Results 1 to 6 of 6

Thread: CHÀO MỪNG PHẬT ĐẢN SANH : PHẬT LỊCH 2555 :17.5.2011- LẤY ĐẠI CUỘC LÀM TRỌNG

  1. #1
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    CHÀO MỪNG PHẬT ĐẢN SANH : PHẬT LỊCH 2555 :17.5.2011- LẤY ĐẠI CUỘC LÀM TRỌNG

    CHÀO MỪNG PHẬT ĐẢN SANH PHẬT LỊCH :2555 ; 17.5.2011 LẤY ĐẠI CUỘC LÀM TRỌNG :

    ĐẠO PHẬT : ĐẠI HÙNG -ĐẠI LỰC -ĐẠI BI









    CÁC TIỂU HOÀ THƯỢNG ĐẠI HÀN DÂN QUỐC-HÀN QUỐC CHUẪN BỊ DIỄN HÀNH ĐÓN CHÀO NGÀY PHẬT ĐẢN TẠI THỦ ĐÔ HÁN THÀNH 8.5.2011








    THIẾU NỮ PHẬT TỬ ĐẠI HÀN DÂN QUỐC _ DIỄN HÀNH TRÊN ĐƯỜNG PHỐ THỦ ĐÔ HÁN THÀNH -CHỦ NHẬT 8.5.2011




    TÍN HỮU PHẬT TỬ NAM NỮ TRUNG HOA DÂN QUỐC TẠI THỦ ĐÔ ĐÀI BẮC- NGÀY CHỦ NHẬT 8.5.2011- TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM CỐ : THỐNG CHẾ -TỔNG THỐNG TƯỞNG GIỚI THẠCH 1925-1975 . VỊ TỔNG THỐNG 50 NĂM NHIỆM CHỨC KỶ LỤC THẾ GIỚI .


    I TÓM TẮT TIỂU SỬ : ĐỨC PHẬT TỔ THÍCH CA MÂU NI







    ** VÀI NHẬN ĐỊNH KHI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT

    1. Ngài là một vị Đại Bồ tát ra đời v́ bản nguyện độ sanh, v́ lẽ đó, lịch sử của Ngài có tính cách siêu việt hơn người thường.

    2. V́ ḷng từ bi lợi tha và tự chủ trong sự thọ sanh, nên mỗi cử động trong đời Ngài đều hướng về sự giáo hóa trên đường giải thoát.

    3. Nên nhận rơ ư nghĩa của lịch sử hơn là câu nệ từng chi tiết nhỏ.





    II Thái tử :Tất-đạt-đa Cồ-đàm




    Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên phiên âm từ tiếng Phạn Siddhārtha Gautama của vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni. Tất-đạt-đa (sa. siddhārtha) có nghĩa là “người đă hoàn tất (siddha) ư nghĩa [cuộc sống] (artha)”. Đôi lúc ta cũng t́m thấy cách dịch ư Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là sarvārthasiddha. Như vậy Tất-đạt-đa Cồ-đàm là tên của vị Phật lịch sử, từng sống trên trái đất, người sáng lập Phật giáo.

    BỐI CẢNH VÀ GIA THẾ

    Tất-đạt-đa sinh khoảng năm 566 (hay 563) trước Công nguyên trong một gia đ́nh hoàng tộc thuộc ḍng Thích-ca (sa. śākya) tại Ca-t́-la-vệ (zh. 迦毘羅衛, sa. Kapilavastu) thuộc Nepal ngày nay. Cha của Tất-đạt-đa là vua Tịnh Phạn (zh. 淨飯, sa. śuddhodana), mẹ là hoàng hậu Ma-da (sa., pi. māyādevī), đản sinh Tất-đạt-đa trong khu vực vườn Lâm-Tỳ-Ni (zh. 嵐毘尼, sa. lumbinī), một thị trấn thuộc Ấn Độ. Đây là khu vực nằm giữa dăy Hy-mă-lạp sơn (sa. himālaya) và sông Hằng (sa gaṅgā), chịu ảnh hưởng khí hậu gió mùa: tháng 5 có thể nóng tới 40 °C, trong mùa đông nhiệt độ xuống tới 3 °C.

    Về mặt chính trị vùng đồng bằng sông Hằng thời đó có 4 vương quốc chính là:
    1.Kiêu-tát-la (zh. 憍薩羅, sa. kośala, pi. kosala), thủ đô là Xá-vệ (舍衛, sa. śrāvastī, pi. sāvatthī) nằm về phía bắc sông Hằng.
    2.Tiểu quốc Vaṃsā nằm phía Tây nam Kiêu-tát-la.
    3.Tiểu quốc Avanti ở miền nam của Vaṃsā và Kiêu-tát-la, trải dài tới phía nam sông Hằng. Sau này, có Ma-ha-ca-chiên-diên là một người dân nước này là đại đệ tử của đức Phật (sa. mahākātyāyana, pi. mahākaccāna).
    4.Vương quốc Ma-kiệt-đà (sa., pi. magadha) nằm về phía tây của Avanti và nam của sông Hằng.

    Ngoài ra c̣n rất nhiều các bộ tộc nhỏ ở phía đông của Kiêu-tát-la và phía bắc của Ma-kiệt-đà. Xă hội trong thời kỳ này phân hóa về tư tưởng rất phức tạp và bao gồm nhiều đẳng cấp xă hội, đạo Bà-la-môn đang hưng thịnh, những giai cấp thấp bị khinh rẻ và không được luật pháp bảo vệ.

    Có nhiều truyền thuyết về thái tử Tất-đạt-đa. Có thuyết cho rằng một đêm bà mẹ nằm mơ thấy một vị Bồ Tát với dạng con voi trắng nhập vào người ḿnh. Thái tử sinh ra từ hông bên mặt của mẹ, sau đó đi bảy bước, một tay chỉ lên trời, tay kia chỉ xuống đất, nói:



    Aggo `ham asmi lokassa, Jeṭṭho `ham asmi lokassa, Seṭṭho `ham asmi lokassa, Ayam antimā jāti, Natthi dāni punabbhavo.
    Ta là người cao quư nhất thế gian Ta là người giỏi nhất thế gian Ta là người kiệt xuất nhất thế gian Đây là lần tái sinh cuối cùng Bây giờ không c̣n tái sinh!
    (Theo Trường bộ kinh (pi. pīghanikāya), Đại phẩm (pi. mahāvagga), kinh Đại thành tựu, (mahāpadānasutta), kinh văn Hán tạng dịch đoạn văn trên là “Thiên thượng địa hạ duy ngă độc tôn”, nghĩa là “Trên trời dưới đất chỉ có ta là người đáng tôn kính”) và dưới mỗi bước chân của thái tử phát sinh một đoá sen. Ngày nay, trong tranh tượng c̣n thấy tích này.





    BẢY ĐOÁ HOA SEN TƯỢNG TRƯNG CHO BẢY BƯỚC CHÂN CUẢ ĐỨC PHẬT TỔ !









    Ngay lúc sinh ra, Tất-đạt-đa đă có đầy đủ hảo tướng (Tam thập nhị hảo tướng). Các nhà tiên tri cho rằng Tất-đạt-đa sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một bậc giác ngộ. 7 ngày sau khi sinh th́ mẹ mất, Tất-đạt-đa được người d́ là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (zh. 摩呵波闍波提, sa. mahāprajāpatī) chăm sóc. Năm lên 16 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (zh. 耶輸陀羅, sa. yaśodharā).

    Vua cha Tịnh Phạn dĩ nhiên không muốn thái tử đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để Tất-đạt-đa tiếp xúc với cảnh khổ. Tuy thế, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử phát tâm rồi từ biệt hoàng cung, sống cảnh không nhà. Tương truyền rằng, bốn cảnh ngộ vừa kể là những cảnh tượng do các vị thiên nhân tạo ra nhằm nhắc nhở Tất-đạt-đa lên đường tu học Phật quả. Thái tử thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và h́nh ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của Tất-đạt-đa.


    Xuất gia và thành đạo

    Năm 29 tuổi, sau khi công chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai – được đặt tên là La-hầu-la (zh. 羅睺羅, sa. rāhula), thái tử Tất-đạt-đa quyết định ĺa cung điện, cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Tất-đạt-đa quyết tâm t́m cách diệt khổ và t́m mọi đạo sư với các giáo pháp khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) và Ưu-đà-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa học đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ (sa. ākiṃcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana) , nơi Ưu-đà-la La-ma tử th́ học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasaṃjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana).

    Nhưng Tất-đạt-đa cũng không t́m thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của ḿnh, nên quyết tâm tự ḿnh t́m đường giải thoát và có năm Tỳ-kheo (năm anh em Kiều Trần Như, sa. Koṇḍañña) đồng hành. Sau nhiều năm tu khổ hạnh gần kề cái chết, Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là phép tu dẫn đến giác ngộ, bắt đầu ăn uống b́nh thường, năm tỉ-khâu kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau[1]:
    Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: “Ta hăy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ.” Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. V́ Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; v́ Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; v́ Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; v́ Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy ṃn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; v́ Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; v́ Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta hăy rờ da bụng”, th́ chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hăy rờ xương sống”, th́ chính da bụng bị Ta nắm lấy. V́ Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện” th́ Ta ngă quỵ, úp mặt xuống đất, v́ Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, th́ này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, v́ Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: “Sa-môn Gotama có da đen.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám.” Một số người nói như sau: “Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm.” Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại v́ Ta ăn quá ít.”
    Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, Tất-đạt-đa từ bỏ phép tu này. Quả quyết rằng ḿnh đă đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, Tất-đạt-đa t́m phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi dưới gốc cây mận:
    Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc gịng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (pi. jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do ly dục sinh, có tầm, có tứ.” Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivessana, tiếp theo ư niệm ấy, ư thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ.” Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?” Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện.”




    ĐỀN THỜ CÔNG CHUÁ DA DU ĐÀ LA




    THÁI TỬ : LA HẦU LA





    Đức Phật tổ thuyết pháp cho 5 vị Tỳ-kheo đầu tiên


    HOÁ ĐỘ VÀ TỊCH DIỆT

    Hóa độ và tịch diệt





    Đề-bà-đạt-đa tấn công Đức Phật.




    Cái chết của Đề-bà-đạt-đa.
    Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách tŕnh bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của ḿnh, Đức Phật giảng Tứ diệu đế, Duyên khởi và quy luật Nhân quả (Nghiệp). Tại vườn Lộc uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay Varanasi), Đức Phật bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân". Năm vị Tỳ-kheo đó trở thành năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật và là hạt nhân đầu tiên của Tăng-già. Sau đó Phật thuyết pháp từ năm này qua năm khác. Đức Phật hay lưu trú tại Vương-xá (zh. 王舍城, sa. rājagṛha) và Phệ-xá-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, đi từ nơi này qua nơi khác. Đệ tử của Phật càng lúc càng đông, trong đó có vua Tần-bà-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) của xứ Ma-kiệt-đà. Vị vua này đă tặng cho Tăng đoàn một tu viện gần kinh đô Vương-xá. Các đệ tử quan trọng của Phật là A-nan-đà, Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Cũng trong thời gian này, đoàn Tỉ-khâu-ni (sa. bhikṣuṇī) được thành lập.

    Cuộc đời Đức Phật cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó, có Đề-bà-đạt-đa là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già, nên rắp tâm t́m cách giết hại Đức Phật nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa thành công trong việc chia rẽ Tăng-già ở Phệ-xá-li. Đức Phật đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sanh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan.





    Đức Phật nhập Niết-bàn trong rừng Sàla tại Câu Thi Na.
    Sống đến năm 80 tuổi, Đức Phật Thích-ca tịch diệt. Qua 45 năm giảng dạy, nghĩ rằng các đệ tử có thể chấp lời ḿnh nói là chân lư, chứ không phải chỉ là phương tiện giác ngộ, Đức Phật tuyên bố chưa từng nói lời nào. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hăy tinh tiến tu học (để đạt giải thoát)!". Theo kinh Đại bát-niết-bàn (pi. mahāparinibbāna-sutta), Đức Phật nhập diệt tại Câu-thi-na (zh. 拘尸那, sa. kuṣinagara) vào năm 486 (hay 483 trước Công nguyên). Trước đó sức khoẻ của Ngài đă trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà thí chủ Thuần-đà (zh. 純陀, pi. cunda), tuy nhiên sau đó Ngài có nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách người thợ rèn đó đă có thiện ư tối thượng.

    Đức Phật tạo điều kiện cho các chư Tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp Ngài nếu như có những vấn đề hay những điểm nào c̣n chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, tuy nhiên các vị đă im lặng, không có những câu hỏi hay thắc mắc nào.

    Trong cánh rừng Sàla ven phía nam thành phố, đêm rất tối và tĩnh mịch, Đức Phật nằm nghiêng bên phía hữu, hướng về phía Tây và dần nhập Niết-bàn, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống. Theo truyền thuyết Pali th́ Đức Phật diệt độ ngày rằm tháng tư, văn bản Phạn ngữ cho rằng ngày rằm tháng 11. Trong buổi hoả thiêu thân xác của Đức Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra. Xá-lợi của Phật được chia làm 8 phần và được thờ trong các tháp khác nhau.

    Mặc dù cuộc đời Đức Phật có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận Đức Phật là một nhân vật lịch sử và người đă khai sáng Phật giáo.
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 12-05-2011 at 07:15 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    ĐẠO PHẬT : ĐẠI HÙNG -ĐẠI LỰC -ĐẠI BI

    <!--copy and paste--><a href="http://my.opera.com/caoquyendambritouris t/albums/showpic.dml?album=90 2192&picture=1234415 1"><img src="http://files.myopera.com/caoquyendambritouris t/albums/902192/Phat%20Thich%20ca.jp g" alt="" /></a>

    ĐẠO PHẬT : ĐẠI HÙNG -ĐẠI LỰC -ĐẠI BI












    HOÀNG ĐẾ : A DỤC VƯƠNG VỊ BỒ TÁT CUẢ PHẬT GIÁO BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG !




    ASOKA (273 TCN – 232 TCN ) VỊ BỒ TÁT CUẢ PHẬT GIÁO .
    Chiến thắng muôn quân , không bằng Chiến thắng bản thân ! Chiến thắng bản thân mới là Chiến thắng quan trọng nhất "




    Năm 1992, Hoàng Đế A-dục Vương được xếp thứ 53 trong Danh sách những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử của Michael H. Hart. Năm 2001, phim Asoka - một bộ phim về cuộc đời của Hoàng Đế Anh Minh Vĩ Đại -Bồ tát A-dục được sản xuất.


    Hoàng Đế A-dục Vương Ấn Độ, trị v́ Đế quốc Khổng Tước (zh. 孔雀, sa. maurya, nghĩa là “con công”) từ năm 273 đến 232 trước CN. Là một trong những Hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất, vua A-dục toàn thắng trong một loạt các cuộc chinh phạt và đă cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore. Là một quân vương ủng hộ Phật giáo, ông đă lập nhiều bia đá ghi lại những thánh tích trong cuộc đời Phật Thích-ca Mâu-ni, và theo truyền thống Phật giáo, tên ông gắn liền với việc lưu truyền Phật giáo.

    Tên ông cũng được gọi theo cách phiên âm Phạn-Hán khác là A-du-ca (zh. 阿輸迦), A-du-già (阿輸伽), A-thứ-già (阿恕伽), A-thú-khả (阿戍笴), A-thúc (阿儵), hoặc dịch ư là Vô Ưu (無憂), hoặc như ông tự khắc trên những cột trụ nổi danh được lưu đến ngày nay là Thiên Ái Hỉ Kiến (zh. 天愛喜見, sa. devānaṃpriya priyadarśi), nghĩa là “người được chư thiên thương, người nh́n sự vật với tấm ḷng hoan hỉ”. Ông là vị quân vương đầu tiên của nước Ấn Độ cổ (sa. bhāratavarṣa) đă thống nhất được một lănh thổ vĩ đại, lớn hơn ngay cả Ấn Độ ngày nay.
    Trên Đỉnh cao quyền lực Hoàng đế đă xuống tóc Qui Y.

    * Trong một trận Đại Chiến cuối cùng đại thắng thống nhất được một Lănh thỗ Vĩ đại lớn hơn Ấn Độ ngày nay.

    Trến Chiến địa : Xác chết chất cao như núi, Máu chảy thành suối , thành sông !

    A dục Vương Đại Đế trên lưng Chiến Mả trong buổi hoàng hôn, trên Chiến Địa giọng trầm buồn :


    "Chiến thắng muôn quân , không bằng Chiến thắng bản thân ! Chiến thắng bản thân mới là Chiến thắng quan trọng nhất ! "

    A dục Vương Đại Đế , quyết định tiến quân về kinh đô, và sau đó từ bỏ tất cả quyền lực danh vọng xuống tóc qui y . Hoàng Đế đă trở thành một Vị Phật Bồ tát Vĩ Đại của Phật Giáo !





    "Chiến thắng muôn quân , không bằng Chiến thắng bản thân ! Chiến thắng bản thân mới là Chiến thắng quan trọng nhất ! "

    A dục Vương Đại Đế : Vị Phật Bồ tát Vĩ Đại của Phật Giáo


    II





    ĐẠI HIỆP TU SĨ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN XUỐNG NÚI RỜI THIỀN VIỆN :TRỪ GIAN DIỆT BẠO : DIỆT HÔN QUÂN BAO CHUÁ - LẬP MINH QUÂN CHO XỨ SỞ PHÙ TANG - NHẬT BẢN THẾ KỶ 13 .

    SAU ĐÓ TRỞ LẠI THIỀN VIỆN TU HỌC TRỞ THÀNH VỊ BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO



















    CÁC TU SĨ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN CHUẨN BỊ LÊN M̀NH NGỰA RA CHIẾN TRẬN

    Lănh đạo toàn dân Nhật Bản đứng dậy lật đổ bạo chúa hung tàn kiến lập Minh quân thế kỷ 13 ( là Tổ tiên của Nhật Hoàng _ Nhật Bản ngày hôm nay !)
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 12-05-2011 at 04:45 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Thông điệp Phật Đản của Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ.

    <hr style="color: rgb(209, 209, 225); background-color: rgb(209, 209, 225);" size="1">

    Pḥng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
    International Buddhist Information Bureau
    Bureau International d’Information Bouddhiste
    Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
    B.P. 60063 – 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) – Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
    Fax : Paris (331) 45 98 32 61 – E-mail : ubcv.ibib@free.fr
    Web : http://www.queme.net
    THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 8.5.2011
    Thông điệp Phật Đản của Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ
    PARIS, ngày 8.5.2011 (PTTPGQT) – Viện Tăng Thống trong nước vừa gửi đến Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế Thông điệp Phật Đản của Đại lăo Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Xử lư Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để phổ biến. Phật Đản năm nay rơi vào ngày 17.5.2011.
    Hai sự kiện LHQ đă là nội dung hiện đại cho Phật giáo trong ngày Đản sinh Đức Phật. V́ vậy Đại lăo Ḥa thượng viết rằng : “Ư nghĩa quan trọng thứ nhất mà chúng ta nhận thấy, là trong cuộc khủng hoảng tư tưởng và chính trị thế giới, biểu hiện qua các nạn độc tài và khủng bố ngày càng phổ biến, LHQ đă nhận ra chiếc phao cứu độ nhân sinh chính là giáo lư từ bi, khoan ḥa, an lạc của Phật giáo. Ư nghĩa thứ hai không kém phần quan trọng, đặc biệt cho người có tín ngưỡng ở Việt Nam, là năm nay LHQ kỷ niệm 30 năm bản “Tuyên ngôn về Xóa bỏ Mọi h́nh thức Bất bao dung và Kỳ thị v́ lư do Tôn giáo và Tín ngưỡng”. Hơn ai hết trên đất nước này, người Phật tử Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của sự mất tự do tôn giáo và nhân quyền qua 36 năm đằng đẵng”.
    Ḥa thượng nhận định sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam xuống đường đấu tranh thập niên 60 và tiếp diễn đến hôm nay, là v́ “sự áp đặt ư thức hệ ngoại lai vẫn hiện hữu trên quê hương chúng ta, làm cho cốt nhục ly tán, kinh tế quẫn bách, xă hội điêu linh”.
    Ḥa thượng cũng nhấn mạnh “Lư tưởng tôn giáo của đạo Phật là tiền đề cho lư tưởng công b́nh xă hội biểu hiện qua văn hóa, kinh tế, chính trị. Không hề có những yếu tố phi xă hội trong giáo lư đạo Phật, v́ thế người Phật tử luôn tôn trọng và đương đầu bảo vệ con người, chống lại những bất công hay bất b́nh đẳng xă hội, vốn là nguyên nhân chà đạp quyền sống của lương dân”. Nên Ḥa thượng kêu gọi :
    “Ngôi nhà Việt Nam sau một trăm năm bị ngoại xâm chiếm đóng, sáu mươi lăm năm huynh đệ tương tàn rồi độc tài toàn trị. Đă đến lúc người Phật tử không thể khoanh tay đứng ngó hay than thân trách phận, chờ đợi kiếp sau, mà phải đứng lên noi gương Ngài A Dục từ bỏ con đường bạo lực, mở lượng từ bi, khai thông trí tuệ, nối tiếp Con Đường Phật 2555 năm trước”. Sau đây là toàn văn bức Thông điệp Phật Đản :
    GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

    VIỆN TĂNG THÔNG

    Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP. Sài g̣n
    Phật lịch 2555 TĐPĐ/VTT
    THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN PL. 2555

    của Đại lăo Ḥa Thượng Thích Quảng Độ,

    Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống

    kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN

    Kính gửi :
    - Chư tôn Trưởng Lăo Hội Đồng Lưỡng Viện, chư Ḥa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng ni.
    - Cùng toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Kính bạch chư Tôn đức,
    Thưa toàn thể Đồng bào Phật tử,
    Thay mặt chư Tôn đức Trưởng lăo Hội Đồng Lưỡng Viện, tôi trân trọng kính gửi đến chư Tôn Hoà Thượng, chư Thượng Toạ, Đại Đức, Tăng Ni cùng đồng bào Phật tử trong và ngoài nước lời chúc mừng nồng nhiệt nhân ngày Phật đản sinh, và bày tỏ tâm nguyện phát huy sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, chuyển vận thời cơ, hoàn măn Phật sự.
    Phật Đản năm nay mang hai ư nghĩa lớn có tính thế giới và nhân loại. Hai ư nghĩa đến từ một diễn đàn lớn rộng của tất cả thành viên quốc gia trên địa cầu, đó là LHQ. Thông điệp Phật Đản của ông Tổng thư kư LHQ, Ban Ki-moon, gửi Đại lễ Phật Đản LHQ lần thứ tám lấy chủ đề “Phát triển xă hội – kinh tế”, tổ chức tại Thái Lan năm nay, viết rằng :
    “Quư vị đă chọn chủ đề hiện đại là Phát triển xă hội – kinh tế, đặt trọng tâm vào vấn nạn khổ đau của nhân loại mà đức Cồ Đàm Tất Đạt Đa phát hiện cách đây hơn 2500 năm khi Ngài rời bỏ cung điện, từ bỏ tư hữu thế gian để dấn thân vào thế sự. (…) Lời dạy của đức Phật chống tam độc, tham, sân, si, có thể làm sống dậy những cuộc hội luận đa phương về nạn đói đang tác hại gần một tỉ người trong thế giới sung măn của chúng ta, về nạn bạo lực hung ác đang giết hại hàng triệu người mỗi năm, và sự gây hại môi trường một cách vô nghĩa mà con người gây ra cho nơi cư trú của chúng ta, là hành tinh trái đất. Nhiều tổ chức Phật giáo đă đem giáo lư của đức Phật vào thực hành. Tôi vô cùng biết ơn các tổ chức Phật giáo hậu thuẫn những hoạt động của LHQ để hoàn măn các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, là kế hoạch của LHQ nhằm khắc phục các thách thức xă hội – kinh tế quan trọng mà thế giới phải đối diện”.
    Ư nghĩa quan trọng thứ nhất mà chúng ta nhận thấy, là trong cuộc khủng hoảng tư tưởng và chính trị thế giới, biểu hiện qua các nạn độc tài và khủng bố ngày càng phổ biến, LHQ đă nhận ra chiếc phao cứu độ nhân sinh chính là giáo lư từ bi, khoan ḥa, an lạc của Phật giáo.
    Ư nghĩa thứ hai không kém phần quan trọng, đặc biệt cho người có tín ngưỡng ở Việt Nam, là năm nay LHQ kỷ niệm 30 năm bản “Tuyên ngôn về Xóa bỏ Mọi h́nh thức Bất bao dung và Kỳ thị v́ lư do Tôn giáo và Tín ngưỡng”. Hơn ai hết trên đất nước này, người Phật tử Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của sự mất tự do tôn giáo và nhân quyền qua 36 năm đằng đẵng.
    Trong quá khứ hai ngh́n năm lịch sử Việt, đối diện với bi kịch khổ đau trầm thống, nạn xâm lược, và bất b́nh đẳng xă hội, người Phật tử đă chung dự giải quyết với sự ḥa đồng của các triều chính sáng suốt biết thương dân. Nhưng ngày nay, sự ḥa đồng đă mất v́ nạn tranh chấp ư thức hệ có tính quốc tế xâm lăng vào đầu năo con người Việt. Nên lần đầu trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam mới phải có cuộc đấu tranh xuống đường thập niên 60 để bảo vệ lư tưởng đạo đức Đông phương trước sức tấn công hung hăn của các ư thức hệ ngoại lai làm tha hóa xă hội và con người. Cuộc đấu tranh và vận động ấy tiếp diễn đến hôm nay, đầu thiên niên kỷ XXI, v́ sự áp đặt ư thức hệ ngoại lai vẫn hiện hữu trên quê hương chúng ta, làm cho cốt nhục ly tán, kinh tế quẫn bách, xă hội điêu linh. Lư tưởng tôn giáo của đạo Phật trong cuộc vận động này đ̣i hỏi cải thiện các chính sách chỉ hiện hữu trên giấy tờ, điều luật tùy tiện, chứ thực tế không mang lại sự ấm no, hạnh phúc, tự do cho toàn dân.
    Lư tưởng tôn giáo của đạo Phật là tiền đề cho lư tưởng công b́nh xă hội biểu hiện qua văn hóa, kinh tế, chính trị. Không hề có những yếu tố phi xă hội trong giáo lư đạo Phật, v́ thế người Phật tử luôn tôn trọng và đương đầu bảo vệ con người, chống lại những bất công hay bất b́nh đẳng xă hội, vốn là nguyên nhân chà đạp quyền sống của lương dân, ngăn cản hạnh nguyện tu học để tiến thủ, ngăn cản sự thực hành Từ, Bi, Trí, Lực, theo chí nguyện Bồ tát cứu đời, ngăn cản tiến tŕnh Giác ngộ là cứu cánh của đạo Phật.
    Từ nguyên tắc chỉ đạo cứu khổ ấy, Đạo Phật Việt Nam phát triển thêm nhiều nhân tố tích cực trong cuộc dấn thân bảo vệ nhân dân và đất nước. Lịch sử Phật giáo Việt, lồng trong lịch sử dân tộc, trên hai ngh́n năm qua, đă bao lần minh chứng rằng HỘ DÂN, HỘ QUỐC và HỘ PHÁP ḥa quyện trong nhau làm kim chỉ nam cho nếp sống và hành động của người Phật tử Việt Nam.
    Ngôi nhà Việt Nam sau một trăm năm bị ngoại xâm chiếm đóng, sáu mươi lăm năm huynh đệ tương tàn rồi độc tài toàn trị. Đă đến lúc người Phật tử không thể khoanh tay đứng ngó hay than thân trách phận, chờ đợi kiếp sau, mà phải đứng lên noi gương Ngài A Dục từ bỏ con đường bạo lực, mở lượng từ bi, khai thông trí tuệ, nối tiếp Con Đường Phật 2555 năm trước.
    Có như thế, chúng ta mới thành kính Nhớ Phật, trả ơn Phật trong ngày Phật đản năm nay.
    Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.
    Thanh Minh Thiền Viện Ngày Phật Đản 2555,
    Tây lịch 2011
    Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống
    kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN
    (ấn kư)
    Sa Môn Thích Quảng Độ

    <table id="ncode_imageresiz er_warning_1" class="ncode_imagere sizer_warning" width="750"><tbody>< tr><td class="td2">
    </td></tr></tbody></table>

  4. #4
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

    TNT-Mặc Giang

    Mùa trăng tṛn Tháng Tư năm Tân Măo, ngược ḍng thời gian hết 2011 năm dương lịch, đi xa hơn nữa 624 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ tức Ấn Độ bây giờ. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.

    Người từ cơi trời Đâu Suất, thị hiện giáng trần, ban ra Thông Điệp Vô Thượng “Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”, khai sáng Đạo Từ Bi cứu khổ chúng sinh, thông lộ thanh lương cho phàm nhân lên đường Tứ Thánh.

    Người đă ban Thông Điệp nhân bản ḥa b́nh cho nhân loại: “Không có hận thù khi nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp khi ḍng máu cùng đỏ. Không có tranh chấp giết hại lẫn nhau khi mọi loài đều cần có sự sống và tôn trọng sự sống”. Người đă vạch ra tiêu chí chỉ hướng vươn lên: “Cội nguồn của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê. Căn nguyên của oán cừu là ngă mạn, tranh đoạt, cửa quyền, hiếp đáp. Gốc rễ của bất an là thủ thế, gườm nhau, cưỡng chiếm, đáp trả, hơn thua”. Người đă hoằng dương Đạo lư Giác ngộ, Giải thoát: “Chúng sanh vốn trầm luân trong biển khổ, lặn hụp trong căn nhà lửa Tam thế, xoay quần trong lục đạo luân hồi, mê lầm với bóng tối thâm u, đắm say với mộng huyễn bào ảnh, chưa biết và không có ánh sáng để đi”.

    Người đi trước, dẫn đường và làm hướng đạo sư. Vàng bạc, châu báu, giàu có, nhung lụa ư ! Ai đầy đủ hơn, sung túc hơn được sống và thừa hưởng cung vàng điện ngọc ? Ai quyền uy hơn, cửu trụ hơn sẽ kế nghiệp Phụ Hoàng trị v́ thiên hạ, đứng trên thiên hạ với thần dân quốc thích ? Ai đẹp hơn trên trần gian, một Công chúa Gia Du sắc nước hương trời “Ch́m đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật ḿnh”, với hàng trăm hoa hậu tuyển chọn cho cung đ́nh, với hàng ngàn mỹ nữ phục vụ cúc cung, yến tiệc linh đ́nh, sơn hào hải vị, nhạc hội tháng năm.

    Sinh th́ Người đă biết rồi, duy nhất chỉ riêng Người mới bước đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa hoa sen, bước cuối cùng đứng lại, tay đưa lên trời, tay chỉ xuống đất, dơng dạc nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngă độc tôn”. Chứ tất cả những ai chào đời đều “Thoạt sinh ra th́ đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười kh́?”.

    Cuộc ngoạn du ra bốn cửa thành, nh́n thấy bốn cảnh Già, Bịnh, Chết, một đạo sĩ, chính là tuyệt lộ. Tuyệt lộ dẫn đến tử lộ - chấm dứt mọi đắm lụy của nhân gian, chặt đứt mọi hệ lụy của trần gian mà con người nói riêng, chúng sinh nói chung, lặn hụp trầm luân măi trong ba đường sáu nẻo từ vô thỉ đến nay, và di họa đến vô chung.

    Cửa Thành phía Đông, kia là ai, sao lại nhăn nheo, lưng c̣m, tóc bạc, run rẩy, mắt mờ, tai điếc, lú lẫn, lăng quên ? Đó là một con người nhưng là người già! Ai mà gọi là thọ mới sống được như thế, nếu bằng không th́ chết từ trong bụng mẹ, chết mới ra đời, chết lúc c̣n nhỏ thanh thiếu niên “Ngoài kia lắm mộ tuổi c̣n xanh”, chết thuở trung niên. Kiếp phù sinh dễ có mấy ai “thất thập cổ lai hy”? Sống sót lắm mới như thế kia, rồi từ lăo niên lăo giả, ḷm kḥm, lụ khụ, ngơ ngơ ngáo ngáo, khi quên khi nhớ, nói chẳng ra câu, mở miệng không lời, “Lợi c̣n không có nói chi răng, Sống trơ trơ biết chi ăn uống”, thế giới con người chập chờn cửa tử đọng lại mới ghi vào sách gọi là kỷ lục.

    Cửa Thành phía Tây, kia là ai, sao lại đau đớn, nhăn nhó, rên la thảm thiết, có khi quằn quại cực h́nh, có khi nằm yên thở dốc? Cái mặc th́ áo quần xốc xếch, mền chăn gối nệm bùi nhùi. Cái ăn không thèm ngó dù mỹ vị cao sang, mới hôm nào ngày ba bữa dư thừa vẫn kêu đói bụng. Uống ráng lắm từng hớp cầm chừng. Nhà cửa cũng lắc đầu. Vàng bạc cũng bảo thôi. Dục lạc ái ố không thèm ngó tới. Ruồi bu, muỗi đậu đuổi không xong. Nước miếng, mũi dăi nhểu nhảo lều bều… Xin lỗi, ngay cái đại cái tiện đổ bừa trên cái bô bên cạnh, nửa trong nửa ngoài nhơ nhớp tanh hôi. Đầu tóc bù xù rối bời chẳng cần chải chuốt, hai mắt lờ đờ không muốn khép mở, chân tay dở lên dở xuống không nổi, nói năng th́ thào chẳng nên tiếng nên lời. Đó là cái bịnh, mà phải bịnh chí tử, bịnh trầm kha, bịnh thứ thiệt mới được. Đừng vội chê cười đánh giá hay bỡn cợt đăi bôi, nên nhớ ở đời ai không bịnh, khi bịnh rồi mới biết!

    Cửa Thành phía Nam, kia là ai, sao lại cứng đờ, mắt nhắm nghiền, miệng ngậm câm, tay chân co quắp, không cục cựa, không nhúc nhích? Một nhúm người lại khóc lóc, kêu ca, đầu chít tang trắng, trên bàn có một di ảnh, một bát nhang, khói hương lan tỏa, một mâm cơm với một chén có vài miếng thức ăn gắp để sẵn, cắm đôi đũa lên đó. Rồi dâng trà lần 1, lần 2, lần 3, lại có tiếng ê a cầu nguyện, lễ tạ nhị bái, tam bái, người này chia buồn, người nọ phân ưu, nh́n nhau ngấn lệ? Đó là một con người đă chết! Đă có sinh th́ phải có tử, không ai ngoại lệ, không ai thoát khỏi. Hết sống nổi th́ phải chết, và nên nhớ rằng, lằn ranh sống chết không xa, không dài, không lâu, chỉ từng hơi thở! Tấm thân kia trả về cát bụi, con người kia chuyển hóa vô thường. Kiếp nhân sinh ngắn ngủi và trần gian chỉ là quán trọ phù du.

    Cửa Thành phía Bắc, c̣n kia là ai, sao ăn mặc khác người, tư thái thong dong, phong cách tự tại, thoát ra vẻ thanh bạch, thánh thiện, an nhiên? Hỏi ra, người ấy không nhà không cửa, không vợ không con, không tiền không bạc, áo quần một bộ, gia tài một túi vắt vai. Thật vỏn vẹn, đơn sơ, thanh bần. Cái ǵ người ấy cũng không có mà cái có của người ấy khó t́m trên thế gian. Được đáp, ông ta là Đạo sĩ. Đạo sĩ là ǵ? Ai biết đạo, hiểu đạo, sống với đạo, trả lời rất dễ. Ai không biết đạo, mơ hồ về đạo, nghi hoặc cho đạo, giải bày nhiều cách cũng khó thông. Th́ ra, Đạo là thế à!

    Người đă quyết chí xuất gia tầm đạo. Vào một đêm kia, Mồng 8 Tháng 2 Âm lịch, Người âm thầm từ tạ Phụ Hoàng, từ biệt thê nhi, ĺa bỏ hoàng cung, vượt hoàng thành, khi đến ḍng sông A Nô Ma, nói với hầu cận Sa Nặc, đưa đến đây đủ rồi, hăy lui về, mang mái tóc xuân xanh, nhung bào, kiếm báu về trao lại Phụ Thân, thưa dùm ta rằng: “Ta chỉ trở về khi tầm ra Đạo, ngược lại, bằng không, xem như ta không có mặt trên thế gian này”. “Ngài ra đi v́ chúng sanh, Ra đi nguyền đem cho đời bao vui sướng, Ra đi giải thoát luân hồi cho chúng sanh”.

    Sáu năm trường giữa núi rừng Hy Mă, trùng trùng tuyết phủ, tắm gội gió sương, thời thọ thực mỗi ngày là vài hạt mè và vài cọng lá rừng, tận dụng mọi thời gian cho khổ hạnh, tham thiền, nhập định. Quần áo duy nhất một mảnh y vàng. Ngày thời chim hót, đêm tiếng thú vang. Ôi, h́nh ảnh của đạo sĩ Tất Đạt - bộ da bọc xương cách trí, thân h́nh kiệt lực tiều tụy, duy chỉ đôi mắt thâm sâu sáng quắc, duy chỉ nghị lực siêu tuyệt vô song, biểu hiện đức tính phi thường của một bậc thiên thượng thiên hạ duy ngă Thế Tôn, trầm tư một cái ǵ cao tột siêu xuất chưa liễu ngộ bản lai diện mục ? Cơ chừng nó chập chờn đâu đó, đến rồi đi, đi rồi đến, như con đom đóm lập ḷe chưa đủ sức phá tan bóng tối, như thanh âm nhỏ bé chưa đủ sức làm tan vỡ hư vô, thượng thông thiên đường hạ triệt địa phủ, như tiếng sóng ŕ rào chưa đánh động trùng dương biển lộng!

    Do đó, Người từ bỏ lối tu khổ hạnh, giai đoạn ban đầu ắt có và cần đủ khổ luyện, đúc rèn chuẩn mực, làm kim chỉ nam định hướng hành tŕnh, vẽ bản đồ thiên la địa vơng đạt ngộ, nhưng muốn đi tới đích, phải có sức của thân, lực của tâm, thần của trí. Không thể có sức lực trên tấm thân tiều tụy! Không thể có sáng suốt khi tâm trí hệ lụy cơ thể suy vi! Chao ôi, nhờ miếng sữa biếu tặng của cô bé chăn cừu Tu Xà Đề, c̣n hơn thần linh y dược, làm cho Người hồi phục khỏe khoắn lạ thường. Cảm ơn nghe thành phần nghèo khổ bần cùng trong xă hội, nghèo vật chất nhưng không nghèo tinh thần, nghèo miếng cơm manh áo nhưng không nghèo tấm ḷng biết trân quư t́nh thương sự sống. Trong cuộc đời, nhiều lúc nghèo làm được mà giàu không làm được, nhiều khi giàu làm được mà nghèo không làm được, và biết đâu người giàu cần phải học cái chơn chất, trong sạch, thanh cao, thánh thiện của người nghèo!

    Sau khi thọ dụng bát sữa xong, t́m đến một chỗ kia, dưới cội cây Tất Bát La cổ thụ, lá tṛn đầy xanh mượt, cành vững chải vươn cao, dọc theo triền núi điệp trùng, bên cạnh ḍng sông Ni Liên th́ thầm muôn thuở. Người ngẫm nghĩ, có lẽ không đâu thích hợp hơn nơi này, không đâu an định hơn vị thế nơi đây. Bèn kết cỏ làm bồ đoàn, đặt sát gốc cây, sau lưng là núi rừng, trước mặt là ḍng sông. Người tự phát đại thệ nguyện: “Nếu không tầm ra Đạo, không chứng đắc, không liễu ngộ, th́ dù cho thịt có nát, xương có tan, ta cũng quyết không rời bỏ chỗ này”. Và Người buông tất cả, an tọa kiết già, sâu vào thiền định.

    Ngày một, Người vẫn ngồi yên. Ngày hai không nhúc nhích. Ngày ba không động đậy. Cho tới tuần 1, tuần 2, tuần 3, vẫn cứ thế, bất động, không lay. Bên ngoài, lục trần im bặt thanh âm, đối cảnh. Bên trong, lục căn trong vắt an tịnh pha lê. Núi rừng im tiếng gió. Ḍng sông lặng nước reo. Chim không nghe tiếng hót. Thú không nghe tiếng vang. Không gian như ngưng đọng. Thời gian như ngừng trôi. Đến một đêm cuối của tuần “thất thất”, canh một, canh hai, canh ba, bỗng lục thông tuần tự hiển bày, chân như hiển lộ, mặt mũi thật của con người, của nhân sinh, vũ trụ được khai ngộ tinh tường. Cái gọi là trùng trùng vốn không diệt không sinh. Cái gọi là bản lai vốn không c̣n không mất. Cái gọi là vạn hữu càn khôn vốn không đục không trong không tăng không giảm. Đó là Phật tánh chơn thường vi diệu hằng nhiên. Không phải chỉ riêng Người mà ai ai cũng có, nên Người dơng dạc Thông Điệp “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, “Ta là Phật đă thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Người đă chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vô thượng chánh đẳng bồ đề. Nơi người ngồi gọi là Bồ đề tọa, cây Bát La gọi là cây Bồ Đề, Đạo của Người hoằng dương gọi là Đạo Giác Ngộ.

    Tuyệt trần thay, tuyệt thế thay Đạo sĩ Tất Đạt Đa! Nếu là người thường, đời thường, với cương vị Đông cung Thái Tử, với vợ đẹp con ngoan, với cung vàng điện ngọc, với mọi sắc màu dục lạc tột đỉnh của trần gian, không phải Tất Đạt Đa th́ kim cổ nào ai làm được ? Nếu Người cũng như bao nhiêu vị Thái tử khác trên thế gian, tận hưởng mọi nhung lụa sang giàu, ngất ngưởng cương vị vua chúa lộng lẫy quyền uy, rồi hoàng hậu hoàng phi với muôn ngàn cung tần mỹ nữ, khi thời đại biến chuyển hưng phế thịnh suy, dù có ra sao cũng phải tử vong gọi là băng hà. Và Người cũng đă biệt tăm biệt tích như hàng bao nhiêu Thái tử khác, hay hàng vô số vua chúa khác, đă từ 2,600 năm trước.

    Nhưng Người th́ không. Người măi măi là đấng Như Lai, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người măi măi là Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Người măi măi là Đức Từ Bi hiện hữu vô cùng cho chúng sinh biết thương yêu, tôn trọng sự sống. Người măi măi là ngọn đuốc trí tuệ sáng ngời cho chúng sanh biết nẻo mà đi. Người măi măi là Hiện tại Trang nghiêm vương Phật, nối kết Qúa khứ thiên ức Phật, hoằng truyền Vị lai thiên ức Phật mà Đức Di Lặc Từ Tôn sẽ đăng ṭa Long Hoa Pháp Hội 16 triệu năm sau.

    H́nh ảnh nào đáng quư hơn, đáng tôn thờ hơn, đáng nêu gương hơn. Một bậc Giáo Chủ cơi Ta Bà, một bậc Thầy của thiên nhơn, một đấng Cha Lành chung bốn loại, mà cái mặc vẫn chỉ có 3 Y, cái ăn vẫn ngày ngày Khất thực, đầu trần chân đất như bao đệ tử khác, ngủ nghỉ trên cái đơn gỗ mộc như thất chúng đệ tử. Ôi dung dị vô biên! Ôi chơn chất vô thượng! H́nh ảnh đó sao không học mà lại “Trưởng giả học làm sang”, được một chút ǵ đă cố quên chối bỏ cái nghèo khó thuở cơ hàn, xa lánh tương lân ḍng họ!

    Người là bậc Thầy tuyệt thế bất nhị, ṛng ră 45 năm trường hoằng khai Tam Tạng kinh điển, ba rừng giáo lư thượng thừa, mà 26 thế kỷ qua, chưa ai đă từng đọc hết, chưa ai đă từng xem xong, cho đến thế kỷ “văn minh” hai mươi mốt, với hệ vi tính công nghiệp điện tử toàn cầu, vẫn ṃ mẫm chưa thông.

    Thế giới văn minh nhân loại hôm nay, nào Bác học tuyệt siêu, nào Khoa học tuyệt đỉnh, nào Y học tinh hoa, cơ sở Thiên văn, Viễn vọng, cơ quan khám phá không gian, nhân - vật - trí - lực cùng đầu tư, cùng đổ ra. Tuy nhiên, bịnh nan y vẫn bó tay chưa nói đến bịnh đột biến phát sinh dịch nhiễm, phi thuyền không gian tạm viếng Mặt Trăng, ḍ dẫm Hỏa tinh, chưa tới Kim tinh, nói chi qua khỏi Thái dương hệ. Rồi hiện tượng Đĩa bay, Người ngoài không gian vẫn bí ẩn, mê hoặc. Thế giới hữu h́nh, siêu h́nh như chuyện cổ tích, thần thoại, dù bao nhiêu nhà nghiên cứu, học giả t́m ṭi, viết lách, và nghệ thuật phim ảnh diễn dịch mơ hồ. Trong khi Người, 26 thế kỷ trước đă nói: “nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”, “hằng hà sa số thế giới”. Mỗi thời Kinh giảng của Người, không những chỉ Thập đại đệ tử, 1,250 vị đệ tử lớn, 7 lớp đệ tử xuất gia tại gia nghe, mà c̣n vô số Chư Thiên rải hoa cúng dường thính pháp, cho đến vô số Ma vương, Đại ma vương nhiếp phục phụng hành.

    Ngày Phật Đản 2635 năm nay, dương lịch 2011, âm lịch Tân Măo niên, Phật lịch 2555 năm, vốn đă từng năm, từng năm kéo dài hơn 25 thế kỷ, với Tổ Tổ truyền thừa, Tăng Già chấn tích trùng quang, khoảng ¼ dân số thế giới quy ngưỡng tri hành, khắp mọi quốc gia dân tộc vượt qua biên cương ranh giới.

    Bản thân chúng tôi đón nhận, chứ thật sự không mừng lắm dù Liên Hiệp Quốc công nhận Ngày Khánh Đản của Đức Thế Tôn trở thành Ngày Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc vào năm 1999. Cái nh́n của chúng tôi, quá chậm. Cái đánh giá của chúng tôi, quá yếu. Chậm, bởi Đạo Phật đă hiện hữu 2600 năm qua, sau vài Tôn giáo cổ đại, nhưng trước nhiều Tôn giáo sau này. Yếu, bởi công nhận Ngày Lễ Quốc Tế mà sao không Nghỉ Lễ có tính quốc tế. Và cảm thấy kỳ kỳ, những quốc gia Phật Giáo lâu đời, tín đồ Phật Giáo đa số, không Nghỉ Lễ của Phật Giáo mà lại Nghỉ Lễ tôn giáo khác với thời gian có mặt ít hơn, tín đồ thiểu số. Hy vọng một ngày không xa, Liên Hiệp Quốc phải thực hiện cho bằng được mỗi tôn giáo lớn trên trái đất này phải có Ngày Lễ Chính của họ và được Nghỉ Lễ trên toàn thế giới, không cá biệt bất cứ tôn giáo nào, bởi mỗi tôn giáo đều chỉ hướng cho đời, mỗi tôn giáo đều an tĩnh tâm linh. Đây, có thể là bàn đạp san bằng hệ lụy dị biệt, cách ngăn, tỵ hiềm để con người được gần nhau hơn, nhân loại tin yêu nhau hơn.

    Vô t́nh năm nay chúng tôi có nhận và đọc Thông Điệp Phật Đản của Ông Ban Ki Moon, Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc “…cốt lơi của nó là vấn nạn về khổ đau của nhân loại mà chính Đức Phật đă nh́n thấy và nhấn mạnh cách đây hơn 2,500 năm” ; “Lời khai thị của Ngài…khơi dậy những cuộc hội đàm đa phương” ; “Rất nhiều tổ chức Phật Giáo đang thực hành giáo pháp của Đức Phật. Tôi vô cùng cảm ơn sự ủng hộ của họ đối với những hoạt động của Liên Hiệp Quốc nhằm đạt được Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ” ; “…tôi hy vọng tất cả mọi người có thể dựa vào những lời dạy có giá trị phổ quát trong Đạo Phật để hành động trong t́nh đoàn kết với những người đang đau khổ, để góp phần tạo nên một thế giới nhiều t́nh thương yêu hơn, nhiều sự tỉnh giác hơn cho tất cả chúng ta”.

    Lại thêm Thông Điệp gởi đến Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của Bà Irina Bokova, Giám đốc UNESCO. Rằng “Nhân Đại lễ Vesak lần thứ 8, tôi muốn bày tỏ lời chúc chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới” ; “…thúc đẩy sự đối thoại giữa các nền văn hóa, tôn giáo, và giữa mọi người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xóa đi sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thức và thắt chặt mối quan hệ cộng tác với nhau” ; “Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đă được thành lập nhằm góp phần tạo dựng nền ḥa b́nh lâu dài, bền vững, thông qua sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hóa, giáo tiếp và thông tin”; “Tầm quan trọng của Hội thảo lần này (tại Đại Lễ Phật Đản) chính là ở đây”.

    Cái nh́n của chúng tôi, có một sự kỳ thú qua hai Thông Điệp này.

    Vâng, họ cũng là hai con người, nhưng khác người thường, nên Lời Chúc Tụng của họ mới gọi là Thông Điệp. Một - của người đàn ông, hay nam giới, nam tử - giữ trọng nhiệm Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc. Một - của người đàn bà, hay nữ giới, nữ lưu - nắm cương vị Giám đốc Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon người Châu Á , Bà Irina Bokova người Châu Âu - tượng trưng cho Đông Phương – Tây Phương, cho Da Màu – Da Trắng. Đông – Tây đă gặp nhau. Da Màu – Da Trắng đă gặp nhau.

    Vâng, Đức Phật Thích Ca Giáo chủ cơi Ta Bà đă nói: “Không có hận thù khi ḍng máu cùng đỏ. Không có ngăn cách khi nước mắt cùng mặn. Tâm b́nh thế giới b́nh. Hận thù không tiêu diệt được hận thù mà chỉ có Từ bi mới xóa sạch được hận thù”.

    Vâng, ư nghĩa siêu tuyệt của Đạo Phật, rằng: người có Đông Tây Nam Bắc nhưng Phật tánh không có Nam Bắc Đông Tây, màu da có trắng đen vàng đỏ nhưng Phật tâm đồng đẳng không màu. Nhân loại nhiều chủng tộc quốc gia trên năm châu bốn biển, nhưng lương tri ḥa điệu giai tầng, t́nh người ḥa chung sự sống.

    Vâng, nếu các quốc gia dù liệt cường hay chậm tiến mà không chạy đua theo bạo lực, vũ khí, hạt nhân, nguyên tử, quốc pḥng, mà dùng mọi nhân - tài - vật - lực cho con người, cho sự sống, th́ ḥa b́nh thế giới tự nhiên có mặt, mọi bất ổn khu vực, liên quốc, đa quốc hay chiến tranh lạnh chiến tranh nóng tự nhiên triệt tiêu. Hơn nữa, các ngân khoản phí tổn khổng lồ bạch hóa hay úp mở ấy, thiết nghĩ sẽ đủ và dư để san lấp hố thẳm giàu – nghèo, để hàn gắn vết tích tang thương xây dựng lại những thiên tai đă, đang và sẽ liên tục liên hoàn xảy ra mọi nơi mọi lúc.

    Cuộc đời, sự sống, hành xử, đối đăi, tin yêu, tôn trọng, Đức Phật đă ban Thông Điệp diễm tuyệt muôn đời.

    Xă hội, thế giới, nhân loại, nhân sinh, đạo đức, nhân bản, Đức Phật đă ban Thông Điệp tuyệt thế muôn năm.

    Không những Ngài chỉ ban Thông Điệp của T́nh Thương, Sự Sống, mà Ngài c̣n ban Thông Điệp hết khổ đau, sống an lành, giải quyết được Sinh, Già, Bịnh, Chết, dung thông Tứ Thánh Lục Phàm, mở rộng Sáu Đường Ba Cơi, và phổ nhiếp càn khôn vũ trụ vô lượng hằng hà sa số thế giới.

    Thật vinh hạnh cho những ai làm người con Đức Phật, ân đức cao dày mới được làm đệ tử của Đức Từ Bi, căn duyên gốc rễ nhiều đời mới tựu thành Trưởng tử Như Lai trên hành tŕnh giác ngộ, cứu nhân độ thế, chuyển hóa quần sanh, nhập lưu Thánh Chúng.

    Hỡi nhân loại và hỡi chúng sanh! Thân người dễ ǵ có được. Phật Pháp dễ ǵ sẽ gặp. Đạo Pháp dễ ǵ mới nghe. Phật Đạo dễ ǵ mới thành.

    Phật Đản quư vị đă biết rồi. Đạo Phật quư vị đă nghe rồi. Chần chừ ǵ nữa. Sang giàu và nghèo hèn ư! Quyền uy và bạo lực ư! Chiến tranh và thù hận ư! Chủng tộc và màu da ư! Địa bàn và giới tuyến ư! Gia tài và sự nghiệp ư! Tài sắc danh thực thùy ư!

    Nghĩa địa đă chật mồ. Hồn ma luôn vất vưởng. Khói lạnh đống tro tàn. Sống và Chết không có lằn ranh. Ngh́n thu và Thiên cổ đợi chờ. “Trăm năm c̣n có ǵ đâu, Chẳng qua một nắm cỏ khâu ranh ŕ”, hoặc “Một hũ cốt xương mờ dấu tích, Bóng h́nh ai nḥa nhạt phôi pha, Cuộc đời tựa giọt sương sa, Nắng tan đâu mất la đà về đâu, Mau mau tỉnh ngộ qui đầu, Phật Đà vô thượng nhiệm mầu đẹp thay”.

    Dâng lên cúng dường, ngưỡng phục hồi quy, quay đầu bỉ ngạn, chính là Thông Điệp của Sự Sống và Thông Điệp Phật Đản muôn đời.

    Hướng về Phật Đản là hướng về sự thanh cao minh triết thường hằng. Từng thời kỳ thời đại sẽ qua đi, từng chủ thuyết chủ nghĩa sẽ xếp theo trang lịch sử, nhưng Thông Điệp của T́nh Thương của Trí Tuệ của An Lành Giải Thoát miên viễn mọi không thời bất di bất dịch, sẽ góp phần rất lớn, sẽ là nền tảng vững chắc, và là chỉ hướng tuyệt siêu, không những cho Thiên Niên Kỷ 3,000 mà c̣n vĩnh trụ thiên thu.

    Viết cho Ngày Phật Đản 2635 - Phật lịch 2555,
    Âm lịch Rằm Tháng Tư năm Tân Măo,
    Dương lịch 17 tháng 5 năm 2011

    TNT Mặc Giang
    macgiang@y7mail.com ;
    thnhattan@yahoo.com. au


    __________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng (BÁN) non sông Hồng Lạc"
    (YTKCPQ)

    "Cộng sản c̣n thống trị trên quê hương - Ta c̣n phải đấu tranh"
    Blog - MGP - VNCH - Viet.no

  5. #5
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    ĐẠO PHẬT VIỆT NAM : ĐẠI HÙNG -ĐẠI LỰC- ĐẠI BI

    DÂN TỘC HƯNG- ĐẠO PHÁP THỊNH -DÂN TỘC VONG -ĐẠO PHÁP SUY





    Khi Chưa Xuất Gia : Sông là Sông , Núi là Núi- Đang Xuất gia : Sông chưa hẳn là Sông , Núi chưa hằn là Núi !

    Khi Tu thành Chánh quả : Sông vẫn là Sông ! Núi vẫn là Núi !

    I-KHÔ MỘC HOÀ THƯỢNG : ĐẠI TƯỚNG QUÂN TIÊN PHONG VỊ BỒ TÁT PHẬT GIÁO VIỆT NAM.

















    KHÔ MỘC HOÀ THƯỢNG : ĐẠI TƯỚNG QUÂN TIÊN PHONG TRONG TRẬN CHIẾN B̀NH TỐNG PHẠT CHIÊM NĂM 1075-1077 THẾ KỲ 11 DƯỚI QUYỀN NGUYÊN SOÁI LƯ THƯỜNG KIỆT LÀ : VỊ BỒ TÁT PHẬT GIÁO VIỆT NAM.

    VÓ NGỰA CUẢ KHÔ MỘC HOÀ THƯỢNG : ĐẠI TƯỚNG QUÂN TIÊN PHONG DẪM NÁT QUẢNG ĐÔNG , QUẢNG TÂY- HẠ THÀNH UNG CHÂU THỦ PHỦ QUẢNG ĐÔNG CUẢ LĂNH THỔ NƯỚC VIỆT CỔ ĐẠI- BỊ ĐẾ QUỐC TRUNG HOA XÂM LƯỢC THỜI HÁN VŨ ĐẾ !....





    ĐẠI ĐAO CUẢ CÁC TU SĨ PHẬT GIÁO VIỆT NAM ,TRÊN LƯNG CHIẾN MĂ RA CHIẾN TRẬN THỜI NHÀ HẬU LƯ 1009-1225 :

    PHẠT TỐNG B̀NH CHIÊM : BẢO VỆ BỜ CƠI VÀ NAM TIẾN CHO DÂN TỘC ĐẠI VIỆT !


    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

    Tạm dịch :
    Sông núi nước Nam, Đế Nam ở
    Rành rành định phận ở sách trời
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời


    VINH DANH KHÔ MỘC HOÀ THƯỢNG ĐẠI TƯỚNG QUÂN TIÊN PHONG ! LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CHE DẤU LÀ THIẾU LƯƠNG THIỆN ! SỰ THẬT PHẢI TRẢ LẠI SỰ THẬT ! TẠI SAO PHẢI CHE DẤU !

    V̀ HOÀ THƯỢNG ĐẠI TƯỚNG QUÂN TIÊN PHONG BỊ TRỌNG THƯƠNG TRONG TRẬN CHIẾN PHẠT TỐNG 1075 ! PHẢI ĂN THỊT CHÓ VÀ LÁ MƠ SUỐT ĐỜI ĐỂ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG !

    NHƯNG NGÀI VẪN TRỞ THÀNH VỊ BỒ TÁT CUẢ PHẬT GIÁO VIỆT NAM !

    ĐÂU PHẢI HOÀ THƯỢNG -ĐẠI TƯỚNG ĂN THỊT CẦY TƠ MÀ PHẢI CHE DẤU !

    1077 khi Giặc nhà Bắc Tống do Nguyên Soái Quách Quỳ, và Phó Nguyên Soái Triệu Tiết chỉ huy bị đánh tan tại bờ sông Như Nguyệt, Hoà thượng Đại tướng quân dẫn đại quân gồm Tướng lănh đa số là Tu sĩ Phật giáo VN truy kích quân giặc , đánh tan tành buộc chúng phải tháo chạy về Ải Nam Quan.

    Đến gần biên giới , Hoà thượng Đại tướng bị rơi vào ổ phục kích của quân giặc ! Hoà thượng Đại tướng quân tả xung hữu đột giữa vùng vây trùng điệp , đánh tan tành quân giặc Tàu phù nhưng bị trọng thương , máu ra quá nhiều !

    Người Ngự y Điều trị băng bó vết thương , phải cho ăn thịt chó và lá mơ để lấy lại lượng máu đă mất !

    Do mất máu quá nhiều , ngày đó Y học chưa tiến bộ ! Ngài phải ăn phải ăn Thịt chó và lá mơ suốt đời !

    Năm 1077 ,Chinh chiến đă tàn , Ngài trở về Chùa, tiếp tục Tu hành, vẫn phải phải dùng Thịt chó suốt đời !

    Nhưng Ngài vẫn trở thành không những là vị Anh hùng của Dân tộc Việt mà c̣n là Vị Phật Bồ tát của Phật giáo Việt Nam !

    II HOÀNG ĐẾ TRẦN NHÂN TÔNG -VỊ PHẬT BỒ TÁT CUẢ PHẬT GIÁO TRÚC LÂM YÊN TỬ

    LĂNH ĐẠO DÂN TỘC VIỆT ĐÁNH TAN QUÂN MÔNG CỔ




    THƯỢNG PHƯƠNG BẢO KIẾM




    Hoàng Đế tên thật là Trần Khâm (陳昑 (1258 – 1308), là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Hoàng Đế là người đă thành lập Thiền phái Phật Giáo Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Hoàng Đế được sử sách ca ngợi là một trong những vị Hoàng Đế anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.


    Hoàng Đế Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).



    Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái B́nh).

    Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đ́nh cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông c̣n coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Hoàng Đế Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một ḷng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan.

    Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 Hoàng Đế phải thân chinh đi đánh dẹp.

    Niên hiệu
    Thiệu Bảo (1278 - 1285)
    Trùng Hưng (1285 - 1293)

    Xuất Gia

    Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, Hoàng Đế xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh B́nh, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Hoàng Đế Phật Bồ tát là Tổ thứ nhất của ḍng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” ( Phật Bồ tát )


    Hoàng Đế -Phật Bồ tát Trần Nhân Tông nhập diệt (qua đời) ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Vơ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.



    TƯỢNG PHẬT BỒ TÁT -HOÀNG ĐẾ TRẦN NHÂN TÔNG TẠI TRÚC LÂM YÊN TỬ THIỀN VIỆN .

    CÁCH ĐÂY 2 NĂM CÔNG TY TRUNG QUỐC KƯ HỢP ĐỒNG VỚI VIỆT NAM KHAI THÁC THAN ĐÁ TẠI MIỀN BẮC , BAO GỒM CẢ TRÚC LÂM THIỀN VIỆN NƠI THỜ PHẬT BỒ TÁT -HOÀNG ĐẾ TRẦN NHÂN TÔNG.

    Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam bất lương im lặng ! Các Tu sĩ Phật Giáo tại Trúc lâm Thiền viện, phải gởi nhiều thư về Hà Nội để phản đối !

    Công ty Khai thác Than trả lời :

    Họ sẽ dừng lại cách Thiền viện 2 km !

    Các Tu sĩ Phật Giáo tại Trúc lâm Thiền viện đă phải gời thư khiếu nại lần thứ 2 : Nếu như vậy Trúc Lâm thiền viện sẽ bị khói than bao trùm lên tất cả ?
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 12-05-2011 at 01:21 PM.

  6. #6
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    ĐẠO PHÁP PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ THỨ 2 ĐẾN NĂM 1954 - THỜI MẠT PHÁP 1954- 2011

    []<hr style="color: rgb(209, 209, 225); background-color: rgb(209, 209, 225);" size="1">







    I -ĐẠO PHÁP PHẬT GIÁO VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ THỨ 2 ĐẾN NĂM 1954


    Tổ Quốc Việt Nam hơn 4000 năm văn hiến kể từ khi Các Vua Hùng Vương bắt đầu dựng nước và sự nghiệp dựng nước trải qua bao thế hệ. Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ hai

    1) Những thể hiện đồng hành của Phật giáo và Dân tộc VN
    :- Từ thời kỳ đất nước c̣n sơ khai , các Tu sĩ Phật giáo luôn có mặt đi đầu trong công cuộc dựng nước và giữ nước ( như các Tu sĩ Phật Giáo : Khánh Vân , Vạn Hạnh , Khuông Việt....) .
    - Giáo lư Đạo Phật gần gũi với truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN như : hiền ḥa , tương thân tương ái , siêng năng càn cù , quảng đại tha thứ , thông minh và ham học hỏi , dũng cảm ....

    - Các ngôi chùa Phật giáo cũng như đời sống các vị Tu sĩ Phật Giáo luôn gần gũi với cuộc sống của đồng bào , cùng chịu chung số phận của Dân tộc VN trong từng thời kỳ đau thương nô lệ , dựng nước và kiến quốc của đất nước . Ngôi chùa Việt Nam ngoài nhiệm vụ tâm linh c̣n là nơi nương náu b́nh an cho những người dân bị thiên tai địch hoạ .

    - Giáo lư Phật giáo đă dần dần thấm sâu vào đời sống của đồng bào qua các tập tục như : tục trồng cây nêu , tục Vu lan báo hiếu , tục cầu an cầu siêu.....Về ngôn ngữ , những câu nói trong cửa chùa đă trở thành câu nói cửa miệng dân gian như : hằng hà sa số , tội nghiệp , đầu thai , nghiệp chướng , Ta bà thế giới ....

    -Do hấp thụ Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa , Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Hoa mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".

    - Nền văn học Việt Nam c̣n lưu lại những tác phẩm Phật giáo bất hủ như : Quan âm Diệu Thiện , Quan âm Thị Kính , Mục Liên Thanh Đề ..... Trong kho tàng cổ tích Việt Nam , Bụt ( Phật) là nhân vật xuất hiện như một vị cứu tinh mang lại điều lành và cứu giúp cho những người gặp điều bất hạnh .

    - Tiếng chuông chùa là tiếng đồng hồ chính xác cho sinh hoạt của làng quê ,đồng thời nó c̣n là âm thanh gợi lên ḷng yêu thương nhung nhớ quê nhà đối với người lữ khách tha hương .v..v.
    .
    “Quê tôi có gió bốn mùa
    Có giăng giữa tháng có CHÙA quanh năm
    CHUÔNG hôm gió sớm giăng rằm
    Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi
    Mai đây tôi bỏ quê tôi
    Bỏ giăng, bỏ nước, chao ôi bỏ chùa.”

    ( Thơ Quê tôi – Nguyễn Bính)

    Mái chùa che chở hồn dân tộc
    Nếp sống muôn đời của tổ tông.
    (Thơ – Huyền Không)

    Tự rất lâu đời Dân tộc Việt Nam đă có những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ thể hiện rơ rệt sự ḥa nhập sâu sắc thấm nhuần đạo Phật và Dân tộc:


    - Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt
    - Hiền như Bụt
    - Dù xây chín đợt phù đồ
    Không bằng làm phúc cứu một người

    - Người trồng cây hạnh người chơi
    Ta trồng cây đức để đời về sau

    Phật giáo đă thấm nhuần vào cách suy tư và sinh hoạt của người Việt nên dấu ấn Phật giáo trong văn hóa Việt khá đậm nét. Nhiều người Việt theo lệ ăn chay vào những ngày mồng một hay ngày rằm.
    Lễ Vu Lan Bồn trong kinh điển Phật Giáo đă trở thành truyền thống “ Ngày rằm thàng bảy XÁ TỘI VONG NHÂN” và tập quán “Rằm tháng bảy ai quảy nấy ăn” hằng năm thấm đượm t́nh cảm sắc sắc ư nhị của Dân tộc Việt Nam.

    Cũng tự lâu đời, Tam Bảo được đồng bào sùng kính là một h́nh thức biểu lộ cụ thể là tập quán các làng có chùa thường cấp ruộng để phụng cúng gọi là ruộng Tam Bảo hay ruộng chùa. Hàng năm các làng thường cử hành các lễ tiết như kỳ an, kỳ phúc, kỳ siêu, các hội hè đ́nh đám gọi là Hội chùa, hội làng mang truyền thống và màu sắc Phật Giáo.

    - “Cha đánh mẹ trao cũng không bỏ chùa Keo ngày rằm”, hoặc
    - “Mồng 6 tháng 3 ăn cơm với cà đi hội Chùa Tây”
    C̣n rất nhiều điều để chứng minh sự hoà quyện của tinh thần Phật Giáo với nếp sống dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay mà trong phạm vi bài học không sao kể xiết.
    Tóm lại, Phật Giáo khi đến Việt Nam,đă dần dần đi sâu vào đời sống của người dân Việt

    2) Những nguyên nhân đưa đến sự đồng hành của Phật Giáo với Dân Tộc Việt Nam:

    - Phật Giáo đến Việt Nam bằng con đường Hoà B́nh và tự nguỵện . Đầu tiên, các tu sĩ Phật Giáo theo chân các đoàn thuyền buôn từ Ấn Độ cập bến Giao Chỉ để truyền bá đạo Phật trong tinh thần Hoà B́nh, tự nguỵện và đă đem lại lợi ích về tinh thần cho người Giao Chỉ lúc bấy giờ.

    -Giáo Lư đạo Phật như vô thường, vô ngă, vị tha, tri túc..v.v.. là liều thuốc hiệu nghiệm đối với người dân Giao Chỉ ( Danh xưng Việt Nam dưới thời Bắc thuộc ) đă chịu ách nô lệ của Trung Hoa ( Tàu ) hàng ngàn năm. Dân tộc Việt Nam luôn chịu sự thống khổ triền miên do chế độ hà khắc của Tàu. Nay,Dân tộc Việt Nam hấp thụ giáo lư Vô thường của Phật Giáo cho rằng: “Mọi việc trên đời đều không tồn tại vĩnh viễn” khiến Tiền nhân của chúng ta cảm thấy tin tưởng hơn ở tương lai sẽ không c̣n chế độ nô lệ hà khắc dưới thời Bắc thuộc của quân Tàu nữa. Ngoài ra, giáo lư Vô ngă,Vị Tha của Phật Giáo cũng đă làm cho Tiền nhân của chúng ta thương yêu đồng bào hơn và đoàn kết tương trợ nhau trong cơn hoạn nạn v́ mất nước.C̣n Giáo Lư Thiểu Dục Tri túc th́ có tác dụng làm cho Dân tộc VN không c̣n cảm thấy bất hạnh trong cuộc sống thường xuyên thiếu thốn .

    -Đạo Phật đến Việt Nam từ Ấn Độ nhưng đă nhanh chóng hội nhập vào nền Văn Hoá bản địa rồi dần dần đồng hoá với Văn Hoá người Việt. Đó là điều kiện làm cho Phật Giáo và Dân Tộc Việt Nam ngày càng gắn bó hoà hợp.
    Tóm lại, giáo lư Phật Giáo đă xuất hiện đúng lúc và đem lại cho người dân Việt Nam mất nước một sự đồng t́nh và niềm an ủi lớn lao, khiến cho họ nhanh chóng tiếp thu nền giáo lư ấy.

    3-Đạo Phật gắn liền với Lịch sử Đất nước và Dân tộc Việt Nam :

    a-Về tư tưởng, Văn hóa chính trị: Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.


    -Các Tu Sĩ Phật giáo đă sát cánh cùng đồng bào trong buổi đầu dựng nước qua các triều đại nhà Đinh, Lê, Lư, Trần. Từ đó,h́nh ảnh cũng như giáo lư Phật giáo đă trở nên thân thiện và được toàn dân tôn kính tiếp nhận.

    -Quốc Sư Ngô Chân Lưu được Vua Đinh Tiên Hoàng tín trọng tham vấn triều chính phong làm Tăng thống và cử giữ chức vụ tối cao là Khuông Việt Thái Sư, đến đời Vua Lê Đại Hành vẫn tiếp tục giúp vua trong việc quân cơ chính trị.

    -Quốc sư Pháp Thuận không những có tài thi ca mà c̣n giỏi học thuật, trước t́nh trạng đất nước lâm nguy sau cái chết của Vua Đinh Tiên Hoàng, đă giúp Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn (Vua Lê Đại Hành) nắm lấy quyền bính, , tập trung sức mạnh toàn dân kháng chiến chống xâm lược Tống bảo vệ đất nước thành công.

    Qua thời nhà Lư đạo Phật đă phát triển rực rở.

    Có thể khẳng định rằng đạo Phật đă góp phần không nhỏ hun đúc sức mạnh tinh thần dân tộc, đưa đến các chiền công hiển hách bảo vệ đất nước, mở mang bờ cơi vào các thời Lê, Lư, Trần mà hầu hết các vị vua hùng, các tướng tài thao lược từng được giáo huấn trong môi trường Phật giáo, thấm nhuần tinh thần : Đại Hùng -Đại Lực - Đại Bi của đạo Phật như các Vị Hoàng Đế :Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lư Thánh Tôn, Lư Nhân Tôn, Lư Nhân Tôn, Lư Thường Kiệt, Trần Thái Tôn, Trần Nhân Tôn, …là những tên tuổi sáng ngời tiêu biểu.

    Trả lời vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, Quốc sư Pháp Thuận đă cô đọng tư tưởng sâu sắc “DĨ ĐẠO TRỊ QUỐC, DĨ ĐỨC AN DÂN” qua bài kệ QUỐC TỘ ngắn gọn:

    “Vận nước như dây quấn
    Trời Nam ôm thái b́nh
    Đạo đức ngự cung điện
    Muôn xứ hết đao binh”


    -Dưới sự chỉ đạo tinh thần tư tưởng của đạo Phật, xă hội nhà Lư là một xă hội thuần từ nhất trong lịch sử.

    -Vua Lư Thái Tôn mặc dù vào năm được mùa to nhưng v́ việc chinh chiến cực nhọc nên vẫn xá cho dân một nửa năm thuế. Nhà vua lại đă từng cày ruộng ở BỐ HẢI cho dân noi theo và thiết lập kỷ cương xă hội bằng cách: “Các quan phải luôn tự hỏi ḿnh, sửa ḿnh là quan của triều Lư, dân phải luôn tự hỏi ḿnh, sửa ḿnh là dân của triều Lư”.

    -Là một Phật tử, một Thiền sư đắc pháp, vua Lư Thánh Tôn th́ nổi tiếng nhất là “Ông vua thương dân như con”.

    -Chịu ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật, vua Lư Nhân Tôn đă ban chiếu di mệnh đừng làm tổn hại dân rằng: “ Ta đă ít đức, không lấy ǵ làm cho trăm họ được yêu, đến khi chết đi, lại để cho thần dân ḿnh mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, tuyệt cúng tế làm cho lỗi thêm nặng…Việc tang th́ sau ba ngày bỏ áo trở nên thôi thương khóc, việc chôn cất phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên chôn ngay bên cạnh tiên đế ”

    -Cũng là một Thiền sư, vua Lư Cao Tôn đă viết chiếu chỉ hối lỗi cùng thần dân:...”Trẫm c̣n bé đă phải gánh vác việc lớn ở trong cửu trùng sâu thẳm không biết nỗi khổ nhọc của đời sống muôn dân lại nghe lời bọn tiểu nhân mà gây oán với người dưới. Dân đă oán thán th́ trẫm c̣n biết dựa vào ai? Nay trẫm hứa sẽ sửa đổi lỗi lầm cùng trăm họ bắt đầu canh tân. Ai có ruộng đất sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại”

    -Thiền sư Viên Thông ân cần chỉ rơ cho vua Lư Thần Tôn lẽ trị an với mấy điều cần yếu: “hành động hợp ḷng dân khiến dân yêu dân kính. Biết dùng người tốt giúp rập việc nước việc dân – Lấy tu thân làm trọng mà cẩn thận sửa ḿnh – Kính trọng kẻ dưới.”

    - Thiền sư Nguyễn Thường th́ mạnh dạn thẳng thắn khuyên can vua Lư Cao tôn chớ mê hát xướng ham chơi bời xa hoa quá độ:

    “....Nay dân loạn nước khốn, Hoàng thượng th́ rong chơi vô độ, triều đ́nh rối loạn, dân tâm ly tán. Đó là triệu chứng mất nước”

    -Chính đạo Phật thông qua các Thiền sư Thạc Đức, với tinh thần ḥa hợp khoan dung rộng răi mở đường và khuyến khích cho Nho học phát triển bằng cách mở trường Hán học đào tạo nhân tài, xây dựng nền học thuật nước nhà. Chính các lớp Nho sĩ đầu tiên là do các Thiền sư đào tạo nên.

    -Thiền sư Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lăn Ông là những đại y sư xây dựng nền y học dân tộc.
    Như vậy, Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lư, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê th́ Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng v́ mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến đầu thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá tŕnh Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Ḥa và Thiện Chiếu.

    b.Văn hóa: Có thể nói đóng góp to lớn và đặc sắc nhất của đạo Phật cho đất nước là về văn học nghệ thuật.

    Nếu Dân tộc Việt Nam tự hào có được một gia tài văn học quư báu, phong phú và đặc sắc, nhất là văn học cổ, th́ một phần rất lớn phát xuất từ cửa chùa do các thiền sư sáng tác mà đặc biệt là văn thơ các thời Lư-Trần vừa đa dạng về thể loại, nhiều về số lượng lại súc tích sâu sắc thâm thúy về nội dung. Nói khác văn học Lư Trần là một tinh hoa của nền văn học Việt Nam.

    Có nhà nghiên cứu văn học cho rằng thiền sư PHÁP THUẬN (915-990 ) vời bài thơ QUỐC TỘ và thiền sư Ngô Chân Lưu (Khuông Việt Thái Sư) với bài Từ VƯƠNG LANG QUY là hai nhà thơ mở đầu cho lịch sử văn học thành văn học Việt Nam.

    Rất nhiều bài thi kệ phú pháp kệ thị tịch, các thi thoại nhất là thơ thiền thời Lư, Trần vừa thâm trầm triết lư đạo Phật lại biểu thị bản sắc dân tộc lẫn giá trị cao về văn học măi đến nay vẫn c̣n truyền tụng như bài “CÀNH MAI”của Tu sĩ Phật Giáo MĂN GIÁC (1052-1096) là một điển h́nh.
    Chữ Nôm, quốc ngữ cổ của Việt Nam qua quá tŕnh h́nh thành, phát triển cũng lại nhờ công đóng góp to lớn của các thiền sư thời nhà Trần. Nhiều kinh sách tác phẩm bằng chữ Nôm đă được các nhà sư sáng tác góp phần làm giàu thêm cho nền văn hóa nước nhà.

    Những sự tích, huyền kư về các vị Bồ Tát, Thánh Tăng, giai thoại hóa đạo của các vị Tu Sĩ đă trở thành những truyền tích nhân gian phổ biến vừa có tính chất tâm linh vừa mang tính giáo dục đạo đức và là nguồn cảm hứng sáng tác đối với các nhà văn thơ.
    Những bài minh, bài văn khắc trên bia chùa, tháp, chuông, khánh…đều là những sáng tác văn học giá trị và cũng là những chứng tích lịch sử quư báu.

    Hầu như bất cứ thôn làng nào trên khắp Tổ quốc VN đều có NGÔI CHÙA LÀNG, bất kỳ ở nơi núi sông thắng cảnh hang động kỳ tích nào cũng có xây dựng những ngôi chùa mà nghệ thuật kiến trúc độc đáo thể hiện tinh thần dung dị, ḥa đồng của đạo Phật kết hợp hài ḥa với cảnh trí thiên nhiên đă khiến cho giang sơn vốn đă gấm vóc lại bội phần cẩm tú, huyền ảo thiêng liêng, un đúc thêm sức mạnh tinh thần dân tộc.

    Đạo Phật cũng đă góp phần thúc đẩy phát triển các ngành nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, chạm, đúc đồng, nghề in…Tháp Bảo Thiên, chuông Quy Điền, Đỉnh Phổ Minh, Tượng Quỳnh Lâm đă từng nổi tiếng là An Nam Tứ Đại Khí vào thời nhà Lư. Chùa Một Cột, tượng Thiên Thủ Thiên Nhăn, Tượng Thập Bát La Hán ở chùa Tây Phương hiện c̣n là những tác phẩm điêu khắc đặc sắc, là niềm tự hào chung của Dân tộc Việt Nam.

    II THỜI MẠT PHÁP 1954- 2011
    Thời Mạt Pháp của Phật giáo Việt Nam 1954- Đến ngày hôm nay 5.2011: 5 7 năm !....
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 12-05-2011 at 10:06 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2960
    Last Post: 07-11-2015, 12:53 PM
  2. Replies: 5
    Last Post: 30-12-2011, 10:44 AM
  3. Replies: 3
    Last Post: 26-04-2011, 06:44 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 05-04-2011, 02:23 AM
  5. Replies: 3
    Last Post: 31-08-2010, 12:38 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •