Results 1 to 6 of 6

Thread: QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 12 : TƯỚNG LOAN và BỨC H̀NH OAN NGHIỆT

  1. #1
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 12 : TƯỚNG LOAN và BỨC H̀NH OAN NGHIỆT





    Đại Úy đặc công Nguyễn Văn Lém được dẫn tới tŕnh diện Tướng Loan.
    Ảnh của Eddie Adams




    Đám tang gia đ́nh Trung Tá Nguyễn Tuân với 6 chiếc quan tài.
    Ảnh "Vietnam, A Chronicle of the War",Black Dog & Leventhal Publishers, Inc. 2003, pg.478


    1. Tết Mậu Thân 1968 Mịt Mù Khói Lửa

    Bằng Hiệp Ước Genève năm 1954, các cường quốc trên thế giới đă chia cắt nước Việt Nam thành hai lănh thổ với hai chế độ chính trị hoàn toàn khác nhau về ư thức hệ: Miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, theo khối Cộng Sản quốc tế. Miền Nam là nước Việt Nam Cộng Ḥa theo khối thế giới tự do.

    Tuy nhiên, ngay khi kư Hiệp Ước, miền Bắc đă có kế hoạch xâm chiếm miền Nam bằng vơ lực. Họ gài cán bộ để hoạt động du kích, chôn ḿn, đặt bàn chông, tấn công quân đội VNCH và tiêu hủy các làng mạc của dân chúng miền Nam. Sau đó, họ thiết lập đường ṃn Hồ Chí Minh dọc biên giới Lào-Cao Miên để chuyển quân và vơ khí, đạn dược từ miền Bắc vào Nam.

    Cuối năm 1967, khi quân đội Hoa Kỳ đă gửi đến Nam Việt Nam khoảng 500 ngàn quân, Bắc Việt muốn chọn Khe Sanh làm địa điểm giao tranh thư hùng giống như mặt trận Điện Biên Phủ năm xưa. Đồng thời, Bắc Việt cũng muốn dùng mặt trận Khe Sanh để che giấu kế hoạch tổng công kích trên toàn lănh thổ VNCH vào dịp Tết Mậu Thân 1968 để phô trương lực lượng.

    V́ hai Đại Tướng Bắc Việt Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp bất đồng quan điểm về trận chiến miền Nam, nên Đảng Cộng Sản giao cho Đại Tướng Thanh chỉ huy mặt trận miền Nam, c̣n Đại Tướng Giáp chỉ huy mặt trận miền Bắc.

    Ngày 6-7-1967, đang khi chuẩn bị cuộc tấn công VNCH, Đại Tướng Thanh bất ngờ qua đời. Bắc Việt loan tin là ông chết v́ bệnh tim ở Hà Nội, nhưng sau đó, báo chí Tây phương xác nhận Tướng Thanh chết v́ trúng bom của Hoa Kỳ. Cũng có tin là ông bị thanh toán nội bộ. Sau đó, Tướng Giáp được Đảng Cộng Sản chỉ định tiếp tục lập kế hoạch tấn công lớn vào dịp Tết Mậu Thân.

    Như các năm trước, vào các dịp Tết và lễ lớn, hai miền Nam Bắc đều đồng ư hưu chiến trong ít ngày. Dịp Tết Mậu Thân năm 1968, Bắc Việt đề nghị hưu chiến 7 ngày, nhưng VNCH chỉ đồng ư 3 ngày. Tin tưởng vào lệnh hưu chiến này, 50% quân nhân miền Nam được phép về gia đ́nh ăn Tết. Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng rời Saigon về Mỹ Tho để mừng Tết ở quê vợ. Trong khi đó, quân đội miền Bắc bất chấp lệnh hưu chiến, ngày đêm chuyển quân và vũ khí để chuẩn bị xâm lăng miền Nam.

    Giữa không khí linh thiêng của ngày Tết Mậu Thân, mọi người lũ lượt đến chùa và nhà thờ để cầu nguyện b́nh an cho Năm Mới. Tiếng pháo và múa lân mừng Xuân của miền Nam bỗng dưng bị pha trộn bằng tiếng súng của Cộng Sản. Nhà cửa bốc cháy ḥa lẫn tiếng đàn bà con nít khóc lóc thảm thương!

    Bắc Việt đă tung vào trận đánh Tết Mậu Thân 80.000 lính từ miền Bắc vào, cùng với tất cả các lực lượng du kích và đặc công trong thành phần Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để tấn công 36 trong số 44 tỉnh miền Nam và 6 thị xă, cùng với 64 trong số 242 quận lỵ. Các cán binh Cộng Sản chỉ được học tập tấn công, nhưng không biết đường rút quân. Tại những cộng sự đặt súng lớn, xạ thủ bị xích chân vào bàn súng. Điều này chứng tỏ Cộng Sản quyết tâm tử chiến: thắng th́ sống, thua th́ chết.

    Đêm 30 rạng ngày 31-1-68 DL (tức đêm mồng Một rạng mồng Hai Tết), Saigon bị tấn công tại nhiều địa điểm quan trọng, như phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, đài phát thanh Saigon, Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Dinh Độc Lập phía đường Nguyễn Du…

    Thực sự, Cộng Sản đă chiếm được đài phát thanh Saigon và đài này đă bị tắt tiếng một thời gian ngắn, nhưng Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG đă phối hợp với quân đội để tái chiếm đài phát thanh và đă không hề có một bài hát hay lời tuyên truyền nào của Bắc Việt kịp phát đi từ làn sóng của đài phát thanh Saigon.

    Kư giả Don North của hăng NBC có mặt tại Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ lúc quân đội Bắc Việt tấn công đă kể rằng: Vào lúc 2g45 sáng ngày 31-1-68, 19 đặc công Cộng Sản đeo băng đỏ trên cánh tay dùng chiếc xe hơi Peugeot và taxi chạy thẳng vào cổng ṭa Đại Sứ và nổ súng. Họ đă chiếm được một căn pḥng trong ṭa Đại Sứ, nhưng lực lượng canh gác phản công. Phía Hoa Kỳ, có 4 quân cảnh và một lính Thủy Quân Lục Chiến tử thương. C̣n tất cả 19 đặc công đều bị giết chết sau 6 giờ giao tranh.

    Cộng Sản tưởng rằng khi họ về thành phố sẽ được dân chúng tiếp đón niềm nở. Nhưng thực tế, Cộng Sản tới đâu, người dân đều bỏ chạy. Hơn lúc nào hết, các CSQG đă trở thành người bạn khắng khít nhất của dân. Họ canh gác nhà thương để bảo vệ bệnh nhân. Họ giúp đỡ dân chạy loạn và họ phối hợp với các quân binh chủng chiếm lại từng nhà, từng tấc đất đă bị Cộng quân chiếm giữ. V́ số lượng dân chúng, gồm đàn bà trẻ con, bị thương tích quá đông, các bác sĩ và y tá phải tràn ra các đường phố để cứu cấp. Các thương binh Cộng Sản được đối xử rất nhân đạo. Họ được cứu chữa giống như các thương binh VNCH và dân chúng.

    Cố Đô Huế bị thiệt hại nặng nhất. 12.000 quân Cộng Sản tiến chiếm Huế vào đêm Mồng Một Tết. Cầu Trường Tiền bị ḿn đặc công giựt sập. Phải mất 26 ngày, quân đội VNCH, với trọng pháo yểm trợ từ chiến hạm Hoa Kỳ, mới có thể chiếm lại Huế. Nhưng buồn thảm và tang tóc phủ kín Cố Đô, với trên 7.000 thường dân và cán bộ bị chôn sống tập thể tại rất nhiều hố rải rắc khắp hang cùng ngơ hẻm.

    2. Tướng Loan Nổ Súng

    Sáng ngày mồng Hai Tết, tức ngày 31-1-1968 (DL), Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan đang đích thân chỉ huy trận chiến khốc liệt tại khu vực Chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, góc đường Sư Vạn Hạnh và Ngô Gia Tự th́ hai nhân viên Cảnh Sát dẫn đến tŕnh diện Tướng Loan một đặc công Cộng Sản đă giết người rất dă man trong hai ngày qua. Đó là Đại Úy Nguyễn Văn Lém, tự Bảy Lốp.

    Chỉ ít phút trước đó, Bảy Lốp đă giết hại vợ, các con và thân nhân của một sĩ quan Cảnh Sát VNCH. Theo tài liệu của ông L N Đồng, vào lúc 4g30 sáng hôm đó, Nguyễn Văn Lém đă chỉ huy một đơn vị đặc công cùng với xe tăng của Tiểu Đoàn 2 Cơ Giới VC tấn công trại Phù Đổng của binh chủng Thiết Giáp ở G̣ Vấp. Sau khi kiểm soát được trại lính, Bảy Lốp bắt giữ gia đ́nh Trung Tá Nguyễn Tuấn và bắt Trung Tá phải chỉ dẫn cách xử dụng các xe tăng c̣n để lại trong trại. Trung Tá Tuấn từ chối, thế là Bảy Lốp giết chết toàn thể gia đ́nh Trung Tá, gồm cả một bà mẹ già 80 tuổi. Chỉ có một bé trai 10 tuổi tuy bị thương nặng nhưng được cứu sống.

    Nguyễn Văn Lém bị bắt gần một hố chôn tập thể 34 thường dân bị giết. Lém khai rằng y rất tự hào là tác giả hố chôn tập thể đám người này, v́ đă hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Lúc bị bắt, Lém mặc quần xà lỏn, áo sơ mi cụt cánh, hai tay bị trói trặt về phía sau mông, nhưng trong người vẫn c̣n đeo khẩu súng lục.

    Tướng Nguyễn Ngọc Loan đă được báo cáo về những hành động giết người dă man của Nguyễn Văn Lém và chính ông đă hành quyết Nguyễn Văn Lém ngay tại phạm trường.



    Tướng Loan hành quyết đặc công Đại Úy Nguyễn Văn Lém
    Ảnh Eddie Adams


    Nhân chứng Nguyễn Tường Toại là một thường dân lúc đó kể lại:

    “Chính tôi là người đă chứng kiến tướng Loan bắn tên cộng sản ấy, tôi biết hắn đă làm những ǵ. Năm 1968 ở Saigon, giữa cuộc chạm súng, hắn đẩy trẻ thơ vô tội ra như là một làn sóng người, để đồng đội tẩu thoát. Trong trận đánh khốc liệt này, hắn sử dụng trẻ con làm lá chắn, để các binh sĩ phải thôi bắn… Lúc ấy mọi thứ đang hỗn loạn. Là Tư Lệnh Cảnh Sát, Tướng Loan khi nh́n xác trẻ con chết, ông hỏi: “Tại sao vậy? Chuyện ǵ vậy?” Đến khi biết tại sao mấy đứa bé chết, biết ai chịu trách nhiệm về hành động này, Tướng Loan đă nổ súng hạ tên thủ phạm.”

    3. Cuộc chiến Việt Nam sang trang

    Yếu tố bất ngờ luôn luôn được hoạch định trong bất cứ trận đánh nào. Bắc Việt mở cuộc tấn công vào dịp Tết linh thiêng của VN là một yếu tố bất ngờ, nhưng tại sao trận tấn công Tết Mậu Thân đă không diễn ra vào cùng một thời điểm trên toàn lănh thổ VNCH? Sau này người ta mới được biết đó là do trục trặc kỹ thuật từ Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt.

    Quân lệnh về ngày giờ nổ súng trên khắp lănh thổ Miền Nam được giữ tối mật. Chỉ có cấp lănh đạo quân sự cao cấp nhất mới nhận lệnh viết, c̣n các cấp dưới chỉ nhận khẩu lệnh. Lệnh đó như sau: “Đánh vào đêm 30 Tết Mậu Thân”.

    Khi hoạch định cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Bắc Việt đă cảm hứng theo cuộc Đại Phá Quân Thanh của Quang Trung Nguyễn Huệ chiếm thành Thăng Long năm 1789. Vua Quang Trung thời ấy đă cho quân sĩ ăn Tết sớm hơn 3 ngày để rồi mở trận Đống Đa - Ngọc Hồi đánh đuổi quân Thanh vào đêm 30 Tết năm Kỷ Dậu.

    Cũng vậy, Bắc Việt muốn làm lịch sử theo gương Tây Sơn: “Quang Trung Nguyễn Huệ chiếm Hà Nội đuổi giặc Thanh đêm 30 Tết Kỷ Dậu th́ Cộng Sản Bắc Việt chiếm Saigon đuổi Mỹ ngụy đêm 30 Tết Mậu Thân”.

    Một sự kiện rất đáng chú ư khác là bỗng nhiên, ngày 8-8-1967, Hà Nội công bố sửa lại Âm lịch, áp dụng múi giờ là GMT +7, khác với múi giờ của Trung Hoa mà Việt Nam đă dùng từ ngàn năm trước là GMT +8. Hậu quả của việc này là sẽ có một số năm, ngày Mồng Một Tết Âm Lịch đi sớm hơn Tết của Trung Hoa. Tết Mậu Thân 1968 là Tết đầu tiên bị ảnh hưởng do quyết định này. Thế nhưng, trong lúc miền Bắc sửa lịch th́ miền Nam vẫn tiếp tục theo lịch Trung Hoa, không chịu sửa. Thành ra, vô t́nh Việt Nam bỗng dưng có hai đêm 30 Tết Mậu Thân tại hai miền Nam Bắc khác nhau. Lệnh của Bắc Bộ Phủ là “Đánh vào đêm 30 Tết Mậu Thân”, nhưng quân Bắc Việt không biết khởi sự tấn công vào đêm nào. Đêm 30 Tết theo lịch Bắc Việt hay lịch Nam Việt?

    Nếu đánh vào “Đêm 30 Tết Bắc Việt” th́ quá sớm, v́ các quân nhân VNCH chưa xuất trại đi phép nghỉ Tết. Tấn công trong lúc lực lượng VNCH c̣n y nguyên tức là tự sát. C̣n nếu đánh vào “Đêm 30 Tết Nam Việt” th́ binh lính Bắc Việt ăn Tết chưa đủ 3 ngày, không giống với Vua Quang Trung. Khi các cấp chỉ huy mặt trận khám phá ra lệnh tấn công mơ hồ th́ đă quá muộn! Tướng Giáp không có cách nào gửi lệnh điều chỉnh được nữa. Do đó, mới xảy ra việc Saigon và các tỉnh miền Nam bị tấn công không cùng một thời điểm.

    Quân đội thuộc Quân Khu 5 của Bắc Việt nổ súng từ Quảng Nam đến Khánh Hoà vào đêm 30 Tết của miền Nam, tức đêm 29 rạng ngày 30-1-68 Dương Lịch. C̣n tại các nơi khác, Cộng quân lại ăn Tết đủ ba ngày rồi mới khởi sự tấn công vào đêm 30 rạng ngày 31-1-68 Dương Lịch, tức là đêm Mồng Một Tết.

    Về phía VNCH, cho tới năm ngày trước Tết, không có dấu hiệu ǵ chứng tỏ t́nh báo miền Nam bắt được kế hoạch tấn công của Bắc Việt. Nhưng theo tài liệu riêng của Trung Tá Nguyễn Thiện, Trưởng Khối Đặc Biệt CSQG lúc bấy giờ, th́ đến ngày 26 tháng Chạp, trong số các tin tức nhận được, có “nguồn tin Tây Ninh” sau khi đi họp với Trung Ương Cục miền Nam về, đă báo cáo rất chi tiết kế hoạch tổng tấn công của Việt Cộng. Chúng quyết định lợi dụng tinh thần “ngưng bắn” của Quân Dân Việt Nam Cộng Ḥa để nổ súng, đặc biệt là nhắm vào Thủ Đô Saigon và các tỉnh lỵ. Tin tức này đă được chuyển cho cả 2 phía: Tổng Nha CSQG và Đại sứ Hoa Kỳ nội trong ngày 27 tháng Chạp Âm Lịch. Ngay sau đó, Tổng Nha CSQG cũng như bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH đă ra lệnh cấm trại 100%. Nhưng lệnh này đă quá trễ, v́ có một số quân nhân, công chức đă được đi phép từ 5 ngày trước. Đi phép luân phiên trước, rồi sau đó trở về đơn vị thay cho một số khác đi tiếp (tức là đi phép trước và sau Tết). Điều cũng nên nói ở đây, khi có một số người đi phép như thế, th́ tại các trụ sở của CSQG, từ Tổng Nha đến các Ty và Chi Cảnh sát đă bắt đầu đào giao thông hào, sắp bao cát. Đó là lệnh của Tổng Giám Đốc Nguyễn Ngọc Loan được gửi tới các đơn vị CSQG.

    Khi súng bắt đầu nổ ở một số tỉnh Cao Nguyên vào đêm 30 Tết, các tỉnh khác cũng vẫn b́nh thản vui Xuân, coi như không có ǵ xảy đến cho ḿnh. Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn không rời Mỹ Tho để về Saigon đối phó với t́nh h́nh. Đáng lẽ ra, nếu khi thấy một số tỉnh bị tấn công th́ các tỉnh khác, kể cả Saigon, đều phải ngưng ăn Tết mới phải. Lúc đó, VNCH có tới 24 tiếng đồng hồ chuẩn bị nghênh chiến và bố trí. Thiệt hại của miền Nam chắc chắn giảm đi rất nhiều.

    C̣n phía Hoa Kỳ, báo chí Mỹ chỉ trích cơ quan t́nh báo CIA đă bất lực khi không biết được tin tấn công. Nhưng các chứng nhân tại miền Nam VN đă nh́n thấy quân Bắc Việt di chuyển gần sát các căn cứ quân sự Hoa Kỳ mà không gặp trở ngại ǵ, cũng như các quân nhân Mỹ bị cắm trại 100% trong lúc quân đội miền Nam đi chơi đầy đường phố, người ta nghi ngờ rằng Hoa Kỳ thực sự có biết kế hoạch tấn công này. Có thể Hoa Kỳ đánh giá sai lạc tin tức t́nh báo, hoặc muốn giấu VNCH hoặc đă có sự thỏa thuận ngầm nào đó giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt?

    Ông Charles B. MacDonald, một nhà viết sử Quân Đội Hoa Kỳ, đă đoạt nhiều bằng tưởng lục, đă tiết lộ rằng: “Mặc dầu TT. Thiệu đă không hủy các giấy nghỉ phép cho quân lính, nhưng với áp lực của Tướng Westmoreland, ông đă cam kết rằng ít nhất 50% quân số - lúc đó là khoảng 732.000 người - sẽ phải ứng trực.”

    Qua tin tức này, chúng ta có thể đưa ra 2 nhận định: Thứ nhất, Hoa Kỳ biết chắc có cuộc tổng công kích. Thứ hai, TT. Thiệu đă không “nhạy cảm” trước sự cảnh giác của đồng minh Hoa Kỳ. Có thể v́ lệnh của Ngũ Giác Đài, Tướng Westmoreland không được chính thức tiết lộ tin này cho VNCH, nhưng bằng một cách gián tiếp, ông đă cảnh giác tới mức “áp lực” TT. Thiệu đừng cho binh linh về phép, vậy mà ông Thiệu vẫn không hiểu được ư của Tướng Westmoreland, để rồi vẫn xả trại lính và chính ông cũng thản nhiên về quê vợ ăn Tết!

    Cho dù VNCH bị tấn công hết sức bất ngờ như vậy, nhưng về phương diện quân sự, Cộng Sản đă chấp nhận thảm bại trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Chỉ trong ṿng từ 2 đến 3 ngày, các lực lượng quân đội và Cảnh Sát miền Nam, cùng với quân lực Hoa Kỳ yểm trợ, đă dũng cảm đẩy lui bộ đội Bắc Việt ra khỏi tất cả các nơi chiếm đóng, ngoại trừ thị xă Huế phải mất gần một tháng trời.

    Tổng kết thiệt hại của các bên tham chiến trong biến cố Tết Mậu Thân được ghi nhận như sau:

    Phía Hoa Kỳ và Đồng Minh có 1.536 tử thương, 7.764 bị thương, 11 mất tích.

    Phía VNCH, có 2.788 tử thương, 8.299 bị thương, 587 mất tích.

    Phía Bắc Việt, có 45.000 tử thương, 6.991 bị bắt, c̣n bị thương và mất tích không rơ.

    Phía dân chúng, có 14.000 tử thương, 24.000 bị thương và 630.000 người mất nhà cửa.


    Tuy nhiên, phải thành thực nhận rằng Cộng Sản Bắc Việt đă thành công về mặt chính trị và xảo thuật.

    Về xảo thuật, Bắc Việt đă mở cuộc tấn công này để dùng sức mạnh quân dân chính miền Nam thanh toán hết sức mạnh quân sự của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (tuy chẳng có nhiều) để chuẩn bị cho ngày miền Bắc thống nhất đất nước. Điều này thực sự được chứng minh, v́ ngay sau ngày 30-4-1975, các lực lượng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị Bắc Việt cho giải giới và nhận ch́m trong quên lăng, khiến cho những người trong Mặt Trận này giận tím mật tím gan mà không đủ sức tạo ra một đề kháng nào cả.

    Vy Thanh, một cán bộ Cộng Sản cao cấp miền Nam đă thú nhận rằng “Miền Nam bị nhuộm đỏ” và đau xót châm biếm Trung Ương Cục (TƯC) Miền Nam:

    “Đây là đất TƯC, đọc theo từng âm của mẫu tự thành “TỨC”. TƯC là chỗ gây ra cái tức, như tức ḿnh v́ thấy quá nhiều chuyện trái tai gai mắt, tức hộc gạch v́ ức ḷng quá mà nói ra không được, máu trong tim muốn ộc ra, tức lộn ruột v́ đang đứng gặp chuyện ngược đời thành thử đầu dộng xuống đất cẳng chổng lên trời.”


    C̣n về phương diện chính trị, Bắc Việt đă thành công nhờ các lực lượng phản chiến tại Hoa Kỳ nổi lên như vũ băo sau Tết Mậu Thân, khiến cho đương kim Tổng Thống Lyndon B. Johnson (Đảng Dân Chủ) không dám ra tranh cử nữa và Richard M. Nixon đă lợi dụng t́nh h́nh chính trị tại VN để thắng cử, rồi đưa Henry Kissinger vào chức vụ Tổng Trưởng Ngoại Giao, bán đứng VNCH cho Cộng Sản.

    Chính Phạm Văn Đồng đă công khai tuyên bố cuộc chiến Việt Nam đă thắng trên đường phố Hoa Thịnh Đốn.

    Tóm kết, biến cố Tết Mậu Thân thực sự đă thay đổi toàn diện chiến tranh Việt Nam. Và một diễn biến lúc đầu người ta tưởng là nhỏ, nhưng lại đă góp phần rất lớn trong việc thay đổi cuộc chiến. Đó là tấm h́nh Tướng Loan hành quyết Bẩy Lốp trên đường phố Saigon. Tấm h́nh đă gây oan nghiệt cho cả cuộc đời ông và hơn thế nữa, nó đă góp phần rất lớn trong diễn biến sụp đổ của chế độ VNCH miền Nam.

    Vậy ai là tác giả của tấm h́nh đầy oan nghiệt này?

    4. Nhiếp ảnh gia Eddie Adams


    Eddie Adams sinh ngày 12-6-1933 (RIP năm 2004). Ông đă từng tham dự 13 cuộc chiến tranh, từ Việt Nam đến vịnh Ba Tư, với tư cách kư giả chụp ảnh chiến trường. Ông đă lănh tới 500 giải thưởng.

    Khi Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công Tết Mậu Thân, nhiều kư giả chiến trường ngoại quốc được tung ra khắp miền Nam để thu h́nh và loan tin. Bám sát bộ chỉ huy hành quân của Tướng Loan ngày mồng Hai Tết Mậu Thân là nhiếp ảnh gia Eddie Adams của hăng AP và phóng viên quay phim người Việt Nam làm việc cho đài NBC, tên là Vơ Sửu.

    Tất cả các diễn biến về Tướng Loan bắn đặc công Bẩy Lốp đă được Eddie Adams và Vơ Sửu thu hết vào ống kính, không sót một chi tiết. Tướng Loan biết rơ việc này. Nếu muốn, ông có thể ra lệnh tịch thu lại hết các cuốn phim, nhưng ông đă không làm như vậy. Có thể Tướng Loan nghĩ rằng ông đă làm một điều rất đúng trong quyền hạn của ông nên không cần ǵ phải che giấu.. Ngay sau lúc bỏ lại khẩu súng lục vào bao, ông thản nhiên nói với Adams: “Tên Việt Cộng này đă giết nhiều người Hoa Kỳ và người của tôi.”

    Tuy ông Vơ Sửu của đài NBC quay được cảnh Tướng Loan bắn Bảy Lốp, nhưng cả thế giới chỉ biết đến bức h́nh của Eddie Adams thôi.

    Adams kể lại lúc Tướng Loan bắn Nguyễn Văn Lém như sau: “Lúc đầu, tôi tưởng Lém được dẫn đến để Tướng Loan thẩm vấn. Khi ông rút súng chĩa vào Lém, tôi cũng vẫn c̣n tưởng là ông chỉ dọa thôi. Hoá ra, ông bắn thật.”

    C̣n phóng viên Vơ Sửu kể lại rằng: Sau khi bắn, Tướng Loan nói với các kư giả: “Những tên này đă giết vô số dân chúng của tôi và tôi nghĩ Đức Phật sẽ tha thứ cho tôi.”

    Ngay đêm mồng Hai Tết Mậu Thân, bức h́nh của Adams được gửi từ Saigon ra ngoại quốc và rồi được in ngay trên trang nhất của các báo chí trên khắp thế giới.

    5. Bức h́nh oan nghiệt

    Bức h́nh Tướng Loan bắn Nguyễn Văn Lém được các nhóm phản chiến đưa ra khai thác tận t́nh trên các báo chí, truyền thanh và truyền h́nh tại Hoa Kỳ để đạt tới mục đích mong muốn: Phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng mọi giá, v́ – theo lời họ - nó bẩn thỉu, không có chính nghĩa.

    Tom Buckley, b́nh luận gia của báo Harper nhận xét: “Đây là lúc công luận Mỹ quay lại chống chiến tranh Việt Nam.”

    Viện Gallup vào giữa tháng 3-1968 công bố rằng trước Tết Mậu Thân, có 1/5 người được hỏi đă nhận ḿnh là “diều hâu” (tức ủng hộ chiến tranh), nhưng sau khi thấy bức h́nh Tướng Loan bắn Bảy Lốp th́ họ tự đổi thành “bồ câu” (tức chống chiến tranh).

    Đại Tướng Colin Powell, lúc đó mới mang lon Thiếu Tá đang dự khóa huấn luyện ở Fort Leavenworth, Kansas, kể lại quang cảnh lớp học quân sự sau khi bức h́nh oan nghiệt được đăng trên báo chí và truyền h́nh như sau: “Hôm đó, khi tôi đến lớp học, mọi nguời không ai tin được chuyện này đă xảy ra, y như vừa bị một cú thoi vào bụng.”

    Cũng kể từ tháng Ba 1968, các cuộc biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ đột nhiên rầm rộ khác thường. Tháng 10 năm đó, lực lượng Cảnh Sát Hoa Kỳ bắt đầu đụng độ với các cuộc biểu t́nh bạo động. Một năm sau, các cuộc biểu t́nh phản chiến tại Hoa Kỳ đ̣i rút quân ra khỏi Việt Nam đă thu hút hàng triệu người tham dự. Chính phủ Hoa Kỳ bị Quốc Hội trói tay, cắt ngân sách viện trợ cho VNCH. Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu xếp ba lô hồi hương vào năm 1973, để rồi hai năm sau (30-4-1975), miền Nam Việt Nam tức tưởi tuyên bố đầu hàng.

    Cộng Sản chiếm dinh Độc Lập, Saigon, ngày 30-4-1975 .


    6. Adams hối hận .







    Nếu không có Tướng Loan, không biết số phận Saigon lúc ấy sẽ ra sao?
    Vậy mà bức h́nh của ông lại gây ngộ nhận để công luận lên án Tướng Loan là tàn bạo.

    Tên tuổi Adams bỗng nhiên nổi lên như cồn. Chỉ một năm sau, tức năm 1969, nhờ bức h́nh này, Adams lănh luôn hai giải thưởng cao quư Pulitzer và World Press Photo. Nhưng thật lạ kỳ! Ông ta bắt đầu nhận ra có điều ǵ không ổn. Ông thuật lại rằng: “Tôi mặc bộ đồ dạ hội sang trọng để lănh giải thưởng và tiền thưởng về bức h́nh đó tại Đại Hội Nhiếp Ảnh ở Ḥa Lan. Khi ban nhạc trổi bài quốc ca Hoa Kỳ, tôi bật khóc. Không phải tôi khóc v́ sung sướng, mà khóc cho Tướng Loan. Cho tới giờ phút đó, tôi vẫn chưa ư thức được việc tôi đă làm. Khi chụp tấm h́nh đó, tôi đă hủy hoại đời ông Tướng, v́ ông bị dân chúng ở cả nước ông lẫn Hoa Kỳ lên án về tội giết tù binh chiến tranh. Trong bất cứ cuộc chiến nào, người ta cũng vẫn thường làm như vậy, nhưng hiếm có nhiếp ảnh viên nào chụp được mà thôi.”

    Năm 1983, Adams trở lại Việt Nam và được biết tấm h́nh oan nghiệt của ông được trưng bày ở một chỗ rất trang trọng của Bảo Tàng Viện Chiến Tranh tại Saigon. Tuy nhiên, hiện nay không hiểu v́ lư do ǵ, bức h́nh đă được gỡ bỏ, và chỉ được bày bán trong gian hàng bán đồ kỷ niệm tại Bảo Tàng Viện này thôi.



    Bà Nguyễn Thị Lốp, 56 tuổi, quả phụ Nguyễn Văn Lém (Ảnh chụp năm 1988)

    Sau năm 1975, có tới 8 người đàn bà đứng ra nhận là vợ của Nguyễn Văn Lém. Tuy nhiên, cho tới nay, xác của viên đặc công này vẫn chưa được t́m thấy.

    Trong nhiều dịp khác nhau, Adams tiếp tục bày tỏ niềm ân hận về hậu quả bất công của tấm h́nh: “Tôi nhận tiền để tŕnh diễn cảnh một người giết một người. Tướng Loan đă bắn chết tên Việt Cộng đă giết rất nhiều người dân vô tội và tướng Loan chỉ dùng công lư để xử tội hắn mà thôi.” .

    Vào năm 1994, Adams không muốn trưng bày bức h́nh oan nghiệt này nữa. Ông giải thích: “Nếu sự việc tái diễn, có lẽ tôi cũng lại chụp tấm h́nh như vậy, v́ đó là nghề nghiệp mà! Nhưng tôi không c̣n muốn nói ǵ về bức h́nh ấy nữa. Tôi không trưng bày nó nữa. Tôi không xử dụng nó bất cứ tại nơi đâu.”

    Ông thường nói rằng: “Tướng Loan là một vị anh hùng của chính nghĩa. Bức h́nh tôi chụp đă lừa dối công luận. Ông chiến đấu cho cuộc chiến của chúng ta, không phải cuộc chiến của họ. Vậy mà mọi điều nhục nhă lại đổ trên đầu con người này.”

    Trong cuộc tỵ nạn của người Việt Nam năm 1975, Eddie Adams cũng đă chụp được những tấm h́nh nổi tiếng về cuộc vượt thoát can đảm, đầy gian nguy của thuyền nhân Việt Nam vào năm 1977.



    Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đă xin phép hăng AP để gửi sang Quốc Hội các tấm h́nh này. Nhờ vậy, gần 200.000 thuyền nhân Việt Nam được chấp thuận định cư ở Hoa Kỳ. Eddie Adams sung sướng nói rằng: “Tôi thà được biết đến qua những bức h́nh tôi chụp 48 người Việt Nam tỵ nạn trên chiếc thuyền dài 30 foot, rồi bị hải quân Thái đuổi ra biển. Nhờ những tấm h́nh này, tôi đă làm được những điều tốt mà không gây đau khổ, oan nghiệt cho ai cả.”

    7. Tranh luận về bức h́nh

    Tại sao bức h́nh đă trở thành đề tài nóng bỏng? .

    Nhóm phản chiến Hoa Kỳ lập luận rằng: Đại Úy đặc công Nguyễn Văn Lém đă bị bắt, hai tay bị trói quặt về sau lưng, tức là Nguyễn Văn Lém đă thực sự trở thành tù binh chiến tranh, Tướng Loan không có quyền hành quyết một kẻ thù trong trường hợp đă bị bắt, không c̣n phương tiện tấn công. Hành động này trái với điều 3 Quy Ước Genève ngày 12-8-1949 về tù binh. Từ đó, họ kết luận cuộc chiến Việt Nam là bẩn thỉu, người Mỹ không nên dính vào nữa.

    Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc Đại Lợi, trong cuốn “In The Frontline”, đă bênh vực Tướng Loan rằng tên đặc công mặc áo dân sự, tức là không phải “quân nhân địch” như đă quy định trong Quy Ước Genève về tù binh, y lại phạm tội quá rơ ràng là giết nhiều đàn bà con nít và ngoan cố không chịu đầu hàng th́ Tướng Loan có gọi là “phiến loạn” để xử bắn trong thời gian “thiết quân luật” th́ cũng không có ǵ để gọi là quá đáng.

    Tướng William Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam đă nhận định rằng hành động của Tướng Loan là "không khôn ngoan, nhưng Tướng Loan đă làm dưới áp lực. Vấn đề này liên quan tới pháp lư mà ông không thể phán đoán được. Ông chỉ muốn nhấn mạnh đến áp lực vào thời điểm đó, tức là sự giận dữ về những hành động khủng bố của Cộng Sản." Và sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, Tướng Westmoreland đă phẫn nộ công kích báo chí v́ đă tạo ra những nguồn tin thất thiệt, tâng bốc sự thảm bại của Việt Cộng thành một cuộc "chiến thắng tâm lư" của Cộng Sản.

    Nhưng thực sự, cả thế giới đă mắc lừa phản chiến Mỹ: Lừa về sự kiện và lừa về pháp lư.

    Về sự kiện: Chính tác giả tấm h́nh, ông Eddie Adams đă nói bức h́nh của ông mới chỉ nói lên được một nửa sự thực. Ông ân hận, ông khóc lóc, ông phân bua, ông gào thét trên truyền h́nh, truyền thanh, báo chí và trước quan tài của Tướng Loan để cảnh giác thế giới rằng họ đă hiểu lầm về ư nghĩa bức h́nh của ông. Một nửa cái bánh vẫn là cái bánh, nhưng một nửa sự thực là sự sai, sự gian xảo, sự lừa lọc, sự lầm lẫn. Thế mà cả thế giới vẫn nhắm mắt, bịt tai và im lặng để cho Tướng Loan chết trong oan khiên và VNCH chết tức tưởi trong nhục nhằn.

    Vậy cái nửa sự thực kia mà bức h́nh Adams không diễn tả được là ǵ?

    Đó là: .

    1- Adams đă không ghi lại được những h́nh ảnh Nguyễn Văn Lém bắn giết và chôn sống dă man những người dân vô tội mà Tướng Loan có trách nhiệm phải bảo vệ. Họ là đàn bà, con nít không có phương tiện tự vệ trong tay. Sự việc này cũng đă được điều 4 Quy Ước Genève ngăn cấm các quân nhân tham dự chiến tranh không được làm như vậy.

    2- Adams đă không diễn tả được cảnh Bắc Việt đă lợi dụng thỏa ước hưu chiến ngày Tết thiêng liêng như phương tiện để tấn công bất ngờ VNCH, gieo bao nhiêu tang thương, chết chóc, tủi hờn cho dân chúng miền Nam.

    3- Adams cũng đă không ghi được cảnh tượng hàng ngàn người dân Huế bị chôn tập thể do bàn tay các đồng chí của Nguyễn Văn Lém gây nên.

    Tóm lại, cái nửa sự thực mà Adams không tŕnh bày được là nguyên nhân dẫn đến cái nửa sự thực được diễn tả trong bức h́nh. Nói cách khác, Tướng Loan nổ súng kết liễu đời Nguyễn Văn Lém chỉ là hậu quả tất nhiên của chính việc làm của Lém đă giết hại những người dân vô tội mà thôi.

    Không mặc quân phuc,Không quân hàm.
    Nhưng vũ trang mang súng trong người.
    Giết hại tàn sát đàn bà phụ nữ, trẻ em.Được xem như là bọn loạn giặc.
    Tướng Loan không xếp VC Lém thuộc diện quy chế Tù binh.
    Thiếu Tướng LOAN đă dựa theo Pháp Lệnh THIẾT QUÂN LUẬT để xử bắn tại chỗ VC Lém


    http://en.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Ngọc_Loan

    b) Về pháp lư:

    1- Trong bốn phe tham chiến tại Việt Nam: Bắc Việt, Nam Việt, Hoa Kỳ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, chỉ có chính phủ miền Nam (VNCH) đă không hề kư kết bất cứ phần nào của Quy Ước Genève về tù binh và c̣n công khai bác bỏ vào ngày 18-2-1974. C̣n Hoa Kỳ kư ngày 2-8-1955; Bắc Việt kư vào các năm 1953, 1957 và 1976; và Mặt Trận kư vào các năm 1973, 1974.

    Tại sao VNCH đă không kư Quy Ước này? Chúng tôi chưa t́m ra tài liệu để trả lời. Tuy nhiên, cần ghi nhận ngay rằng VNCH có quyền làm như vậy mà không ai có thể suy luận xấu cho hành động không kư kết này. Các Quy Ước quốc tế không phải là tài liệu ǵ cần thiết đến nỗi các quốc gia hội viên không kư không được. Liên Hiệp Quốc cũng không có quyền bắt các hội viên phải kư kết mọi Quy Ước quốc tế, như Quy Ước về tù binh. Tính đến năm 2005, mới chỉ có 192 quốc gia trên thế giới chấp thuận toàn thể Quy Ước về tù binh. Một số quốc gia chỉ thuận một phần. Số khác thuận với những giới hạn do họ đặt ra. Ví dụ: Hoa Kỳ chấp nhận toàn thể Quy Ước về tù binh, ngoại trừ Hiến Chế (Protocol) 1 và 2 ban hành năm 1977.

    Như vậy, VNCH (1954-1975) chưa hề bao giờ kư kết chấp nhận Quy Ước Genève về tù binh th́ làm sao có thể quy kết VNCH và Tướng Loan vi phạm Quy Ước này được?

    2- Dù có phê chuẩn Quy Ước, nhưng mỗi quốc gia lại tự ư giải thích Quy Ước theo quan niệm và quyền lợi riêng tư của ḿnh.

    Hăy lấy ngay trường hợp Bắc Việt và Hoa Kỳ làm bằng chứng.

    Bắc Việt không tuân thủ Quy Ước dành cho tù binh Hoa Kỳ với lư do rằng Hoa Kỳ đă mở cuộc chiến tranh đế quốc xâm lược Việt Nam, tức là một cuộc chiến không có chính nghĩa, cho nên tù binh Mỹ không đáng hưởng những đặc ân của Quy Ước tù binh.

    Phía Hoa Kỳ lại cũng không cho quân lính Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được hưởng Quy Ước, viện lư do là Bắc Việt và Mặt Trận đă áp dụng những chiến thuật du kích quá dă man, không thích hợp cho một cuộc chiến quân sự. Binh lính Bắc Việt và Mặt Trận bị bắt thực sự chỉ là những can phạm h́nh sự, chứ không phải đúng nghĩa tù binh.

    Gần đây nhất, sau khi Hoa Kỳ đem quân chiếm đóng Afghanistan vào tháng 10-2001 và lật đổ chính quyền Taliban, Tổng Thống George W. Bush không cho các quân nhân của Taliban hưởng ân huệ của Quy Ước Genève, v́ chính quyền Bush gọi họ là “chiến binh phi pháp luật” (unlawful combatants), chứ không phải tù binh chiến tranh (prisoners of war).

    Đến tháng 3-2003, Hoa Kỳ lại mở cuộc chiến lật đổ chính phủ Saddam Hussein tại Iraq và không cho bất cứ chiến binh nào không có quốc tịch Iraq bị Hoa Kỳ bắt trên đất Iraq được hưởng quy chế tù binh.

    Như vậy, dù có chấp nhận Quy Ước về tù binh mà lại cắt nghĩa Quy Ước theo ư riêng của ḿnh, th́ có kư hay không kư cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.

    Giả như VNCH có kư vào Quy Ước Genève th́ có thể giải thích rằng Nguyễn Văn Lém không phải là tù binh chiến tranh, v́ khi bị bắt, y không giao tranh với quân lực VNCH, mà lại đang lùng kiếm giết hại dân lành vô tội. Rơ ràng y là tội nhân h́nh sự, chứ không phải tù binh.

    3- Việc kư kết đă vậy, c̣n việc vi phạm Quy Ước quốc tế cũng không phải là điều ít khi xảy ra.

    Ví dụ:

    - Bắc Việt thỏa hiệp ngưng chiến trong dịp Tết Mậu Thân, nhưng công khai mở cuộc tấn công trên toàn lănh thổ VNCH.

    - Bắc Việt kư Hiệp Định Đ́nh Chiến Genève 1954, nhưng vẫn ngăn cản, không cho đồng bào miền Bắc di cư và chuẩn bị đem quân xâm chiếm miền Nam.

    - Bắc Việt kư Hiệp Ước Ḥa B́nh Paris 1973, nhưng vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh tại miền Nam Việt Nam cho đến ngày thành công.

    - Bắc Việt kư Quy Ước tù binh, nhưng không áp dụng. Thẩm Phán Quân Sự Hoa Kỳ, ông Ronald P. Cundick viết rằng: “Mặc dù Bắc Việt và Việt Cộng (ám chỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) đă không chịu áp dụng Quy Ước Genève về tù binh, nhưng họ vẫn nói rằng họ đối xử nhân đạo với quân nhân bị bắt. Tuy nhiên, trên thực tế, các tù binh Hoa Kỳ bị Bắc Việt và Việt Cộng bắt giữ đă bị đối xử dă man và bị dùng như con tin chính trị và lợi khí tuyên truyền.”

    Thế giới đă không lên tiếng về việc hàng triệu sinh linh đă phải hy sinh trong các vụ Bắc Việt vi phạm các Hiệp Ước kể trên, mà lại làm ầm ĩ vụ Tướng Loan bắn Nguyễn Văn Lém. Người ta đ̣i hỏi Nguyễn Văn Lém phải được hưởng quy chế tù binh theo Quy Ước Genève. Làm ǵ có Quy Ước đó trong cuộc chiến ở Việt Nam? VNCH không kư. Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam kư, nhưng chính họ đă xé bỏ từ lâu. Quy Ước Tù Binh chỉ c̣n là mảnh giấy lộn, bị bom đạn đốt cháy. C̣n đâu mà t́m?

    4- Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được khai sinh ngày 20-12-1960 với mục đích lật đổ chế độ chính trị miền Nam bằng bạo lực.

    Bắc Việt luôn luôn chối là không hề tham dự ǵ vào các trận đánh ở miền Nam. Đó chỉ là chuyện riêng tư giữa nhân dân miền Nam nổi dậy chống nhà cầm quyền của họ.

    Nếu lập luận này là đúng th́ hai hậu quả được đặt ra cho vụ Tướng Loan:

    Thứ nhất, Nguyễn Văn Lém là một phần tử trong tổ chức nổi loạn chống chính phủ miền Nam, nên không phải áp dụng Quy Ước Quốc Tế Genève, mà là luật lệ VNCH.

    Thứ nh́, luật pháp của VNCH thời đó đă đặt Cộng Sản ra ngoài ṿng pháp luật, nghĩa là các cán binh Cộng Sản chống lại VNCH bằng vơ lực không c̣n được luật pháp bảo vệ như một công dân thường. Nguyễn Văn Lém là một phần tử trong tổ chức bị luật pháp đặt ngoài ṿng pháp luật, y lại c̣n bị bắt quả tang trong lúc phạm tội h́nh nguy hiểm. Vậy th́ Tướng Loan, vị chỉ huy cao cấp nhất ngành Cảnh Sát, đang có mặt trên phạm trường có quyền thụ lư nội vụ và quyết định những biện pháp thích nghi. Tướng Loan đă hành xử đúng quyền hạn của ông khi quyết định xử tử Nguyễn Văn Lém ngay tại phạm trường, để chấm dứt tội ác của y. Quyết định của ông phải được coi là hợp luật. Cần ghi nhận rằng Tướng Loan không hề bị khiển trách hay điều tra bởi các cơ quan Giám Sát, Hành Pháp, Tư Pháp hay Lập Pháp của VNCH về việc ông đă hành quyết Nguyễn Văn Lém.

    Tuy nhiên, sau ngày 30-4-1975, chiếc màn nhung tuyên truyền của Cộng Sản rớt xuống, cả thế giới đều thấy rơ ràng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ là con đẻ của Bắc Việt. Bằng chứng quá nhiều:

    - Con đường ṃn Hồ Chi Minh do Hà Nội xây dựng,

    - Vũ khí đạn dược từ Nga Sô và Trung Cộng từ Bắc đổ xuống Nam,

    - Các cán binh đều nói giọng miền Bắc,

    - Tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ huy trận đánh tiến chiếm miền Nam,

    - Hà Nội công khai tuyên bố chiến thắng và tức khắc khai tử hai thể chế chính trị tại miền Nam cùng một lúc: VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đúng là một phát súng, hai con chim ngă gục!

    Phải đợi tới lúc này, cả thế giới mới nh́n thấy một sự thực hiển nhiên là Bắc Việt đă xé bỏ biết bao nhiêu Hiệp Ước Quốc Tế ngay khi chữ kư chưa ráo mực, miễn sao đánh chiếm được miền Nam. Vậy th́ đưa Quy Ước Quốc Tế Genève về tù binh ra buộc tội VNCH và Tướng Loan rơ ràng chỉ là một công việc thừa thăi, đúng ra là một tṛ hề! Sau này, tất cả những bộ mặt phản chiến nổi danh tại Hoa Kỳ như nữ tài tử Jane Fonda, và nữ ca sĩ Joan Baez đều đă đấm ngực ăn năn.

    Đây là lời thú tội của Jane Fonda: “Tôi xin được nói đôi lời, không phải chỉ gửi đến các cựu chiến binh Việt Nam ở New England, mà đến tất cả những người đă từng chiến đấu ở Việt Nam. Họ là những người bị tôi gây tổn thương, hoặc bị tôi gây thêm sầu khổ, do những lời tôi đă nói hay những việc tôi đă làm. Tôi cố gắng giúp chấm dứt sự chết chóc và chiến tranh, nhưng có những lúc tôi không chín chắn và thiếu thận trọng khi làm việc đó và tôi… rất hối hận v́ đă làm tổn thương họ. Tôi muốn được xin lỗi họ và gia đ́nh họ.”

    Nhưng mọi việc đă quá muộn màng. Đời con gái khôn ba năm dại một giờ! Lịch sử đă sang trang. Miền Nam đă hoàn toàn bị nhuộm đỏ! Có hối hận cũng chẳng ích lời ǵ nữa!

    5- Sau cùng, vấn đề c̣n lại là việc Tướng Loan xử tử Bẩy Lốp có đúng thủ tục pháp lư và nhân đạo hay không?

    Lư lẽ quan trọng nhất người ta thường nêu lên để trách cứ Tướng Loan là đă xử tử Nguyễn Văn Lém mà không có án lệnh của toà án.

    Không! Người ta đă lầm. Lầm hoàn toàn! Người ta đ̣i hỏi Nguyễn Văn Lém phải được bắt giữ đúng thủ tục tư pháp? Ai có quyền bắt giữ kẻ phạm pháp? – Đó là Cảnh Sát. Nhưng Cảnh Sát là những người mà Lém đang t́m giết. Chẳng những giết Cảnh Sát mà Lém c̣n giết cả vợ con, gia đ́nh Cảnh Sát nữa. Lém đâu có cần đến Cảnh Sát! Dù sao, thực tế Nguyễn Văn Lém đă bị Cảnh sát bắt đang lúc quả tang phạm pháp.

    Người ta đ̣i phải đem Nguyễn Văn Lém ra toà án xét xử. C̣n toà án đâu mà xử? Toà án cũng như các cơ sở công quyền đều là mục tiêu Lém và các đồng chí của y đang chủ trương đốt phá cho kỳ hết. Thẩm phán là những người Lém đang t́m bắt để chôn sống.

    Tất cả miền Nam Việt Nam trong dịp Tết Mậu Thân là một băi chiến trường khổng lồ mà Bắc Việt đă dựng nên. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc, lửa đạn như vậy mà lại c̣n đ̣i hỏi nào là Quy Ước, nào là Cảnh Sát Tư Pháp, nào là Ṭa án, nào là Thẩm phán… Tất cả những thứ đó Nguyễn Văn Lém không cần. Điều mà y thực sự cần là chấm dứt tội ác và đền tội.

    Nguyễn Văn Lém đă không mặc quân phục, đội nón cối, đi dép râu để giao tranh với quân đội VNCH như các bộ đội Bắc Việt khác. Nguyễn Văn Lém mặc thường phục, đi giết hại, khủng bố đàn bà con nít để bắt họ làm bia đỡ đạn.. Bẩy Lốp chẳng những đă không phủ nhận mà c̣n hănh diện về các vụ giết và chôn sống đàn bà con nít của y. Hành vi này kết thành tội sát nhân với trường hợp gia trọng, bắt buộc phải bị tử h́nh.

    Phương cách thi hành án tử h́nh vẫn được áp dụng vào thời đó tại Việt Nam là các tử tội bị trói vào cột và một tiểu đội hành quyết nổ súng. Sau đó, viên tiểu đội trưởng đến gần bắn một phát súng ân huệ vào đầu tử tội để chắc chắn y đă chết. Nguyễn Văn Lém đă bị hành quyết đúng theo thủ tục: Tử tội bị trói đem ra pháp trường và hưởng phát súng hành quyết cũng chính là phát súng ân huệ của Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc CSQG.









    Thiếu Tướng Loan tại mặt trận HUẾ

  2. #2
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 - Phần 12 : TƯỚNG LOAN và BỨC H̀NH OAN NGHIỆT




    8. Cuộc Đời Tướng Nguyễn Ngọc Loan

    Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 11-2-1930 tại Huế, tốt nghiệp Khóa 1 Trường Vơ Khoa Thủ Đức.

    Năm 1953, ông thụ huấn khóa phi công tại Trường Không quân Salon de Provence tại Pháp và tốt nghiệp với bằng Kỹ Sư Hàng Không. Ông là một phi công lái khu trục cơ đầu tiên của Không lực VNCH. Khoảng đầu năm 1960, ông giữ chức Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 2 Quân Sát, đóng tại Nha Trang.

    Năm 1964, ông được vinh thăng Đại Tá và giữ chức Tư Lệnh Phó Không Quân Việt Nam Cộng Ḥa.

    Trong chiến dịch “Mũi Tên Lửa” (Flamming Dart), ngày 11-2-1965, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đă dẫn đầu những phi đoàn Bắc phạt A1 Skyraider vượt qua vĩ tuyến 17 bắn phá miền Bắc Việt Nam.

    Ngay sau chiến dịch này ông được bổ về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám đốc Nha An Ninh Quân đội, phụ trách Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo.

    Kể từ ngày về chỉ huy ngành CSQG, các báo chí Saigon được gần gũi với Đại Tá Loan hơn và đă đặt cho ông hỗn danh là “Sáu Lèo”. Tác giả Phan Lạc Phước đă giải thích ư nghĩa hỗn danh “Sáu Lèo” như sau:

    “Sáu ở đây là quan Sáu theo danh xưng b́nh dân thời Pháp gọi các quan vơ, mỗi một vạch trên vai là một cấp bậc (thiếu úy vạch một vạch là ông một, trung úy vạch hai vạch là ông hai…). Nhưng sau chữ Sáu của ông Loan c̣n thêm tĩnh từ Lèo. Không biết nó xuất xứ từ đâu, nhưng khi nó đi vào ngôn ngữ dân gian th́ nó mang một ư niệm bỉ thử, dèm pha, tiêu cực. Tiền lèo là tiền vô giá trị, hay là tiền chỉ có trong tưởng tượng. Hứa lèo là hứa xuông, hứa hăo, hứa mà không thực hiện bao giờ. Vậy Sáu Lèo có nghĩa là một ông quan vô giá trị hay là một ông tướng hữu danh vô thực hay sao? Sở dĩ cái danh xưng này đứng vững, một phần là v́ cái bề ngoài luộm thuộm của ông Loan. Ông rất ít khi mặc quân phục, mũ măng cân đai, nghênh ngang giàn giá. Ông thường mặc quần Trây-di xộc xệch, không đeo lon lá ǵ, chân đi dép cao su lẹp xẹp. Ra ngoài th́ ông ngồi xe jeep b́nh thường, không có mang cờ quạt, mà cũng không có xe mở đường, mô tô bảo vệ. Ông nhiều khi c̣n cỡi xe mobilet lạch xạch đi làm. Có khi ông c̣n một tay cầm chai lade, vừa chửi thề loạn xạ. Bề ngoài của ông tướng Loan đúng là xập xệ, là lèo, nhưng việc làm của ông th́ lại không lèo một chút nào… Ông hành động theo những điều mà riêng ông cho là phải. Ông là người bất quy tắc (non conformist) cho nên ông được gọi là Sáu Lèo.”

    Cách giải thích của tác giả Phan Lạc Phước khá lư thú. Tuy nhiên, chữ “Lèo” ngoài ư nghĩa khôi hài châm biếm như trên, c̣n có thể mang thêm một ư nghĩa khác đứng đắn và cũng hợp với hoàn cảnh Tướng Loan. “Lèo” thường đi chung với chữ “Lái”: Lèo Lái. Từ sau cuộc đảo chánh 1963, các nhân viên ngành CSQG bị gán tiếng là thân cận với chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nên bị bạc đăi và mất tinh thần, nhưng khi Tướng Loan về lèo lái con thuyền Cảnh Sát th́ tất cả đều đổi mới, bóng tối tự ti mặc cảm biến mất, ánh sáng b́nh minh ló dạng và mọi người hăng hái ra khơi. Lúc đó, ngành Cảnh Sát có 70.000 nhân viên, chỉ chuyên chú về việc bảo vệ luật lệ. Đại Tá Loan đă quân sự hóa ngành Cảnh Sát để trở thành một lực lượng bán quân sự, vừa bảo vệ trật tự dân chúng vừa hành quân vơ trang chống Cộng Sản với lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến. Thành quả đáng tuyên dương là chính lực lượng Cảnh Sát đă chống trả cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân ngay từ giây phút đầu tiên, để rồi sau đó, các quân binh chủng khác mới tập trung tiếp sức.

    Năm 1966, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan được chính quyền Saigon cử ra miền Trung b́nh định vụ biến động Phật Giáo miền Trung. Với thành quả rất mạo hiểm và xuất sắc này, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng vào tháng 11-1967.

    Sau Tết Mậu Thân năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu Tướng.

    Tác giả Phạm Phong Dinh trong cuốn “CHIẾN SỬ Quân Lực VNCH” đă viết rằng: “Cống hiến lớn nhất của Thiếu Tướng Loan mà cũng là mối oan khiên mà ông phải gánh chịu nhục nhằn trong ṿng mấy chục năm là cuộc chiến đấu trong những ngày Mậu Thân binh lửa…

    “Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan cùng lực lượng CSQG và Cảnh Sát Dă Chiến chịu trách nhiệm đánh địch tại lănh thổ các quận 1, 2, 3, 4, 5. Các chiến sĩ Cảnh Sát liên tục mở những cuộc hành quân loại địch ra khỏi dân chúng. Tuy nhiên, khi mặt trận Hàng Xanh nổ lớn, Thiếu Tướng Loan đă điều động lực lượng Cảnh Sát Dă Chiến và đích thân ông chiến đấu sát cánh với các chiến sĩ Mũ Nâu Tiểu Đoàn 30 BĐQ của Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân. Các thám thính xa V100 của Cảnh Sát cũng được gửi tới tăng viện mặt trận. Quân ta tiến vất vả và chậm trên khắp mặt trận, là bởi v́ bọn Việt Cộng man rợ, chúng lùa thường dân, đàn bà, người già và trẻ em làm bia đỡ đạn hoặc dùng súng bắn chặn không cho dân chúng di tản ra khỏi khu vực giao tranh. Các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Cảnh Sát Dă Chiến được Thiếu Tướng Loan điều động đến càn quét khu vực Thị Nghè. Gia đ́nh của một Đại Úy Cảnh Sát trong khu vực này không chạy kịp đă bị tên Bảy Lốp, Đại Úy Đặc Công Việt Cộng tàn sát man rợ.”

    Cựu Đại Tá Trần Minh Công, trước khi giữ chức Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, đă có thời làm việc sát cánh bên Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Hồi Tết Mậu Thân, ông giữ chức Trưởng Ty CSQG Quận Nh́ Đô Thành Saigon. Nhờ mặc chiếc áo giáp nên ông đă thoát chết, v́ đạn Việt Cộng đă bắn nát áo ông.

    Đại Tá Công đă khẳng định rằng: “Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một vị Tướng trí thức trong hàng ngũ tướng lănh VNCH. Tướng Loan là một người rất can đảm, một cấp chỉ huy tài ba và là một vị anh hùng dân tộc. Ít có vị tướng nào lại cùng cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận như một người lính thường. Nếu không có Tướng Loan xông pha bảo vệ Thủ đô Saigon trong dịp Tết Mậu Thân, tôi nghĩ Saigon sẽ tan hoang không khác ǵ Huế.”

    Chỉ bốn tháng sau, tức ngày 5-5-1968, Bắc Việt lại mở cuộc tổng công kích lần thứ hai. Lần này, Tướng Loan cùng với lực lượng Cảnh Sát can đảm của ông ngày đêm xông xáo chiến đấu ngoài đường phố Saigon. Ông bị địch quân bắn trọng thương vào cả hai chân trên cầu Phan Thanh Giản.. Một kư giả người Úc nh́n thấy và đă khẩn cấp d́u ông vào chỗ an toàn. Định mệnh thật lạ kỳ: Một kư giả Mỹ đă hủy diệt danh tiếng Tướng Loan th́ một kư giả Úc đă cứu sống ông.

    Sau đó, Tướng Loan được chở sang Úc chữa trị, nhưng v́ bị công luận Úc phản đối, nên ông lại được chở sang bệnh viện Walter Reed Army Medical Center ở Washington, DC., Hoa Kỳ. Nhưng thật đau đớn cho Tướng Loan, các dân biểu phản chiến tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào lúc đó cũng phản đối. Trở về Sàig̣n với đôi chân tật nguyền khập khiễng, Tướng Loan được giải ngũ và dành th́ giờ vào các công tác thiện nguyện giúp trẻ mồ côi.

    Ngày 3-6-1968, 6 sĩ quan ưu tú của quân lực VNCH mà phân nửa là CSQG đă bị trực thăng Mỹ “bắn lầm” (?) tại một cao ốc ở Chợ Lớn trong cuộc hành quân đánh đuổi Cộng Sản. Người ta nói rằng nếu Tướng Loan không bị thương th́ có lẽ cũng đă bị chết với bộ tham mưu hành quân này.

    Năm 1975, miền Nam sụp đổ, máy bay của Hoa Kỳ không đưa Tướng Loan và gia đ́nh ông di tản, nhưng các chiến hữu không quân của ông đă cứu ông.

    Khi Tướng Loan đến Hoa Kỳ, nữ Dân Biểu Nữu Ước Elizabeth Holtzman yêu cầu trục xuất ông và cả Sở Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ cũng đồng quan điểm. Nhưng quyết định trục xuất Tướng Loan về Việt Nam có nghĩa tương đương với bản án tử h́nh dành cho ông. V́ thế, chính Tổng Thống Jimmy Carter đă phải can thiệp và quyết định cho phép ông được định cư tại Hoa Kỳ..

    Tướng Loan và gia đ́nh đến lập nghiệp ở thành phố Springfield, Tiểu Bang Virginia, Hoa Kỳ. Ông mở một tiệm bán pizza mang tên Pháp là “Les Trois Continents” (Ba Đại Lục). Đă có lần, Eddie Adams đến tiệm pizza này thăm Tướng Loan. Khi nhắc đến tấm h́nh oan nghiệt năm xưa, Tướng Loan không hề nói một lời oán trách tác giả tấm h́nh. Ông c̣n yên ủi Adams: “Ông làm nhiệm vụ của ông, tôi làm nhiệm vụ của tôi. Chỉ có thế thôi!” Chính v́ câu nói này, Adams càng thêm mến phục Tướng Loan và họ đă trở thành đôi bạn tri kỷ.

    [COLOR="#ff8c00"]Trong một dịp có vài chiến hữu cũ đến thăm Tướng Loan tại quán ăn, bên những ly rượu hội ngộ, Thiếu Tướng Loan đă rưng rưng nước mắt thổ lộ hoài băo:

    “Nếu cơ may một ngày nào đó tụi ḿnh trở về, th́ lúc đó tụi ḿnh đều là nghĩa quân cả. Không Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh, Lực Lượng Đặc Biệt ǵ cả. Tụi ḿnh chỉ là nghĩa quân. Nghĩa quân đây là nghĩa quân của thời Lê Lợi khởi nghĩa, của thời Cần Vương chống giặc ngoại xâm. Chỉ có đám quân đội của tụi ḿnh mới có thể nói chuyện “phải quấy” với đám quân đội phía bên kia, v́ hồi c̣n đánh nhau, hai bên đều bị bịt mắt cả”.


    Đến năm 1991, tướng Loan phải đóng cửa tiệm pizza này, v́ dân chúng địa phương đă nhận diện được ông. Có kẻ đă vào nhà vệ sinh của tiệm và viết lên tường câu khiếm nhă này bằng Anh ngữ: “Chúng tao đă biết mày là ai.”


    Nhận xét về cá tính của Tướng Loan, cựu Đại Tá Trần Minh Công nhận định như sau: “Nh́n phong cách và diện mạo của Tướng Loan, nhiều người cứ tưởng lầm ông là một bạo tướng, nhưng nhiều lần tôi đă từng chứng kiến ông ngồi khóc một ḿnh. T́m hiểu ra mới biết ông là người rất giầu t́nh cảm. Ông thương yêu thuộc cấp, sống chết với họ. Kể cả khi ông bắt gặp đàn em làm bậy, ông cũng không nỡ phạt họ, mà chỉ răn đe để họ cải sửa. Mỗi khi thuộc cấp hy sinh tử trận, ông khóc thương, nước mắt dầm dề. Có khi thượng cấp hiểu lầm ông, ông cũng khóc. Ông kể lể: ‘Tao phục vụ quốc gia, dân tộc, chứ tao đâu có phục cá nhân nào.’”

    Ngay khi c̣n ở Việt Nam vào lúc nắm giữ quyền uy trong tay, gia đ́nh Tướng Nguyễn Ngọc Loan vẫn sống rất thanh bạch. Tiền lương đem về hôm trước, hôm sau ông lại lấy đi để giúp đỡ thuộc cấp. Khi bị thương, phải đi ngoại quốc chữa trị, ông không đủ tiền. Thuộc cấp xin đóng góp, nhưng ông không nhận.

    Trong cuốn “Bốn Tướng Đà Lạt” của Lê Tử Hùng có kể lại vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan trả lại chiếc nhẫn kim cương cho một Hoa kiều giầu có, tên là Hoa Hồng Hỏa. Ông này là một trong những thương gia gốc Hoa lương thiện, nhưng đă trở thành nạn nhân của các tướng lănh sau cuộc đảo chánh 1963. Ông ta bị vu oan để rồi chiếc biệt thự của ông ở Đà Lạt bị một ông tướng chiếm. Tới thời Tướng Loan chỉ huy ngành CSQG, họ Hoa mới được minh oan và tiếp tục làm ăn. Khi ông Loan gặp hoạn nạn, phải ra ngoại quốc chữa chân, Hoa Hồng Hỏa biết ông là người thanh liêm, gia cảnh thanh bạch, lại không có thân nhân ở ngoại quốc, nên đă trả ơn Tướng Loan bằng cách tặng ông một cái nhẫn kim cương. Sau này ông Hoả kể lại rằng ông không biết Tướng Loan phải chữa trị bao lâu và cuộc sống ở ngoại quốc khó khăn ra sao, nhưng ngày trở về Việt Nam, Tướng Loan đă đem trả lại chiếc nhẫn cho chủ nó. Vợ chồng Hoa Hồng Hỏa đă lạy khóc và ca tụng Tướng Loan là bậc “Thánh”!…

    9. Ḍng Lệ Tiếc Thương

    Linh cửu Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan

    Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đă qua đời lúc 20 giờ ngày 14-07-1998 v́ bệnh ung thư, thọ 68 tuổi. Ông để lại vợ, bà Mai Chính, 5 người con và 9 cháu nội ngoại.

    Ngay sau khi nhận được tin này, Eddie Addams đă viết ra bản điếu văn bằng nước mắt ngập tràn và từ con tim vỡ nát v́ hối hận. Tuần báo TIME đă đăng tải bài điếu văn này ngay trong số phát hành ngày 27-07-1998.

    “Tôi đoạt giải Pulitzer trong năm 1969 nhờ tấm ảnh chụp một người bắn vào một người khác. Trong tấm ảnh đó có đến hai người chết: Người nhận lănh viên đạn và Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Ông Tướng đă giết chết tên Việt Cộng, nhưng tôi giết ông Tướng bằng cái máy ảnh của tôi. Những tấm ảnh vốn vẫn là những thứ vũ khí kinh khủng trên thế giới. Người ta tin tưởng vào chúng, nhưng những tấm ảnh đó cũng có thể nói láo, thậm chí không cần phải ngụy tạo. Chúng chỉ nói lên được có phân nửa của sự thật. Những ǵ mà tấm ảnh này chưa nói lên được là: “Người ta sẽ hành động ra sao nếu họ ở vào vị trí của ông Tướng, vào cái thời điểm và nơi chốn của một ngày nóng bức, khi người ta vừa bắt được một tên gọi là ác ôn mà trước đó hắn đă bắn chết một, hai hay ba người lính Mỹ?

    “Tướng Loan là một mẫu người có thể được gọi là chiến binh đúng nghĩa và được thuộc cấp kính trọng. Tôi không nói rằng những ǵ ông Tướng đă làm là đúng, nhưng người ta phải tự đặt ḿnh vào vị trí của ông. Tấm ảnh không hề diễn tả được rằng ông Tướng đă tận tụy dành nhiều thời gian đến các bệnh viện để thăm hỏi những nạn nhân chiến cuộc. Tấm ảnh này đă thực sự làm đảo lộn cuộc đời ông. Ông chẳng hề phiền trách ǵ tôi. Ông nói với tôi rằng: Nếu tôi không chụp tấm ảnh, th́ sẽ có người khác làm việc đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy bứt rứt xốn xang về ông và gia đ́nh ông trong một thời gian dài. Tôi vẫn thường liên lạc với ông, lần cuối cùng mà chúng tôi nói chuyện với nhau đă xảy ra hồi sáu tháng trước, vào lúc ông đă bị bệnh rất nặng.”

    Trong lúc các bạn hữu, các tổ chức người Việt tỵ nạn c̣n phải đắn đo, suy nghĩ, họp bàn về việc có nên đăng báo phân ưu và gửi ṿng hoa đến phúng điếu cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan hay không th́ Eddie Adams đă mau mắn gửi một ṿng hoa lớn nhất đến phân ưu Tướng Loan với hàng chữ:

    “Kính thưa ông Tướng, Lệ đă tràn đầy trong mắt tôi”.

    Dưới đây là bản dịch nguyên văn những lời nói của chính Eddie Adams, phát ra từ đáy con tim, với những cảm xúc ân hận v́ đă chụp tấm h́nh oan nghiệt, làm hại đời của Tướng Loan:

    “Trong đời tôi, bức h́nh này đă gây ra bao nhiêu lời chỉ trích. Bức h́nh đă làm tôi đau đớn. Tôi đă bắt đầu nghe được điều này ngay khi bức h́nh được tung ra. Như quư vị đă biết: Nó đă gây nên những cuộc biểu t́nh vào năm 1968 và đă tạo ra sự giận dữ và phẫn nộ tại Hoa Kỳ.

    “Tôi không hiểu được điều này và cho tới giờ này tôi cũng vẫn không hiểu được, v́ trong thời chiến, con người ta chết v́ chiến tranh. Và điều mà tôi đă hỏi nhiều người rằng nếu quư vị là ông Tướng đó và nếu quư vị bắt được kẻ đă giết hại dân chúng của quư vị th́ quư vị sẽ làm sao? Đây là thời chiến mà!

    “Làm sao mà biết được nếu chính quư vị gặp hoàn cảnh này mà lại không bóp c̣ súng?

    “Bởi vậy tấm h́nh này đă nói dối, đưa đến việc người ta kết án ông Tướng. Ông là một vị Tướng, nhưng thực ra, lúc đó ông là Đại Tá Tổng Giám Đốc Cảnh Sát QGVN. Ông đă tốt nghiệp trường chỉ huy tại Hoa Kỳ. Ông là người đậu thủ khoa. Tôi hiểu ông và kính phục ông. Tôi nghĩ rằng đă có hai người chết trong bức h́nh của tôi: Không phải chỉ người bị bắn, mà cả chính ông Tướng bắn nữa.

    “Bức h́nh đă hủy diệt cuộc đời ông và tôi không hề có ư như vậy. Ư của tôi là chỉ muốn tŕnh bày việc ǵ đă xảy ra. Sự thực là tôi không muốn gánh trách nhiệm là kẻ đă hủy diệt đời sống của bất cứ ai cả.”


    Eddie Adams đă đến tham dự đám tang của Tướng Loan và nói rằng:

    “Tướng Nguyễn Ngọc Loan là một anh hùng. Cả nước Mỹ nên khóc thương ông. Tôi không thích ông ra đi lặng lẽ theo cách này, để không ai biết đến”.

    Sáu năm sau đó, vào ngày 12-9-2004, Eddie Adams cũng qua đời. Hưởng thọ 71 tuổi.


    10. KẾT LUẬN

    Kẻ chiến thắng, uống măi ly rượu mừng rồi cũng có ngày say sưa bất tỉnh.

    Người bại trận, nhấp măi chén đau thương rồi cũng có ngày tỉnh giấc vùng lên.

    Không phải tất cả những kẻ chiến thắng đều là đúng đắn, giỏi giang hay ái quốc.

    Cũng không phải tất cả những người bại trận đều là sai lầm, dốt nát hay phản quốc.

    Đă trên 30 năm qua, đây là lúc phải trả lại sự thực cho lịch sử chiến tranh Việt Nam.

    Sự thực của lịch sử là ǵ?

    Sự thực không thể chối căi là: Trong cuộc chiến Việt Nam, kẻ chiến thắng không phải do tài ba của ḿnh, người bại trận không phải do yếu kém của ḿnh. Kẻ thắng không ngờ ḿnh thắng, người thua không hiểu tại sao ḿnh thua. Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh? Anh và tôi, tất cả chúng ta chỉ là những con tốt thí trên bàn cờ quốc tế. Tất cả chiến thắng hay thất bại trong cuộc chiến Việt Nam đều do bàn tay phù thủy, lông lá của ngoại bang vẽ ra.

    Bởi vậy, đây là lúc phải xét định công tội cả bên thắng cũng như bên thua bằng tinh thần ái quốc đối với Quê Hương và Dân Tộc Việt Nam.

    Cuộc chiến Việt Nam không phải bẩn thỉu như người ta nghĩ đâu, v́ đó là một trận thư hùng giữa Tự Do và Độc Tài, giữa Hữu Thần và Vô Thần, giữa Quốc Gia và Cộng Sản.

    Phản chiến Hoa Kỳ lên án Tướng Loan bắn Cộng Sản là lạc hậu. Thế th́ khi Tướng Loan bị thương, được đem đến nhà thương bên Úc, người ta từ chối không chịu chữa. Đó là văn minh chăng? Người ta lén lút vào nhà vệ sinh thuộc cơ sở làm ăn của Tướng Loan viết những câu hăm dọa, tục tĩu. Đó là văn minh chăng?

    Phản chiến Hoa Kỳ rầm rộ biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam v́ bức h́nh Tướng Loan bắn Việt Cộng ngay tại chiến trường mà họ gọi là “tù binh”, trong khi họ lại yên lặng khi các quân nhân Hoa Kỳ lột trần truồng tù binh Iraq để làm tṛ giải trí, khi các tù binh Iraq bị xích như những con chó ḅ lê lết trên sàn nhà?

    Trong vụ tấn công Tết Mậu Thân, Toà Đại Sứ Hoa Kỳ tại Saigon và Tướng Loan đều có cùng một chủ trương là những kẻ chủ mưu cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân phải trả giá ngay tức khắc tại phạm trường, không để sống sót bất cứ một tên nào, nhưng Tướng Loan đă áp dụng theo cách thế “ngạo nghễ” của riêng ông, hoàn toàn khác với phương pháp âm thầm kín đáo của Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. 19 đặc công đánh vào Ṭa Đại Sứ Mỹ, không ai bị bắt, không ai bị thương, tất cả đều chết.

    Tại sao chúng ta lại buồn phiền, xấu hổ, mang tự ti mặc cảm, khi đám phản chiến Hoa Kỳ gọi Tổng Giám Đốc CSQG/ VNCH là “bạo tướng”, trong khi chính họ gọi Tổng Trưởng Quốc Pḥng Donald Rumsfeld và bà Ngoại Trưởng Condoleezza Rice ngày 4-5-2006 tại Atlanta là những “tội phạm chiến tranh”? Nếu đă là “tội phạm chiến tranh” th́ phải lănh h́nh phạt tử h́nh, chứ không thể ngồi điều khiển Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại Giao của siêu cường quốc Hoa Kỳ được.

    Trong suốt cuộc đời, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đă chịu bao nhiêu oan khiên, nghiệt ngă: Phật Giáo ghét ông v́ vụ Bàn Thờ Phật xuống đường. Công Giáo ghét ông v́ ông bắt tên cán bộ Cộng Sản nằm vùng Phạm Ngọc Thảo, tự nhận là “con nuôi ông Diệm” ẩn núp tại một giáo xứ ở Hố Nai. Sinh viên tranh đấu ghét ông v́ ông dẹp họ biểu t́nh. Tổ chức phản chiến trên thế giới ghét ông v́ ông bắt kẻ sát nhân phải đền tội ngay tức khắc tại phạm trường.

    Nhưng bây giờ lịch sử đă chứng minh: Tất cả những kẻ ghét ông đă sai, và ông đă hành xử đúng.

    Tướng Loan đă đem sinh mạng và tất cả danh dự đời ông để bảo vệ đời sống của dân lành. Ông gieo rắc b́nh an cho dân chúng ở Saigon, Đà Nẵng, Nha Trang… và tất cả những nơi ông đặt chân đến.

    Cầu mong Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan được an nghỉ b́nh yên trong Ánh Hào Quang Rạng Ngời, với ḷng cảm mến, kính phục và biết ơn của tất cả những người Việt quốc gia.

    Tiến Sĩ TRẦN AN BÀI

    Nguyên Giảng Sư Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia

  3. #3
    Member
    Join Date
    15-10-2010
    Posts
    1,590

    Eddie Adams ở đâu?

    Trong chiến tranh VN thì có biết bao hình ảnh đã lọt vào ống kính báo chí, nhưng cũng có vô số những hình ảnh TỘI ÁC CỘNG SẢN không bao giờ được biết đến NẾU không có những CHỨNG NHÂN?

    Xin đươc post lại câu chuyện kể dưới đây để thấy SỰ THẬT không tìm thấy trong những tấm hình.

    Câu chuyện nhắc đến cái chết bi hùng và rất tàn bạo cuả cố Thiếu Tá Trần Đình Tự.

    NÓ VÀ TÔI
    NGUYỄN KHẮP NƠI

    nguồn: http://vietluanonline.com/280809/novatoi.html

    Viết cho Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân,
    Và tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.



    Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự(ảnh do cháu Trần Đ́nh Thế gởi cho Lê Thy)
    Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Thiếu Tá Tự là một trong những Sĩ Quan kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă không chịu nhục đầu hàng mà chọn con đường chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Tới khi hết đạn, lưỡi dao oan nghiệt của anh đă kết liễu cuộc đời chiến đấu v́ chính nghĩa Tự Do của Dân Tộc.

    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

    C̣n tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân của Tự từ thủa thiếu thời, hiện đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại Lợi.

    Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm 1954.

    “Tôi, Nó sinh ra nhằm chinh chiến,
    Mới quen nhau mà thương mến,
    Nó quê ngoài kia, từ lâu lắm chưa lần về”.

    Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đă đến bến bờ Tự Do, chỉ c̣n nhớ là từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đ́nh tôi đă được đưa về Trường Nữ Trung Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi học, nhưng các học sinh đều được tạm nghỉ để trường học biến thành những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia đ́nh tôi được phân phối một khoảng trống ở gầm một cái cầu thang nào đó của trường.



    Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần th́ Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cự ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phú Thọ, G̣ Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đă đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài G̣n nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đ́nh chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đ́nh chúng tôi được chia một góc của lớp học.

    Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối thực phẩm và gạo nước để tự nấu ăn lấy. Mỗi tuần cũng được phát thêm một ít tiền tiêu vặt. Trường học có hàng rào bao chung quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi trường Tiểu Học này, chưa hề biết ǵ về dân bản xứ miền Nam cả.

    Ở được vài tuần lễ th́ trung tâm tỵ nạn đóng cửa, mỗi gia đ́nh được cấp một số tiền nhỏ để tự t́m nơi ăn chốn ở lấy. Số c̣n dư th́ làm vốn sinh nhai. Những ai là công chức và giáo chức đều được tái tuyển dụng. Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp thuận cho mở một trường mới, dậy ngay tại khuôn viên của trường Tiểu Học hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là “Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ Tây II”. Trường chính th́ học hai buổi: Buổi sáng, từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiều. Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ trưa.

    Bố tôi là một trong những Giáo Viên được tuyển dụng dậy ở trường này, nên gia đ́nh chúng tôi đă mướn một căn nhà ở vùng “Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho Sở Thú ở sát bên (V́ Sở Bông sát cạnh sông Thị Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đă lập doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn Văn Nho).

    Tôi và Tự cùng được xếp vào học Lớp Nh́ (Bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc gọi là Grade 4). Cô Giáo đầu tiên của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học tṛ gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi khác nhau: Lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nh́ th́ bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài, gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối lớp.

    Giờ bắt đầu học và tan học được báo hiệu bằng một hồi trống dài. Lớp Nh́ Và Lớp Nhất được giao nhiệm vụ đánh trồng báo hiệu.

    Tôi và Tự quen nhau là nhờ nhiệm vụ đánh trống này. Mỗi lần đánh trống, phải có hai học sinh: Một đứa đánh trống, đứa kia làm phụ tá, vừa đứng trông chừng đừng cho ai lại gần, lỡ bị trúng dùi trống, vừa để thay thế nếu đứa đánh trống chính bị đau tay không đánh trống được, hoặc bị ốm không đi học được. Ngày thứ hai của buổi học, lớp Nh́ được giao nhiệm vụ đánh trống. Cô Đoan chọn tôi và Tự.

    Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó, được coi là rất quan trọng, học sinh nào . . . có thớ lắm mới được giao nhiệm vụ này, cả trường cùng nh́n vào cái trống và người đánh trống. Tự cầm dùi trống tiến tới, nh́n quanh, thấy ai cũng đang ngừng chơi nh́n vào ḿnh, th́ . . . hơi rét, thay v́ đánh ngay một hồi trống, th́ nó lại rụt rè, đưa dùi trống lại cho tôi mà nói:

    “Mày . . . đánh trống đi, tao . . . giữ cái trống cho nó khỏi quay!”

    Tôi c̣n nhát gan hơn nữa, vội vàng dấu hai tay ra đằng sau, từ chối kịch liệt:

    “Tao sức vóc thế này, đánh trống làm sao mà kêu to được! Mày . . . cứ đánh đi, tao . . . phụ cho”

    V́ không thể nh́ nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi học của cả trường được, nên hai đứa đồng ư cùng hợp lực với nhau mà đánh. Hồi trống của lớp Nh́ vang lên không giống ai, v́ được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó, chúng tôi quen nhau.

    Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen với đám con nít Nam Kỳ để học những tṛ chơi lạ mắt của họ. Tṛ chơi hấp dẫn nhất vào thời đó là chơi “Tạt Lon” mà cả hai đứa không thể nào phát âm theo đúng giọng của đám con nít người Nam được: “Tạc loong”.

    Tṛ chơi này tối thiểu cần có ba đứa, và càng đông con nít càng vui. Con trai con gái đều chơi chung với nhau được hết: Khởi đầu, đứa chủ chốt sẽ vẽ một ṿng tṛn ở giữa khoảng đất được chọn làm sân chơi. Những đứa khác sẽ chạy ra hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa ṿng tṛn khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéo. Luật chơi sẽ như sau: Đám con nít c̣n lại sẽ chia ra làm hai phe, đứng ở phía sau lằn mức đă vẽ, có nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau từ đầu này qua đầu kia. Đứa giữ lon sẽ đứng kế bên ṿng tṛn để giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy đổi chỗ cho nhau. Để khỏi bị đứa giữ lon bắt và giao lại vai tṛ giữ lon, cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái lon mà tạt cho nó văng ra khỏi ṿng tṛn. Đứa giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon, đặt trở lại trong ṿng tṛn th́ mới có thể bắt những đứa chạy ngang được. Bắt rất khó, v́ cả chục đứa tạt tràm vào lon, không đứa này th́ cũng có đứa khác tạt trúng cái lon văng ra xa. Vừa mới lượm được cái lon đặt vào vị trí cũ th́ lại có đứa khác tạt cái lon văng ra nữa. Đứa nào nhanh th́ vẫn có thể bắt đứa khác chạy ngang được. Đứa nào chân tay vụng về, bị bắt lượm lon đổ mồ hôi hột.

    Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi trưa mới thông thuộc cách thức chơi. Sáng hôm sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực sự là để đi ṿng ṿng kiếm cho ra mấy miếng ngói bể, gơ gơ mài mài cho nó trở thành một cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới trường. Tan học, hai đứa đi ṿng ṿng xem đám nào ít người chơi th́ nhào vô chơi ké:

    “Tụi bay . . . cho tao chơi chung với!”

    Cả bọn đang chơi chợi dừng tay lại, nh́n chúng tôi như hai con quái vật, nhưng chưa đứa nào có quyết định ǵ hết. Chợt có một đứa con gái trong bọn la lớn lên:

    “Đừng có chơi dzới mấy thằng Bắc Kỳ, bay!”

    Thế là cả bọn nhao nhao lên:

    “Đừng có chơi dzới Bắc Kỳ”!

    “Hổng cho tụi bay chơi đâu!”

    Đứa con gái mạnh miệng nhất, chọc quê tụi tôi:

    “Bắc Kỳ cong, bỏ dzô long, kiu chít chít,
    Bỏ dzô đích hớt kiu!”

    Một đứa khác, tử tế hơn, nói nhẹ nhàng:

    “Tụi bay biếc cái ǵ mà đ̣i chơi?”

    Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục, đứng nh́n tụi nó chơi một lúc rồi bỏ cục tràm vào cặp, đi chỗ khác.

    Hôm sau, tôi và Tự t́m ra chân lư: Trong tṛ chơi tạt lon này, đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơi. Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy ǵ mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn t́nh xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ chơi.

    Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon sữa ḅ ở những quán bán cà phê hủ tíu của mấy chú Hoa Kiều. Ŕnh cả buổi trời mới lượm được một cái lon sữa ḅ mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày mai. Hôm sau, tan buổi học, hai đứa ôm cặp đi ṿng ṿng t́m dịp may. Dịp may đây rồi: Một đám con nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra tới giữa đường bị xe vận tải cái dẹp lép. Cả bọn x́u như cái bong bóng bể, mặt đứa nào đứa nấy xẹp c̣n hơn cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon sữa ḅ đưa cao lên:

    “Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn đó!”

    Tôi không dám đặt điều kiện phải cho tụi tôi chơi mới cho mượn lon, v́ sợ tụi nó từ chối nữa th́ quê mặt.

    Tụi nhóc Nam Kỳ đưa một mắt nh́n nhau dọ ư, c̣n con mắt kia th́ nh́n vào cái lon sữa ḅ mới tinh đang sáng chói dưới ánh mặt trời một cách thèm muốn.

    Cuối cùng, một đứa trong bọn hỏi tụi tôi:

    “Mà tụi bay . . . biếc chơi hông?”

    Tự và tôi hăm hở gật đầu. Một đứa có vẻ đầu sỏ, nh́n những đứa khác như hỏi ư, rồi ngập ngừng nói:

    “Dzậy th́ . . . tụi bay bỏ cái long xuống . . . chơi chung!”

    Thế là Nam Bắc đă chung một nhịp cầu rồi đấy!

    Tự lại chơi đẹp, chịu . . . “Bị” để cho đứa đang làm nghề giữ lon được chạy ra tạt lon. Kể từ đó, bọn con nít Nam Kỳ mới cho chúng tôi nhập bọn chơi chung và không gọi chúng tôi là “Bắc Kỳ Dzốn” nữa. Tụi nó dậy tụi tôi bí quyết mài cục tràm sao cho đi nhanh và trúng đích. C̣n tụi tôi th́ lo đi kiếm lon sữa ḅ. Có lần ham t́m lon quá mà tôi dành lon với một đứa khác. Tên này thấy tôi mặt lạ và đi có một ḿnh, th́ lên mặt ăn hiếp:

    “Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ lên! Không trả, tao . . . úynh thấy . . . mẹ mầy đó!”

    Tôi nắm chặt cái lon, cung tay thủ thế:

    “Tao lượm được trước, mày tới sau mà đ̣i sao được!”

    Tụi nó ỷ đông, tính nhào tới làm thịt tôi. Tự đang kiếm lon trong tiệm ăn, nghe léo xéo bên ngoài, vội vàng chạy ra, thấy tụi nó đang vây tôi, hắn liền sô bắn một thằng ra đằng sau, rồi mặt hầm hầm, xuống tấn, nạt lớn:

    “Cái lon đó tụi tao lượm được trước. Đứa nào muốn dành, tao . . . chơi liền!”

    Đám con nít thấy tụi tôi bây giờ có tới hai đứa, đứa nào cũng gan ĺ, Tự lại bự con nữa, nên không dám làm tới, t́m cách rút dù, nhưng cũng cố chọc quê:

    “Cái đầu thằng này niểng niểng, coi ngộ quá ta!”

    Tự đỏ mặt, v́ cái cổ nó bị tật, làm cái đầu bị nghiêng qua một bên thật. Nó quát lớn:

    “Kệ tao!”

    Tụi con nít Nam Kỳ vừa rút lui, vừa chọc quê:

    “Niểng . . . Niểng”

    Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôi. Và cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng Niểng”

    Qua năm lớp Nhất, chúng tôi học với thầy Phạm Văn Cảng. Bố Mẹ tôi cũng đă thuê được một căn nhà khác rộng răi hơn, ở đường Nguyễn Văn Nhàn, c̣n gia đ́nh của Tự vẫn ở Sở Bông. Chúng tôi không mê tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội bộ qua rạp hát, nh́n thấy cái bảng quảng cáo to tướng, đề hai chữ Zoro là đă mê rồi, vào lớp kể cho Tự nghe. Tan học, hai đứa dắt nhau ra rạp hát, ngắm chàng hiệp sĩ Zoro mặc quần áo đen, đội mũ đen, khăn bịt mặt cũng mầu đen, một tay cầm cương ngựa, một tay múa kiếm thật là oai hùng. Nh́n h́nh đă mê rồi, nói chi tới xem phim! Hai đứa nh́n nhau: Làm sao có tiền mà xem phim? Hai đứa chưa từng bao giờ xem xi nê, và cũng chẳng bao giờ có tiền mà đi xem cả! Không riêng ǵ hai đứa chúng tôi không, cả đám con nít ở vùng Thị Nghè cũng bu đầy rạp hát, ngước cổ lên mà ngắm chàng Zoro.

    Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất đầu tiên: Người lớn, con nít đứng chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau tŕnh vé vào cửa. Bán vé th́ chỉ có môt người, xoát vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp với lớp người đông nghẹt rạp. Tự xúi tôi:

    “Mày nhỏ con, cúi thấp xuống, luồn qua người xoát vé mà chui vào. Xem được, về nhà . . . kể cho tao nghe.”

    Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, t́m dịp che cho tôi chui vào rạp. Bất ngờ, tôi gặp gia đ́nh một thằng bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửa. Tôi mừng quá, kề tai nó nói nhỏ:

    “Cường, cho tụi tao . . . vào chung nhe!”

    Cường mỉm cười thông cảm, nắm tay tôi giới thiệu với bố mẹ nó:

    “Bố ơi, thằng này là thằng An, con ông giáo, học cùng lớp với con đó”

    Thế là tụi tôi dính chùm lại với nhau, chen chúc vào cửa. Ông bố của Cường đưa một nắm vé ra, người xoát vé chưa kịp đếm vé và đầu người th́ tụi tôi đă chui tuốt vào trong rạp mất tiêu rồi!

    Tôi và Tự ngồi xem đă đời rồi mới đi về. Tới đầu ngơ, tôi dặn Tự:

    “Mày đi về cùng với tao, gập bố tao trước. Bố tao sẽ hỏi tao đi đâu mà lâu thế? Mày sẽ phải nói là tao đến nhà mày chơi, nhớ nghe chưa?”

    Tự khoái chí:

    “Mày cũng phải nói với bố tao là tao đến nhà mày chơi, nhớ chửa?”

    Từ đó, chúng tôi cứ theo cái mánh đó mà đi xem phim cọp. Được vài lần, ông xoát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng, mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha khác nhau để đi theo vào xem hát. Có lần, ông đă nắm cứng tôi lại mà hỏi người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành đứng ngoài nh́n h́nh thôi.



    Trường Trung-Học Hồ-Ngọc-Cẩn tọa lạc tại đầu đường Lê-Quang-Định, Gia-Định, là trường Nam Trung-Học Công Lập lớn nhất tỉnh .Trường Hồ Ngọc Cẩn được sáng lập từ tỉnh Bùi Chu, Bắc Phần. Cụ Hồ Ngọc Cẩn là vị Giám Mục thứ nh́ của Thiên Chúa Giáo Việt Nam. Cụ cũng là Giám mục tiên khởi của giáo phận Bùi Chu. Do biến cố lịch sử, trường di cư vào miền Nam sau hiệp định Geneve năm 1954.

    Trong thời gian đầu, trường tá túc tại Tiểu Chủng Viện Công Giáo tại đường Bùi Thị Xuân, cạnh nhà thờ Huyện Sĩ. Lúc bấy giờ trường chỉ gồm hai dẫy nhà lầu bằng gỗ, lợp ngói xi măng đơn giản. một phần ba thành phần học sinh là chủng sinh, chuẩn bị để trở thành linh mục.

    Đầu thập niên 60 trường đổi đến địa điểm hiện tại là một phần của trường Nam Tỉnh Lỵ Gia-Định. Sau năm 1975 trường trở thành trường tiểu học với tên mới là Nguyễn Đ́nh Chiểu.(Tài liệu của Hội Ái Hữu Cựu Học sinh Trương Hồ Ngọc Cẩn)

    Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ Thất trường công. Hồi đó, trường công ít lắm, vỏn vẹn có vài trường: Từ ngoài Bắc di chuyển vào, cho con trai th́ có trường Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái th́ có độc nhất một trường Trưng Vương mà thôi. Trường của phe người Nam đă có từ lâu là Vơ Trường Toản, Petrus Kư và Gia Long. Tự và đa số đám học sinh Bắc Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân Định, thi và trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia đ́nh tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt tận Chợ Lớn.



    Mặc dù học khác trường, chúng tôi vẫn gập nhau đều đều, ngày nghỉ vẫn đôi khi đi xem xi nê, ăn cà rem chung với nhau.

    Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9), cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung Học Đệ Nhất Cấp”. Tự gặp tôi, tâm sự:

    “Bố tao nghỉ làm rồi, cả nhà chỉ c̣n Mẹ tao buôn bán, không được bao nhiêu nhưng cả gia đ́nh trông vào đó. Tao phải nghĩ cách học cho mau để đi làm phụ mẹ.”



    Thế là nó vừa học Đệ Tam (Lớp 10) ở Hồ Ngọc Cẩn, rồi học thêm Đệ Nhị (Lớp 11) ở trường tư. Cuối năm, nó cứ đi thi Tú Tài Một thử thời vận:

    Ai dè nó thi đậu!

    Tự đến gặp tôi, rủ đi xi nê ở rạp Cao Đồng Hưng (Bà Chiểu). Nhưng khi gặp bố tôi, là thầy học cũ của Tự (thầy Cảng dậy chúng tôi được nửa năm th́ mất. Bố tôi dậy thế), nó ngập ngừng một lúc rồi chào tạm biệt bố tôi để đi lính. Thời đó, chiến truờng chưa khốc liệt cho lắm, việc đi lính cũng c̣n xa vời, nên bố tôi hơi ngạc nhiên v́ quyết định của Tự, nhưng cũng chúc nó an toàn và thành công trong cuộc đời binh nghiệp. Đi xe bus đến rạp hát, thay v́ vào xem xi nê, chúng tôi ngồi ngoài quán uống nước mía. Tự lại tâm sự:

    “Tao đă nói với mày rồi, nhà tao c̣n có một ḿnh mẹ tao buôn bán nuôi cả gia đ́nh, cực quá. Tao ráng đậu cái Tú Tài để xin đi làm. Tao đi làm được hơn một tháng rồi. Tao đă có thể góp chút ít phụ với mẹ tao, nhưng thực sự thấy không hợp với cuộc sống đó. Tao không thích hợp với nghề Thư Kư quèn, nên đă làm đơn xin đi học khóa 14 Thủ Đức rồi, vài ngày nữa sẽ nhập trường. Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc đời trai, đánh VC bảo vệ miền Nam, vừa có tiền giúp cha mẹ. Ḿnh đă bỏ miền Bắc mà đi rồi, không bảo vệ miền Nam, lấy đất đâu mà sống!”

    Nói xong, nó móc túi rút ra một bao thuốc lá Bastos xanh, lấy một điếu hút rồi đưa bao ra mời tôi hút. Tôi ngạc nhiên, không biết nó học hút thuốc lá từ lúc nào? Riêng tôi th́ chưa (Tự lớn hơn tôi 3 tuổi, nó 18, c̣n tôi mới có 15 tuổi thôi), nên tôi lắc đầu từ chối.

    “Ngày tôi gặp nó, nét đăm chiêu đêm nhập ngũ
    Thấy thương nhau nhiều quá!”

    Ra trường, Tự đến thăm tôi vào một chiều nhạt nắng. Nó mặc bộ quân phục mới tinh, mặt mày đen xạm, rắn chắc nhưng vui tươi thoải mái. Hai thằng lại dắt nhau đi lang thang suốt buổi tối. Chúng tôi không uống nước mía nữa, mà uống cà phê đen và hút thuốc Quân Tiếp Vụ. Khi về, Tự bắt tay tôi, nắm chặt một lúc, rồi nói:

    “Đời lính nay đây mai đó, chẳng biết trước được! Khi nào nghỉ phép, tao sẽ t́m cách về thăm mày, nhưng chắc cũng c̣n lâu lắm. Thôi, tao về. Cho tao gửi lời thăm thầy.”

    “Hôm chia tay, hai đứa cùng bùi ngùi,
    Ngày mai Nó, Tôi trên ngưỡng cửa cuộc đời,
    Dặn nhau gắng vui, dù cho vành môi xe khô mấy cũng mỉm cười”.

    Thật vậy, kể từ đó, tôi chưa gặp lại Tự lần nào.

    Cuộc chiến cũng lần lần leo thang, đời lính dễ ǵ có ngày nghỉ, mà nếu có, Tự cũng c̣n thiếu ǵ chuyện để làm. Phần tôi, tôi cũng phải lo tiếp tục học hành, hết Tú Tài 1 lại đến Tú Tài II. Hết Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh, lại đến Tướng Dương Văn Minh, rồi Tổng Thống Diệm bị giết . . . Cuộc đời học sinh của tôi cũng theo đó mà lung tung cả lên. Tôi quên mất cả Tự! Có nhớ th́ cũng không biết nó ở đâu mà t́m?

    Vào khoảng năm 1968 – 1969, VC tổng tấn công. Cả nước lâm chiến. Tôi đang học cũng phải xếp bút nghiên đi quân sự học đưởng một tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Học xong, được giao cho khẩu súng Carabin, làm nhiệm vụ “Sinh Viên bảo vệ thành phố”.

    Trong một chuyến đi thăm chiến sĩ tiền tuyến, đám sinh viên chúng tôi đi thăm một tiểu đoàn lính vừa đi hành quân về. Đó là Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân.



    Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng có một biệt danh rất dễ sợ là . . . “Thiếu Tá Tử Thần” và bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đón tiếp phái đoàn chúng tôi ở cổng trại và dắt chúng tôi đi thăm anh em binh sĩ đang gác ở cám trạm gác, ở tiền đồn. Khi trở về doanh trại, chúng tôi đang nghe thuyết tŕnh th́ bất ngờ có một giọng nói thật là quen thuộc vang lên. Tôi ngạc nhiên, quay ngay đầu lại: Trước mặt tôi, một sĩ quan BĐQ rất trẻ, mang lon Đại Úy, cái đầu hơi nghẹo qua một bên. Tôi mừng quá, hét lên:

    “Tự! Phải mày đó không, Tự?”

    Tự cũng mừng rỡ, đưa hai tay ra:

    “An! Mày là An đó hả?”

    Thế là hai đứa nắm tay nhau nói chuyện rối rít. Tôi nh́n Tự:

    “Mày . . . đi Biệt Động cơ à! Dám . . . dỡn mặt với Tử Thần đó hả?
    Oai quá nhỉ!
    Đă . . . Đại Úy rồi! Lên lon mau thật! Vợ con ǵ chưa?”

    Tự chỉ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, vừa cười vừa nói:

    “Tử thần đứng ngay trước mặt tao nè . . . Tao dỡn mặt với ổng hàng ngày!
    Thầy ra sao rồi? C̣n đi dậy học không?
    (Thầy tức là bố của tôi, thầy giáo của Tự)
    Mày học tới đâu rồi? Sao học hoài vậy? Đi lính đi, vào Biệt Động với tao!”

    Đang ba điều bẩy chuyện th́ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nắm vai Tự kéo ra một góc, nói vài câu ǵ đó, Tự đanh mặt lại, quay trở lại nói với tôi:

    “Có chuyện rồi, tao lại phải dẫn quân đi liền. Hẹn gặp mày kỳ tới,

    Cho tao gởi lời hỏi thăm thầy, nhe!”

    Ngày qua ngày, tôi bận rộn với việc dậy học kiếm tiền, với thi cử, bầu cử, ứng cử . . . ở trường Luật. C̣n Tự th́ chắc chắn là lại rày đây mai đó với những cuộc hành quân liên miên của người lính Biệt Động. Mỗi đứa mỗi phương trời.



    Tôi học xong Đại Học năm 1971, c̣n sót lại một ít tḥi gian hoăn dịch, cả đám sinh viên lo chạy tứ tán kiếm đường binh: Đứa th́ đi ứng cử vào Hội Đồng Xă, đứa th́ xin vào chương tŕnh “Người Cầy Có Ruộng”, Xây Dựng Nông Thôn . . . để mong được hoăn dịch. Đứa khác th́ nộp đơn thi vào Hải Quân, Không Quân. Tôi tŕnh diện nhập ngũ và được xếp vào khóa 1/72 Thủ Đức.

    Suốt khóa học, tôi học tàn tàn, với hy vọng là, sẽ được biệt phái về làm ở Nha Quân Pháp hoặc Ṭa Án Quân Sự. Nhưng hy vọng của tôi càng ngày càng tiêu tan dần với t́nh h́nh chiến trận càng ngày càng sôi động hơn lên. Kết quả là đến cuối khóa, không có ban nghành nào tuyển thêm người nữa, tất cả các Tân Sĩ Quan đều được dành cho tiền tuyến. Những Sinh Viên Sĩ Quan lựa chọn đơn vị của ḿnh theo thứ tự đậu cao thấp. Ai thích về gần nhà th́ chọn Địa Phương Quân, Sư Đoàn . . . Ai muốn sống hùng sống mạnh th́ chọn các binh chủng nổi tiếng như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách, Biệt Động Quân . . . Phần tôi, từ hồi nh́n thấy các anh hùng Mũ Nâu đánh đuổi bọn Việt cộng ở Hàng Xanh, tôi đă khoái binh chủng Biệt Động Quân rồi, nay được dịp, tôi hăng hái cầm bút viết ngay tên ḿnh vào bảng danh sách các Tân Sĩ Quan Biệt Động Quân, chợt nhớ ra là đă có lần Tự rủ tôi vào Binh Chủng Cọp Đen này.

    Măn khóa 50 Rừng Núi Śnh Lầy, tôi được đưa đi thực tập với Tiểu Đoàn 42 Cọp Ba Đầu Rằn đang hành quân ở Takeo, Campuchia, rồi Tiểu Đoàn 44 Cọp Đen hành quân ở Kiến Phong (1). Sau khi trui luyện kỹ càng, tôi mới được khăn gói lên vùng Pleiku gió núi mưa mùa để bổ xung vào Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Pḥng (2).

    Vừa đúng lúc Trung đội Thám Sát đang thiếu Sĩ Quan chỉ huy (Sĩ Quan cũ vừa tử trận), tôi đă đuợc Đại Úy Giác, Tiểu đoàn trưởng, chỉ định làm Trung Đội Trưởng Thám Sát.

    Từ đó, tôi trở đă trở thành một người lính “Cọp Đen” chính hiệu:



    Đời Biệt Động của tôi, cũng như những anh em trong binh chủng, là những chuỗi ngày hành quân liên miên trong vùng II chiến thuật gió núi mưa mùa, với những trận đánh thật đinh tai nhức óc của đại bác 105, đại bác 130, Sky Raider và A37 . . . cùng với những trận đánh xáp lá cà im lặng tới rợn người, chỉ nghe tiếng lưỡi lê và dao rừng vung lên mà thôi (3). Chỉ ở vùng II này, mới có những tiểu đoàn BĐQ phải trở về Dục Mỹ bổ xung quân số và tái huấn luyện. Bên VC, có những Trung Đoàn, Sư Đoàn bị tan nát, xóa sổ.

    Tôi sống sót tại Quân Y Viện Ngọc Minh, với tờ giấy phân loại II và giải ngũ vào cuối năm 1974.

    Trở về cuộc sống dân sự, tôi lang thang khắp Sài g̣n Chợ Lớn xin việc. Các văn pḥng Luật Sư, các ngân hàng đều đủ người hết rồi.

    Tôi nhớ lại đời sống quân ngũ, nhớ cái mũ nâu với mầu áo hoa rừng, muốn trở lại với Biệt Động Quân. Ngồi suy tư bên khói thuốc và ly cà phê đen, tôi nhớ lại các đồng đội, nhớ lại Trần Đ́nh Tự, người bạn thủa xưa đă cùng ngồi chung với nhau trong quán nước này. Không biết bây giờ, nó c̣n:

    “Đang xông pha đèo cao núi thẳm?”

    Hay . . .

    “Đă về bên kia khung trời biền biệt trên cao?”



    Cuối cùng, tôi đă được Luật Sư Đào Văn Sáu nhận cho tập sự tại văn pḥng của ông ở Biên Ḥa (Luật Sư Sáu hiện đang định cự tại Tiểu Bang Victoria với tôi. Tôi đă gặp và chào ông). Sau đó, tôi đổi về Saig̣n, tập sự với Luật Sư Nguyễn Duy Nguyên, ở đường Gia Long. Ngày ngày, tôi xách cặp đi bộ từ văn pḥng qua Ṭa Thượng Thẩm Saig̣n mà biện hộ cho thân chủ.

    Tháng Tư năm 1975, toàn bộ Miền Nam tan hàng mà không hô “Cố Gắng” (4). Thành phố Saig̣n tràn ngập dép râu nón cối và nón tai bèo:

    “Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
    Chiếc nón tai bèo che phủ kín tương lai!”

    Bọn Việt cộng cai trị dân Nam bằng những trận dịch đau mắt và ghẻ lở phát không và chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản” với kết quả là biết bao nhiêu người dân phải đi vùng “Kinh Tế Mới” và hàng đoàn xe Zin và Molotova bít bùng chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc. Đám sinh viên nằm vùng trốn ra bưng ngày xưa, như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đ́nh Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Nuôi . . . xuất đầu lộ diện với những chức vụ lạnh lùng: Giám đốc Sở Công An Thành Phố, Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước . . .

    Đám Sĩ Quan Miền Nam tan hàng thê thảm. Người có phương tiện th́ nhanh chân bay qua đảo Guam. Đám không chấp nhận đầu hàng, nhất định đánh VC tới hơi thở cuối cùng để rồi chết thê thảm nơi trận tiền không ai chôn cất. Đám khác lẳng lặng buông súng nhập vào cuộc sống b́nh thường, giả dạng dân cầy, ngư phủ . . . để t́m đường vượt biên t́m Tự Do.

    Số c̣n lại chấp nhận ra tŕnh diện bọn VC để đi “Học Tập Cải Tạo”, nhưng thực sự là bị đi tù, từ ba ngày, thành ba năm, mười năm, mười bẩy năm. Có người bị xử tử, có người chết v́ bệnh hoạn, phơi thây nơi rừng thiêng nước độc, không thân nhân không bạn bè, không manh chiếu đắp.

    Năm 1981, tôi may mắn vượt biên thành công, t́m Tự Do nới xứ Úc. Cũng như mọi người, tôi nhẩy vào factory cầy túi bụi, kiếm tiền gửi về cho gia đ́nh, cho vợ con t́m đường vượt biên tiếp.

    Đến khi đoàn tụ vợ chồng, tôi mới trở lại trường học mà ráng sức học hành. Tôi không theo nghề cũ mà chuyển sang học Kế Toán.

    Khi cuộc sống đă tạm ổn, tôi mới mon men ra sinh hoạt với anh em cựu quân nhân trong tiểu bang Victoria. Tôi nhận thấy mọi quân binh chủng đều có hội đoàn riêng, chỉ có Biệt Động Quân là vắng bóng. Không phải v́ anh em Mũ Nâu bị cọp liếm hết (5), mà v́ anh em đă quá mệt mỏi rồi, không muốn hội hè ǵ nữa cả.

    Tôi ra sức quy tụ anh em cùng chí hướng và cuối cùng đă thành lập được “Hội Biệt Động Quân QLVNCH, tiểu bang Victoria”.

    Lễ ra mắt đă được cử hành long trọng vào ngày 19 02 2001 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu Quân Nhân, Footscray. Mục đích là tụ hội anh em mũ Nâu cũ, hàn huyên chuyện xưa và giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày tại Úc. Từ hội Biệt Động Quân này, chúng tôi đă bắt liên lạc được với những Biệt Động Quân khác trên thế giới và gia nhập “Tổng Hội Biệt Động Quân” lúc đó do anh Trần Tiễn San làm Tổng Hội Trưởng.

    Tôi nhớ lại người bạn thủa xa xưa, nhắn tin t́m Trần Đ́nh Tự trên tập san Mũ Nâu của Tổng Hội.

    Từ bên Mỹ, anh Trần Tiễn San báo cho tôi biết:

    “Đă có tin của Trần Đ́nh Tự, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân.
    Nhưng Tự đă không c̣n nữa.
    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă tử trận.
    Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự đă hy sinh v́ Tổ Quốc, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến”.

    “Hai năm sau mới có thư về,
    Người quen cho biết tin,



    Tôi bàng hoàng đọc đi đọc lại tin tử trận của Tự trong bài viết “Sự trả thù đê hèn và dă man” của tác giả Thiên Lôi, trong tập san Mũ Nâu số 2 và xin trích ra đây một đoạn cho tất cả cùng đọc:

    “Lúc đó là 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn:

    “Hăy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”

    “Trung Tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ, 19 năm rong ruổi vào ra vùng đạn bom, năm lần bị thương, lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng chừng như ai đang đóng ngập cái đinh muời phân vào đầu, có lẽ cắt ruột cũng chỉ đau đến thế. Ông lịm đi.



    Người sĩ quan hành quân phải gọi khẽ:

    “Trung Tá!”

    Ông gượng dậy để lấy lại bản lănh. Sau cú “Sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đă điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu Đoàn Trưởng:

    Tiểu Đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan,

    Tiểu Đoàn 33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường,

    Tiểu Đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự.

    Cả ba đáp nhận. Trung Tá Toàn chậm răi, ông cố giữ cho tiếng nói của ḿnh,với âm hưởng đều đặn như mọi ngày:

    “Các anh ra lệnh cho con cái buông súng. Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi! Sẽ có đại diện của “Phe họ” đến để nhận bàn giao.
    Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn.
    Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ.
    Chúng ta đă bấy lâu cộng tác, sống chết với nhau.
    Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đă chấm dứt, tôi không c̣n trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn.
    Lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh b́nh tĩnh và chúc tất cả may mắn!”

    Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đ́nh Tự đă cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, anh quay qua Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó:

    “Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh ḿnh phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh:
    Anh nói cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho! Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa (6).

    Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội Thám Báo, nói vói họ đă có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, c̣n ai muốn ở lại chiến dầu với anh đến giờ chót th́ đứng riêng một bên.

    Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ.

    Trần Đ́nh Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai ḿ để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch.

    Kết cục, cuộc chiến đấu cuối cùng cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt trói tất cả những người c̣n sống (9 người) giải về sân trường Tiểu Học gần đó.

    Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo).

    Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên:

    “Đến lúc này mà mày c̣n bướng hả? Lũ uống máu! Bọn tay sai! Những thằng ác ôn! Mày có làm theo lệnh của ông không th́ bảo? Nhân danh Cách Mạng, ông ra lệnh cho mày cởi áo quần Ngụy và nằm xuống! Chúng mày đă đầu hàng, nghe rơ chưa?”

    Tự trả lời:

    “Ai đầu hàng, nhưng tao th́ không! Mày nghe đây: Chúng mày mới là lũ ác ôn. Chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày chính là những tên tội phạm của Dân Tộc Việt Nam. Hiểu không? Một lũ đê tiện!”

    Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đ́nh Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự ḷi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó c̣n ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự.

    Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn ḿnh giật từng cơn trong vũng máu.

    Đồng thời với hành động dă thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nh́n Tự rồi nói gọn:

    “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”

    Tám quân nhân c̣n lại bị dẫn ra phía sau trường đễ được bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đ́a gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi”.

    Sự đền nợ nước của Trần Đ́nh Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 38 BĐQ. Anh cũng đă hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979. Tôi gặp Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất v́ sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt.

    Xường xuất thân khóa 22A Vơ Bị QGVN.

    Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng ḅ vào nhà dân, được dấu diếm, băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saig̣n.

    Đức đă ráng sống, ráng t́m cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của Thiếu Tá Tự cho mọi người nghe.

    Tôi đọc đi đọc lại bài báo, nước mắt nhểu đầy trang giấy.

    Anh em sau bao năm không đuợc tin tức, lần đầu tiên đuợc tin nhau th́ lại là tin cuối!

    Ôi! Buồn làm sao!

    “Hai đứa đôi nơi, ngày đầu tiên biết tin nhau là tin cuối.
    Chát cay đầu môi chiều khu chiến mưa sụt sùi”

    Anh em sống với nhau từ nhỏ, tôi biết rơ Tự oai hùng. Tôi biết Tự dám chiến đấu tới cùng. Tôi đau thương, xót xa cho cái chết quá thảm khốc của Trần Đ́nh Tự – Một Thiếu Tá Biệt Động Quân – cầm quân đánh trận, bị bắt ngay tại mặt trận mà lại không được bảo vệ bởi Luật Quốc Tế về Tù Binh, mà lại bị xỉ vả, chửi bới thậm tệ và cuối cùng bị hành h́nh một cách dă man như vậy hay sao?

    Trần Đ́nh Tự, một Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, lại bị giết chết một cách bi thương, bị giết chết một cách dă man như vậy sao?
    Cả Thế Giới ngoảnh mặt làm ngơ!

    Những phóng viên truyền h́nh của Mỹ, của Úc, đâu hết cả rồi? Ông phóng viên nào chụp h́nh Tướng Nguyễn Ngọc Loan đâu rồi? Ông Eddie Adams và đài truyền h́nh AP đâu? Sao không ra quay phim, phỏng vấn, làm rùm beng lên đi!

    Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc đâu? Sao không viết tin này lên cho cả thế giới đọc?

    Hồi Tết Mậu Thân, một tên phiến loạn không mặc sắc phục (dù là sắc phục của bọn GPMN) cầm súng bắn lại các chiến sĩ VNCH. Khi bị bắt, đương nhiên y bị coi là phiến loạn phá rối trị an. Bắt buộc là phải xử bắn tại chỗ theo đúng Hiến Pháp của VNCH. Tướng Loan xử bắn nó là đúng. Tại sao bọn nhà báo ngoại quốc lại làm rùm beng lên? Đễ đến nỗi tới chết, ông vẫn bị hàm oan!

    Những tên nhà báo này chỉ giỏi bắt nạn VNCH mà thôi, c̣n th́ sợ bọn VC bằng chết. Cả lũ im thin thít, để một người lính VNCH bị hành h́nh mà không dám có một tấm h́nh, một đoạn phim, một lời nói bênh vực?
    Công bằng ở đâu? Lẽ phải ở đâu?

    Sau khi Tướng Minh đầu hàng, đám kư giả ngoại quốc c̣n lại ở Miền Nam nhiều lắm chứ! Chắc chắn họ biết chuyện này. Có đều cả đám im lặng mà phụ họa với bọn VC mà thôi. Có lẽ tại tôi thương cho bạn quá mà nói càn hay chăng?

    Thôi th́, cuối cùng, Trần Đ́nh Tự cũng đă chết rồi.

    Một cái chết oan nghiệt, nhưng đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc.

    Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tiền.

    Cái chết không có da ngựa bọc thây, nhưng gương sáng của Tự sẽ c̣n lưu lại cho đến ngàn sau:

    “Muôn lớp trai đi, ngh́n sau theo dấu chân ghi vào Thiên Lư,
    Biết bao người xong nợ xương máu không trở về.”

    Trần Đ́nh Tự, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, bạn thân của tôi từ thủa nhỏ, và biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đă chiến đấu cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Ḥa tới hơi thở cuối cùng.



    Ai đó vừa quăng cái lon sữa ḅ vào thùng rác.

    Tôi nhớ tới Tự, tới tṛ chơi tạt lon ngày xưa, muốn chạy ra lượm cái lon để dành chơi.

    Nhưng Tự đă chết rồi, đâu c̣n ai để chơi tṛ chơi này nữa!

    Mới đây, rạp xi nê Rivoli cũng đă chiếu lại phim Zoro. Tôi cũng tới rạp đứng xem h́nh quảng cáo, cứ tưởng tượng đâu đây, Tự đang đẩy vai tôi chui vào rạp hát coi cọp.

    Nhưng Tự đă chết rồi, đâu có đẩy vai tôi được nữa!

    Tự ơi,

    Mày chết ở đâu? Tao cũng không biết. Tới khi biết tin mày chết, tao cũng không thắp được cho mày một nén nhang.

    Tao cũng ráng t́m thân nhân, bạn bè của mày, để, nếu được, nhờ họ thắp một nén nhang cho mày, nhưng măi đến bây giờ cũng chẳng t́m được ai.

    Tao có hai thằng bạn Biệt Động nữa, là thẳng Châu và thằng Đạm. Người quen cũng cho biết tin về hai đứa đó. Thằng Đạm c̣n sống, đang mở nhà hàng ở ngay Orange County, bên Mỹ, nhưng thằng Châu th́ cũng đă chết rồi. Có điều tao may mắn đă liên lạc với vợ con của nó, để nhờ thắp cho nó một nén nhang.

    Mới đây, có anh Sơn, cũng là người ở cùng xóm với mày hồi xưa, cũng đang ở bên Mỹ, có cho tao biết một ít tin tức về mày:

    “Năm 2008, Sơn có trở về lại xóm cũ vào dịp TẾT , th́ gia đ́nh anh Tự đă không c̣n ai ở đó hết. Hàng xóm có kể cho sơn nghe, là anh Tự đă bị Việt cộng giết tại chỗ v́ anh không chịu đầu hàng , gần cận chiến 30-04 đúng như anh đă viết trong Việt Luận và take2tango. Ba má anh Tự đă mất hết chỉ c̣n người em trai tên Lộc và cô em gái út tên Tâm đă dọn về Thủ Đức.

    Đó là phần về anh Tự, c̣n chị Mỹ vợ và con anh Tự th́ Sơn không biết đă đi về đâu?”



    Đài tưởng niệm chiến tranh duy nhất trên thế giới có Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay suốt ngày đêm củng với 6 lá cờ của những quốc gia đă trực tiếp gởi quân tham chiến giúp Việt Nam Cộng Ḥa, và chiếc trực thăng đă từng tham chiến ở Việt Nam, bao quanh tượng đồng hai chiến sĩ Úc, Việt trong thế tác chiến.

    Anh em cựu quân nhân Úc tham chiến ở Viêt Nam cũng với anh em lính chiến nhà ḿnh, thuộc Tiểu bang Victoria, nơi tao ở, cũng đă gom công góp sức xây được một Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Úc để tưởng nhớ những “Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân” trong đó có mày.

    Vào ngày khánh thành bức tượng, 30 tháng Tư năm 2005, tao và các bạn đă thắp cho mày và những chiến sĩ vô danh khác một nén nhang. Ấm ḷng rồi nhé!

    Các bạn lính chiến của tôi ơi,

    Các bạn bè ở hậu phương của tôi ơi,

    Hăy đến tượng đài Chiến Sĩ Úc Việt ở Dandenong, Victoria Australia, hoặc đến bất cứ Tượng Đài Chiến Sĩ ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vào ngày 30 tháng Tư, thắp cho Trần Đ́nh Tự và những chiến sĩ vô danh khác của QLVNCH một nén nhang tưởng niệm, bạn nhé!

    “NGƯỜI ĐI VÀO TỐI VẪN LƯU DANH CHO ĐỜI MĂI,
    NÓ ANH HÙNG NGÀY MAI”.

    Người Việt của tôi, là thế đấy!

    NGUYỄN KHẮP NƠI.

    Người lính già xa Quê Hương.


    --------------------------------------------------------------------------------

    Ghi chú:

    (1) Thực tập tại chiến trường:

    Từ Khi Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai nhận chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, ông đă cho các Tân Sĩ Quan BĐQ đi thực tập bằng cách đi theo các Sĩ Quan thâm niên của những Tiểu Đoàn BĐQ đang hành quân. Mục đích là để họ học cách chỉ huy và làm quen với chiến trường. Tôi được đi thực tập hai tuần lễ, với TĐ 42 ở Takeo (Campuchia) và Tiểu Đoàn 44 ở Kiến Phong. Sau đó mới đi chọn đơn vị ở Pleiku.

    (2) Biệt Động Quân Biên Pḥng:

    Những tiểu đoàn BĐQ biên pḥng, trước đây có tên là “Biệt Kích Mỹ” do lực lượng đặc biệt Mỹ tuyển và huấn luyện tại chỗ, đóng ở các trại biên pḥng. Khi Mỹ rút quân, các trại biên pḥng này được chuyển qua QLVNCH và đổi tên thành Biệt Động Quân Biên Pḥng. Các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan được đưa đi huấn luyện đặc biệt ở Thủ Đức hoặc Đồng Đế để có thêm kiến thức quân sự. Sau này, Liên Đoàn 6 BĐQ mới được thành lập để bao gồm những tiểu đoàn biên pḥng.

    (3) Phân biệt bạn, thù trong đêm tối:

    Lính VNCH mang dây ba chạc giữ dây lưng TAB, chỉ có hai sợi dây nhỏ ở đằng trước ngực và hai sợi phía sau lưng. Mọi thứ cần thiết đều được máng vào dây TAB đeo quanh bụng: Bao đạn, lựu đạn, biđông nước, áo poncho . . . Lính VC đeo bao đạn thật lớn ở ngay trước ngực, giống như áo giáp. Trung đội Thám Sát của tôi đi đột kích ban đêm, không có trăng sao và hỏa châu, lính ta không mang ba lô, chỉ đeo dây ba chạc mà thôi. Khi đụng địch, lính hai bên đánh xáp lá cà, chỉ có thể phân biệt giữa ta và địch bằng cách lần mó phía trước: Hễ rờ thấy người trước mặt bỏ trống ngực, đó là phe ta. C̣n nếu có có bao đạn trước ngực th́ biết ngay đó là VC, đâm lút cán liền.

    (4) Tan Hàng, Cố Gắng:

    Lính VNCH, sau khi tập họp nhận lệnh, cấp chỉ huy hô “Tan Hàng”, tất cả đồng thanh hô “Cố Gắng” rồi mới tan hàng ra về.

    (5) Cọp Liếm:

    Theo truyền thuyết, Cọp ŕnh mồi, nếu không thể bắt được con mồi, sẽ đi chung quanh liếm bóng của con mồi, làm cho con mồi bị say, bị thôi miên, tự động đi kiếm cọp để bị bắt ăn thịt. BĐQ từ hồi thành lập, mặc dù có Bộ Chỉ Huy riêng, nhưng các Liên Đoàn và Tiểu Đoàn lại do các Quân Khu điều động, để được tăng phái cho mọi nơi. Do đó, lính BĐQ đánh trận mệt xỉu. Huy chương nhiều, lên chức mau, và . . . lên bàn thờ càng mau hơn nữa. Tỷ số thương vong của BĐQ cao hơn các binh chủng khác rất nhiều, v́ thế, những chàng Trai nào đăng lính Biệt Động, được người đời khóc trước, bằng cách gọi họ là những người . . . Bị . . . Cọp Liếm!

    (6) Thà chết, không đầu hàng:

    Hồi đánh trận ở Quảng Trị, Tự mang cấp bậc Đại Úy, Đại Đội Trưởng. Khi đơn vị rút qua sông Mỹ Chánh, Tự và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó t́nh nguyện ở lại chặn hậu. Khi VC ập tới, hai anh c̣n ba lô súng đạn đầy ḿnh, mặc dù đă nhẩy xuống sông, nhưng bơi chưa đủ xa, bị VC bắt làm tù binh. Tới năm 1973 trao trả tù binh hai bên, Tự được thả trở về. Anh đă quá kinh nghiệm sống với VC nên thà chết chứ không đầu hàng giặc.

  4. #4
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Video Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan (II) (Lien Thanh)


  5. #5
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Dân chửi qúa mên bỏ .

    "..Năm 1983, Adams trở lại Việt Nam và được biết tấm h́nh oan nghiệt của ông được trưng bày ở một chỗ rất trang trọng của Bảo Tàng Viện Chiến Tranh tại Saigon. Tuy nhiên, hiện nay không hiểu v́ lư do ǵ, bức h́nh đă được gỡ bỏ, và chỉ được bày bán trong gian hàng bán đồ kỷ niệm tại Bảo Tàng Viện này thôi..."

    Bọn VC rất khoái tấm hình Tướng Loan bắn Bảy lốp ,được chúng nó trưng bày trong Bảo Tàng Viện chiến Tranh tại Sàigòn coi như một bằng chứng tội ác của "Quân Đội Sàigòn" .

    Nhưng bây giờ tấm hình đã được giở bỏ .Tại sao thế ?

    Theo X-cafe ,Một bạn trẻ tại Sài gòn cho biết .Công An VC bây giờ ăn hiếp dân lành dữ quá ,thỉnh thoảng đánh chết dân .Bọn cường hào ác bá VC cướp đất dân nghèo ,không giải quyết khiếu kiện ,đàn áp dân oan thẳng tay.....

    Cho nên khi dân chúng vào xem tấm hình Tướng Loan bắn VC Bảy lốp .Họ bảo nhau : " Cứ làm như ông Tướng Sàigòn dzậy này mà đúng đó ,bắn chết mẹ hết tụi Cộng Sản đi.."

    Dân nói riết..VC nhột qúa ,cất tấm ảnh đi chổ khác .

  6. #6
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Osama Bin laden và Bảy Lốp

    Osama Bin Laden là một tên khủng bố .

    Biệt Hải của Mỹ gặp Bin Laden là bắn chết tại chổ ,không cần bắt sống để mang ra toà xét xử .

    Có khác gì Tướng Loan bắn chết tên Bảy lốp tại chổ mà không cần mang ra tòa xét xử không ?

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 3
    Last Post: 10-12-2012, 11:24 AM
  2. Replies: 10
    Last Post: 12-04-2012, 09:07 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 28-04-2011, 06:25 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 26-04-2011, 06:44 AM
  5. Replies: 3
    Last Post: 04-02-2011, 03:38 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •