Ḥa Tự Trị ‘, mà thực dân Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đă ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra ông cũng đă chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho cả nước.

    Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lănh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác nhau : Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Đài và lá thứ năm của Phật Giao Ḥa Hảo.

    Cũng qua tài liệu dẫn chứng trên, trong Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho nước VN độc lập, có Nguyễn Hữu Thiều làm chủ tịch, cùng các đại diện Đổ Quang Giai (Miền Bắc), Trần Văn Lư (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng hai đại diện của Phật Giáo Ḥa Hảo và đạo Cao Đài. Cuộc triển lăm năm mẫu cờ tại Pḥng Khánh Tiết Sài G̣n, cuối cùng Uỷ Ban đă quyết định chọn Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ, làm Quốc Kỷ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.

    Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo Đại, đề cập tới trong tác phẩm ‘ Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)’, xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện của Quốc Trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Đông Dương là Emile Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là lá cờ vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quư trên khắp mọi nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người VN trong nước đang sống nơi xă nghĩa thiên đàng.

    Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ có một ư nghĩ khác biệt với Lá Cờ Máu của Cọng Sản VN, v́ nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới Nguyễn Văn Xuân, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ h́nh thức tới nội dung là tài sản riêng của đệ tam quốc tế, của Liên Xô, Trung Cộng và Việt Cộng. Đó cũng là lư do thiêng liêng mà người Việt qua mọi giai đoạn, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết tâm ǵn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhân, dù hiện nay ngươi Việt quốc gia không có lănh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong, đổi đời người xuống thành chó, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.

    Lá quốc kỳ VN là biểu tượng cao quư nhất trong linh hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh miền trung bên kia vỷ tuyến 17 v́ công nhận lá cờ vàng ba sọc đó của quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam t́m tự do dưới bóng lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi v́ không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cọng sản, cho tới ngày nay, lập trường chính trị vẫn không hề thay đổi.

    Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, h́nh chữ nhật bề ngang bằng nửa chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tṛng, trong suốt chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng cho ba phần của đất nước VN. Lúc đó, chính kư giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lư Thanh Cần ), giữ chức Giám Đốc Pḥng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân c̣n chấp nhận bài hát ‘Thanh Niên Hành khúc‘ của Lưu Hữu Phước sáng tác, lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt Minh..

    Ngoài ra trong tác phẩm ‘ Việt Nam Nhân Chứng ‘, cựu tướng Trần Văn Đôn cũng có viết là chính ông ta và tướng Lê Văn Kim, là tác giả đă đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại. Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà c̣n bị nhiều người gạt bỏ không tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Đôn cũng như Lê Văn Kim.. chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội, th́ chừng nào mới tới phiên được mời vào pḥng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lănh đạo cao cấp của của các giáo phái .. mời được mời họp với ư kiến và quyết định.

    Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đă từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được sự thiêng của lá cờ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi xung trận. Quốc kỳ VN như mợt ngọn đuốc , soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, v́ đất nước bị cọng sản đệ tam xâm lăng cướp đoạt.

    Có c̣n nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân (1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (B́nh Long), Quảng Trị, Kon Tum, B́nh Định.. Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975.

    Tại chiến trường, để treo được ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, biểu tượng của quốc gia, lên Kỳ Đài Huế trong Tết Mậu Thân, trền ngọn Đồi Đồng Long (An Lộc), Ṭa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Đinh Công Tráng-Quảng Trị.. đă có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong mọi binh chủng từ NQ+DPQ, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đă gục ngă làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng. Năm 1973, cọng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, đóng quân trên lănh thổ VNCH theo tinh thàn hiệp ước ngưng bắn. Chúng đă cố gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiên cho người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, dễ bảo vệ xóm làng, dân chúng, không để mất vào tay cọng sản.

    Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn khoa bảng trí thức, chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá thối đất nước miền Nam, ùn ùn t́m đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại quốc và nay lại tiếp tục pha thối cộng đồng người Việt hải ngoại, làm lợi cho VC hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo. Trong lúc đó, th́ người lính lại chết hay bị thương, ở lại để bảo vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những băi đáp trực thăng, giúp Mỹ và hậu phương có cơ hội chạy.

    Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lănh đă bỏ chạy ? Hay nói đúng hơn gần hết đă ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc cấp, cho tới lúc tàn cuộc.

    Những danh tướng Lư Ṭng Bá, Lê Minh Đảo, Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khai Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn.. há không có phương tiện như Nguyễn Cao Kỳ, để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao ? Nhưng họ là quân tử thời đại, là kẻ sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng hôn sinh mạng một đời. V́ vậy biết ở lại sẽ chết nhưng vẫn chấp nhận hoàn cảnh, cuối cùng kẻ th́ tự tử, c̣n người bị giam cầm nhiều chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi chung, v́ hai chữ hy sinh cao quư ‘ lưu thủ đan tâm, chiếu hăn thanh ‘

    Trong khi nguyên thủ bỏ chạy, c̣n TT Dương Văn Minh th́ chuẩn bị đầu hàng giặc nhưng quanh Sài G̣n và khắp bốn phương tám hướng, tất cả những đơn vị c̣n lại của VNCH, vẫn hiên ngang chiến đấu trong dơn độc. Nên không ngạc nhiên khi được đọc qua lời phê b́nh của Sử gia người Anh, Sir Edward S Creasy, qua danh phẩm ‘ Fifteen Decisive Battles of The World ‘, cho biết tầm quan trọng của một cuộc chiến, không phải chỉ căn cứ vào số người chết, tù binh và chiến lợi phẩm. Nó được tính bằng thành quả ngày hôm nay, do cuộc chiến thắng đem lại.

    Vậy ta thử hỏi sau ba mươi sáu năm chiến tranh chấm dứt (30/4/1975 ố 30/4/2011), kẻ chiến thắng là đệ tam cọng sản Hà Nội, đă làm được những ǵ, để mang tới phúc lợi, no ấm cho dân tộc VN ?. Trong thời gian đó, đất nước chúng ta có được độc lập tự do hay không ?Cứ nh́n kết quả mà không cần phải đơi câu trả lời.

    Thật sự cho tới bây giờ, đất nước VN vẫn là một quê hương bị đọa đày tang tóc khổ đau. Dân chúng đại đa số nghèo đói lạc hậu. Xă hội băng hoại, kỷ cương tan nát, đạo đức suy đồi và oán thù chất ngất v́ hố phân chia mọi thành phần trong nước, càng lúc càng sâu thẳm không biết đâu mà ṃ. Trong lúc bọn cán bộ viên chức đảng nhà nước, bọn Việt gian-Việt kiều c̣ mồi, bọn tư bản đỏ trắng tại VN càng lúc càng giàu có vinh hiển tột cùng với tiền tỷ vàng kư, th́ người dân cả nước từ nông dân, người đánh cá, cho tới kẻ lạo động, gần như kiếm ăn từng bửa. Như vậy tám mươi mốt năm qua (1930-2011), nói là đi làm cách mạng để giải phóng nước bị ngoại xâm. Dân bị kềm kẹp. Thế nhưng ba mươi sáu năm ḥa b́nh, giờ tính lại sổ đời, nước vẫn bị ngoại xâm kềm kẹp, không phải chỉ có Nga-Trung Cộng mà cả khối tư bản Mỹ, Nhật, Nam Hàn, ĐàiLoan-Singapore.. C̣n người dân th́ cuộc sống c̣n thua cả thời Pháp Thuộc, nói chi tới Hai mươi năm VNCH.

    Hơn ba mươi sáu năm đổi đời rồi, cho dù Bắc Bộ Phủ có gian ngoan xảo trá tới đâu, bọn Việt gian biển lận thế nào, th́ cả nước trong cũng như ở hải ngoại cũng đă hiểu gần như tất cả tấn thảm kịch VN, từ đó cho tới nay, chỉ do bàn tay đẫm máu của băng đảng Hồ Chí Minh và đệ tam cọng sản gây ra mà thôi.

    Ba mươi sáu năm nói là thống nhất nhưng Bắc-Nam cũng vẫn là Nam-Bắc. Lúc nào cũng to mồm lớn miệng nói là tự do-độc lập thế nhưng mọi việc lớn nhỏ của nước, đều do bàn tay tối cao của Liên Xô-Trung Cộng, nay lại thêm bàn tay lông lá của lái súng Mỹ quyết định giùm.

    Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Đức nhà Nguyễn v́ thiển cận, không chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như Nguyễn Trường Tộ, Đinh văn Điền, Bùi Viện.. mà cứ chạy theo ôm chân người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt Cộng cũng đă bước vào lối ṃn năm cũ, đă và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu trắng một cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn. Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai c̣n một chút hơi hám của con người, thấy ngó cũng phải đau ḷng cho non sông gấm vóc bỗng dưng bị bàn tay của đám giặc cỏ tàn phá không biết đến bao giờ mới dứt.

    Ba mươi sáu năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng dù ngày nay h́nh người có thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên vết như cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc Pó, rừng Bắc Sơn hay chui ra trong các hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẩn đảng cọng sản là trên hết, c̣n nước th́ nước xă hội chủ nghĩa. V́ vậy tất cả quốc gia đều là tài sản của đảng, của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới hậu quả di hại cho con cháu và dân tộc mai sau.

    Không ai muốn thấy cảnh máu đổ xương tan, xảy ra trên quê hương ḿnh. Nhưng người Việt quốc gia dù ở đâu và thuộc về thế hệ nào chăng nữa, đều đau ḷng trước cái tên thân thương của thành phố Sài G̣n nay bỗng dưng phải mang cái tên của kẻ phản quốc, dâm hung đứng đầu lịch sử. Cũng không thể đứng nh́n đồng bào cả nước mà phu nữ đă phải bán trôn khắp thế giới để nuôi miệng, bán mạng để sống. Cũng không thể bắt người Việt hải ngoại cứ đổ vơ cho kẻ ăn ốc là bọn cọng sản và đám việt gian, việt kiều tay sai năm vùng, bằng cách gửi tiền bạc về nước, để bọn lănh đạo Bắc Bộ Phủ vểnh râu làm giàu trên xương máu mồ hôi nước mắt của đồng bào tị nạn. Cũng không thể để cho lá cờ máu và những tên quốc tặc, hiện diện tuyên truyền, trong nhưng nơi chốn, có người Việt tị nạn sinh sống, mà điển h́nh là vụ tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ Tặc tại Tiểu Sài G̣n, vào dịp Tết Kỷ Dậu 1999. Sau rốt cũng không cho VC tiếp tục lộng hành, toa rập với đám tư bản bất lương Tây phương, Nam Hàn, Nhật Bản , Tàu Trắng và tàn độc nhất là Trung Cộng, lũng đoạn kinh tế, phá nát kỷ cương và chia xén lănh thổ VN.

    Tám mươi mốt năm qua, người Việt đă trăm lần ḥa hợp, ḥa giải, ḥa b́nh với cọng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho nên ba mươi sáu năm nay, kể cả trẻ con cũng không c̣n ai tin vào sự hứa hẹn của cọng sản, trừ bọn c̣ mồi không tim óc dù đă có cả núi bằng cấp và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ c̣n một cach duy nhất, là cả nước đứng dậy phá tan xiềng xích nô lệ của đảng cọng sản, để đ̣i lại những ǵ mà chúng ta đă mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.

    Vấn đề c̣n lại hiện nay, không phải là chờ Mỹ hay bất cứ một thế lực nào bật đèn xanh đèn đỏ, mà là thời gian và ḷng người. Đă có không biết bao nhiêu ngọn đuốc soi bước dẫn đường, suốt ba mươi sáu năm qua như Trần Văn Bá, Vơ Đại Tôn, Lư Tống.. và nhiều nam nữ anh hùng khác. Tuy Họ đă thất bại trước bạo quyền nhưng ngọn đuốc tự do vẫn được chuyền tay thắp sáng, cho thế hệ hậu duệ và các đồng chí đồng bào, đă và đang đấu tranh cho sự quang phục của đất nước

    Có ai trong đời không một lần phải chết nhưng trước khi nhắm mắt ĺa đời, phải làm một điều thiện cho quê hương, để khi xuôi tay nhắm mắt, không phải ngậm cười nơi chín suối hay cứ than thân trách phận v́ :

    ‘Nợ nước chưa xong đầu đă bạc

    trăm năm thân thế bóng tà dương.. ’ ’

    Hỡi ơi đời nay, không có ǵ buồn hơn nỗi buồn nhớ nhà khi tuổi già, dù nhà và nước đang ở trước mắt ḿnh:

    ‘Chiều xuống quê nhà đâu đó tá ?

    Trên sông, khói sóng năo ḷng ai .. ’ ’

    (Thôi Hiệu)

    Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

    Tháng 4 – 2011

    MƯỜNG GIANG

  2. #12
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Saigon Vĩnh Biệt


  3. #13
    JNguyencali
    Khách

    Người Lính Ấy Của Tôi

    MINH H̉A
    Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi c̣n cắp sách đến truờng. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời , nhưng dạo đó
    trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.

    Anh nhất định đ̣i cưới tôi ngay sau khi ra truờng, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng ư, không thể phản đối. Tôi h́nh như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, v́ tuổi 18, 19 thời đó c̣n nhỏ lắm, chẳng biết ǵ, chỉ biết rằng tôi h́nh như cũng… yêu anh nhiều lắm.

    Tôi c̣n nhớ, tuy c̣n nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đă thổn thức một ḿnh.

    Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao nguời trai đă ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền ḷng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Anh gần nổi giận cả với tôi, anh nhất định đi Nhảy Dù.

    Bao nhiêu gịng nuớc mắt cũng không cản được con nguời ấy. Gia đ́nh tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quư mến anh…

    Thế là tôi rời ghế nhà truờng năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tuởng như đang trong giấc mộng t́nh yêu thời con gái. Rồi th́ giă từ quê hương Đà-lạt yêu dấu, giă từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở th́ thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đ́nh chồng ở Sài G̣n. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hăi trong giang sơn nhà chồng, c̣n chưa biết ứng xử ra sao, nhung được cha mẹ và các em chồng hết ḷng thương mến. Các chú em chồng nho nhă luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nuớng.

    Tuần trăng mật thật vội vă nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra truờng, rồi tŕnh diện đơn vị mới, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở Tam Hiệp. Mùng sáu tết Tân Hợi 1971, Sư đ̣an Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong gịng nuớc mắt vợ hiền là điều xui rủi.

    Tôi vội vă guợng cuời, để rồi từng đêm thổn thức một ḿnh trong căn pḥng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa. .. Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngập tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của nguời tráng sĩ đang tung ḿnh trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui ǵ hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thuờng đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi “phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự th́ lại không được về, vẫn c̣n bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ măi trong khói hương với đầy nuớc mắt, chẵng khấn đươc câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tuợng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.

    Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo truớc ngực. Tôi run run dội nuớc tắm cho anh để nuớc khỏi vào vết thương, mà không dấu được nụ cười đầy sung suớng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…

    Rồi anh lại ra đi : Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những đia danh trong các gịng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm ḷng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một c̣n với quân thù quái ác. Vừa lành vết thuong là lại ra đi. Tôi thành nguời chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. C̣n anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn c̣n nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Si, anh Tâm, anh Quyền….

    Mỗi lần trở về b́nh an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huưt gió vang vang khúc hát lên đường. Con nguời ấy không biết sợ hăi là ǵ, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than văn, chỉ thích nụ cuời và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại được thân anh. Tôi chỉ c̣n biết chiều theo ư chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, v́ thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo chiều chuộng và đem lại cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của nguời lính chiến, không muốn để anh bận ḷng v́ những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, v́ anh cứ đi, đi măi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.

    Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra lúc Tiểu Đoàn 5 Dù đang đóng quân ở vuờn Tao Đàn. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Nguời hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại, gia đ́nh thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cuời ngay từ đầu ngơ. Anh về được đúng một tuần, th́ lại lên đường đi Quảng Trị. .. Rồi anh lại bị thương ở cửa ngơ Cổ thành, trở về trong pḥng hồi sinh Tổng y viên Cộng Ḥa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đinh, tôi ngất xỉu trên xe của nguời anh chồng…

    Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất buớc hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thuong đến thế cái con nguời duờng như chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết uớc nguyện của anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, “…Rồi nuớc ḿnh sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh muốn làm tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc nhu Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thuợng Lào ăn nhằm ǵ… Hà hà” Tôi chỉ ậm ừ v́ chẳng hiểu ǵ, khi anh th́ thầm bên tai tôi vào một đem tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…

    Sinh cháu gái đầu ḷng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và truờng cũ, xong lại bay đi trấn thủ đuờng ranh giới ngung chiến ở vùng Tây Nam Huế. ..

    Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sỉ quan chuyên vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài G̣n để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đinh, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tuởng anh cũng định ra đi, nhung anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn c̣n chưa nao núng, “bọn nó làm ǵ thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa th́ mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thuờng, c̣n trận cuối này là xong.…”
    Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hăy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nuớc đó tôi không c̣n ǵ sợ hăi, ôm con nhảy xuống, nhất định đ̣i ở lại. Vợ chồng sống chêt có nhau...

    Ba lần toan vuợt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại năo nề. Anh lên đuờng đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nh́… Bé Dung uỡn nguời đ̣i theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cuời với mẹ con tôi. Vẫn nụ cuời ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là ǵ, nhung c̣n mẹ con em, anh ơi??? …

    Gia đ́nh nhà chồng tôi thiệt có phuớc, hầu hết đă theo tàu 505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đinh tôi từ Đà lạt chạy về Sài G̣n, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đ́nh chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua được ngôi nhà khác, v́ ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vây đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp đuợc, rồi anh bị đưa ra Bắc.

    Năm đó tôi tṛn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suưt soa ḍm ngó. Biết bao nguời mai mối th́ thầm bên tai tôi, thôi hăy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng phát. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghỉ coi cả bọn cả lủ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.

    Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ c̣n toàn rác ruởi. Toàn bọn cán ngố từ Bắc vào và từ trong khu ra, và không kể các bậc truởng thuợng cùng anh em chiến si miền Nam đang khổ sở, th́ đàn ông ở miền Nam khi ấy cũng chỉ c̣n bọn nguời không đủ điều kiện để phải đi tù cải tạo, dù chỉ có ba ngày

    Vâng, những nguời đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những nguời xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…. C̣n ǵ nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đă là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng truớc bọn nguời luờng lọc, bướm ong, hèn hạ bợ đỡ kẻ thù, thấp kém từ kiến thức đến tư cách.

    Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh uớt, bánh ḿ, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn cuớp nuớc và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng ḷng, đum bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm ḷng son tôi vẫn vẹn với câu thề…

    Vuợt qua đuợc thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi đuợc gia đinh chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho một chuyến thăm nuôi….

    Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, th́ tôi xin đuợc giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục kư quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục kư thăm dùm con trai, v́ con dâu cụ đă vuợt biên. Cháu Dung đă lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy đuợc mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.

    Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giă. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự ḿnh kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Không cho khiêng bọn chúng trở mặt chửi liền. Có nguời đă đi về kể rằng cứ sơ ư là bọn dân này vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm đuợc kư mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vă chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con th́ nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đă bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn ruợt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đă giúp chồng ḿnh đỡ bao đói khát.

    Xe đ̣ đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm nguời lớn và hai cháu xuống ngă ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu c̣n quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay . Cô Út thiệt giỏi, xong phần ḿnh lại xông xáo giúp hết nguời nọ tới nguời kia.

    Xong giấy tờ, chờ một lát th́ một nguời tù h́nh sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi đuợc lên xe trâu, tôi và chị Phuớc, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đuờng đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
    Chân tay ră rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung c̣n phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, v́ nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm muu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nh́n hai con thơ ngây ngủ say sưa v́ mỏi mệt, tôi rời ră vô cùng nhưng không sao ngủ đuợc. Hằng trăm h́nh ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, nguời lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đă ra sao???

    Sáng, đến luợt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không đuợc phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều ǵ. Cô nữ công an nh́n cḥng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà đá sắp tung đ̣n. Tôi không thể hiểu nguời con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều ǵ. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đinh cho anh Đức nghe, tôi đuợc biết chỉ c̣n một tiếng ruỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở v́ tủi cực, không thể nào cầm đuợc.
    Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ đuợc gặp chồng có một giờ ba muới phút không hả Trời?!!
    Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nuớc mắt th́ không cho ra thăm… Nhưng ḱa, ai như chồng tôi vừa buớc ra khỏi cổng trại. Tôi không c̣n nhớ quy định luật lệ ǵ nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nh́n.

    Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không c̣n sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một ṿng tay. Nguời anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nh́n ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đuợm nét u buồn khiến tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói đuợc lời nào, chỉ bặm môi nh́n tôi nh́n con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tỉnh, v́ không muốn rơi nuớc mắt truớc mặt bọn công an

    Anh d́u tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh buớc sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nh́n vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đa xung phong đi khai khẩn rồi, đang chờ vợ chồng ḿnh lên lao động sản xuất.
    Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suưt bật cuời hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn c̣n nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đă đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn.
    Cô công an có vẻ rất đắc ư, nhắc tôi:
    - Chị phải nói ǵ động viên anh ư đi chứ.
    Anh nh́n mắt tôi, cuời thành tiếng. Tôi chợt cuời, nhưng lại chợt giận hờn. Tôi cúi mặt giận dỗi:
    - Em không đi đâu hết, em chờ anh về đă rồi muốn đi đâu cũng được …

    Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nh́n hết nguời nọ đến nguời kia, lên tiếng:
    - Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao động tốt th́ anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ư tiến bộ thế đấy, c̣n chị th́ cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!

    Anh không nhịn được, lại cuời khanh khách và nói:
    - Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng sáng suốt như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ th́ biết chính sách Nhà nuớc ra sao, cũng đừng lo ǵ hết, ráng nuôi dạy con cho nên nguời đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…

    Tôi dở khóc dở cuời, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên ḷng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nh́n sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nḥa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ đuợc gần cha trong giây lát nữa thôi.

    Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ ǵ nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà.. anh về rồi ḿnh cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ ǵn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đơi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ ǵn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…

    Tôi chợt thấy chồng tôi nḥa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gơ bàn ra hiệu cho nguời ở ngoài. Nguời nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay truớc cửa pḥng, bất chấp tiếng gơ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói đuợc một câu: Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em … đă quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…

    Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy đại theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc . Tôi ôm cây cột gỗ nh́n dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc. Anh ngoái đầu nh́n lại hoài, buớc chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng v́ hàng quá nặng…
    Sáng hôm sau tôi như nguời mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn ǵ . Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không đuợc về lối cũ, mà phải đi ṿng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngă ba Nam Phát.

    Đuờng xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngă ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi uớt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân ḿnh che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi buớc thấp buớc cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đă giao cho chồng hết, chúng tôi không c̣n ǵ ăn uống. Dọc duờng mua đuợc mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi ră rời trong lúc chiều cứ xuống dần.

    Đám nguời lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút t́nh thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nh́n truớc ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cơng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngă gục lúc nào. Cháu Bi nh́n thấy mẹ mệt quá, đ̣i tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến buớc. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, th́ trở lại đuợc ngă ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đ̣ ra Thanh hóa.

    Đám nguời ngồi bệt xuống bên đuờng. Lâu lắm mới có một xe chất đầy nguời chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đă hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đen đầy sao như một pho tuợng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng ḷa trên dáng nguời con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi đuợc lên ngồi ca bin, c̣n tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đuờng đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tuởng đa văng xuống đất. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.

    Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi nguợc trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đuờng đang ngơ ngácth́ các chị đằng xa đăđôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đuờng, đầy những chiếu với tấm ni lông, noi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California. Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” nhu nguời miền Nam vẫn kêu với tấm t́nh trân quư, để phân biệt với những nguời tù h́nh sự. Cho nên danh từ thuờng đi theo với ư nghia nào mà nguời ta hiểu với nhau, không c̣n giữ đuợc nguyên cái nghia mà nó đuợc đặt cho v́ mục đích chính trị xâu xa.
    Ngủ lề đuờng nhưng chẳng ai thấy khổ, v́ gần nhau thấy ấm hẳn t́nh nguời đồng cảnh. Các chị em th́ thầm tṛ chuyện suốt đêm, kẻ th́ khóc rấm rứt, nguời lại cuời khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, h́nh ảnh chồng tôi quay cuồng măi trong đầu, khi anh nói, khi anh cuời, lúc anh đầy nuớc mắt… Sau những nguồn con cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thuơng hàn nhập lư, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đă trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tuởng không c̣n đuợc thấy mặt chồng tôi lần nữa…


    …Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột buớc vô nhà. Tôi suưt té xỉu v́ vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cuời sang sảng:
    - Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà hà..

    Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ th́ cả nhà đă vui như hội. Tất nhiên tôi là nguời mừng vui nhất….

    Hạnh phúc đă trở về trong ṿng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…

    JL

  4. #14
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    ĐÊM DÀI NHẤT CỦA SAIGON

    MƯỜNG GIANG
    (Bai duoc luu tru tai ThuvienVietNam.com & HuongveBinhThuan.org )

    ‘ Sao quên được, tháng tư đen mất nước
    máu nhuộm hồng cả sóng biển xanh mơn
    xương trắng phơi khắp sông núi Trường Sơn
    người chết thảm, nơi bến tàu sân đợi
    sau quên được những phút giờ hấp hối
    trong chiến hào, giữa đồn vắng không tên
    lính tuyệt vọng, nh́n mấy trắng cô đơn
    chờ pháo bạn, ngóng phi tuần trở lại.. ’ ’


    Ôi những lời thơ nhức nhối, khiến cho người Sài G̣n và các quân, dân, cán, chính cũng như đồng bào chiến cuộc miền Trung, đă có mặt tại thủ đô, trong đêm 29 rạng ngày 30-4-1975, làm sao quên được ?. Đây là giây phút cuối cùng của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), những ai may mắn sống sót, sẽ không thể quên nổi, cái đêm hôm ấy là đêm ǵ, trong thân phận Việt Nam, mà thời gian như dài vô tận.

    Đêm đó cả Sài G̣n-Chợ Lớn và Gia Định đều bị cúp điện. Nhưng trên trời cao, trong cái khoảnh không gian bao quanh Sài G̣n, lúc đó lại được soi sáng mờ mờ ảo ảo, bằng đủ các loại đèn của máy bay trực thăng, cho tới trưa ngày 30-4-1975 mới dứt. Sau này, dân đen Sài G̣n và những người di tản ra ngoại quốc, qua báo chí cùng tài liệu mật được Mỹ công bố, mới biết được : Đêm 29-4-1975, là thời gian cuối cùng của Hoa-Kỳ tại Nam VN. Cũng trong đêm đó, nhờ sự bảo vệ của các đơn vị c̣n lại của QLVNCH bị bỏ rơi và bán đứng, đang tử chiến với cọng sản đệ tam quốc tế ở dưới đất, nên siêu cường Mỹ, đă an toàn rời khỏi Sài G̣n, trong danh dự, bằng hằng trăm trực thăng đáp khẩn cấp, trên các mái nhà khắp đô thành, trong khuông viên cơ quan Dao và Toà Đại Sứ.

    Đêm đó cũng là giờ thứ 25 của VNCH và chính tổng thống cuối cùng là Dương Văn Minh, đă ra lệnh cho quân đội miền Nam buông súng đầu hàng, cũng như kư lệnh đuổi Mỹ ra khỏi nước. Đây là hai đề tài dai dẳng và nhức nhối của những trang cận sử tháng tư đen. Chính nó, đă gây nên cuộc bút chiến, giữa các vị khoa bảng, trí thức xôi thịt của miền Nam, trong số này có rất nhiều người từng đâm sau lưng người lính trận. Đây cũng là dịp ngàn vàng hiếm hoi, để họ được sống lại cái thuở tự do báo chí của năm nào nơi quê nhà. Bởi vậy trên diễn đàn và báo chí hải ngoại, người ta lại đánh nhau bằng bọt mép và chữ nghĩa. Tóm lại suốt thời gian rất dài, không ai chịu thua ai, người nào củng cố vận dụng tất cả văn phong, dao to búa lớn, qua cái danh giá dơm của những tờ ‘ đại nhật báo ‘ để muôn đời sống măi với lập trường ‘ ba làng ấm ớ ‘ của ḿnh. Rốt cục, nhờ ánh sáng mặt trời soi sáng gần hết những bí ẩn của cận sử, trong đó có hai vấn đề liên quan tới Dương Văn Minh. Nhờ vậy mới chấm dứt được cuộc đấu vơ mồm vô duyên, đă làm phiền ḷng cũng như tốn giấy bút và thời gian quư báu của người Việt tị nạn cọng sản khắp hoàn cầu.



    Th́ ra, cả hai hành động ra lệnh cho QLVNCH đầu hàng cũng như đuổi Mỹ ra khỏi Sài G̣n, đều không phải là quyết định của tổng thống Dương Văn Minh và nội các hai ngày của ông. Theo tài liệu của cựu đại sứ Pháp thời VNCH, viết trong tác phẩm ‘ Saigon et moi ‘, được Vũ Văn Hồ tóm dịch và phát hành tại Paris ngày 23-3-1985, cũng như tài liệu của Hứa Hoành, trong ‘ Nam Kỳ Lục Tỉnh số IV ‘, th́ ông Dương Văn Minh chỉ làm theo lệnh của cọng sản Hà Nội. Riêng việc đuổi Mỹ, thi do Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ nhờ phổ biến. Đọc Phạm Bá Hoa, nơi trang 235 của tuỳ bút ‘ Đôi ḍng ghi nhớ ‘, về việc chính ông Dương Văn Minh, đă xác nhận năm 1991 tại Paris, trong bàn tiệc lúc đó có Trần Văn Đôn và Nguyễn Linh Chiểu. Chính Đại Tá Chiểu đă hỏi Dương Văn Minh, tại sao mới nhậm chức có một ngày, đă đuổi Mỹ ?. Tổng thống Minh đă trả lời :’Moa không đuổi họ, bản văn (đuổi Mỹ) được phổ biến trên đài phát thanh vào sáng sớm ngày 29-4-1975, do chính Martin viết và nhờ Moa phổ biến. Có vậy Mỹ mới rút khỏi Sài G̣n trong danh dự ‘.

    Như vậy hai sự kiện quan trọng nhất của cận sử VN đă được chính những người trong cuộc xác nhận bằng văn tự, chứ không phải là miệng đời, cho nên không thể nào nói là bịa chuyện hay là v́ ghét người mà bôi bác. Sự thật lúc đó người Mỹ đă phải tam rời khỏi mảnh đất đau khổ VN, v́ nơi này không c̣n một giá trị ǵ nữa, để mà nấn níu ḥng đổi chác và lợi dụng Có điều hành động tháo chạy của Hoa Kỳ vào giờ thứ 25, thật là tàn nhẫn và lố bịch. Năm 1954, người Pháp sau khi bị quốc dân VN đánh bại tại Điện Biên Phủ, lúc đó dù đă kiệt sức. Nhưng Họ vẫn cố gắng giữ thể diện, bằng cách tạo hoàn cảnh để rút quân về nước trong danh dự và tự trọng. Ngoài ra vào giờ 25 trên đất Bắc, người Pháp cũng không đem con bỏ chợ, khi tận lực giúp đỡ các đơn vị của Quân Đội Quốc Gia VN đang chiến đấu tại đó, và hơn một triệu người Việt, không muốn sống chung với cọng sản, được di cư vào t́m tự do tai miền Nam. Riêng người Mỹ, sau khi đă liên kết được với Trung Cộng, hoạch định thế chiến lược mới, nên phải rút khỏi VN. Để có lư do biện minh với thiên hạ, Hoa Kỳ đă ngụy tạo một hiệp định ngưng bắn giả tạo mà thực chất là đă bán đứng đồng minh của ḿnh cho kẻ thù chung năm 1973. Rồi trong giờ phút hấp hối của VNCH nhưng với nguời Mỹ lúc đó, nếu muốn có thể lật ngược thế trận một cách dễ dàng, để bắt cọng sản quốc tế phải rút về phía bên kia vỹ tuyến 17, như họ đă từng đánh đuổi cả triệu quân Trung Cộng và Bắc Hàn, trong cuộc chiến Cao Ly năm 1950.

    Nhưng than ôi Mỹ đả cúi mặt chịu nhục nhă, trốn chạy khỏi Nam VN trong đêm tối, bằng các trực thăng đáp khẩn trên mái nhà, qua sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ phút hấp hối dưới đất. Tàn nhẫn hơn, đám lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Ṭa Đại Sứ, c̣n bắn trái khói đạn cay vào rừng người VN trước mặt, đă từng phục vụ cho họ hết ḷng, lúc đó đang cần chạy khỏi nước để cứu mạng.

    Hành động trên đă nói lên đầy đủ bản chất thật của người Mỹ : ‘Tiền trao cháo múc ‘, hay đúng hơn Mỹ vào VN v́ quyền lợi của họ thế thội.


    ( C̣n Tiếp ...)

  5. #15
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    1 - NGƯỜI MỸ VÀO VIỆT NAM :

    Người Mỹ bắt đầu ḍm ngó thương trường VN từ thời Vua Gia Long Nhà Nguyễn. Thế chiến II (1939-1945) Mỹ lại vào Việt Nam để chống lại quân phiệt Nhật và cuối cùng là trực tiếp tham dự Đông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Từ sau năm 1991, Liên Xô và cọng sản Đông Âu tan ră, Trung Cộng lên thay thế làm bá chủ cọng sản đệ tam quốc tế, hằng lăm le dă tâm nuốt trọn vùng Á Châu và toàn cầu. Sự biến chuyển chính trị trên , khiến người Mỹ phải xét lai hay nói đúng hơn là dịp để Mỹ thực thi kế hoạch cuối cùng ‘ Bất chiến tự nhiên thành ‘.Thế là chiến dịch ‘ t́m lính Mỹ mất tích tại VN ra đời ‘, để Bắc Bộ Phủ công khai cho phép Hoa Kỳ quay lại chiến trường cũ vào năm 1985 và hợp thức hóa từ ngày 3-2-1995, qua cái gọi là văn pḥng liên lạc ‘ Việt-Mỹ ‘mở tại Hà Nội. Tóm lại, Hoa Kỳ đă tới nước ta qua các giai đoạn :

    + MỸ ĐẾN VN T̀M THƯƠNG TRƯỜNG :

    - 1803 : một tàu buôn Mỹ tên Fame do thuyền trưởng Jermiar Brigo’s đến VN xin giao thương nhưng vua Gia Long không chấp thuận.
    - 1819 : Hai tàu buôn Mỹ khác tên Franklin và Marmion vào cửa Cần Giờ (Vũng Tàu) và theo sông Đồng Nai vào tới Gia Định Thành, tức Sài G̣n ngày nay nhưng v́ ngôn ngữ hai nước bất đồng, nên cuối cùng hai chiếc tàu trên lại quay ra biển.
    - 1833 : Một chiến hạm Mỹ tên Peacock do Hạm trưởng Edmund Robert, được Tổng Thống Mỹ Andrew Jackson , đề cử làm sứ thần đến Đại Nam giao thiệp xin mua bán. Ngày 1-1 năm đó, hai chiếc tàu trên tới hải phận Đà Nẳng nhưng v́ gặp bảo, nên không thể vào vịnh để cặp bến. Do trên tàu phải chạy xuống núp băo tại Vũng Rô, Phú Yên và được tiếp xúc với chánh quyền địa phương bằng tiếng Latin, qua sự thông dịch của một một tu sĩ Thiên Chúa Gíáo. Theo nữ giao sư Ellen Hammer, một học giả về Đông Phương, th́ trong lần tiếp xúx đó, vua Minh Mạng đă chính thức cho phép người Mỹ vào VN buôn bán giao dịch nhưng không hiểu sao, hai chiếc tàu trên đă không tới Đà Nẳng, sau khi rời Vũng Rô.

    + MỶ VÀO VN ĐỂ CHỐNG NHẬT TRONG THẾ CHIẾN II (1939-1945) :

    Ngày 9-3-1945, Nhật tấn công và giải giới toàn bộ lực lượng quân đội viễn chinh của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương. Sau đó quân Nhật từ Hoa Nam tràn xuống chiếm đóng Việt-Miên-Lào. Bán đảo Mă Lai, lúc đó là thuộc địa của Anh Cát Lợi, cũng rơi vào tay quân phiệt Nhật. Từ đó, khắp lănh thổ VN luôn bị quân Đông Minh oanh tạc.

    Để thâu lượm các tin túc t́nh báo cũng như tiếp xúc giải cứu các phi công Đồng Minh bị Nhật bắn hạ bắt giữ, Anh-Mỹ đă thành lập một cơ quan t́nh báo đặc biệt gọi là GBT, chuyên hoạt động trên lănh thổ VN. Nhưng cỡ sở này đă bị Nhật khám phá được và dẹp tan. Sau ngày 9-3-1945, khi người Nhật chính thức trở thành chủ nhân ông Đông Dương, Để tiếp tục hoạt động tại mặt trận này, cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đă cử một nhóm sĩ quan OSS ( tiền thân của CIA), trong đó có Trung Úy Dan Phelan, Thiếu Uư Allison Thomas.. nhảy dù xuống các căn cứ của Việt Minh tại Việt Bắc, để phối họp chống Nhật. Chính trong giai đoạn này, để mua chuộc, người Mỹ đă cho bộ đội VM rất nhiều vũ khí cá nhân cũng như cộng cộng, đồng thời huấn luyện hướng dẫn họ cách sử dụng các loại súng cối, đại bác, ném lựu đạn, đặt ḿn bẩy.. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh v́ bị thả hai trái bom nguyên tử, th́ cũng chính những sĩ quan t́nh báo này, đă giúp cho lực lượng VM cướp được chính quyền trong tay người Việt Quốc Gia, tại Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945. Bởi vậy, nên khi toán sĩ quan OSS từ Côn Minh, do Đại Uư Archimedes APatti cầm đầu, tới Hà Nội, đă được Hồ Chí Minh và các lănh đạo khác trong Bắc Bộ Phủ đón tiếp rất trọng thể.

    Tại Nam Kỳ, cũng có một nhóm OSS gồm 17 người, do Thiếu Tá A.Perter Deway cầm đầu, theo chân quân Anh-Ấn tới đây để giải giới quân Nhật, trú đóng phía bên này vĩ tuyến 16. Nhưng toán sĩ quan t́nh báo này đă phản đối quân Anh-Ấn, khi thấy họ đă công khai cho thực dân Pháp vào lại Sài G̣n, để tiếp tục đàn áp và bức hại người VN. Do đó, toán sĩ quan OSS này đă bị tướng Anh Gracey trục xuất khỏi Nam Kỳ. Tuy nhiên Thiếu Tá Peter và nhiều sĩ quan OSS khác trong toán, đă bị chết thảm tại Sài G̣n, do sự tấn công lầm của lực lượng VM kháng chiến tại đây.

    Ngoài ra trong thời gian tù 1945-1954, Chính phủ Mỹ đả cử các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Kennet London, Abbot Lowmoffat.. do James O’Sullivan làm Tổng Lănh Sự tại Hà Nội. Nhưng rồi chỉ một thời gian ngắn, khi biết được Hồ Chí Minh hoạt động cho Đệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, nên người Mỹ đă cuốn cờ bỏ chạy khỏi miền Bắc.

    + MỶ THAM DỰ CUỘC CHIẾN ĐÔNG DƯƠNG 2 (1955-1975) :

    Tháng 12-1949, Trung Công coi như làm chủ hoàn toàn Hoa Lục , khi Lâm Bưu b́nh định xong đảo Hải Nam và Lư Hán tại Vân Nam cũng xin đầu hàng. Ngày 18-1-1950, ả Liên Xô lẫn Tàu Công là nước đầu tiên công nhận chế độ cọng sản của VC tại Hà Nội. Để trả đũa, Hoa Kỳ cũng công nhận Chính Phủ Quốc Gia VN của Quốc Trưởng Bảo Đại, đồng thời tiếp tục viện trợ quân sự cho thực dân Pháp, chống lại cọng sản VN, qua bức b́nh phong Mặt Trận Kháng Chiến Việt Minh.

    Tháng 6-1950, Thế Chiến III bùng nổ tại bán đảo Triều Tiên, giữa phe cọng sản Trung Cộng, Bắc Cao và Lực lượng Liên Hiệp Quốc. Sau khi chiến cuộc chấm dứt, đệ tam quốc tế coi như chỉ chiếm được nửa nước Cao Ly. Để ngăn chận vết dầu loang của chủ nghĩa Mác-Lê-Mao, lan tràn tới các phần đất c̣n lại của Châu Á, nên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ mới đẻ ra cái gọi là Thuyết Domino vào ngày 1-2-1950 (Theo tài liệu mật NSC 649 vừa được giải mă). Trong chiến lược này, VN được chọn làm quốc sách, như một tiền đồn ngăn chận làn sóng đỏ lúc đó.

    Thật sự đây chỉ là một cái cớ, mang các danh từ hào nhoáng, để che đậy công cuộc mậu dịch song phương và hoà b́nh, của bọn tư bản lái súng Mỹ, đang lảng vảng sau bức b́nh phong của Ṭa Bạch Ốc, mà bất cứ thời nào từ trước tới nay, đều không thay đổi. Tóm lại v́ lợi nhuận của bọn lái buôn và nước Mỹ, nên lúc nào cũng phải kiếm cớ để có chiến tranh khắp nơi. Như vậy Mỹ mới điều ḥa nền kinh tế tài chánh để cung ứng nhu cầu quốc gia không bị xáo trộn v́ nạn thất nghiệp. Mở rộng chiến tranh Đông Dương lúc đó, để bọn tài phiệt lái súng, tiêu thu cho hết số vũ khí tồn kho, từ thời thế chiến I và II, đồng thời có dịp bày bán các sản phẩm mới của cuộc chiến hiện đại.

    Giống như nền kinh tế thị trường hiện tại, chúng ta xài các sản phẩm mang nhiều quốc tịch khác nhau nhưng thật sự gần hết đều là của Mỹ được làm tại ngoại quốc, v́ nhân công rẻ và tránh thuế nặng. Tương tự, các sản phẩm chiến tranh thời đó, mang nhiều nhăn hiệu như Liên Xô, Trung Cộng, Do Thái, Đông Âu.. thật sự đều là hàng Mỹ chính hiệu. Chẳng hạn chiến xa T54, xe vận tải Molotova, Zill.. cứ tưởng là do Nga-Tàu chế, thật sự là hàng của các xe Ford và Christie.. Cũng nhờ chiến tranh VN, ông khai gia tăng ngân sách quốc pḥng, ngoại viện và bắt dân đóng thuế thêm 10%. Song song các đại công ty Mỹ như Howard Hughes, Lockheed Aircraft, General Dinamic, General Electric.. nhờ hợp tác với Bộ Quốc Pḥng, nên hốt được nhiều tỷ đô la. Bởi tất cả viên trợ cho VNCH đều miễn thuế nhập khẩu và đổi hàng thành tiền, khấu trừ vào ngân khoản viện trợ hằng năm.

    Tóm lại nhờ chiến tranh VN, cả nước Mỹ và các đồng minh ăn ké liên hệ như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan.ăn nên làm ra. Để thu hoạch được mối lợi to lớn trên, Ṭa Bạch Ốc phải đẻ ra một cuộc chến dai dẳng, được các nhà quân sự gọi là ‘ đánh nhau có giới hạn ‘.Cũng v́ lư do trên, mà qua cuộc chiến gần 20 năm, quân đội Mỹ tham chiến tại VN, có thể nói là chưa bao giờ được trang bị đầy đủ các phương tiện, cũng như cung ứng quân số để đạt tới chiến thắng. Rồi với lư do không được chọc giận Liên Xô-Trung Cộng, nên chính phủ Mỹ cấm quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH, không được vượt vỹ tuyến 17 để tấn công Bắc Việt. Nhờ vậy cọng sản Hà Nôi luôn vững tâm có một hậu phương lớn, an toàn, không bao giờ sợ phản tặc đâm sau

    Nên đừng lấy làm lạ, khi thấy gần như suốt cuộc chiến Hoa Kỳ chỉ viện trợ cho VNCH những thứ quân dụng và vũ khí lỗi thời như súng trường Garant M1, đại bác không giật 57 ly, súng cối 60-81 ly, đại bác ṇng dài 105-155 ly.. bởi Mỹ chỉ muốn Miền Nam sống thoi thóp mà thôi. Tóm lại chỉ v́ bản chất chính trị con buôn, quyền lợi ích kỷ, nên Mỹ đă t́m đủ mọi cách để biến quốc gia của kẻ khác, gần như một tiền đồn của ḿnh, để thử nghiệm hiệu quả của các phát minh súng-đạn. Cũng từ đó, hai miền Nam-Bắc VN, đả trở thành vật tế thần, để các siêu cường của hai khối, quảng cáo vũ khí chiến lược và ư thức hệ.

    Nhưng người Mỹ cũng đă tiêu phí trong cuộc chơi giỡn mặt với tử thần trên, qua số tiền 165 tỷ mỹ kim, tiền xương máu đóng góp của người dân. Về quân đội Hoa Kỳ, có 58.022 người chết, 300.000 bị thương và 2500 mất tích. Riêng VN cả hai miền Nam-Bắc chết 1,9 triệu người và 4,5 triệu người khác bị thương. Cả nước từ biên giới Hoa-Việt tới Cà Mâu-Hà Tiên, trên núi dưới biển, nông thôn cũng như thành thị, nơi nào cũng bị bom đạn của ngoại quốc, do chính người VN hai miền đem về tàn phá tận tuyệt, năo nùng.

    Để được đem quân vào VN, người Mỹ đă đồng mưu với các tướng lănh bản địa, để giết chết một tổng thống. Để có lư do chính đáng được người dân và quốc hội Hoa Kỳ tán trợ, Chính phủ Mỷ đưa ra chiến lược hào nhoáng là ‘ vào Nam VN để giúp ngăn chận sự xâm lược của cọng sản miền bắc ‘.Do đó ngày 7-3-1965, theo lệnh của tổng thống Johnson, một sư đoàn TQLC Mỹ gồm 3500 người, đầu tiên đă đến Đà Nẳng và cứ thế tới cuối năm 1967, quân số Hoa Kỳ tham chiến tại Nam VN đă hơn nửa triệu người.

    Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 này, có một sự kiện đặc biệt nhất, đó là việc hiện diện đông đảo của bọn kư giả, nhà báo, cơ quan truyền thông.. những đỉnh cao của nền văn minh duy lư da trắng. Nhưng cũng chính bọn này đă táng tận lương tâm của con người, đảo lộn trắng đen, nói càng viết bậy, để hướng dẫn dư luận thế giới trong đó có Mỹ, nhất là vụ VC tổng công kích VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Rơ ràng nhất là lúc đó, Bắc Việt gần như nướng sạch cán binh, bộ đội khắp các chiến trường, kể cả tại Huế và Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n. Thế nhưng chỉ v́ những cái lưỡi tắc kè thay da đổi tiếng, nên VC tuy thua ở Nam VN nhưng lại chiến thắng trong màn ảnh truyền h́nh khắp các thủ đô Ba Lê, Luân Đôn, Hoa Thịnh Đón..
    Cũng từ đó, nhân dân Mỹ đă bắt đầu phản đối chiến tranh và đ̣i rút quân về nước. Nhưng lư do chính cũng vẫn là nền kinh tế, tài chính Mỹ đang có dấu hiệu suy thoái. Sự kiện này đả thực sự bộc phát mạnh vào năm 1971, làm Mỹ phải hai lần phá giá đồng đô la nhưng vẫn không thể nào cứu văn kịp. Đây cũng là dịp để cho bọn tư bản lái súng có cớ chuyển tiền bạc công ty ra ngoại quốc đầu tư, làm cho nạn thất nghiệp càng thêm trầm trọng.

    Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, để bọn điệp viên Liên Xô, Trung Cộng, Việt Cộng.. phối hợp với bọn tư bản Mỹ phản chiến, châm ng̣i cho cuộc bạo động khắp nước Mỹ, đ̣i rút quân về nước. Phong trào trên lan nhanh, từ California, Massachussetts, Newyork.. tới thủ đô Hoa Thịnh Đốn Tưới thêm xăng vào lửa, là bọn đại tài phiệt Do Thái, những siêu quyền lực cầm trịch trong guồng máy lănh đạo Ṭa Bạch ốc, cũng gây áp lực, bắt chấm dứt chiến tranh VN, để dồn hết ngân sách ngọai viện dành cho Irael tại Trung Đông. Chính tên ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia cho TT. Nixon là Henry Kissinger, người Mỹ gốc Do Thái, đă nhúng tay vào tất cả các âm mưu, trong việc ngụy tạo một hiệp ước ngưng bắn giả mạo vào năm 1973, để bán đứng VNCH cho khối cọng sản quốc tế, đổi lấy quyền lợi cho Do Thái tại Trung Đông.

    Hậu quả của phong trào phản chiến trên, khiến cho giới dân cử Mỹ v́ muốn kiếm phiếu trong lần sau, nên phải mị dân bằng cách ban hành nhiều đạo luật quái gở, hầu hết đều làm lợi cho cọng sản mà điển h́nh nhất là War Power Art kư năm 1973, gần như trói tay tống thống và hành pháp Mỹ. V́ vậy cọng sản Bắc Việt đă công khai xé bỏ bản hiệp ước vừa mới kư tại Ba Lê chưa ráo mực, xua quân cưỡng chiếm miền Nam.

    Tháng 5-1975, Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ đến thăm Hà Nội, đă công khai tuyên bố :’ chiến thắng của CSVN cũng là chiến thắng của đảng CS.Hoa Kỳ ‘.C̣n chủ tịch bù nh́n của Mặt Trận Ma-Nguyễn Hữu Thọ tại Mạc Tư Khoa th́ nói :’ chiến thắng của Bắc Việt là do công lao của Mỹ, đă viện trợ chính trị và cổ vơ cho họ ‘.Nhưng mai mỉa và nhức nhối tận cùng là lời của Lê Đức Thọ :’ Năm 1954 CSVN thắng Pháp tại Ba Lê , c̣n năm 1975 CSVN lại thắng VNCH tại Hoa Thịnh Đốn.

    ( C̣n tiếp ...)

  6. #16
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    2 - MỸ BỎ VIỆT NAM :

    Mỹ tới VN chỉ lợi ích và chiến lược. Bởi vậy sau khi đă bắt tay được Trung Cộng vào ngày 21-2-172, song song với việc đă chế tạo thành công tàu ngầm nguyên tử cùng hỏa tiễn liên lục địa Polaris, th́ cái ư nghĩa sử dụng Nam Việt Nam, để làm tiền đồn ngăn chận làn sóng đó đả không c̣n tồn tại. Thêm vào đó là sự ngu xuẩn của Kissiger khi quá tin vào lời hứa cuội của Liên Xô, tại hội nghị ḥa hoăn Helsinki-Phần Lan, là sẽ kềm chế VC. Bởi vậy để thưởng cộng trước, Mỹ qua đề nghị của KIs cho Liên Xô được hưởng ưu tiên tối huệ quốc.

    Cũng v́ vậy, nên lúc nào cặp Nixon-Kissiger cũng coi VNCH như là một thuộc địa của ḿnh không hơn không kém. Ngoài việc nhiều lần làm mất mặt chính quyền miền Nam trên trường quốc tế, Mỹ cón sử dụng viện trợ như là một thứ áp lực gông cùm, bắt ép một quốc gia đang có chủ quyền, dân chúng và lănh thổ, phải ngồi chung trong bàn hội nghị với công cụ của cọng sản Bắc Việt, qua danh xưng MTGPMN, mà Mỹ đă biết rất rơ ràng. Cuối cùng cũng lấy viện trợ, bắt buộc VNCH phải kư hiệp địng ngưng bắn vào năm 1973, trong đó Mỹ công nhận MTGPMN như một chính quyền thứ hai củng như cho bộ đội Bắc Việt ở lại miền Nam, làm cho QLVNCH phải bó tay, để cho cọng sản đệ tam tiếp tục tấn công cưỡng chiếm miền nam. Sau ngày 30-4-1975, tướng Alexander Haig, một cựu bộ trưởng thời TT.Nixon đă viết :’ chúng tôi gạt Tổng Thống VNCH là Nguyễn Văn Thiệu, kư vào bản hiệp ước ngưng bắn năm 1973 tai Ba Lê, bằng cách gởi nhiều bức thơ viết tay của Nixon. Theo nội dung những bức thơ đó, thi Nixon nhân danh nước Mỹ, cam kết sẽ sử dụng quân đội và pháo đài bay B52 trở lại trên chiến trường, nếu Bắc Việt tiếp tục xâm lăng VNCH. Ngoài ra Nixon c̣n to miệng hứa là sẽ tiếp tục quân viện cho miền nam, trên nguyên tắc mà hai nước đă kư kết từ trước ‘ 1 đổi 1 ‘.Nhưng than ôi tất cả chỉ là sự lừa bịp của một siêu cường đang lănh đạo khối tự do lúc đó, với một đồng minh từng sánh vai sống chết với ḿnh, trong lúc đang hấp hối v́ thù trong giặc ngoài. Cho nên Mỹ đă phủi tay, khi đem được tù binh về nước, giúp TT Nixon đắc cử thêm một nhiệm kỳ (1971-1975).

    Bởi vậy vào ngày 21-1-1973, tại Ba Lê trong khi các nguyên thủ trên thế giới liên hệ, đang nổ rượu Champagne nói là để ăn mừng v́ ḥa b́nh tại VN. Khôi hài hơn hết, là sự việc hai tên đại bịp Kissinger và Lê Đức Tho được cái gọi là Uỷ Ban giải Nobel Ḥa B́nh tại Nauy, phát giải thưởng. Th́ cũng lúc đó, cọng sản Bắc Việt đă xử dụng chính bộ đội mà Mỹ cho phép ở lại tại lănh thổ Nam VN, tấn công đồng loạt các cứ điểm VNCH tại Cửa Việt (Quảng Trị), Kon Tum, Kiến Tường.. Nhưng quan trọng hơn hết là tại Sa Huỳnh (Quảng Ngăi), B́nh Thuận và Trại Biệt Động Quân Biên Pḥng Tống Lê Chân (B́nh Long)..

    Tiếp theo khi biết chắc Mỹ đă phủi tay thật sự không bao giờ can thiệp vào chiến tranh VN, nên tháng 12-1974, Bắc Việt xua đại quân tấn chiếm quận Thường Đức (Quảng Nam), Phước Long, Ban Mê Thuột và toàn thể Miền Nam vào ngày 30-4-1975.

    ( C̣n tiếp ...)

  7. #17
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    3- MỸ CHẠY KHỎI VN TRONG ĐÊM TỐI, TRÊN MÁI NHÀ :

    Từ khi có ư định phủi tay bỏ Nam VN, nên cuối năm 1974, ṭa đại sứ Mỹ tại Sài G̣n, đă bắt đầu lập bản dự thảo kế hoạch rút số viên chức c̣n lại, cũng như di tản những thành phần bản xứ có liên hệ với họ. Đó là chiến dịch ‘ Talon Vice ‘, sau được đổi thành ‘ Frequent Wind ‘.Theo sử liệu bật mí mới đây, sở dĩ kế hoạch trên vào phút chót, trở thành ‘ đầu gà đít vịt ‘, là do sự bất đồng ư kiến giữa đại sứ Mỹ Martin và phái bộ quân sự Hoa Kỳ (Dao). Nhưng đây cũng chỉ là cái cớ, để phần nào làm nhẹ bớt tội tắc trách của ông đại sứ. Cũng theo tài liệu, sự thất bại c̣n có rất nhiều lư do khác, chẳng hạn do tướng Smith, trưởng cơ quan Dao, đă tiết lộ kế hoạch chạy của Mỹ, trong bữa tiệc do Tổng Cục Tiếp Vận tổ chức trong đêm giáng sinh 24-12-1974.

    Tin này lập tức được loan truyền rộng rải, nên thay v́ Mỹ di tản các thành phần quan trọng có nguy hai tới tánh mạng khi VC vào, lại chỉ vớt toàn bọn nhà giàu, Chệt-Tàu Chợ-Lớn, me Mẽo, bọn c̣ mồi phá thối chính quyền VNCH, trong đó có nhiều sư-cha, văn nhân, nghệ sĩ.. và đặc biệt là bọn tướng-tá, ăn không ngồi chơi xơi nước tại các cơ quan đầu năo trung ương về quân sự cũng như hành chánh. Bọn này đa số đều giàu có về tiền bạc cũng như quyền thế và phe cánh Mỹ, nên ra đi ngoài gia đ́nh nội ngoại ba đời, c̣n có cả con sen thằng ở. Sau rốt là do đại sứ Martin tới giờ phút chót, vẫn c̣n ngu xuẩn, cả tin vào sự hẹn hứa của Bắc Việt, nên nuôi ảo vọng thương thuyết, khi chấp nhận điều kiện ‘ đổi ngựa ‘ hết Nguyễn Văn Thiệu, tới Trần Văn hương và cuối cùng là Dương Văn Minh. Nhưng kết cuộc, Mỹ đă bị VC bịp xă láng, nên đă phải bỏ chạy nhục nhă trong đêm tối 29-4-1975, khắp các mái nhà Sài G̣n, đến nỗi quên cả cuốn và vác cờ theo. Thật là một tṛ hề vô cùng sĩ nhục của siêu cường Hoa Kỳ, lănh tụ của phe thế giới tự do.

    Theo bản dự thảo ban đầu, chiến dịch di tản gồm có bốn giải pháp, tùy theo hoàn cảnh để thi hành như 1- Dùng hàng không dân sự để di tản người tại phi trường Tân Sơn Nhất. 2- Sử dụng các vận tải cơ C123,130 và C5 để bốc người tại Sài G̣n cũng như các tỉnh lân cận. 3- Sử dụng các loại thương thuyền có sẵn tại bến Bạch Đằng. 4- Dùng trực thăng bốc người từ Sài G̣n, đưa ra các chiến hạm.

    Sau khi quân đoàn I và II tan ră, ngày 1-4-1975 cơ quan Dao đă cho thành lập , một cơ quan điều hợp di tànm, gọi tắt là DCC tại Tân Sơn Nhất và giải pháp (4) dùng trực thăng bốc người được chọn, nếu phi trường Tân Sơn Nhất bất khiển dụng.

    Ngày 3-4-1975, Dao lại thành lập thêm Toán Thiết Kế đặc biệt, có nhiệm vụ thanh lọc, để xác nhận tổng số người VN cần di tản và tới ngày 7-4-1975, có 70.000 người được lên danh sách. Ngay sau đó, Dao đă tổ chức một đoàn xe Bus, chuyên chở họ từ tư gia vào phi trường TSN. V́ hầu hết sân thượng tại Sài-G̣n, Chợ-Lớn và Gia-Địng, không đủ tiêu chuẩn để cho các loại trực thăng H46 và H53 đáp, nên Dao phải trưng dụng tất cả các trực thăng nhỏ của hăng Air American, do CIA thuê mướn, bốc người khắp nơi về Dao, sau đó trực thăng lớn mới chở ho ra chiến hạm.

    Ngày 9-4-1975, Bắc Việt xua đại quân tấn công Xuân Lộc. Cơn phẫn nộ của QLVNCH và dân chúng được bộc phát tại đây. Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn 1 Dù, Thiết đoàn 5 kỵ binh, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân + Nghĩa Quân Long Khánh, chẳng những đă chận đứng cộng quân tại chiến trường mà c̣n tiệu diệt cả vạn quân xâm lăng phương bắc, khiến cho Hà Nội lại la làng là Mỹ bội tín đem bom nguyên tử vào thả tại VN.

    Do t́nh h́nh chiến trường biến động khắp nơi, báo hiệu nguy cơ miền nam sắp mất, nên Dao đă mướn nhà thầu sửa chữa các sân thượng tại đây, đồng thời yêu cầu toà đại sứ cho đốn cây cổ thụ trước sân, để làm băi đáp khi hữu sự nhưng đă bị Martin phản đối và bác bỏ.

    Ngày 16-4-1975, tướng Home Smith, chỉ huy trưởng Dao, ra lệnh đóng cửa các PX, đồng thời bắt buộc các quân nhân không cần thiết và tất cả nhân viên dân chính cùng gia đ́nh, đều phải hồi hương.

    Ngày 24-4-1975 thời tổng thống Trần văn Hương, do t́nh h́nh chiến sự bùng nổ dữ dội lhắp nơi, nên đại sứ Martin mới cho thi hành giải pháp (3) trong chiến dịch Frequeent Wind, sử dụng tất cả các thương thuyền trống, sau khi đă giở hàng để di tản. Trong lúc đó, v́ tuân thủ theo lệnh của chính phủ VNCH, nên hầu hết các máy bay quân sự của Mỹ khi rời Sài G̣n đều trống không, dù có rất nhiều người đang sắp hàng ngày lại ngày, để chờ phương tiện xuất ngoại.

    Ngoài việc di tản quân nhân, viên chức ṭa đại sứ rời VN, ngày 4-4-1975, Dao lại cho thực hiện chiến dịch ‘ Baby Lift ‘, di tản 250 em mồ côi VN tại các cô nhi viện sang Hoa Kỳ, bằng vận tải cơ khổng lồ C5A-Galaxy. Tháp tùng trong chuyến đi này, c̣n có 37 nữ thơ kư và phân tách viên của Dao, với nhiệm vụ giúp đỡ và săn sóc các em trong suốt cuộc hành tŕnh. Nhưng than ôi công tác đầy nhân đạo này, đă bị bàn tay bí mật nào đó phá vỡ ngay. Bởi vậy máy bay vừa mới cất cánh, th́ đă rớt xuống ngay tại đầu phi đạo tan tành. Rốt cục chỉ c̣n sống sót 175 người. Tới nay sự việc trên vẫn chưa được soi sáng , nên đâu biết ai là thủ phạm đă gây nên tai nạn thương tâm cho các em bé mồ côi khốn khổ trên.

    Tại Subic Bay-Phi Luật Tân, ngày 17-4-1975, lực lượng đặc nhiệm 76 của Hải quân Hoa Kỳ, vừa mới cặp bến để tu bổ và sửa chữa tàu bè, sau một thời gian dài đă tham dự cuộc hành quân Eagle tại Ấn Độ Dương, th́ lại nhận được lệnh rời bến, tới chờ lệnh tại biển Nam Hải, ngoài hải phận Nam VN.

    Những ngày cuối cùng của tháng 4-1975, t́nh h́nh chiến sự tại miền Nam vô cùng sôi động. Khắp nơi, những đơn vị c̣n lại của QLVNCH gồm Sư đoàn Dù, Sư đoàn TQLC, các Liên Đoàn Kỵ Binh, Pháo Binh, Lực Lượng III Xung Kích, Sư đoàn 18, 5, 25, 22, các Sinh viên sĩ quan Trường Vơ Bị QG.Đà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ Đức, Học Viện Sĩ quan Cảnh sát, khóa sinh HSQ-Binh sĩ quân dịch các Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Quang Trung, Lực lượng Địa Phương Quâm-Nghĩa Quân, Cảnh sát Dă chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông thôn cả Nhân Dân Tự vệ.. phối họp với Không quân, Hải quân và Quân đoàn IV, gần như tử chiến với mấy trăm ngàn cán binh-bộ đội cọng sản Bắc Việt, từng giây phút, suốt đêm ngày.. trong nổi đoạn trường máu lệ. Tất cả đă lấy xương thịt và thân xác, thay súng đạn ngăn chận xe tăng, đại pháo và biển giặc, v́ người Mỹ đă cúp hết quân viện từ ngày 25-4-1975.

    Đêm 28-4-1975, Nguyễn Thành Trung , con rớt của một cán bộ tập kết ở Bến Tre, nằm vùng trong không quân VNCH. Thi hành theo lệnh của Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng quân đội VC, lái A37 giội bom phi trường Tân Sơn Nhất. Theo Lê văn Trí, tư lệnh KQ cọng sản miền bắc, th́ VC đă dùng các máy bay của QLVNCH đă bỏ lại tại các phi trường Đà Nẳng, Phù Cát để oanh tạc Sài G̣n. Sáng 28-4-1975, sáu chiếc A37 được chuyển vào sân bay Thanh Sơn (Phan Rang), do Trung làm phi đội trưởng, hợp với các phi công Băc Việt gồm Từ Để, Nguyễn văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hàn Văn Quảng và một tên phi công phản tặc khác của VNCH là Trần văn On. V́ các máy bay trên không mở đèn, hơn nửa lực lượng pḥng vệ ở dưới đất tửng là bạn, nên chúng mới toàn mạng. Vụ oanh tạc trên đả làm hư hại 3 chiếc Hỏa Long AC119, vài chiếc C47 nhưng quan trọng nhất là đă tạo t́nh trạng hỗn loạn tại phi trường, đang có nhiều người đợi máy bay di tản. Ngoài ra c̣n có nhiều đoạn phi đạo bị bom và đạn pháo kích làm hư hỏng, không c̣n sử dụng được. Trước t́nh trạng hỗn loạn này, tướng Smith ra lệnh giới nghiêm Dao 24/24, trong khi đó tại ṭa đại sứ, Matin vẫn bất động.

    Sau này qua các tài liệu báo chí, đọc được nhiều chuyện vui cười ra nước mắt, liên quan tới sự người Mỹ tiếp tục quân viện cho VNCH, theo tinh thần hiệp định Ba Lê 1975 và những lời hứa của Nixon, từ các tho riêng viết tay. Thật sự để có lư do hạ cánh những vận tải cơ khổng lồ C5, người Mỹ giả bộ chở tới một vài khẩu súng đại bác 105 ly thời Thế chiến 1, ít trăm bộ nón sắt cháo ḷng không giống ai. Tàn nhẫn nhất trong số những thứ rác phế thải này, có nhiều thùng băng cá nhân đă xử dụng. Biết Hoa Kỳ đă tận tuyệt rồi nhưng chính phủ VNCH vẫn giả đ̣ tương kế tựu kế, họp báo đăng tin, để phần nào giữ lại chút niềm tin cho người lính đang xả thân nơi chiến trường, trong giờ thứ 25 đối mặt với thù trong giặc ngoài. Riêng Mỹ th́ mục đích đến là để chuyển tải tất cả hồ sơ mật và những vật dụng máy móc điện tử quư giá về nước.

    Lạ lùng nhất là lúc 3 giờ sáng ngày 29-4-1975, tại Dao có 3 chiếc vận tải cơ C130, thường trực chuyển người ra chiếm hạm. Nhưng không biết v́ lẽ ǵ, lại chở từ biển vào Sài G̣n, ba quả bom con heo tiểu nguyên tử (Blue 82 Daisy Cutter), loại bom 15.000 Lbs, mà QLVNCH đă sử dụng tại mặt trận Xuân Lộc-Long Khánh vừa qua. Khôi hài hơn là trong lúc các huyên viên Mỹ-Việt đang h́ hục tháo gỡ đem bom vào kho, th́ một phi công Hoa Kỳ lại bạch thoại trên vô tuyến, khiến cho CS Bắc Việt bắt được tần số và nă ngay hỏa tiễn 122 ly vào phi trường, làm cháy một vận tải cơ C130 đang bốc người. Thế là Dao chấm dứt kế hoạch di tản bằng máy bay lớn ra hạm, v́ phi trường đă bất khiển dụng.

    Trong lúc những lănh đạo của Miền Nam đang trầm kha trong ảo vọng thương thuyết ḥa hợp để kết thúc cuộc chiến, th́ đúng nửa đêm 29-4-1975 cũng là giờ mà cọng sản đệ tam quốc tế Hà Nội, chọn là giờ ‘ G’ ngày ‘ N’ tổng tấn công dứt điểm VNCH. Sài G̣n đă rối loạn v́ hơn mấy chục sư đoàn cọng sản Bắc Việt đă áp sát thủ đô. Một số đại pháo được tập trung nă vào các khu vực đông dân cư trong nội thành. Phần khác là do đám quan quyền, ngày thường ngồi trên ăn đủ, cùng với bọn nhà giàu, me Mẽo.. tới tấp ra đi, khiến cho ḷng người càng thêm tơi tả, không biết đâu mà ṃ. Tuy rằng trung ương không c̣n đại bàng nhưng khắp bốn hướng, quân lực VNCH vẫn chiến đấu dũng mănh, gần như lấy máu xương của chính ḿnh để ngăn cản bước tiến của giặc. Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC, Sư đoàn 18 BB, Lực lượng III Xung Kích, Liên đoàn 4 Biệt Động Quân, Sư đoàn 22 BB, Giang Đoàn 54 Tuần Thám, Lực Lượng Địa Phương Quân + Nghĩa Quân.. và đặc biệt là Chiến Đoàn 3, thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, từ ngày 26-4-1975, đă được lệnh về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.

    Nhưng giữa lúc người lính bộ đang lội trong biển máu thù, th́ trên trời gần hết những phi công anh hùng của QLVNCH đă ngoảnh mặt phủi tay ra đi không trở lại, hoặc bay về đất Thái hay hướng thẳng biển đông. Khiến cho phi trường Tân Sơn Nhất thêm hiu quạnh thảm thê với xác người nằm bất động, lẫn lộn với quân trang quân dụng , cơ phận máy bay, vũ khí và những lính quèn hèn mọn, giờ phút cuối vẫn ở lại tử thủ với phi trường.

    Nhưng không phải ai cũng tham sống sợ chết, chỉ muốn hưởng vinh hoa phú quư mà người Mỹ hứa hẹn. Vẫn c̣n vài chiếc Hoả Long AC119 K, cùng vớo hai khu trục A1 Skyraider, đă không ngừng lên xuống, nă đạn pháo, thả hỏa châu, soi sáng giúp quân bạn đang chiến đấu dưới đất. Kiên cường nhất là Trung Úy Phi Công Nguyễn Văn Thành, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân. Ông đă lái AC119 bắn phá những vị trí pháo của VC quanh phi trường, nhờ vậy nhiều người trong số này có tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu tư lệnh KQ, cựu chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, cựu phó tổng thống VNCH.. mới bay được trực thăng riêng từ tư gia ở Tân Sơn Nhất, ra chiến hạm đi Mỹ. Thương thay người hiền không bao giờ sống lâu, nên Trung Uư Thành đă găy cánh vào lúc 6 giờ 46 phút, rạng sáng ngày 29-4-1975, khi chíếc hỏa long của ông bị một hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 chém đứt cánh may bay và bốc cháy trên bầu trời.

    9 giờ 30 sáng ngày 29-4-1975, Sài G̣n đă hỗn loạn khắp nơi. Do trên tướng Smith yêu cầu đại sứ Martin cho thi hành giải pháp ‘ 4’ trong chiến dịch di tản, nhưng đă bị từ chối. Nguyên do v́ đại sứ Mỹ lúc đó vẫn c̣n ngây thơ tin rằng tổng thống VNCH Dương văn Minh, có khả năng hoà hợp, ḥa giải với VC để văn hồi ḥa b́nh cho VN. Cùng ngày, từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Kissinger đă gọi điện khẩn cấp sang Sài G̣n, ra lệnh cho đại sứ Martin phải di tản gấp. Từ đó, Martin mới cho lệnh đốn cây đa cổ thụ trước sân toà đại sứ vào lúc 11 giờ 01 phút, để làm băi đáp cho trực thăng. Đây cũng là thời gian, Martin gơi ư nhờ TT. Dương văn Minh giả bộ đuổi Mỹ trên đài phát thanh Sài G̣n. Có như vậy siêu cường Hoa Kỳ mới chạy khỏi VN trong danh dự, đồng thời giúp TT Minh có chính nghĩa.

    Nhờ bài bản xuất sắc, diễn viên ăn khớp, Martin đă cứu nước Mỹ phần nào bớt mất mặt trước đồng minh thuộc phe thế giới tự do, cũng như đàn em kẻ thù Liên Xô-Trung Cộng. Nhưng đồng thời Martin chính là người đă phá hỏng kế hoạch di tản, v́ lúc chịu thi hành th́ trời đă tối, nên các tài xế xe bus đều nghĩ việc, khiến cho nhiều người có tên trong danh sách di tản không được đón. Để cứu văn t́nh thế nguy cấp tồi tệ trên, tướng Smith đă cho các loại trực thăng nhỏ của hăng Air American đi bốc người thế xe bus.. nhưng đă quá trễ.

    ( C̣n tiếp ...)
    Last edited by Tigon; 13-04-2011 at 03:51 AM.

  8. #18
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ba mươi sáu năm về trước, người Sài G̣n làm sao quên được cảnh tượng hai ngày 29 và 30-4-1975, nếu có dịp đi ngang qua ṭa đại sứ Hoa kỳ, kế toà đại sứ Pháp và nhà thờ Tin Lành, nằm trong chu vi các đường Hồng Thập Tự, Hai Bà Trưng và đại lộ Thống Nhất. Có thể gọi được là một biển người, đă tụ tập trước hai cánh cổng sắt vô tri của ṭa đại sứ. Lúc đó người nào giơ hai tay lên cao, trong đó ngoài các giấy tờ c̣n có những nắm đô la dầy cộm, với những tiếng gào thét, van nài nghe thật là bi thiết năo nuột, trước những cặp mắt gần như lạc thần lạnh lẽo của lính thủy quân lục chiến Mỹ. Ai cũng lăm lăm tay súng có gắn lưỡi lê, làm như đang lăm le sẵn sàng phanh thây xé xác bất cứ ai, muốn xé rào vượt cổng.

    Cùng lúc quang cảnh phía bên trong khuông viên của ṭa đại sứ cũng đâu có khác ǵ bên ngoài. Sóng người đang đùn ép, xô lấn, cấu xé với nhau để tới cho được chân tường, dẫn vào cầu thang lên sân thượng, nơi đoàn trực thăng dùng làm băi đáp lên xuống, để bốc người ra chiến hạm. Màn đêm lúc đó như được Thượng Đế ban thêm ân huệ, nên cứ kéo dài hơn, để cho những kẻ chờ đợi nuôi chút hy vọng mỏng manh trong cơn tuyệt vọng. Tóm lại đến giờ phút hỗn loạn đó, th́ không ai c̣n cần chú ư làm ǵ tới danh sách nửa. Bốc người tại chỗ, có nghĩa là ai mạnh chen được tới trước th́ đi, khiến cho hằng vạn người từng giúp Mỹ rất đắc lực như thơ kư, thông dịch viên, nhân viên t́nh báo, cảnh sát ch́m.. cứ ngóng cổ chờ di tản, rốt cục sáng ra mới biết Mỹ đă đi hết rồi.

    Để thi hành chiến dịch di tản bằng trực thăng, tướng tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là Carey từ chiến hạm bay vào ṭa đại sứ lúc 13 giờ 15 ‘ chiều 29-4-1975 và hạ cánh tại Dao. Cùng lúc có một Toán Không Lưu do thiếu tá KQ Dave Cox chỉ huy. Họ dọn dẹp sân thượng và chỉ dẫn đoàn trực thăng từ biển vào bốc người. Trong lúc đó súng cối và đại bác của VC quanh Sài G̣n nổ tới tắp.

    15 giờ 06 phút chiều 29-4-1975, một đoàn 12 chiếc trực thăng Mỹ, chở TQLC do trung tá J.L Bowltan chỉ huy, thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 76 tới bố trí quanh Dao để giữ an ninh. Đoàn trực thăng lên xuống bốc người không ngớt, mỗi chiếc chở một lần từ 50-60 người.

    Nhưng cuộc di tản đă gặp trở ngại v́ băi đáp trực thăng trúng đạn pháo kích của VC bốc cháy. Trong lúc sự liên lạc giữa toán không lưu và các phi công cũng bi trục trặc v́ máy truyền tin bị hỏng, trong khi trung tâm tiếp vận đài tại Sài G̣n hoàn toàn tê liệt.

    Những giờ phút cuối, để giải quyết số người c̣n ứ đọng, Mỹ phải dùng các loại trực thăng lớn CH6 và H53 đáp ngay tại băi đậu xe trước ṭa đại sứ. Song song với trực thăng Mỹ, trực thăng của KQ.VNCH cũng bốc người ra đi từng đoàn. Thành phố đă bị cúp điện hoàn toàn từ 6 giờ 30 tố́ 29-4-1975. Khắp nơi trời đất tối thui, dân đen th́ run rẩy núp kín trong nhà để giữ mạng, phần lính tráng c̣n lại, từ quan tới thuộc cấp, ai củng cố chóng con mắt chờ sáng trong các giao thông hào, đợi phép lạ mà tổng thống Dương văn Minh đă hứa là sẽ tới vào sáng ngày 30-4-1975.

    Sài G̣n đă chết từ đó, chỉ c̣n có tiếng quạt của các loại trực thăng gầm hét đinh tai điếc óc, nơi khoảng không gian mà Mỹ c̣n làm chủ, nhờ sự bảo vệ của QLVNCH trong giờ thứ 25 dưới đất. Đây cũng là những lời thóa mạ cuối cùng của người Mỹ trước khi về nước, để lại ngh́n đời trên xác chết chưa chôn của miền nam VN trong thế kỷ XX.

    Cũng lúc đó, nơi các nẻo đường vắng ngắt dẫn về thương cảng, bến tàu Sài G̣n, từng chặp từng chặp lai xao động bởi tiếng máy nổ ṛn của đủ loại xe dân, lính.. xen lẫn đâu đó là các tràng súng ngắn. Lúc này bọn sĩ quan đào ngủ, bọn nhà giàu bất lương, bọn văn nghệ sĩ cà chớn một thời phá nát miền nam.. cũng ôm đầu chạy trối chết, tới các bến tàu, để t́m đường vượt thoát cọng sản, trên các chiến hạm Hải quân và Thương thuyền đang hối hả nhổ neo ra khơi. Súng nổ, đạn cối rơi, hỏa tiễn xuyên phá, tiếng trực thăng gào thét.. như những giọt nước mắt trước cơn mưa thống hận VN, ba mươi năm qua cũng vẫn là những h́nh ảnh và âm thanh , mà người Sài G̣n đă cảm nhận trước vài giờ, khi toàn thể non sông Hồng Lạc bị đắm ch́m trong vũng bùn ô uế của xă nghĩa thiên đàng.

    Đúng 9 giờ tối đêm 29-1-975 cuộc di tản tại Dao kết thúc. Người Mỹ vội cho thiêu hủy toàn bộ những ǵ c̣n lại trong toà nhà này, mà một thời được coi như một ṭa tiểu bạch ốc ở phương đông. Chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh lúc 12 giờ đêm, bỏ lại đằng sau ṭa nhà trong biển lửa.

    Riêng tại ṭa đại sứ Mỹ, sự di tản đă gặp rất nhiều khó khăn v́ đen không đủ soi sáng hiện trường, c̣n băi đáp th́ quá nhỏ không thích hợp cho các loại trực thăng lớn, Tuy nhiên việc bốc người vẫn được tiếp tục, từ 11 giờ đêm 29-4-1975 cho tới 3 giờ sáng ngày 30-4-1975. Sự liên lạc bằng vô tuyến giữa Sài G̣n và Hoa thịnh Đốn cũng chấm dứt lúc 1 giờ 06 phút, khi trạm liên lạc vệ tinh tại Dao đă bị phá hủy. Để nối liên lạc giữa Mỹ và toà đại sứ, Không quân Hoa Kỳ phải thiết lập một trạm liên viễn thông vệ tinh trên chiếc C130, nhưng vẫn không mấy hiệu quả.

    3 giờ sáng ngày 30-4-1975, bộ ngoại giao Mỹ ra lệnh cho ṭa đại sứ Sài G̣n chấm dứt di tản nhưng Martin không chịu thi hành, v́ lúc đó tại chỗ vẫn c̣n hơn 12.000 chờ bốc ra chiến hạm. Tới 4 giờ 56’ sàng, chính Tổng thống Ford ra lệnh bằng điện thoại, bắt buộc ông đại sứ phải rời VN. Do không c̣n cách nào lựa chọn, Martin đành phải bỏ lại 420 người đang đợi, trong số người này có cả nhân viên của toà đại sứ Nam Hàn. Martin ra đi đơn độc với con chó nhỏ tên Nitnoy, trên chiếc trực thăng CH46, do Đại Uư Thủy Quân Lục Chiến tên G.Berry lái.

    Tù phút đó, chỉ c̣n lại toán lính TQLC Mỹ giữ an ninh ṭa đại sứ. Họ rút hết vào bên trong ṭa nhà, đóng cửa sắt và lên trên sân thượng đợi. Đúng 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trực thăng ngoài biển bay vào đón họ, chấm dứt sự hiện hữu lần thứ ba của người Mỹ trên nước VN, tính tṛn 21 năm , từ lúc tướng Edward Landale của CIA đặt chân tới Sài G̣n. T́nh đồng minh, đồng hướng và chiến hữu giữa VNCH cùng Hoa Kỳ, cũng chấm dứt từ đó.

    Theo tài liệu được Mỹ công bố, th́ ṭa đại sứ và Dao ngày 29 rạng 30-4-1975 chỉ di tản được 7014 người, phần lớn không có tên trong danh sách được lập lúc ban đầu. Để hoàn thành công tác trên, người Mỹ đă xử dung trực thăng của Sư đoàn 7 Không quân và Hạm Đội 7 tại Thái B́nh Dương. Suốt thời gian chiến dịch, chỉ có một A6 bị mất tích, một trực thăng AH1J. Cobra rớt xuống biển và 2 lính TQLC Mỹ bị tử thương khi VC pháo kích vào Dao tại phi trường Tân Sơn Nhất.

    Tuy người Mỹ đả chính thức rời Sài G̣n vào lúc 7 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975 nhưng trọn ngày đó cho tới hôm sau 1-5-1975, nhiều trực thăng của Không quân VNCH khắp nơi bay tới Hàng Không Mẫu Hạm Midway, đang bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu để xin đáp. V́ có quá nhiều người, nên Mỹ đă phải xô nhiều trực thăng xuống biển, để làm băi đáp cho các trực thăng tị nạn. Dù việc làm trên có thiệt hại hằng triệu mỹ kim nhưng cũng đă cứu vớt đươc nhiều chiến binh trong giờ phút cuối cùng, không c̣n một lựa chọn nào khác hơn, trong khi nước đă mất.

    Ba mươi năm trước hay bây giờ, người Mỹ cũng chỉ nghỉ đến quyền lợi của quốc gia ḿnh mà thôi. Bởi vậy muốn đem quân vào VN, người Mỹ phải giết một tỏng thống dân cử của bản xứ. Rồi để rút quân an toàn về nước, khi đă đạt xong mục đích chiến lược kinh tế của ḿnh, Mỹ lại dùng áp lực quân viện, để bắt buộc đồng minh của ḿnh, kư vào một hiệp ước giả mạo phi luân. Cuối cùng dùng nó để bán đứng quốc gia VN, chôn vùi tương lai của dân tộc anh hùng trong ṿng nô lệ của cọng sản đệ tam quốc tế., suốt thời gian từ đó tới bây giờ. Tất cả đúng như lời Sir R.Thompson đă viết năm 1989 trong tác phẩm ‘ Make for the hill ‘, đại ư ông nói rằng, sự sống của miền nam VN đă bị bán đứng , v́ cảnh cấu xé của nước Mỹ. Riêng Nixon, nhân vật chính đă cùng Kissiger đạo diễn tấn thảm kịch VN hôm nay, cũng đă viết những lời sám hối trong ‘ No More VietNam ‘.Ông viết rằng, tôi đă nh́n thấy những vấn đề nan giăi của hiệp định Ba Lê, nhất là sự thỏa hiệp, cho phép bộ đội Bắc Việt công khai ở lại và xâm lăng miền Nam . Nhưng đau đớn nhất, có lẽ là lời phát biểu của M. Gauvin, nguyên Ủy Viên Giám Sát Quốc Tế (ISCC) tại VN. Ngay khi thấy CS Hà Nội ngang nhiên xé bỏ hiệp định ngưng bắn mà chúng vừa kư kết chưa ráo mực, tấn công xâm lăng VNCH, bất chấp cả Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. V́ vậy ông đă viết bài đăng trên tờ The Times số 59362 ngày 5-4-1975 rằng, sự thất bại của VNCH đă bắt nguồn từ hiệp định Ba Lê, v́ nó chẳng bao giờ phản ảnh được ư muốn và nguyện vọng của dân-nước VNCH.

    Một thập niên sau ngày Mỹ bỏ chạy khỏi Sài G̣n trong đêm tối trên mái nhà, do những biến chuyển chính trị thế giới, quan trọng nhất là sự ḥa hoăn giữa Nga-Hoa cũng như sự liên hệ của Mỹ và Trung Cộng có chiều hướng thay đổi. Để chiếm phần ưu tiên, người Mỹ lại t́m cách mon men trở lại Đông Dương lần thứ 4 vào tháng 4-1985. Bởi vậy một phái đoàn cao cấp của Mỹ , do Richard Armitage cầm đầu, cùng với phụ tá ngoại trưởng Mỹ là Paul Wolfon Witz (đặc trách Đông Á và Thái B́nh Dương ), lần đầu tới Hà Nội, với chiêu bài ‘ t́m lính Mỹ mất tích và hài cốt quân Hoa Kỳ c̣n tại VN’. Sự kiện giằng co úp mở giữa hai nước, cho tới khi phái đoàn nghiên cứu Mỹ do cưu bộ trưởng quốc pḥng Mc.Namara, sau khi thăm viếng Hoa Lục về, đă tiết lộ âm mưu Trung Cộng đang có dă tâm muốn trở thành Á Châu và Thái B́nh Dương. V́ thế Hoa Kỳ mới mở pḥng liên lạc giữa hai nước vào ngày 3-2-1995 và nối lại bang giao năm 1996. Một Đại Sứ Mỹ tại Hà Nội được Thượng viện Hoa Kỳ chấp thuận sau 22 năm chiến tranh chấm dứt, đă chính thức xác nhận sự b́nh thường hoá ngoại giao với VC.

    Tóm lại lịch sử đă ngừng lại và quay tṛn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai : Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều v́ quyền lợi riêng tư của ḿnh, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không c̣n có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đă công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đă manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, th́ chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái B́nh Dương.

    Đọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết ǵ về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30-4-1975, khi VC chưa vào Sài G̣n, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, v́ quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của ḿnh ngang hàng với lănh tụ, muốn ai cũng phải theo ư và đứng sau lưng ḿnh. Họ v́ không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn ḥa hợp ḥa giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước ḿnh mà thôi. Tệ nhất là ḿnh và gia đ́nh lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm th́ luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, th́ phải trở về để làm nô lệ cho cọng sản .

    Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những b́nh vội ǵa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm ‘ Trăm Hoa đua nở ‘, chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..

    Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN -/-

    Xóm Cồn
    Quốc Hận 30-4
    Mường Giang

    TÀI LIỆU THAM KHẢO :
    - Bí mật Dinh Độc Lập ố TS Nguyễn Tiến Hưng.
    - Larry Engelmann (nước mắt trước cơn mưa, bản Việt của Nguyễn Bá Trác).
    - Không ḥa b́nh, chẳng danh dự ố Larry Berman, Nguyễn Mạnh Hùng dịch.
    - Những ngày cuối cùng của VNCH của Nguyễn Khắc Ngữ..
    - Báo chí hải ngoại (PNDD, KBC, Tiền Phong, Hồn Việt..)
    -Khi Đồng Minh tháo chạy của Nguyễn Tiến Hưng
    - Chiến sử VNCH của Phạm Phong Dinh
    - Chiến tranh VN toàn tập của Nguyễn Đức Phương

  9. #19
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Người Di Tản Buồn


  10. #20
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    TRẠI TÙ CẢI TẠO Hàm Tân VIETNAM'S GULAG Z30 - D



    ( Phần cuối : Lời kêu gọi buông súng của hàng tướng Dương Văn Minh)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 18-04-2012, 09:17 AM
  2. Replies: 5
    Last Post: 12-05-2011, 03:56 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 02-05-2011, 08:06 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 28-04-2011, 06:25 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 07-12-2010, 12:21 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •