Tác giả: Việt Long
Bài đă được xuất bản.: 26/04/2011 06:00 GMT+7
Trong khi Philippin phản đối đích danh đường đứt khúc 9 đoạn th́ Công hàm Trung Quốc không có một chữ nào nói đến đường trên ngoài câu: "Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lư phong phú".
Ngày 14/4/2011 Phái đoàn thường trực của CHND Trung Hoa tại Liên hợp quốc đă gửi Công hàm tới Tổng Thư kư Liên hợp quốc phản đối Công hàm số 000228 ngày 5/4/2011 của Philippin về đường yêu sách 9 đoạn (đường lưỡi ḅ) của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước đó ngày 10/4/2011 Người phát ngôn BNG Trung Quốc cho rằng Công hàm của Philippin là không thể chấp nhận.

Các nước chịu sức ép của Trung Quốc đă mạnh bạo hơn

Lâu nay các nước có tranh chấp ở Biển Đông phản đối nhau là chuyện b́nh thường nhưng cuộc "phản pháo" Trung-Phi lần này cho thấy xu hướng trong hai năm gần đây 2009-2011 các nước sử dụng vũ đài Liên hợp quốc ngày càng thường xuyên và đường lưỡi ḅ ngày càng bị nhiều nước lên tiếng phản đối. Tranh luận "công hàm" Trung - Phi ngay trước thềm chuyến thăm chính thức Bắc Kinh của TT Philippin dự kiến 23-25/5/2011 cho thấy sự mạnh bạo hơn của các nước chịu nhiều sức ép kinh tế-chính trị của Trung Quốc như Philippin và khả năng có một giải pháp cho tranh chấp c̣n đầy khó khăn.

Công hàm ngày 14/4/2011 của Trung Quốc gồm ba đoạn chính:

- Khẳng định chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc đối với các đảo trong biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và ḷng đất dưới đáy của chúng. Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lư phong phú. Nội dung Công hàm số 000228 ngày 5/4/2011 của Philippin là hoàn toàn không thể chấp nhận đối với Chính phủ Trung Quốc.

- Cái gọi là Nhóm đảo Kalayyan KIG mà Philippin yêu sách thực tế là một phần quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trong hàng loạt các Hiệp ước quốc tế xác định giới hạn lănh thổ của CH Philippin và pháp luật quốc gia của CH Philippin cho đến trước những năm 1970s chưa bao giờ yêu sách quần đảo Nam Sa hoặc bất kỳ một phần nào của quần đảo. Từ những năm 1970s, CH Philippin bắt đầu xâm lược và chiếm đóng một số đảo và đá thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc và đưa ra những yêu sách lănh thổ liên quan mà Trung Quốc cực lực phản đối. Việc chiếm đóng một số đảo và đá của quần đảo Nam Sa Trung Quốc cũng như các hành vi liên quan khác đă xâm phạm chủ quyền lănh thổ của Trung Quốc.
Theo học thuyết pháp lư "ex injuria jus non oritus"[1], CH Philippin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lănh thổ của họ. Hơn nữa theo nguyên tắc pháp lư "Đất thống trị biển", yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể làm xâm hại đến chủ quyền lănh thổ của quốc gia khác.

- Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đă nhiều lần công bố phạm vi địa lư quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đă được xác định rơ ràng. Hơn nữa, theo các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa về Lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa (1998), quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Về mặt cấu trúc Công hàm, Phái đoàn Trung Quốc cũng đưa ra ba đọan đối với ba đoạn trong Công hàm của Philippins. Đoạn 1 cả hai bên đều khẳng định chủ quyền không thể tranh căi của ḿnh. Đoạn 2 tranh luận về các nguyên tắc pháp lư "Đất thống trị biển" và "Không xâm phạm". Đoạn 3 cả hai bên đều dựa vào Luật biển để xác định quy chế các đảo đá.

Trung Quốc tự mâu thuẫn ḿnh

Về nội dung, trong khi Philippin lập luận theo Luật biển th́ những đường như đường đứt khúc 9 đoạn là không có cơ sở theo luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) th́ Trung Quốc lại nhắc đến các quyền lịch sử và t́m cách làm hài ḥa giữa quyền lịch sử với Luật biển hiện đại bằng cách tuyên bố quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây có thể coi là một điểm mới nếu chú ư ngôn từ trong Công hàm lần này khác hẳn với những tuyên bố khuôn mẫu trước kia: "Nam Sa quần đảo là một phần lănh thổ Trung Hoa từ thời xa xưa và Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi đối với quần đảo cũng như các vùng biển xung quanh nó".

Trong khi Philippin phản đối đích danh đường đứt khúc 9 đoạn th́ Công hàm Trung Quốc không có một chữ nào nói đến đường trên ngoài câu: "Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lư phong phú". Nếu cứ như Công hàm th́ "Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đă nhiều lần công bố phạm vi địa lư quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đă được xác định rơ ràng". Các khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa lúc đó c̣n chưa tồn tại.

So sánh Công hàm ngày 7/5/2009 và Công hàm ngày 14/4/2011 của Phái đoàn Trung Quốc lại càng thấy hai Công hàm này mâu thuẫn nhau. Công hàm ngày 7/5/2009 đ̣i hỏi "đối với chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và ḷng đất dưới đáy biển của chúng (xem bản đồ kèm theo)" tức theo đường lưỡi ḅ. Công hàm ngày 14/4/2011 th́ lờ đường lưỡi ḅ đi mà cho rằng quần đảo Nam Sa có lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật biển UNCLOS.

Nếu phạm vi địa lư của quần đảo Nam Sa là đường lưỡi ḅ th́ có chuyện ngược đời là đi xác định các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa bên trong vùng nước mà Bắc Kinh coi như là nội thủy. Hay các đảo trong quần đảo Nam Sa mà Trung Quôc yêu sách có vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng không vượt quá phạm vi đường lưỡi ḅ? Hay cả quần đảo Nam Sa được coi là một tổng thể để đ̣i hỏi vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa như một quốc gia quần đảo? Hay phạm vi địa lư quần đảo Nam Sa là đường lưỡi ḅ và sẽ tiếp tục đ̣i hỏi từ đó 200 hải lư đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Cứ theo lập luận này th́ cả thành phố Hồ Chí Minh, Manila và Kuala Lumpur rồi tới Natura đều rơi vào ṿng ảnh hưởng của đường lưỡi ḅ và "các vùng biển liên quan. Đường lưỡi ḅ của Trung Quốc từ 11 đoạn rồi 9 đoạn, từ yêu sách bao gộp cả Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), Trung Sa (băi ngầm Macclefield), Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) bây giờ lại coi là phạm vi địa lư của quần đảo Nam Sa.

Không ai có thể hiểu được các Công hàm này trừ khi tác giả của nó giải thích. Việc hai Công hàm trong ṿng hai năm có những nội dung mâu thuẫn nhau cho thấy chính bản thân người Trung Quốc c̣n lẫn lộn và đang tự mâu thuẫn với chính ḿnh, không biết giải thích thế nào về đường lưỡi ḅ cho có lư. Hay đây là một sự cố t́nh lẫn lộn, áp dụng một cách tùy tiện lúc theo luật biển, lúc theo yêu sách lịch sử mơ hồ theo kiểu chiến thuật "mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột". Một chiến thuật mập mờ thường hay được sử dụng để buộc dư luận phải "tin" vào những điều vô lư? Lập trường không nhất quán, chỉ sử dụng sức mạnh, nói lấy được thật khó gây được ḷng tin và h́nh ảnh tốt đẹp trong cộng đồng quốc tế.

Rơ ràng, việc tự vẽ một đường yêu sách không đáp ứng bất kỳ một tiêu chuẩn pháp lư hay kỹ thuật nào để yêu sách chủ quyền các đảo trong đó rồi tiếp tục đ̣i hỏi các vùng biển liên quan là sự cố t́nh áp dụng sai nguyên tắc "Đất thống trị biển". Hơn nữa cũng nên nhắc lại rằng Công hàm ngày 29/9/1932 của phái đoàn ngoại giao Trung Quốc tại Paris c̣n tuyên bố các đảo Tây Sa "tạo thành cực nam của lănh thổ Trung Quốc"[2]. Vậy làm sao có thể nói như trong Công hàm ngày 14/4/2011 là "Từ những năm 1930s Chính phủ Trung Quốc đă nhiều lần công bố phạm vi địa lư quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng". Cũng không thể nói bằng chứng lịch sử và pháp lư tại đây v́ Việt Nam mới là quốc gia có những bằng chứng về hoạt động Nhà nước của Đội Hoàng Sa sớm nhất trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Khác với Philippin sử dụng khái niệm các "đặc trưng địa chất"[3] (được hiểu bao gồm đảo, đá và băi cạn nửa nổi nửa ch́m - islands, rocks, reefs and shoals), Công hàm Trung Quốc lần này chỉ nói đến "chủ quyền không thể tranh căi của Trung Quốc đối với các đảo (islands) trong biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận". Trong đoạn 2 khi nhắc đến sự xâm lược của CH Philiipin, Công hàm có dùng thuật ngữ "đảo và đá" (islands and reefs) nhưng khác với Philippin đề xuất áp dụng điều 121.3 của UNCLOS về quy chế đảo hay đá th́ Công hàm của Trung Quốc cho rằng "quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa". Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng yêu sách "được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và ḷng đất dưới đáy của chúng". Điều này được củng cố thêm bằng viễn dẫn trong đoạn 3 về "các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa về Lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa (1998)". Liệu có phải Trung Quốc cho rằng dù đảo hay đá th́ các đảo đá ở Trường Sa đều có vùng lănh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa? Vậy UNCLOS (điều 121.3) ở đây có giá trị ǵ với các quốc gia thành viên?

Phớt lờ luật Biển

Cũng nên nhắc lại ở đây Công hàm ngày 8/7/2010 của Indonesia, một nước không tranh chấp ǵ ở Biển Đông[4] đă đưa ra những bằng chứng về quan điểm chính thống của các đại diện Trung Quốc phát biểu tại các diễn đàn về Công ước luật biển năm 1982 về quy chế của các đảo đá không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng.

Tại khóa họp lần thứ 15 của Cơ quan quyền lực đáy đại dương tại Kingston, Jamaica tháng 6/2009, Đại sứ Chen Jinghua, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đă tuyên bố: "Yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các đảo đá...là ảnh hưởng đến các nguyên tắc của Công ước Luật biển và đến quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế". Trưởng đoàn Trung Quốc c̣n viện dẫn lời của Đại Sứ Avid Pardo (người đă đưa ra khái niệm vùng đáy biển di sản chung của loài người trong Công ước Luật biển) để lời tuyên bố của ḿnh thêm sức mạnh : "...nếu quyền tài phán 200 hải lư được dựa trên quyền sở hữu các đảo không người ở, xa xôi hoặc rất nhỏ th́ hiệu quả của việc quản lư quốc tế các vùng đại dương bên ngoài quyền tài phán quốc gia sẽ bị tổn hại nặng nề". Tuyên bố của Phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị các nước thành viên Liên hợp quốc lần thứ 19 từ ngày 22-26/6/2009 tại New York cũng khẳng định "theo điều 121 của Công ước Luật biển, các đảo đá không thích hợp cho con người ở hoặc không có một đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng".

Những lời tuyên bố của các đại diện toàn quyền của Trung Quốc tại các diễn đàn quốc tế chỉ có thể được hiểu là chúng cũng được áp dụng phù hợp với t́nh h́nh Biển Đông và các đảo đá nhỏ không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng trong Biển Đông cũng không có quyền được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép sử dụng các đảo đá không người ở, ở xa lục địa và nằm giữa biển như điểm cơ sở để đ̣i hỏi các vùng biển là tổn hại các nguyên tắc cơ bản của Công ước luật biển cũng như xâm phạm đến các quyền lợi chính đáng của cộng đồng quốc tế. Phái đoàn thường trực của Indonesia tại Liên hợp quốc kết luận bản đồ đường đứt khúc 9 đoạn trong Công hàm ngày 7/5/2009 của Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc hoàn toàn không có căn cứ pháp lư quốc tế và đi ngược lại với các quy định của Công ước luật biển 1982.

Trong Biển Hoa Đông, với Nhật Bản là một nước lớn, Trung Quốc đ̣i các đá chỉ có lănh hải 12 hải lư. Trong Biển Đông, giữa các nước nhỏ, yếu, Bắc Kinh đ̣i cả quần đảo có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cộng đồng quốc tế buộc phải đặt câu hỏi liệu có chính sách phân biệt đối xử mà không cần phải dựa vào luật biển không hay Trung Quốc có một tiêu chuẩn kép về quy chế các đâỏ đá? Thực tiễn quốc tế và các phán quyết của các Ṭa án và Trọng tài quốc tế cho thấy các đảo đá có những điều kiện tương tự như các đảo đá trong Biển Đông, nếu áp dụng đúng điều 121.3 của UNCLOS th́ chỉ được hưởng các vùng biển không mở rộng quá mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia ven biển, ảnh hưởng an ninh hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế, tiếp tục duy tŕ nguy cơ xung đột ở mức cao. Về quy mô, kích thước, điều kiện sinh sống hay đời sống kinh tế riêng chúng cũng không thể được coi có cùng hiệu lực pháp lư trong phân định với lănh thổ đất liền.

Công hàm Trung Quốc kết tội Philippin đă "xâm lược" các đảo và đá của quần đảo Nam Sa thuộc Trung Quốc[5] nên không thể viện dẫn nguyên tắc "Đất thống trị biển" để đ̣i hỏi quyền chủ quyền đối với các vùng biển kế cận. Trung Quốc dẫn học thuyết pháp lư "ex injuria jus non oritus" để cho rằng CH Philippin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lănh thổ của họ.

Theo định nghĩa của luật quốc tế, xâm lược là một hành vi sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vậy việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp các năm 1974, 1988 và 1995 để chiếm đoạt các đảo đá đă có chủ để hậu thuẫn cho các yêu sách lănh thổ có nên được áp dụng học thuyết pháp lư "ex injuria jus non oritus" không ? Khi công hàm ngoại giao tuyên bố "theo nguyên tắc pháp lư "Đất thống trị biển", yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể làm xâm hại đến chủ quyền lănh thổ của quốc gia khác", Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng cố t́nh quên mất sự thật là các yêu sách theo Luật của Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa về Lănh hải và vùng tiếp giáp lănh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa (1998)" đang xâm hại đến các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo Luật biển UNCLOS cũng như chủ quyền lănh thổ của quốc gia khác đă thực hiện chiếm hữu thực sự, ḥa b́nh, không có tranh chấp trong thời gian dài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, thật khó có thể chấp nhận viện dẫn luật quốc gia để giải quyết một tranh chấp quốc tế.

Công hàm của Trung Quốc lần này có tính răn đe, cứng rắn. Nó báo hiệu một cuộc chiến pháp lư mới trên Biển Đông. Công hàm không làm cho người đọc hiểu rơ thêm về lập trường pháp lư của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông, về cách hiểu đường lưỡi ḅ ngoài việc phái đoàn Trung Quốc chính thức yêu sách quần đảo Trường Sa có vùng lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Ngược lại nó cho thấy một sự mập mờ cố ư, sử dụng cả những yêu sách lịch sử chưa được kiểm chứng lẫn luật biển hiện đại một cách tùy tiện để bảo vệ một yêu sách quá đáng. Giống như một thủ tục trước câc cơ quan tài phán quốc tế, các bên lần lượt chính thức thể hiện quan điểm của ḿnh về chủ quyền, về quy chế đảo trước Liên hợp quốc. Cộng đồng quốc tế đă có tương đối dữ liệu để thể hiện quan điểm của ḿnh. Dù c̣n có những khác biệt, trong tất cả các Công hàm đă tŕnh lên Liên hợp quốc về vấn đè này đều có một điểm chung không thể phủ nhận: các bên đều viện dẫn UNCLOS, nguyên tắc "Đất thống trị biển" dù cách giải thích và áp dụng c̣n khác nhau. Cả hai Công hàm đều vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đă đến lúc các bên phải thực sự ngồi với nhau, xây dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, giải quyết ḥa b́nh các tranh chấp, phù hợp với Luật quốc tế và UNCLOS.




--------------------------------------------------------------------------------

[1] "ex injuria jus non oritur," or "a right cannot arise from a wrong doing." Có nghĩa là Một người không thể dựa vào hành vi vi phạm trước đây của ḿnh để đ̣i hỏi những quyền hợp pháp khác, Nói một cách khác "cái đúng không thể nảy sinh từ cái xấu"

[2] Nguyen Hong Thao, Le Vietnam et ses differends maritimes dán la Mer de Bien Dong (Mer de Chine meridionale), Pedone, France 2004, p. 232.

[3] Bản dịch trên Nghiên cứu Biển Đông sử dụng thuật ngữ h́nh thái địa chất. http://1371-cong-ham-ca-phi-lip-pin-phn-i-ng-li-bo-ca-trung-quc-ban dich NCBD.htm ngày 18/4/2011

[4] Việt Long, "Sự vô lư của đường lưỡi ḅ trong Biển Đông - Indonesia lên tiếng", Tuần Việt Nam, ngày 27/7/2010.

[5] "China accuses PH of invasion", Tessa Jamandre | VERA Files, http://vera/china-accuses-ph-'invasion'.htm