Một câu chuyện thật, cảm động, mời bạn cùng xem
Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5,000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm hôm 29 Tháng Tư năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn, hăi hùng, nguy hiểm. Hầu như trên mười năm sau đó, đă định cư ở Hoa Kỳ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này. Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi vẫn thấy rơ rừng người đặc nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời th́ đen thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xóa, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ Hải Quân. Những tiếng nổ ̣a vỡ bên tai, kéo theo những tiếng rít của những trái đạn rời ṇng từ hai khẩu đại bác của Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soài Rạp, ḅ ra cửa biển.

Sáng ngày 30 Tháng Tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Sài G̣n túa ra. Những chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong ḷng máy bay chật ứ những đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướng về chiến hạm, quỳ, cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết: “Anh em Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ c̣n 5 phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đ́nh tôi, mẹ tôi...” Không cầm ḷng được, Hạm Tướng Nguyễn Văn Tánh và “Ban Tham Mưu” chấp nhận những khó khăn, bất trắc, đồng ư là cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc những người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải tỏa cấp kỳ. Mọi người phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa...

Tới gần trưa ngày 30 Tháng Tư, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quưt. Có những tiếng khóc vỡ ̣a đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định: Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lănh hải Việt Nam. Phải đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội ḿnh ở đó. Lệnh từ Soái Hạm HQ3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo HQ502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau. Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang dây, lại vớt thêm người. Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu lóe lên từng đợt như thách thức, như mời gọi, như những vẫy tay giă từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đă trở nên kinh khiếp, chia ĺa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Sài G̣n, không c̣n là những giọng nói thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa, đe dọa của kẻ thù: “...quân, cán chính của ngụy quân Sài G̣n mau mau ra tŕnh diện”. Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ th́ thiu chua.

Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Ḥa lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang và rất đớn đau. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ bạc màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, già, trẻ, nam, nữ cất lên, vừa hùng tráng, vừa chất chứa những nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông. Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nh́n đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đầm đầm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà: “Ơi, con ơi, con ơi...” Trong tập bút kư viết về cuộc di tản này, tôi đă không quên ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Tại sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ 502 lúc đó. Tôi không trả lời được. V́ khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những ǵ mà thần trí tôi đă ghi dấu mà tự động viết ra. Viết ra như vẽ lại rất tự nhiên, không có một sự lựa chọn nào. Nhưng bây giờ th́ tôi hiểu. T́nh cờ tôi đă hiểu. Có những h́nh ảnh tuy mờ nḥa, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ của tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rơ. Tôi hiểu tại sao tôi ghi lại tiếng kêu này. Xin hăy cho tôi từ từ nhớ lại.

Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đ́nh trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nh́n trở lại để kiểm soát đoàn “rồng rắn” của gia đ́nh. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. T́m đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm đó, vị trí 1. Bên ngoài con tàu này c̣n ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ ḍng. Người từ phía sau tràn tới. Như đă hẹn, tôi sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khóa với tôi làm Hạm Trưởng - Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Tánh. Chúng tôi cũng đă hùn tiền mua thêm nhiều gạo, ḿ và những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa. Lúc này nước thủy triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe gh́ trên mặt đất, không một chút khó khăn. Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới. Những quân nhân, trai tráng th́ t́m mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đ́nh tôi tất cả mười ba người, con số t́nh cờ không vui, trong đó có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai tuổi bụ sữa, nặng trĩu. Trên lưng đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay xách cái va-li nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và h́nh ảnh. Rất nhiều h́nh ảnh. Cầu thang dốc và trơn, khiến tôi trượt chân. Cái va-li trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi dây cable, cái va-li rơi tơm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong ḷng. Tôi cúi người xuống để gh́ lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và ḅ lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai. Ai đă cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu tim tôi c̣n đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lại “quân số” gia đ́nh. Đủ cả. Tôi quay lại cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay ch́a ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đă nắm. Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần Văn Tâm (nhà văn Trần Quán Niệm), anh Nguyễn Hưng Quảng, anh Nguyễn Đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đă chuyển, bế bao nhiêu là trẻ con ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nh́n xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không c̣n thấy cái va-li của tôi đâu cả. Nước đă cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao su. Cái khe này hun hút đen thẫm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật là mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù những vết ṣ hến, rác rưởi bám đầy. Nếu ban năy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngă xuống đây... Mới thoáng nghĩ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi.

Rời cầu thang quay gót trở lại với gia đ́nh, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên: “Con tôi, con tôi rơi... rồi. Ơi con ơi là con ơi...” Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được người ta xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. H́nh như không ai quan tâm ǵ đến số phận của đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu t́m. Mà ai c̣n có th́ giờ đâu để ngó xuống cái khe đen thẫm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa mới xảy ra. Đêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.

Lên được trên tàu, t́m gặp bạn tôi, HQ Trung Tá Nguyễn Văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường pḥng của anh cho gia đ́nh tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo: "Tôi c̣n cái pḥng nhỏ trên Trung Tâm Hành Quân." Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả những quân nhân có mặt, t́m mọi cách để đem tàu ra khơi. Người th́ chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả ở hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết th́ “nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ c̣n có 9 người...” T́nh trạng chiến hạm th́ c̣n đang sửa chữa:“Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ. Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bơm cứu hỏa chưa ráp. B́nh cứu hỏa CO2 c̣n nằm trên Hải Quân Công Xưởng. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại”. Biết bao nhiêu là trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy th́ tay lái bất khiển dụng. Dây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết những nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiêu điều, bao nhiêu h́nh ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi. Nhưng h́nh như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt của người đàn bà khốn khổ đó đă thấm nhập sâu đậm vào trí năo tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, h́nh ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lư trí tôi h́nh như không thể can dự vào. Và sự việc đă được xảy ra rất t́nh cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.

Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xă tôi tại San Jose, chuyện tṛ đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại, khi t́nh cờ chị D. N. nói: “Thế ra gia đ́nh tao dùng di tản trên con tàu Thị Nại HQ 502 với tụi mày à. A, sao cả tuần lễ trên tàu mà ḿnh không gặp được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5,000 người. Khiếp thật!”

Anh Ng., chồng chị N. nói: “Khi ở trên tàu tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện lúc không. Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi đại gia đ́nh chúng tôi có 20 người. Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đă là 40...” Ḷng tôi như có điện giật. Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 Tháng Tư năm cũ lại hiện ra rơ ràng. Cái khe sâu dài dọc theo cầu tàu đen thẫm, lấp lánh những lượn sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thốt của người đàn bà: “Con tôi, con tôi rơi rồi... Ơi con ơi là con ơi”. Lạ nhỉ. Quả đất tṛn thật. Tôi phải t́m gặp cho được người đàn bà ấy.

Bà D. T. L., qua điện thoại kể lể: “...một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người nhà ḿnh cả chứ đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi, lao chao muốn ngă. Thế là tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ c̣n thấy tiếng cháu kêu: mẹ L... Tôi kêu lên, nhưng có ai giúp được ǵ đâu. Mà có ai thấy ǵ đâu mà giúp. Tay tôi bỗng trống không. Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng c̣n biết ǵ nữa sất. Bên tai tôi cứ như loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó, nói ông bỏ quá đi cho, tôi cứ ngơ ngẩn, chả c̣n thiết ǵ nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống ǵ. Khi đoàn tàu sửa soạn vào cảng ở Phi Luật Tân, mọi người lên sân chính để chào quốc kỳ lần cuối, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu cứu của cháu: Mẹ L. ơi... V́ thế, trong giờ phút ấy tôi bỗng ̣a khóc và kêu lên...” Vẫn lời kể của bà L.: “Lúc ấy cháu T. T. P. được 6 tuổi rưỡi. Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi nên cũng có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi cháu trái nắng, trở trời cháu cứ hay kêu: Mẹ L. ơi cứu P. Tôi không quên được tiếng kêu ấy của cháu, ông à. Tiếng kêu ấy cứ vang vang ở trong đầu tôi, h́nh như không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu ấy của con tôi, nên tôi nghĩ rằng con tôi c̣n sống. V́ thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ tŕ cho cháu. Sau này chúng tôi trở lại đạo, tôi hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào Đấng Thiêng Liêng và tôi vẫn tin rằng cháu c̣n sống ông à”.

Vẫn lời kể của bà L.: “Rồi cách đây ít năm, người Việt Nam từ hải ngoại về nước mỗi lúc mỗi đông. Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có người nhắc rằng: Nếu chị tin là cháu c̣n sống, th́ phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo t́m xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái, rồi người ta cũng t́m lại được đấy. Thế là tôi nhờ đăng tin t́m cháu ở báo Tuổi Trẻ, th́ có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi. Người th́ ở ngay trong thành phố Sài G̣n, người th́ ở dưới quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói: Vẫn theo lời kể của bà L.: “Bà này giàu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn. Bà đă có gần 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời loạn lạc, có mấy người không nuôi được con, đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc tThôi con không qua Mỹ đâu. Đă có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con th́ cho con ít cây (vàng), con mua mấy mẫu ruộng. Th́ nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có ǵ đích xác để quyết định cả. Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi tên là Mỹ. Anh này hiện học nghề Đông Y, chưa vợ con ǵ cả. Với tôi anh ấy đối xử lịch sự, b́nh thường, không vồn vă mà chẳng đề nghị xin xỏ ǵ. V́ theo bà mẹ nuôi của anh kể lại th́ câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc lắm”.

Trên mười đứa con, con đẻ cũng như con nuôi, như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư, bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui ḷng, c̣n cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có đứa làm ăn thất bại lại ḅ lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đ́nh vợ con nó như xưa. Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng xây khách sạn, đắp núi non, vườn cảnh. Trong đó có những nhánh sông, bà cho xây cầu qua lại thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Thật cái nhà của tôi bên Mỹ không bằng cái nhà xe của bà ấy. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Sài G̣n cho bà ấy. Thằng nhỏ này trôi trên sông Sài G̣n, có một người lái đ̣ vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ, rét mướt khóc quá xá, nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó t́m đến. Nhưng chả thấy bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi t́m đến bà dược sĩ bảo rằng: Bà làm phước nuôi giùm thêm đứa nhỏ này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt: Đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là Mỹ”.

Vẫn lời của bà L.: “Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đ́nh bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở, nhưng anh ta vẫn tin rằng sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi, gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đ́nh, sợ lôi thôi khi đoàn tụ. Và để có một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông y sĩ. Bà dược sĩ nói với tôi rằng, tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn ǵ, tôi không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo hạng, đến các thứ quế đắt tiền, thứ ǵ tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa làm người bào chế, rất mát tay tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa chắc ǵ đă có một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó biết, nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được toại ư khi cơ hội đến. Nếu nó thực sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng t́m mọi cách để nó về với bà”.

Vẫn lời của bà L.: “Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá. Chắc chắn nó là con tôi. Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể th́ tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia đ́nh. Ông bác sĩ nói rằng: Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thử DNA là ra ngay. Th́ cái vụ thử nghiệm này th́ chắc rồi. Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên Đấng Thiêng Liêng đă đưa đẩy cho tôi t́m thấy cháu. Bây giờ lại đem thử nghiệm th́ có khác ǵ không tin vào Đấng Linh Thiêng nữa, nên tôi không làm. Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi. Nếu nó là con bà, th́ nó không giống ông bà cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Bà nh́n nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không, chắc là phải giống ông nó nhà tôi.Khốn nỗi ông nhà tôi sang bên Mỹ được ít năm th́ mất. Ông mất cũng là tại tôi một phần. Ông cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm:Sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra. Làm ǵ cũng phải có ư có tứ chứ. Nắm thật chặt tay th́ nó đâu có rơi được.Đành rằng thế, nhưng nào tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hóa như thế, chứ có người mẹ nào lại nỡ buông con ra cho nó rơi xuống sông hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót xa, rồi ông ấy mất. Lúc mất h́nh như ông ấy c̣n gọi tên nó trong phút lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả trên đầu tôi. Thôi th́ trăm sự tôi trông vào Đấng Linh Thiêng, Đức Quan Thế Âm khi trước và bây giờ là Đức Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương, cầu khẩn”.

Vẫn lời bà L.: “Tôi thẫn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. C̣n thằng em nó hầu như tôi quên bẵng để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có h́nh ông ấy nhà tôi nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nh́n h́nh ông nhà tôi trên bàn thờ, tôi bảo: Ông có khôn thiêng th́ ông mách bảo cho tôi t́m ra thằng P. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ư. Sao mà hai ngón chân cái của nó lại x̣e ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế. Nó bảo th́ ngón chân con nó thế. Đi giày th́ hai ngón chân cái ép lại. Để chân không, nó lại x̣e ra. Tôi trở lại Việt Nam, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nở đón tôi, và vẫn một mực nói: Tôi sẽ trả con cho bà, với điều kiện bà phải chứng minh được nó đích thực là con bà. Th́ cũng là t́nh cờ thôi, hôm ấy thầy lang Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm. Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ cũng x̣e ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thầy lang Mỹ trố mắt nh́n tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt, đứng lên. Ba chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan ḥa. Thằng P. ôm tôi và nói:Con là P. của mẹ đây, mẹ L. ơi. Bà dược sĩ th́ bảo: “Sao trước đây bà không nói cho tôi biết tên nó trước đây là P.”

Vẫn lời bà L.: “Bà dược sĩ nói rằng: Hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ. Nhưng những khi đau ốm, mê sảng, nó kêu lên: Mẹ L. ơi cứu P. Nhưng quả đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ lại hỏi tôi, vừa cười vừa nói, trong người nó có vết tích ǵ đặc biệt không. Tôi đáp ngay: Mông đít nó có một vết chàm. Thế là hai chúng tôi lại ôm lấy nhau lần nữa. Và lần này th́ bà dược sĩ rành rọt nói: Đúng thằng Mỹ đây, khi bé có tên là P. Nó đích thực là con bà. Tôi giàn giụa nước mắt xà lại ôm lấy P. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai nó. Tôi nắm chặt cánh tay nó. Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên: Ơi, con ơi, con ơi...” Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, tôi chắp tay, đọc thầm một đoạn kinh tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, Phật. Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi quỳ xuống, tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi. Ông ơi, tôi t́m thấy con... rồi. Hai mẹ con tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nh́n chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào ḷng. Tôi nói: Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đă dẫn dắt nó là con bà. Con tôi cũng nói: Con xin đa tạ mẹ... Thật, chưa bao giờ tôi vui sướng như thế mà cũng khóc nhiều như thế. Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng”.

Cho đến khi chúng tôi viết những ḍng này th́ Bà L. đă hoàn tất mọi thủ tục để đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đ́nh. Khi mọi việc đă xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.

Gần 30 năm đă qua. Một thời gian đủ dài để một thế hệ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Những con em chúng ta khi ra đi c̣n bé dại, nay đă không thiếu những người thành tài, có mặt trong hầu hết những sinh hoạt cao cấp nơi quê hương mới, là niềm vui sướng và hănh diện cho cha mẹ, cho cộng đồng. Nhân câu chuyện trên, người viết đang thu thập những gương thành công của con em những gia đ́nh ra đi trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, để viết thêm vào phần cuối cuốn bút kư di tản này, như phần thưởng cho ḷng can trường, liều chết ra đi v́ Tự Do, v́ tương lai của con cái. Rất mong được đón nhận những kết quả đẹp đẽ của những ai cùng đi trên chuyến tàu trên. Mọi liên lạc xin gửi về cho người viết: PO Box 888, La Jolla, CA 92088. ĐT: (858) 484-9193. Email: tphan2@san.rr.comĐịa chỉ email này đă được bảo vệ từ spam bots, bạn cần kích hoạt Javascript để xem nó. . Bài viết có thể viết bằng tiếng Việt hay tiếng Anh. Nếu không có ǵ trở ngại, cuốn bút kư di tản của tác giả và những gương thành công của con cái chúng ta di tản trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502 sẽ được xuất bản để kỷ niệm 30 năm di tản.

Vài hàng về nhà văn Phan Lạc Tiếp

Ông Phan Lạc Tiếp nguyên là một Hạm Trưởng, một nhà văn. Đêm 29 rạng ngày 30 Tháng Tư năm 1975, ông đă tận lực hỗ trợ vị Hạm Trưởng chiến hạm HQ 502, rời bến đem theo trên 5,000 đồng bào thoát được ra khơi.

Cuối năm 1979, khi làn sóng người vượt biển lên cao, và thảm nạn của thuyền nhân trở nên khủng khiếp nhất, ông đă cùng Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương thành lập Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People SOS Committee). Liên tục trong 11 năm hoạt động, ủy ban này hợp tác với những tổ chức nhân đạo thế giới, đem tàu ra biển Đông, cứu vớt được 3,103 thuyền nhân, và xin định cư cho hàng ngàn đồng bào tại các quốc gia đệ tam. Mới đây Quốc Hội Tiểu Bang California, Hoa Kỳ đă gửi đến tặng nhà văn Phan Lạc Tiếp một bằng tưởng lệ, viết:

California State Assembly

Certificate Of Recognition
presented to

TIEP LAC PHAN

In honor of
Your Hard Work and
Accomplishments in becoming a
Proud Member of our community.
Your Dedication to your Community is
Greatly Appreciated