Page 20 of 25 FirstFirst ... 10161718192021222324 ... LastLast
Results 191 to 200 of 246

Thread: Kêu gọi "Toàn Dân Xuống Đường" - Giải tán Đảng CS Viêt Nam

  1. #191
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hai đầu tổ quốc hẹn nhau xuống đường


    Huỳnh Tâm

    “…Dân tộc Việt Nam sẽ tồn tại măi măi, c̣n chế độ chỉ sống theo thời gian, nó sẽ qua mau. Mọi quan hệ với chủ thuyết Mác Lê cần phải chấm dứt v́ nó là căn nguyên phát sinh chế độ độc tài đảng CSVN hiện nay…”





    Hà Nội và Sài G̣n hôm nay 9/12/2012. Cùng một trái tim Tổ quốc xuống đường, biểu hiệu yêu nước: Không ai phá vỡ ḷng yêu nước của người dân Việt Nam, xuống đường phản đối, và chống bành trướng Bắc Kinh chiếm biển Đông của Việt Nam, đó là lẽ b́nh thường người dân không muốn mất một mảnh nhỏ lănh hải nào của Tổ quốc, thể hiện ḷng yêu nước đă có từ thuở lập nước, đến hôm nay trầm hương của Tổ quốc vẫn cháy chưa hề nguội lạnh.

    Tuy hôm nay người dân trên tay không có vũ khí, nhưng dân tộc Việt Nam đă từng chứng minh bằng sức mạnh tinh thần yêu nước vô hạng, dù không vũ khi, cũng có khả năng chiến thắng được đối với chính quyền bán nước. Người dân VN đă muôn đời bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh yêu nước. Hôm nay cũng không ngoại lệ ḷng yêu nước ấy, dân Việt đă lấy một quyết định khôn ngoan, xuống đường bất bạo động, phản đối bành trướng đảng CS Trung Hoa.

    Quả nhiên ḷng yêu nước đứng lên trên sức mạnh hung hăng của nhà nước Việt Nam, và há sợ vũ khí CS Trung Hoa. Người yêu nước đă chọn hướng đi hợp lư, như quư anh, chị đang trong nhà tù CS đă từng lấy thân thực hiện sứ mạng, đổi lấy trọn vẹn lănh thổ và lănh hải Việt Nam, những bước chân đi trước đă đứng lên phản đối việc làm bán nước của chính quyền độc đảng CSVN.

    Hôm nay xuống đường biểu t́nh tại Hà Nội, và thành phố HCM, tuy có nhiều yếu tố khác nhau bởi sự dằng dặc chịu đựng đau đớn nỗi mất biển Đông, cho đến nay những chịu đựng đă quá nhiều.

    Ngày 9/12/2012, xuống đường theo trưng cầu ư dân, và đă lấy quyết định trên khắp mạng truyền thông, từ suy nghĩ yên nước đến đồng t́nh một điểm hẹn chung, xuống đường cũng phải đến tuy có muộn nhưng đúng lúc tinh thần yêu nước đầy ḷng tin giá trị.


    Thủ đô Hà Nội, xuống đường phản đối CS Trung Hoa
    chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 9/12/2012.

    Khi người dân xuống đường phản đối bành trướng phương Bắc là có nguyên nhân sinh tồn của Tổ quốc, dù chế độc tài cho mấy, cũng phải tránh ra một bên, không có tư cách nào cản trở bước đi của người dân yêu nước, kẻ nào cản trở ắt nhiên đồng lơa bán nước Việt Nam. Kẻ bán nước ấy đă kư kết bảo đảm với Bắc Kinh, như 5 năm trôi qua, mượn tay đảng CSVN ngăn cấm quyền yêu nước và phản đối đường lưỡi ḅ biển Đông. Người dân đă thừa biết sự phản trắc của cấp lănh đạo đảng CSVN, và quá trớn xem thường Dân tộc Việt Nam. Ngày tháng trôi qua không c̣n ḷng tin nào đối với chế độ CSVN, một chế độ vô cảm độc ác với dân, sợ hải trước bành trướng Bắc Kinh.

    Hôm nay xuống đường bởi biển Đông biến thành đường lưỡi ḅ của CS Trung Hoa, người dân yêu nước đ̣i hỏi hai đảng CS Việt Nam-Trung Hoa hăy trả lại cho Dân tộc Việt Nam biển Đông, bằng không ḷng dân phải hành động theo hướng trái tim của Tổ quốc VN. Người dân muống xuống đường để t́m một hướng đi mới cho Việt Nam hôm nay và mai sau. Xuống đường phản đối bành trướng Bắc Kinh do ḷng dân quyết định không thể để mất biển Đông, nếu Việt Nam không c̣n biển Đông, xem như hết giá trị đối với Quốc tế, và Việt Nam trở thành chư hầu CS Trung Hoa.

    Mục đích người dân yêu nước Việt Nam đ̣i lại lănh hải của ḿnh, không thể để CS Trung Hoa chiếm đoạt làm của riêng v́ biển Đông thực sự thuộc chủ quyền của Việt Nam.


    Thành phố Sài G̣n, xuống đường phản đối
    CS Trung Hoa chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 9/12/2012

    Tuy các cuộc xuống đường hôm nay tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đă bị lực lượng cảnh sát vũ trang nhanh chóng giải tán, nhưng cuộc xuống đường không dừng lại ở đây bởi c̣n rất nhiều hứa hẹn trong những tuần lễ kế tiếp. Dù thái độ hung hăng của chính quyền CSVN và bành trướng Trung Quốc cũng không cản trở được ư dân bảo vệ chủ quyền đất nước Việt Nam

    Ngày 9/12/2012. Người dân yêu nước xuống đường phản đối CS Trung Hoa chiếm Hoàng Sa và Trường Sa. Một tia sáng mới tại thành phố Hồ Chí Minh, dù xuống đường được 45 phút, và tại Hà Nội 30 phút, đủ đánh dấu thành công một tuần lễ thứ nhất cuối năm 2012.

    Sài G̣n và thủ đô Hà Nội cùng song hành xuống đường dương cao tinh thần v́ Tổ quốc Việt Nam. Và người yêu nước vẫn tiếp tục vận dụng tinh thần biển Đông, phổ biến trên mạng, và hẹn tuần lễ sau xuống đường cho đến khi nào không c̣n lưỡi ḅ của bành trướng Bắc Kinh.

    Người yêu nước cần hành động không lưng trừng bởi Hoàng Sa và Trường Sa là của Dân tộc Việt Nam, nếu không xuống đường, biển Đông sẽ biến mất trên bản đồ Việt Nam. Tổ quốc Việt Nam hy vọng thế hệ này giữ được lănh hải của Ông-Cha để lại một gian sơn gấm vóc đă có từ muôn đời.

    Người dân yêu nước cùng nhau chia sẻ ​​kinh nghiệm xuống đường, dung ḥa ư kiến cùng một ư chí, tham gia tích cực v́ sinh tồn Tổ quốc Việt Nam. Trải qua cuộc xuống đường hôm nay với sự chống phá của chính quyền CSVN, cho thấy không c̣n lư do ǵ để tin tưởng chế độ này nữa.


    Anh Chu Minh Tuấn từ Đà Lạt đến Hà Nội tham gia cùng bà con,
    xuống đường phản đối CS Trung Hoa chiếm Hoàng Sa
    và Trường Sa. Ngày 9/12/2012.

    Dân tộc Việt Nam sẽ tồn tại măi măi, c̣n chế độ chỉ sống theo thời gian, nó sẽ qua mau. Mọi quan hệ với chủ thuyết Mác Lê cần phải chấm dứt v́ nó là căn nguyên phát sinh chế độ độc tài đảng CSVN hiện nay.

    Đă đến lúc người dân yêu nước xích lại gần nhau, chống đỡ v́ đất nước đang lúc lâm nguy, bản năng tự vệ của Dân tộc ở trong ḷng yêu nước vô hạn, sẽ đứng lên và đi tới nghiền nát những chế độ bán nước. Giờ rung chuông đă điểm, cây tre thành gươm-giáo, người dân khao khát đứng lên làm lịch sử, thế kỷ 21 vinh danh người dân yêu nước bảo vệ Tổ quốc.

    Huỳnh Tâm

  2. #192
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đảng cúi măi dân sao ngóc lên được?
    (Phạm Trần)


    “…Nếu Lănh đạo đảng và nhà nước Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam cứ măi cúi trước người Trung Quốc th́ đến bao giờ dân mới ngóc đầu lên được?...”





    Câu hỏi này đang sôi sục trong đầu người dân ở Việt Nam vào cuối năm 2012 khi Trung Cộng đă chứng minh bằng hành động sẽ chiếm vĩnh viễn chủ quyền ở Biển Đông.

    Hăy kể ra một số việc điển h́nh:

    -Bắc Kinh đă công khai đem hàng ngàn thuyền cá bao vây đánh bắt tự do trên vùng biển của Việt Nam, sau khi đă thường xuyên bắn giết, bắt giam, tích thu tài sản ngư dân Việt Nam rồi bắt chuộc tiền, buộc kư giấy đă xâm phạm lănh thổ của Trung Cộng.

    -Họ ngang nhiên khai thác dầu khí ngay trong vùng Vịnh Bắc Bộ và đang chuẩn bị đào dầu ở vùng Ḥang Sa mà họ đă chiếm từ tay Việt Nam Cộng Ḥa năm 1974 và Trường Sa, nơi họ cũng đă chiếm mất 8 đảo đá ngầm từ tay quân đội CSVN năm 1988.


    Dàn khoan của CNOOC

    -Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (China National Offshore Oil Corp – CNOOC) c̣n khoanh vùng để gọi đấu thầu quốc tế ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

    -Thành lập Bộ Chỉ huy quân sự, cơ quan hành chính, tổ chức chính quyền cho Thành phố Tam Sa thành lập từ ngày 24/07/2012. Họ cũng đang tổ chức du lịch, nghiên cứu đáy biển, thăm ḍ tài nguyên trên ṭan vùng Tam Sa chiếm từ 80 đến 85% diện tích trên 3,000 cây số vuông bao gồm Ḥang Sa-Trường Sa và Trung Sa (băi Macclesfield và băi cạn Scarborough hay c̣n gọi là Băi Cỏ Rong có tranh chấp giữa Trung Cộng và Phi Luật Tân).

    Nếu Bắc Kinh nắm Tam Sa, chỉ c̣n lại từ 20 đến 25% diện tích Biển Đông dành cho 4 nước có tranh chấp trực tiếp với họ gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mă Lai Á và Brunei. Bắc Kinh sẽ tự do ḥanh hành trong vùng “ao nhà” của họ, gây nguy hiểm cho an ninh toàn khu vực và đe dọa an ninh hàng hải của thế giới từ Ấn Độ Dương qua Bắc Đại Tây Dương.

    Một cuộc chiến trên Biển Đông với Trung Cộng có thể đến từ những nước trong khối ASEAN có tranh chấp, Nhật Bản hay Hoa Kỳ là điều không viển vông.

    Ấy là chưa kể Đài Loan đang chiếm giữ đảo Ba B́nh, lớn nhất trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam từ Đệ nhị Thế chiến. Đảo này có chiều dài 1,360 mét và chiều rộng 350 mét.

    -Ngày 15/5/2012, Trung Quốc phát hành hộ chiếu có h́nh Lưỡi Ḅ, một bước xâm lược mới vi phạm chủ quyền Việt Nam.

    -Ngày 30/11/2012, các thuyền đánh cá của Trung Cộng đă cố t́nh quấy phá và cắt cáp tàu khảo sát địa chấn B́nh Minh 2 của Tập đ̣an Dầu khí Việt Nam ở khu vực đảo Cồn Cỏ trong vùng Vịnh Bắc Bộ (nh́n từ Huế ra biển ).

    Đây là lần thứ hai tàu B́nh Ḿnh 2 bị phiá Trung Cộng cắt cáp. Lần thứ nhất xảy ra vào ngày 26/5/2011 khi con tàu này bị 2 tàu Hải Giám Trung Cộng đe dọa rồi cắt cáp trong vùng biển Phú Yên.

    Lê Khả Phiêu và lănh đạo Tàu

    Tất cả những sự việc nghiêm trọng này xảy ra nhịp nhàng với những “lời ca xướng họa” của lănh đạo Việt-Trung lúc nào cũng “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Hay luôn luôn kẻ tung người hứng sống chung ḥa b́nh theo phương châm “16 chữ vàng” và “tinh thần 4 tốt” của Tuyên bố chung 1999 giữa Tổng bí thư đảng CSVN Lê Khả Phiêu và Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân.

    Nhưng phương châm 16 chữ do ông Giang Trạch Dân tạo ra rồi giao cho phía Việt Nam chấp hành, theo đó hai nước thống nhất chủ trương “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”và lúc nào cũng phải là "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

    Nghe qua th́ người Việt Nam nào không yên ḷng mở cờ trong bụng, nhưng cũng vào thời điểm này, ông Lê Khả Phiêu đă phải đồng ư Bản đồ phân chia lại Biên giới dành phần hơn cho Trung Quốc qua chứng minh mất phần đẹp nhất của thác Bản Giốc và Nam Quan.

    Việt Nam cũng “đương nhiên” mất luôn những phần đất bị lính Tàu chiếm trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 và nhiều khu vực đất của Việt Nam cho người Trung Hoa mượn để chon mồ mả tổ tiên ở các bản, làng dọc biên giới hai nước.

    Bằng chứng cắt đất cho Trung Cộng của ông Lê Khả Phiêu trong “Hiệp ước biên giới trên đất liền”, kưngày 30 tháng 12 năm 1999 đă được Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989 cho biết:

    “Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ư đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được th́ trở mặt… Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nḥm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đă có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau v́ đại cục(?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn th́ mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trăi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống măi đến chợ Tân Thanh, đối diện đă là trụ sở hải quan của Trung Quốc….” (17/03/2010, Bauxite Viet Nam)

    Một năm sau, ngày 25 tháng 12 năm 2000, cũng vẫn dưới thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, đảng Công sản Việt Nam lại kư vớiTrung Cộng“Hiệp định về phân định lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và“Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” gây thiệt hại không những chủ quyền trên biển mà c̣n mất cả tài nguyên, vựa cá truyền thống của ngư dân Việt Nam.

    Quốc hội Việt Nam không hề được đảng tham khảo hay được đọc các văn kiện lịch sử này mà vẫn “nhắm mắt” chấp thuận.

    Sau ông Phiêu đến phiên Tổng Bí thư đảng Nông Đức Mạnh, liên tục hai khóa đảng IX và X (từ 2001-2010) nhận tiếp áp lực từ Trung Cộng do ông Phiêu chuyển sang để phải đồng ư cho Bắc Kinh vào khai thác Bauxite trên Tây Nguyên.

    Dự án Bauxite ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông), cơ bản đồng ư với Trung Cộng từ năm 2001 và thực hiện từ năm 2007, đă bị dư luận, đa số trong giới trí thức, chuyên viên, kể cả Đại tướng Vơ Nguyên Giáp phản đối nhưng đảng không làm sao thoát khỏi gọng ḱm của Bắc Kinh.

    Cho đến cuối năm 2012, dù đă bỏ ra không biết bao nhiêu ngàn tỷ bạc của dân, vẫn chưa thu về được một đồng xu mà viễn ảnh có lời th́ mù mịt. Nguy cơ “trái bom bùn đỏ” thập tử nhất sinh và nền an ninh quốc gia bị người Tàu ngồi trên Tây Nguyên đe dọa vẫn đang treo trên đầu người dân.

    Đă có nhiều lời khuyên tâm huyết nên “đ́nh chỉ” để tránh họa cho dân nhưng đảng cứ cố đấm ăn xôi “bong bóng” của Trung Cộng !

    Từ 4 bài học thỏa hiệp Biên giới, vịnh Bắc Bộ, nghề cá và Bauxite sang áp lực ở Biển Đông, dường như lănh đạo Việt Nam vẫn c̣n “lạnh cảm” khiến trong dư luận người ta đă râm ran nghĩ đến lời cảnh giác “cơng rắn cắn gà nhà” của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đưa ra trong bài viết của ông dịp Lễ Quốc khánh 2/9/2012.

    Ấy là chưa kể nhiều ngàn mẫu rừng chiến lược và vùng ven biển “hái ra bạc, khạc ra tiền” cũng đă nằm trong tay các Công ty trúng thầu “khó hiểu” với lư do khai thác không minh bạch của người Tàu!

    Nhưng ai là người đă hay sẽ mang tội “phản quốc” này th́ sẽ có Lịch sử làm chứng. Bây giờ, vào thời điểm cuối năm 2012, mọi người phải suy nghĩ tiếp về thái độ tiếp tục cúi đầu trước Trung Cộng của nhiều người trong hàng ngũ lănh đạo đảng, Quân đội và Nhà nước.

    Vai tṛ Nguyễn Phú Trọng

    Chẳng hạn như trong ngày 2/12/2012 tại cuộc tiếp Đoàn đại biểu Trung Hoa do ông Lư Kiến Quốc, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Uỷ viên trưởng Uỷ ban Thường vụ kiêm Tổng Thư kư Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, dẫn đầu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đă nói: “Quan hệ hai Đảng, hai nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các thế hệ lănh đạo hai Đảng, hai nước dày công vun đắp, nay đă trở thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Những năm qua, quan hệ hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước đă không ngừng phát triển, đó là cơ sở quan trọng để hai bên tăng cường giao lưu, hợp tác trên mọi lĩnh vực, đồng thời giải quyết thoả đáng các vấn đề c̣n tồn tại, trong đó có vấn đề trên biển, qua đó không ngừng thúc đẩy quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt - Trung phát triển một cách lành mạnh, ổn định, v́ lợi ích của nhân dân hai nước, v́ ḥa b́nh, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.”(Theo Thông tấn xă Việt Nam,TTXVN)

    Ông Lư sang Việt Nam có mục đích thông báo cho phía Việt Nam biết kết qủa Đại hội đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) kỳ thứ 18, theo đó ông Tập Cận B́nh, người đă họp với ông Trọng và một số Lănh đạo khác của Việt Nam nhiều lần đă lên chức Tổng Bí thư và sẽ nhận chức Chủ tịch Nhà nước vào tháng 3/2013.

    Nhưng không phải ông Lư tử tế ǵ đâu, hay ông Tập “yêu quư” ông Trọng mà làm như thế. Sự thật là ông Trọng trước đó đă gửi đặc sứ ông Hoàng B́nh Quân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương sang Bắc Kinh chúc mừng ông Tập từ hôm 17/11/2012 rồi.

    V́ vậy, mà ông Lư mới nói với ông Trọng những điều ngọt lịm rằng: “Đảng, Chính phủ Trung Quốc và Tổng Bí thư Tập Cận B́nh hết sức coi trọng phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Trung Quốc và Việt Nam, coi đó là tài sản quư báu của hai Đảng, hai nước; nguyện cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam làm hết sức ḿnh để vun đắp, thúc đẩy quan Trung - Việt trong giai đoạn mới phát triển ổn định đi vào chiều sâu, lên tầm cao mới.”

    Úi cha ơi, nghe sao mà êm tai, thắm thiết sướng quá!

    Chả thế mà khi đến lượt ḿnh tiếp ông Lư, bà Ṭng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng phấn chấn như mở cờ trong bụng: “Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trước sau như một, hết sức coi trọng quan hệ với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc”.
    Ông Lư Kiến Quốc cũng lại ca bài con cá tiếp tục “khẳng định quan hệ hữu nghị truyền thống Trung Quốc - Việt Nam là tài sản quư báu chung, cần được hai bên ǵn giữ và phát huy” khi gặp bà Phóng.
    Như vậy, có lẽ cả ông Trọng và Bà Phóng đều đă quên hay không dám hé răng than phiên với Lư Kiến Quốc về tai nạn mà tàu đánh cá của Trung Cộng không những đă trắng trợn xâm lăng lănh hải Việt Nam để đánh bắt cá của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ mà c̣n cắt cáp tàu khảo sát B́nh Minh 2 ngày 30/11/2012.

    Trước đó vào ngày 24/10/2012, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đă tiếp Mạnh Kiến Trụ, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Công an Trung Cộng.

    Theo báo điện tử đảng CSVN, Mạnh Kiến Trụ đă nói với ông Trọng rằng: “Vấn đề Nam Hải (Biển Đông) không phải là toàn bộ của quan hệ Trung – Việt, nhưng xử lý không thoả đáng sẽ ảnh hướng đến toàn cục của quan hệ hai nước”.

    Ông Trọng đáp lại: “ Tình hữu nghị truyền thống hai nước Việt Nam – Trung Quốc nồng thắm. Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi không quên sự giúp đỡ quý báu, chân thành của Trung Quốc dành cho Việt Nam lâu nay. Việt Nam sẵn sàng duy trì giao lưu cấp cao với Trung Quốc, tăng cường sự tin cậy chính trị, tăng cường đoàn kết và hợp tác, xử lý thoả đáng vấn đề trên biển thông qua hiệp thương hữu nghị trên tinh thần "vừa là đồng chí vừa là anh em".

    Theo bài viết của TTXVN th́ trong cuộc họp này, ông Mạnhc̣n nói: “ Khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Trung Quốc là coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống với Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam và nỗ lực cùng nhau thúc đẩy mối quan hệ đó không ngừng phát triển.”

    Và ông Trọng cũng nói: “Mặc dù thời gian qua gặp một số khó khăn, nhưng quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục được duy tŕ và phát triển. Tổng Bí thư nhấn mạnh, chỉ cần hai bên cùng nhau nỗ lực, tăng cường phối hợp, quán triệt nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, thực hiện nghiêm túc những thỏa thuận đă đạt được, th́ quan hệ Việt - Trung nhất định phát triển đúng theo phương hướng đã định, đáp ứng lợi ích căn bản và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước, góp phần ǵn giữ môi trường ḥa b́nh, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới.”

    Cái tḥng lọng thành đô

    Nhưng đó là ước mơ của ông Trọng c̣n người Trung Quốc th́ không viển vông mà họ chỉ hành động theo sách lược đă thống nhất từ lâu. Trong trường hợp Việt Nam, chủ trương của Trung Cộng như đă chứng minh từ khi hai nước tái lập quan hệ ngọai giao năm 1991, là phải “cột cứng” lănh đạo đảng CSVN vào rọ để không c̣n đường chạy thoát như họ đă thành công ở Bauxite Tây Nguyên và trên Biển Đông.

    V́ vậy có ai tin Tổng Bí thư đảng CSTQ Tập Cận B́nh, mới lên chức ngày 14/11/2012, không biết chuyện hộ chiếu Lưỡi Ḅ đă phát hành từ ngày 15/5/2012, trước 6 tháng Việt Nam bắt đầu không đóng dấu qua cửa khẩu ?

    Và có ai đă buột miệng hỏi: Tại sao ông Tổng Bí thư khóa đảng VI Nguyễn Văn Linh, trong cuộc họp với Lănh đạo Trung Cộng Giang Trạch Dân tại Thành Đô (Tứ Xuyên, Trung Cộng) tháng 09/1990, đă phải đồng ư với Trung Cộng 2 điều kiện để được b́nh thường hoá ngoại giao với Bắc Kinh, đó là : 1) Rút quân Việt Nam khỏi Cao Miên. 2) Lọai Bộ trưởng Ngọai giao Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Chính phủ?


    Sự nhượng bộ mà theo nhiều chuyên viên Việt Nam ở trong nước là một sai lầm lịch sử nghiêm trọng đă mang hệ lụy nhục nhă cho phía Việt Nam và sẽ c̣n kéo dài cho đến ngày nào lănh đạo Việt Nam biết ngẩng đầu lên ngang hàng với lănh đạo Trung Cộng.

    Tiếc rằng từ ông Linh đến ông Nguyễn Phú Trọng đă qua 5 đời Tổng Bí thư mà thời gian dài đằng đẵng 26 năm qua, cái cúi đầu của ông Linh, có sự chứng kiến của hai ông Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ở Thành Đô, cứ thấp xuống măi khiến cho Việt Nam lúc nào cũng bị đảng và nhà nước Tàu coi khinh.

    Nhưng nếu lănh đạo Việt Nam cứ cúi măi xuống th́ đến bao giờ dân tộc Việt Nam mới ngẩng cái đầu lên được, nói chi đến giấc mơ hăo huyền “ngang tầm thời đại” với thế giới?

    Phạm Trần

  3. #193
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Lănh đạo VN đang gieo rắc tư tưởng đầu hàng?
    Thanh Quang, phóng viên RFA
    2013-01-12

    Giữa lúc một nước Trung Quốc trỗi dậy ngày càng có hành động quyết đoán, gây hấn tại Biển Đông – và cả Biển Hoa Đông, th́ giới lănh đạo VN ngày càng có dấu hiệu mà công luận cáo giác là “hèn với giặc, ác với dân”, thậm chí đầu hàng phương Bắc.


    Nhịn nữa, nhịn măi?

    Qua bài “Chủ nghĩa đầu hàng”, GS Nguyễn Hưng Quốc bên Úc nêu lên câu hỏi rằng “Tại sao trước 1975, giới lănh đạo CSVN ghét chủ nghĩa đầu hàng đến như vậy mà bây giờ, từ lời nói đến hành động của họ, ở đâu cũng bàng bạc một thứ chủ nghĩa đầu hàng đến thảm hại như vậy?”.

    Rồi GS Nguyễn Hưng Quốc nhiều lần dùng chữ “nhịn” và “không dám” để báo động về chủ trương đầu hàng này của giới lănh đạo VN, khi nhận thấy Trung Quốc ức hiếp VN đến mấy, họ vẫn nhịn; Trung Quốc chửi: họ nhịn; Trung Quốc đánh: họ nhịn; tàu “lạ” đánh ch́m tàu đánh cá VN, bắn giết, trấn lột ngư dân Việt: họ không dám gọi tên; tàu Trung Quốc nhiều lần cắt dây cáp tàu thăm ḍ dầu khí VN: họ không dám lên tiếng mà c̣n biện hộ dùm là vô t́nh “làm đứt cáp”; rồi họ phân bua là không phải hèn mà v́ không muốn chiến tranh, v́ chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp ḥa b́nh.

    Nhưng, GS Nguyễn Hưng Quốc lưu ư, dưới cái nh́n của người dân Việt về lời nói và hành động của giới cầm quyền mà dân cáo giác là “hèn với giác ác với dân”, th́ họ thực sự đầu hàng phương Bắc, mà lại c̣n quảng bá một thứ chủ nghĩa đầu hàng trong dân chúng.
    Tàu lạ


    Lên tiếng mới đây với Đài ACTD, GS Nguyễn Hưng Quốc cho biết:

    “Hiện bây giờ thành thật mà nói trên khắp thế giới ai cũng lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng riêng đối với người Việt Nam th́ hầu như ai cũng thấy Trung Quốc là một sự đe dọa. Thế mà theo dơi báo chí trong nước, nghe những lời phát biểu của những cán bộ cao cấp nhất ở Việt Nam th́ chúng ta lại thấy có một cái ǵ đó rất bất b́nh thường.

    Thế mà theo dơi báo chí trong nước, nghe những lời phát biểu của những cán bộ cao cấp nhất ở Việt Nam th́ chúng ta lại thấy có một cái ǵ đó rất bất b́nh thường.

    GS Nguyễn Hưng Quốc

    Họ hoặc là gạt đi, hoặc họ ngụy biện bằng cách đưa ra những lư lẽ mà tuyệt đối không thuyết phục được bất cứ người nào.Trước t́nh huống như vậy, tôi nghĩ không có người nào quan tâm đến đất nước mà không cảm thấy băn khoăn, ray rứt.”

    Nhắc tới mối quan hệ Việt-Trung rất đáng “băn khoăn, ray rức” hiện nay, nhà báo Trương Duy Nhất không khỏi thốt lên rằng “chưa có thời nào bi hề và nhục nhă thế” khi tàu của bọn cướp biển th́ phải gọi là “tàu lạ”, kẻ thù xâm lược, sát hại hàng vạn chiến sĩ bảo vệ quê hương VN th́ “không dám gọi thẳng tên mà phải bóng gió xa xôi ám chỉ bằng những cách chung chung khôi hài như ‘quân xâm lược từ bên kia biên giới’…”

    Đời đời nhớ ơn


    Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, từng là Đại sứ VN tại Trung Quốc trong 13 năm, đă cảnh cáo Phó GS Đại tá Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị VN là “Đừng gieo rắc tư tưởng đầu hàng”, lưu ư rằng “Phía ta một mực trung thành tuân thủ phương châm lừa phỉnh ‘16 chữ, 4 tốt’ không hề làm ǵ trái với ư muốn của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cứ tiếp tục xâm phạm chủ quyền của ta ngày càng nghiêm trọng: ‘cây muốn lặng, gió đâu có dừng’”.

    Trích dẫn những câu của ông Trần Đăng Thanh trong cuộc nói chuyện mới đây trước 300 cán bộ chủ chốt ngành giáo dục đại học nhằm phổ biến đường lối, chính sách của đảng CSVN trong vấn đề biển Đông, liên quan nội dung mà ông Thanh nhấn mạnh rằng “ta phải đời đời nhớ ơn TQ, căm thù Mỹ” và TQ là nước lớn, “đừng để xảy ra chiến tranh, đừng để va chạm, kiên tŕ, khôn khéo, tránh va chạm, cứ tránh đă, cứ tránh đă, tránh voi chẳng xấu mặt nào…”, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng “đó là tư tưởng đầu hàng của ông Đại tá, TS, PGS…, ông ta đương đi gieo rắc tư tưởng đầu hàng cho học sinh, sinh viên, cho thế hệ trẻ; đầu hàng không dám cùng với dân đấu tranh công khai th́ sẽ mất hết, sớm muộn cũng sẽ trở thành một thứ thuộc địa kiểu mới của bành trướng đại Hán”.

    đừng để xảy ra chiến tranh, đừng để va chạm, kiên tŕ, khôn khéo, tránh va chạm, cứ tránh đă, cứ tránh đă, tránh voi chẳng xấu mặt nào…

    ĐT Trần Đăng Thanh

    Nhà báo Bùi Tín mở rộng vấn đề hơn, nêu lên một loạt nghi vấn rằng qua nội dung của cuộc nói chuyện vừa nói của đại tá Trần Đăng Thanh, phải chăng đó là thực chất chính sách đối ngoại vừa được điều chỉnh của Bộ Chính trị hiện nay theo hướng ‘nhất biên đảo’, ngả hẳn về một bên, trong khi bề ngoài vẫn giữ cái vỏ ‘làm bạn với tất cả các nước’? Phải chăng đây là “chính sách của Bộ Chính trị muốn ngả hẳn về phía Trung Quốc để tồn tại, chống lại xu thế hợp lư, hợp ḷng dân, hợp thời đại là gắn bó chặt chẽ với các nước dân chủ trên toàn thế giới, trong t́nh thế đảng CS Việt Nam đang ngày càng bị suy thoái, bị nhân dân xa lánh, lên án?”. Nhà báo Bùi Tín từ Paris cũng không quên cảnh báo về “một điều đă rơ như ban ngày”, đó là đảng CSVN trong “cơn khốn quẫn” đă chọn con đường sống cho riêng cho ḿnh bằng cách “đẩy cả dân tộc vào tử lộ”.

    Mối nguy mất nước không c̣n xa


    Nhận định về cuộc phỏng vấn mà Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc Pḥng VN, dành cho báo Tuổi Trẻ hồi đầu tháng Giêng này về t́nh h́nh Biển Đông và mối quan hệ Trung Quốc, Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á liên quan đến VN, nhà b́nh luận thời sự Trần B́nh Nam từ California, Hoa Kỳ, cho rằng “ lư luận của tướng Nguyễn Chí Vịnh là một thứ lư luận của con đà điểu chui đầu vào cát”. Khi lưu ư diễn biến trên Biển Đông trong các năm qua báo hiệu “những cơn băo tố” có thể tới VN trong năm 2013 này trong mối quan hệ giữa VN và Trung Quốc, nhà b́nh luận Trần B́nh Nam khẳng định kế hoạch VN, qua tướng Nguyễn Chí Vịnh, nhằm đương đầu với khó khăn trước mắt ấy đă “không làm cho nhân dân VN an tâm”; những bước chuẩn bị cùng kế hoạch của VN chỉ mang “tính lư thuyết, phô trương”, không có khả năng ứng phó t́nh h́nh thực tế tại hiện trường.

    Theo nhận xét của ông Trần B́nh Nam th́ “trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng như vậy, qua lời tướng Nguyễn Chí Vịnh, nhà nước b́nh chân như vại tin tưởng vào đường lối ḥa b́nh của ḿnh, tin tưởng vào thiện chí của Trung Quốc, tin tưởng vào sự phát triển kinh tế, tin tưởng một năm 2013 tốt đẹp… Mối nguy mất nước không c̣n xa”.

    Nước VN đă mất rồi!. Từ khi ông Hồ sai ông Phạm Văn Đồng viết công hàm nh́n nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Tàu gởi cho Chu Ân Lai là ḿnh đă mất nước rồi!.

    Ô. Bằng Phong Đặng Văn Âu

    Nói chung, không phải ai cũng dễ dàng bị thuyết phục bằng “cái sổ hưu” của đại tá Trần Đăng Thanh hay lư thuyết đầu hàng Trung Quốc của tướng Nguyễn Chí Vịnh. Một sĩ quan yêu cầu ẩn danh của Quân đội Nhân dân VN cho biết:

    “Việc này có lẽ chúng ta xác định cho rơ hơn, tức là quần chúng nhân dân mấy lần rồi quyết định xu hướng hay quá tŕnh diễn ra của lịch sử. Cho nên trong vài năm trở lại đây, tôi đi t́m hiểu về suy nghĩ, ư kiến của nhân dân, và những người như chúng tôi, th́ tôi nghĩ điều này sẽ có ích hơn, sẽ giúp tôi xác định được xu hướng phát triển t́nh h́nh chính xác hơn là chúng ta đi t́m hiểu ư kiến hay quan điểm của những người có chức, có quyền. Nói cho cùng, theo quan điểm của tôi, th́ quần chúng nhân dân mới là người quyết định.”

    Từ Houston, Hoa Kỳ, tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu có “Thư gởi thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh”, nhắc tới nhận xét của nhiều người cho rằng nước VN “sắp mất” vào tay giặc Tàu, nhưng tác giả nghĩ khác, rằng “Nước VN đă mất rồi!. Từ khi ông Hồ sai ông Phạm Văn Đồng viết công hàm nh́n nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Tàu gởi cho Chu Ân Lai là ḿnh đă mất nước rồi!”.

  4. #194
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hai tử huyệt của chế độ (Hoàng Xuân Phú)



    "
    “…Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lư như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào ḷng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa măn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền...





    Có lẽ lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng:

    - quy định về quyền lănh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xă hội, và

    - quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lư

    tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. V́ vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, th́ họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lănh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.



    Tử huyệt độc quyền lănh đạo

    Trong thế giới văn minh, quyền lănh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lănh đạo.

    Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, th́ ĐCSVN phải trả lại chính quyền cho triều đ́nh nhà Nguyễn, và triều đ́nh nhà Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đ́nh trước đó. Thế là khởi động cho một quá tŕnh truy hồi dằng dặc, mà không thể t́m được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có công, th́ chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đă gây ra. Phần lớn những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đă qua đời, hoặc nếu c̣n sống th́ đă về hưu, và có lẽ đang đau ḷng v́ phải chứng kiến sự nghiệp cách mạng của thế hệ ḿnh bị phản bội.

    Không thể coi quyền lănh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và v́ vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đă là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa nhận, th́ cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm ǵ, để khỏi gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được trong Hiến pháp, th́ chỉ riêng việc làm đó đă khắc họa xong tính dân chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.

    Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, th́ bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lănh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, th́ có nghĩa đă mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không thể đồng t́nh ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là ḿnh không c̣n xứng đáng, không c̣n được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai tṛ lănh đạo, th́ có c̣n tử tế và v́ Dân nữa hay không?

    Con người muốn tồn tại và phát triển th́ không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều ḥa nhiệt độ một cách tuyệt đối, th́ sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, th́ sẽ dễ ngă gục khi bước vào cuộc sống tự lập trong xă hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể ḿnh vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới h́nh thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), th́ con người không thể khá lên được.

    Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xă hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. V́ biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đă phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xă hội, cũng như về quyền con người.

    Ngược lại, các nước trong phe xă hội chủ nghĩa đă xử lư sai t́nh huống và quan hệ địch ta. Nh́n đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đă đầu têu trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các nước khác trong phe xă hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ là h́nh thức. Dân chủ xă hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy th́ các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả th́ ngược lại. Kinh tế suy sụp, ḷng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.

    Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lư từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xă hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lănh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lănh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội h́nh đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc quyền giam hăm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xă hội c̣n cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra tồn tại yếu kém của ḿnh, th́ các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê b́nh – tự phê b́nh giả dối và lố bịch, th́ ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lănh đạo.

    Tiếc rằng, lănh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gă tài xế ù ĺ, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp th́ họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ trong xă hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy tŕ quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đă và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đă triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.

    Có ư kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đă bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xă hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải ngược lại.

    Khước từ dân chủ xă hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà c̣n tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính ḿnh. Sự bảo thủ kiêu ngạo đă bịt mắt giới lănh đạo, khiến họ cố t́nh làm ngơ trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lănh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.

    Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lănh đạo Nhà nước và xă hội không có nghĩa nó là lực lượng lănh đạo duy nhất, càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy tŕ Điều 4 củaHiến pháp 1992, th́ việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam.

    Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai

    Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. Nhưng Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 th́ quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

    “Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân. Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có ǵ, mà nay lại chiếm được tất cả, trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.

    Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đă giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ“có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”. Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đă lấy ruộng của người giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập thể, trong mô h́nh hợp tác xă nông nghiệp. Khi đă giành được chính quyền trong cả nước, lănh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới h́nh thức “sở hữu toàn dân”. Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có c̣n theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?

    Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lư và công bằng, th́ sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi rằng ḿnh hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đ́nh ḿnh. Nhưng khi chính quyền tham nhũng th́ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền.Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đă có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ kư loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đă bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi. Càng duy tŕ sở hữu toàn dân về đất đai, th́ càng gia tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lănh đạo, và càng đẩy nhanh quá tŕnh tự hủy diệt của chế độ.

    Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đă lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân” ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao ḱm nổi ḷng tham? Có thể những người đă no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đă trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đă thu gom bấy lâu. Nhưng những vị c̣n chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt ḿnh được vơ vét th́ lại không dễ buông tha.

    Muốn nuốt th́ hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi c̣n là sở hữu toàn dân th́ chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn của ḿnh lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, th́ chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn định và hợp lư về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào t́nh trạng hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, th́ lại quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gă phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp th́ vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra th́ móc vào cổ họng.

    Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm ǵ ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?

    Quả là rất khó để thoát ra khỏi t́nh trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn th́ khắc phục càng khó. Songlănh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi băi lầy, mà chính đảng đă đẩy Dân tộc xuống. Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân, th́ khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi của bài này.

    *

    * *

    Quy định trong Hiến pháp về quyền lănh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xă hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi ḷng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.

    Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lư như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào ḷng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa măn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá tŕnh tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.

    V́ vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, th́ cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.

    Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lănh đạo của ĐCSVN, th́ có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy tŕ hai quy định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.

    Hà Nội, 11/01/2013
    Hoàng Xuân Phú
    Nguồn: hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu

  5. #195
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Từ Bá Thanh, Ba Dũng đến... Kim Chi và Hiến Pháp
    Vũ Đông Hà (Danlambao)

    "Mọi cuộc cách mạng đều phải bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát ngay cả vào những lúc mà ta cảm thấy tuyệt vọng và yếu đuối nhất."



    - Sau khi vở tuồng đấu đá Sang Trọng Dũng hạ màn với sự ra đời của đồng chí X th́ chính/chiến trường của đảng yên ắng mùa đông được vài tuần. Khi con số 2013 hiện trên tờ lịch mới th́ Ba Đ́nh nóng lại với bàn cờ và con cờ mới: Trưởng ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh. Những tên trùm ăn cướp tiếp tục vừa nắm quyền, vừa bán nước, vừa kết án bỏ tù người yêu nước, vừa đánh đấm, đấu đá nhau trong sự nghiệp ăn cướp trường kỳ. Trong bối cảnh đó, bước sang 2013, h́nh như vẫn c̣n, vẫn có những con người bị cướp tiếp tục sống trong niềm hy vọng một cách tuyệt vọng rằng chúng đánh nhau th́ chúng sẽ yếu. Bất chiến tự nhiên thành!?

    Phe chống Dũng nêu lên những con số "tàn tệ" từ sự điều hành của Ba Dũng, bí danh mới X: 1,33 triệu tỷ đồng, tức hơn 60 tỷ đô la tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ v́ tiền đă vào túi của chúng. Và ai sẽ là người phải trả món nợ khổng lồ này nếu không là 90 triệu người dân?

    Phe X phản pháo công bố việc bỏ túi ngân sách của Bá Thanh tổng cộng 3434 tỷ đồng tức 165 triệu đô. Ngân sách cũng là tiền của dân mà đảng nắm quyền cùng nhau chia chác, đă biết từ lâu nhưng bây giờ v́ muốn bôi đen nhau nên giải mật để làm dập mật nhau.

    Trong hiệp đấu đá mới này, cuối cùng qua việc bạch hóa những bê bối cho nhu cầu làm xấu mặt đồng chí nhau, vẫn hiện h́nh nạn nhân là những người dân Việt khốn cùng; và họ - những kẻ cai trị th́ cướp vẫn hoàn cướp.

    Chỉ có khác với những tên cướp đầu đường xó chợ, đây là những tên cướp đang nắm quyền Thủ tướng, đang là lănh chúa Đà Nẵng nay trở thành trùm chống tham nhũng; và chung quanh là một bộ phận không nhỏ thoái hóa, tham ô, một bầy sâu nhung nhúc theo đúng lời của Trọng Lú đầu đảng và Tư Sang trùm nước. Chỉ có khác, đây không phải là những lời vu khống của "các thế lực thù địch" mà do chính họ vạch áo lẫn nhau.

    Ở đảng này, bạn nào đó c̣n tin tưởng trong băng của họ có những "tên cướp đàng hoàng" sẽ dẹp những "tên cướp không đàng hoàng" và sau đó đảng này sẽ "thôi là" đảng cướp? Bạn c̣n tin rằng khi chúng đánh nhau chúng sẽ yếu và chính quyền sẽ tự nhiên rơi trở lại vào tay nhân dân?

    Một năm vừa qua và sự ra đời của "đồng chí X" vào ngày bế mạc đại hội đảng cướp 2012 chưa đủ để dân ta ngưng làm khán giả, cổ vũ bên này hoặc bên kia, hy vọng phe này thắng, phe kia thua th́ đất nước sẽ khá hơn? Chưa đủ để nhận ra rằng, thay vào đó, chúng ta phải chủ lực t́m mọi cách cùng nhau vượt qua sợ hăi, từng bước xây dựng được sức mạnh quần chúng để bứng đám cướp ngày lẫn cướp đêm này ra khỏi vị trí cai trị hay sao?

    Và trong sự t́nh cờ hay không t́nh cờ, giữa màn đấu đá mới của các trùm cộng sản ở tầng cao này cũng xuất hiện lạ lùng một chuyện nhỏ mà không nhỏ, lớn mà không lớn:

    - “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ kư của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương v́ cảm giác của ḿnh bị xúc phạm.”

    - “Tôi có thể không tin cá nhân ông thủ tướng nhưng mà tôi tin cái chung, c̣n nhiều cái điều tốt đẹp.”

    - “Tôi cũng nói thẳng, tôi là nghệ sỹ cộng sản chính hiệu, và cho tới bây giờ, trái tim tôi là tim của một người cộng sản mong cái đất nước này sẽ ḥa nhập được với thế giới, tốt đẹp hơn, giàu có hơn, và dân không khổ nữa.”

    Những câu nói của Nghệ Sỹ Kim Chi đă làm nhiều người ca tụng, lẫn nghi ngờ, chê bai... Nhưng nó có nằm đâu trong bàn cờ thế sự của những người cộng sản ai cũng cho ḿnh là chính hiệu này? Có ǵ khác / giống giữa bà Kim Chi và Bá Thanh, hai đồng chí cộng sản đang cùng nhau mần thịt đồng chí Ba Dũng bằng những góc cạnh, h́nh thức khác nhau?

    Và ngày hôm nay, cùng lúc, giữa những màn đấu đá lẫn nhau không ngừng nghỉ, những kẻ cai trị lại đưa ra màn kịch đă được diễn tuồng nhiều lần: góp ư sửa đổi hiến pháp - một hiến pháp đă được tạo dựng, tùy nghi thay đổi, thao túng, khống chế bởi những người cộng sản chân chính trong suốt bao năm qua.

    Đă bao lần dân ta mang thân phận "được" cho phép góp ư trong thể chế xin-cho này? Chưa đủ sao!

    Đă bao lần kết quả cho thấy dân ḿnh là nạn nhân của một tṛ lừa hay đúng hơn là diễn viên vô t́nh góp phần cho một màn kịch dân chủ giả hiệu của đảng cầm quyền, cầm tiền, cầm búa, cầm liềm, cầm ch́a khóa nhà tù...? Chưa thấm sao!

    Đă nhiều lần, và bây giờ nữa, nhiều người cho rằng dù sao góp ư cũng hơn là không nói ǵ để rồi sau mỗi một màn kịch như thế, đảng công bố văn bản theo ư đảng nhưng vẫn tuyên truyền với cả nước một "sự thật": có sự góp ư của mọi thành phần quần chúng.

    Một chế độ độc tài khi đưa ra việc sửa đổi Hiến Pháp chỉ có một mục tiêu duy nhất: t́m cách củng cố khả năng cai trị và gia tăng vị trí độc tài cũng như khả năng trấn áp bằng văn bản cao nhất là Hiến Pháp. Kêu gọi góp ư có sự kiểm soát của đảng chỉ là tṛ dân chủ mị dân.

    V́ thế, tại sao c̣n có thể hy vọng trong việc "góp ư" cho những kẻ mà chúng ta biết rơ ư thuận là ư đảng, ư nghịch là của thù địch. Sẽ được ǵ từ những người sẽ bằng mọi giá để nắm quyền sinh sát trong tay? Tin tưởng ǵ với những con người bất chấp dư luận của nhân dân 90 triệu người, lẫn cả thế giới? Mong mỏi ǵ ở những kẻ vừa ăn cướp vừa nghênh ngang giảng bài tự trọng, vừa bán nước vừa thuyết pháp đừng hỗ thẹn với tiền nhân?

    Và chúng ta đang đứng ở đâu? Tiếp tay với những kẻ vẫn mang thẻ đảng, vẫn tự hào ḿnh là những người cộng sản chân chính, vẫn nắm trong tay cái sổ hưu, đang t́m mọi cách gọi là "chỉnh đốn đảng" để đảng của họ tiếp tục là đảng lănh đạo duy nhất và muôn năm theo điều 4 do chính họ đặt ra và áp đặt lên đầu cả một dân tộc?

    Do đó, cần ǵ phải viết cả một bài dài ḍng góp ư về Hiến Pháp. Cần ǵ phải lách qua lách lại để đ̣i hỏi những điều nhỏ bé và im lặng trước những điều không thể không thay đổi v́ biết trước rằng... họ sẽ không chịu.

    Kiến nghị, góp ư những ǵ mà đảng cầm quyền có thể "cho" và im lặng về những mà họ không "chịu cho" là một thái độ mà sau đó sẽ bị khai thác, lợi dụng tuyên truyền và bị xem là chấp nhận, đồng ḷng với đảng cầm quyền về những điều mà ta im lặng.

    Vận mạng của đất nước này khó mà thay đổi được bằng góp ư, kiến nghị, xin phép và mong rằng "họ sẽ chịu". Vận mạng của dân tộc này chỉ thay đổi bằng tranh đấu và tạo sức ép buộc những kẻ cầm quyền phải nhượng bộ hay tan hàng.

    Do đó, nếu lên tiếng chỉ cần một câu: Chúng tôi, những công dân có tên sau đây không chấp nhận điều 4 trong hiến pháp. Và cùng nhau kư tên. Thái độ cần phải có của những công dân có trách nhiệm: đây không phải là một lời góp ư với ai cả mà là một khẳng định ư chí; đây là mục tiêu của tranh đấu chứ không phải mong mỏi của một sự xin cho.

    Đă đến lúc cần ngừng những việc làm vô ích của góp ư, xin xỏ, thuyết phục, kiến nghị đối với tập đoàn thiểu số cai trị về nội dung của một văn bản mà đúng ra là của đại số nhân dân. Hăy bắt đầu chấm dứt t́nh trạng một tập thể 90 triệu người bị một thiểu số cộng sản đè đầu cưỡi cổ, hành xử theo sự xin-cho của họ. Có sự dứt khoát như thế th́ mới c̣n có đầu óc và ư chí để t́m phương thức cùng nhau dẹp hẳn cái chế độ này.

    Mọi cuộc cách mạng đều phải bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát ngay cả vào những lúc mà ta cảm thấy tuyệt vọng và yếu đuối nhất.


    Vũ Đông Hà
    danlambaovn.blogspot .com

  6. #196
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đừng t́m X nữa, thưa các ông lănh đạo đảng & nhà nước
    Tâm 8X (Danlambao)


    "Hăy cắt đứt cục ung bưới chế độ mang tên “CHXNCN Việt Nam”, để 1 tương lai con cháu bớt lầm tham…"



    - Trong lần trả lời phỏng vấn mới đây của ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang với TTXVN. Khi được hỏi: “Chủ tịch nước đánh giá như thế nào về sự tin tưởng của nhân dân đối với chế độ?”

    Ông đă trả lời: “…Niềm tin đó đang bị thách thức và suy giảm do tệ tham nhũng, lăng phí, suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

    Nhưng tôi tin, nhân dân bao dung vẫn tin và kỳ vọng vào Đảng nếu Đảng kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm trong bộ máy của ḿnh. Tuy vậy, không được lạm dụng ḷng tin của nhân dân.”

    Tôi cho rằng, với cái cương vị người đứng đầu nhà nước và cũng được xem là một đảng viên Đảng cộng sản lăo thành. Câu trả lời có thể được xem xét như một sự suy tư, trăn trở của 1 người cộng sản về niềm tin của dân đối với bản thân ông và tổ chức của các ông.

    Nhưng thiết nghĩ rằng, niềm tin đó không phải đang bị thách thức và suy giảm mà nó đă hoàn toàn biến mất ở đại đa số người dân và đảng viên. Chỉ những ai c̣n mang tư tưởng lạc quan tiếu mới nghĩ rằng nó c̣n đang ở quá tŕnh “bị thách thức”.

    V́ sao? Chính ông đă trả lời: “nhiều người mất việc, không có việc làm, nghèo đói; tham nhũng, lăng phí không kiên quyết ngăn chặn có hiệu quả th́ làm sao tin”. Nhưng trên cả, theo tôi là dân đă mất hoàn toàn niềm tin vào hệ thống chính trị hiện thời, vào sự cái tṛ lừa bịp mang cái tên thật dài “kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm trong bộ máy” nhà nước và chế độ hiện thời.

    Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trả lời phỏng vấn báo chí.
    (Nguồn: TTXVN)
    Cái khái niệm “dân chủ hóa, tự do hóa, nhân quyền hóa” được cái ông loắt léo theo nghĩa “chế độ XHCN ta” để rồi nó để ra một loạt cái h́nh thức dân chủ quái thai như: bầu Quốc hội được Đảng ta chỉ định và bộ máy sẽ dẫn dắt “chủ nhân” đi bầu như dẫn như “lũ trẻ mẫu giáo nhỡ đến trường”; chỉnh sửa Hiến pháp th́ được các ông phán không có vùng cấm sau lại răn đe cấm sửa những điều liên quan đến lợi ích của Đảng với cái án treo lơ lửng trên 86 triệu dân là “tuyên truyền, kích động chống lại nhà nước XHCN”…

    V́ thế, trong khi ông kỳ vọng được nhân dân “bao dung” để Đảng cộng sản “kịp thời chỉnh đốn, sửa chữa những yếu kém” th́ cá nhân tôi lại tự hỏi, cái “kịp thời” được tính bằng bao nhiêu năm, được trả giá bằng bao nhiều tài nguyên, được tính bằng bao nhiêu con người phải vào tù tội v́ đ̣i quyền được làm người trong 1 xă hội văn ḿnh, hiện đại, bao nhiêu tỉ đô la tiền thuế, tài nguyên quốc gia chảy vào túi các ông và ngự ở một ngân hàng trời Tây nào đó.

    Tôi tự hỏi, ông quá ngây thơ hay cái lư luận Mác-Lenin khiến ông không mù trước thực tiễn xă hội đang diễn ra.

    Ngay người đồng nghiệ của ông, người đứng đầu Đảng cộng sản (một tổ chức mà ông đang trăn trở) là ông Tổng Nguyễn Phú Trọng trong bài trả lời TTXVN trước thềm năm Quư Tỵ đă nói về Nghị quyết 4 (Nghị quyết về chỉnh đốn Đảng) nhấn mạnh "chủ yếu là để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, ngăn chặn" và "nếu ai không chịu nhận khuyết điểm, không chịu sửa th́ mới kỷ luật, xử lư".

    Tôi tự hỏi rằng, nếu đảng viên, lănh đạo mà sướng như thế này. Gây ra hậu quả nghiêm trọng rồi nhận khuyết điểm và kết quả lại không bị xử lư th́ quyền lợi của nhân dân đă bị vứt đi đâu rồi??? Phải chăng đó là cách để các ông giữ được quyền lợi của đảng viên, của cái chế độ cộng sản mà các ông đang nắm quyền. Nói đúng hơn, các ông đă ích kỷ trong giai cấp nên không đủ nhân tâm để nh́n về phía nhân dân. Ông tổng và cái tṛ hề “nghị quyết 4” đă tạo điều kiện cho bọn sâu mọt tàn phá nền kinh tế đất nước, làm băng hoại niềm tin vào xă hội, tạo ra một thế hệ thờ ơ với nền chính trị nước nhà và vật vờ trước tương lai.

    Vậy mà đầu năm mới, các ông lại đ̣i hỏi nhân dân “vẫn tin và kỳ vọng” vào cái chế độ của 3 triệu người mục ruỗng, thối nát này.

    Tôi xin ông/ xin các ông hăy đừng diễn cái tṛ hề dân chủ, tṛ hề niềm tin ở đất nước này nữa. Cũng như đừng đi t́m X nữa, X ở trong chính con người, chính cái thể chế này đấy thôi.

    Hăy cắt đứt cục ung bưới chế độ mang tên “CHXNCN Việt Nam”, để 1 tương lai con cháu bớt lầm tham…

    Tâm 8X
    danlambaovn.blogspot .com

  7. #197
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Đừng lấy dối trá làm lẽ sống
    Aleksandr Solzhenitsyn - Thái Phục Nhĩ (Danlambao) dịch -



    Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất ḱ sự dối trá nào. Khi chúng ta đă biết bản chất của hư ngụy ở đâu, th́ chúng ta mỗi người sẽ biết cách nh́n ra đâu là dối, đâu là thật.

    Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ư thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, th́ chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái ǵ cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ...

    *

    Đă có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ th́ chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Khoa Học Viện hút thuốc gặp nhau th́ cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng:

    Chúng đang giở tṛ ǵ đây? Chúng c̣n xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dă man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ - rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra ṭa th́ đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những tṛ đó, c̣n chúng ta th́ bất lực.

    Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đă chết hết, c̣n thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn b́nh chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm ǵ mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

    Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ v́ miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của ḿnh, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế - miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của ḿnh là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt t́nh. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đă nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí. Chúng ta sợ lạc đàn, sợ đi một ḿnh không có cơm ăn, không có khí đốt, không có hộ khẩu thành phố. [i]

    Chúng ta bị nhồi sọ chính trị, bị người ta tiêm cho cái ư nghĩ phải an thân đă, rồi sau sẽ tốt đẹp hết. Chúng ta không thoát khỏi được hoàn cảnh và điều kiện xă hội của ḿnh. Cuộc sống hàng ngày quyết định ư thức. Chúng ta th́ có liên quan ǵ tới mấy việc đó? Và có thật là chúng ta không thay đổi được ǵ không?

    Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối ḷng ḿnh để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách th́ trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: th́ ông muốn nghĩ ǵ mà chẳng được. Chúng đă dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được năo trạng của chúng.

    Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm ǵ có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có băi công và biểu t́nh phản đối, c̣n chúng ta th́ bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đă thấy rùng ḿnh: ai dám th́nh ĺnh bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đă ṃ mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

    Bây giờ búa liềm đă làm xong việc, hạt giống gieo xuống đă nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ c̣n trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại b́nh đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối.

    Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hăy để cho tay của chúng tôi trong sạch.

    Cái ṿng trói buộc này đă đóng chặt rồi sao? Không c̣n lối thoát? Và chúng ta chỉ c̣n một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự ḿnh chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – th́ đừng mong có chuyện ǵ xảy ra.

    Bạo động len lỏi vào cuộc sống an b́nh, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – v́ không phải ngày nào nó cũng tḥ bàn tay thô bạo của nó ra được, mà tḥ ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoăn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.

    Cái ch́a khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lăng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

    Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái ṿng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nh́n mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. V́ rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

    Chúng ta không cần phải ám thị ḿnh. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của ḿnh. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều ǵ ḿnh không nghĩ th́ chúng ta từ chối đừng nói là được.

    Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đă chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này c̣n nguy hiểm hơn.

    Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất ḱ sự dối trá nào. Khi chúng ta đă biết bản chất của hư ngụy ở đâu, th́ chúng ta mỗi người sẽ biết cách nh́n ra đâu là dối, đâu là thật.

    Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ư thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, th́ chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái ǵ cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

    V́ thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hăy lựa cho ḿnh: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái ḿnh trong tinh thần dối trá không phải v́ đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đ́nh – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.

    Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:

    • Bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;

    • Không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ư ḿnh hay theo ư người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng tṛ trên sân khấu;

    • Không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ư tưởng nào chúng ta thấy rơ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;

    • Không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy ḷng ai đó, hay để lót đường cho ḿnh, hay để thành công trong công việc nếu ḿnh không hoàn toàn đồng ư với ư tưởng trích dẫn, hoặc nếu ư trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;

    • Không để cho ḿnh bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ư nguyện ḿnh, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào ḿnh không hoàn toàn chấp nhận;

    • Không giơ tay biểu đồng t́nh cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người ḿnh cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;

    • Không để cho ḿnh bị lôi tới những cuộc họp mà ḿnh đoán người ta sẽ bức ḿnh thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;

    • Lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết tŕnh, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ư thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;

    • Không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.

    Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện ḿnh sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

    Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, th́ những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, v́ khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.

    Nhưng không có lối đi nào dễ dăi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những t́nh huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ t́m được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần. C̣n những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn ḿnh– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của ḿnh mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang ḿnh là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hăy tự nói với ḿnh: Ḿnh thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng th́ thôi.

    Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không d́m thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đ́nh anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

    Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đă cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng th́ tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao? [ii]

    Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách th́ cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn th́ không c̣n cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đă theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ v́ họ lấy chân thật làm lẽ sống.

    Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập ḍng người đă dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau th́ con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người th́ bọn chúng sẽ không làm ǵ được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người th́ đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không c̣n nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, th́ đừng trách người ta đàn áp ḿnh măi.

    Chính chúng ta đang tự ḿnh đàn áp ḿnh đấy. Lúc đó th́ hăy khom lưng xuống nữa, hăy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, t́m ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.

    Và nếu thậm chí đă chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, th́ chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không c̣n cách ǵ cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin: "Đồ súc sinh th́ làm ǵ có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”

    Aleksandr Solzhenitsyn

    Người dịch:

    Thái Phục Nhĩ
    danlambaovn.blogspot .com

  8. #198
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hàng trăm trí thức kiến nghị đa đảng
    RFA 23.01.2013

    Gần 800 nhà trí thức tại Việt Nam hôm qua đă kư thỉnh nguyện thư trên mạng kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng và tổ chức bầu cử tự do.

    Thỉnh nguyện thư này, phát họa một bản hiến pháp khác, được phổ biến trên nhiều trang blog nổi tiếng hôm thứ Ba để đáp ứng việc đảng CSVN yêu cầu dân chúng góp ư về những khoản tu chính hiến pháp.

    Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đ́nh Lộc, thuộc trong số cựu viên chức cao cấp kư tên trong thỉnh nguyện thư, cho biết Hiến pháp năm 1992 được đề ra vào những năm đầu của chính sách đổi mới, do đó không con phù hợp với hiện t́nh đất nước. Cho nên bản hiến pháp như đề nghị trong thỉnh nguyện thư là tốt hơn văn kiện hiện giờ; và điều tốt nhất là Việt Nam phải có hệ thống đa đảng trong lúc này.

    Theo bà Nguyễn Thu Nga, nhân viên tại một văn pḥng ở Hà Nội, th́ diễn tiến vừa nói rất trọng hệ cho hệ thống chính trị Việt Nam; người CS phải chấp nhận thỉnh nguyện thư này thay v́ chống lại trí thức.

    Bản Hiến pháp đề nghị trong thỉnh nguyện thư cũng kêu gọi đổi tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, thay v́ Cộng ḥa XHCNVN, đồng thời thực hiện tam quyền phân lập giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp.

    Mặc dù nhà cầm quyền cho biết sẽ tiếp thu ư kiến của công chúng về đề nghị tu chính hiến pháp, nhưng những vấn đề như bầu cử đa đảng, quyền tư hữu đất đai của người dân bị loại khỏi tiến tŕnh tham khảo ư kiến.

  9. #199
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Chín muồi tới mức độ nào?…
    (Nguyễn Gia Kiểng)



    “…Quần chúng Việt Nam đă chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức th́ không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đă sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy…”


    Tháng 01-2013. Bạn tôi vừa về thăm nhà trong một tháng. Anh ta về Việt Nam rất thường xuyên. Việt kiều tốt, nhiều lần được tuyên dương, hộ chiếu năm năm. Lần này gặp tôi anh nói một cách sôi nổi: "Việt Nam đă chín muồi cho một cuộc thay đổi chế độ rồi". Kế tiếp là một tường thuật chi tiết và chính xác về t́nh h́nh chính trị, kinh tế, xă hội. Anh là một chuyên gia cao cấp và cũng có kiến thức cao về chính trị. Anh rất quả quyết, một trong những lư do là: "Trong suốt một tháng tao không thấy ai không chửi Nguyễn Tấn Dũng". Nhưng khi tôi hỏi: "Liệu có chín muồi đến độ dân chủ có thể thắng mà không cần một tổ chức dân chủ mạnh không?" th́ anh như bị mất hứng, v́ câu hỏi gợi lại nhiều cuộc thảo luận giữa chúng tôi trước đây.



    Sự kiện quan trọng nhất trong năm 2012 là Đảng Cộng Sản Việt Nam đă chết (1). Chết thực sự dù chưa khai tử. Đó đă là năm mà những cố gắng phi thường đă được đổ ra để chấn chỉnh và cứu đảng, với kết quả là một con số không. Hội nghị trung ương 6, và kỳ họp quốc hội ngay sau đó, đă chứng tỏ một cách hùng hồn rằng căn bệnh của ĐCSVN không có thuốc chữa.

    Đối với đời sống dân chúng sự kiện quan trọng nhất là kinh tế sa sút. Sa sút rất nặng dù chính quyền vẫn c̣n biện luận lúng túng đàng sau những con số thống kê giả tạo. Đà suy sụp là chắc chắn và không thể đảo ngược được v́ chế độ CSVN đă bị các nước dân chủ và các nhà đầu tư nh́n như một chế độ côn đồ trong khi kinh tế Việt Nam quá phụ thuộc ngoại thương. Năm 2013 rất có thể sẽ là năm mà kinh tế phá sản, kéo theo những thảm kịch tương tự như trong thập niên 1980. Khác ở chỗ quần chúng Việt Nam ngày nay có sức mạnh hơn, hiểu biết hơn và ít sợ hơn. Bạo loạn có thể bùng nổ.

    Đối với những người dân chủ năm 2012 đă là năm gia tăng đàn áp. Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) làm ǵ mà bị xử 12 năm tù sau khi đă ở tù ba năm? Điếu Cày viết rất ít và những ǵ anh viết ra cũng không thách đố chính quyền. Điếu Cày và Tạ Phong Tần bị trừng phạt nặng v́ họ bị coi là đầu tàu của một tổ chức đang thái nghén: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đă tuyên bố là nhất định không để "nhen nhúm" những tổ chức đối lập. Một tội nặng khác của Điếu Cày và Tạ Phong Tần là họ đă xuất hiện như những người dẫn đầu các cuộc biểu t́nh chống Trung Quốc. Năm 2012 cũng đă là năm mà chính quyền CSVN khẳng định đứng hẳn về phía Trung Quốc. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một trong vài người nhiều quyền lực nhất hiện nay, tuyên bố thẳng thừng: "Việt Nam không c̣n bất cứ băn khoăn ǵ khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực ". Không c̣n bất cứ băn khoăn nào dù Trung Quốc cắt dây cáp tầu thăm ḍ địa chấn của Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam, tiếp tục khủng bố ngư dân Việt Nam và cho in h́nh Hoàng sa, Trường Sa và cái lưỡi ḅ lên hộ chiếu. Không c̣n băn khoăn v́ một lư do giản dị là không được quyền băn khoăn nữa, họ đă chấp nhận phục tùng Trung Quốc vô điều kiện. Chọn lựa ô nhục và tai hại này dĩ nhiên là nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận và có hậu quả là đổ thêm dầu vào lửa phẫn nộ của nhân dân.

    Tóm lại nhân dân phẫn nộ và không c̣n sợ như trước nữa trong khi chính quyền đă quyết định đàn áp thẳng tay. Xung đột chính quyền – nhân dân đă đi vào logic leo thang trong khi chính quyền cộng sản đă rạn nứt dưới trọng lượng của những xung đột nội bộ. Bạn tôi quả là có lư do để nghĩ rằng Việt Nam đă chín muồi cho cuộc cách mạng dân chủ.

    Câu hỏi của tôi làm anh khựng lại bởi v́ chúng tôi đă từng là chí hữu. Cách đây ba mươi năm chúng tôi đă cùng tham gia thành lập một nhóm chính trị sau này mang tên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Trừ hai chuyên gia mà anh bạn là một, tất cả đều là những cựu viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Công Ḥa đă suy nghĩ rất nhiều trong tù sau ngày 30-4-1975. Đồng thuận đầu tiên của chúng tôi là nhất định phải thay đổi chế độ th́ đất nước mới có thể tồn tại và vươn lên, nhưng cũng không thể có vấn đề phục hồi chế độ VNCH; đấu tranh chính trị từ nay chỉ có ư nghĩa và hy vọng nếu là cuộc đấu tranh v́ dân chủ bằng phương thức bất bạo động qui tụ một cách b́nh đẳng những người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị. Sau đó chúng tôi dành trọn hai năm để nghiên cứu và thảo luận trong tinh thần gạt bỏ mọi trói buộc và thành kiến để khảo sát thực trạng Việt Nam và tất cả những thay đổi chế độ đă diễn ra trên thế giới. Đó đă là hai năm của một cuộc thám hiểm trí tuệ sôi sục và đầy đam mê. Kết luận của chúng tôi là cuộc cách mạng dân chủ sẽ rất dài và khó khăn. Cả hai chuyên gia đều đă rời nhóm sau đó trong t́nh bạn; họ hoàn toàn đồng ư với những suy nghĩ chung nhưng họ tự thấy không đủ kiên nhẫn. Anh bạn chọn con đường hợp tác để thay đổi chế độ từ bên trong. Anh nói if you can't beat them, join them (nếu không đánh bại được họ th́ hăy hợp tác với họ). Anh là một người thực tiễn.

    Trước hết chúng tôi coi chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn và nghiên cứu những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công. Chúng tôi t́m ra bốn điều kiện vừa cần vừa đủ:

    1/người dân trong nước đồng thuận rằng chế độ hiện có là tệ hại và phải thay đổi;

    2/ đảng hoặc nhóm cầm quyền mất lư tưởng, trở thành đạo tặc, chia rẽ nội bộ và không c̣n sức sống và khả năng tự vệ của một tập thể;

    3/người dân trong nước đồng thuận về một chế độ mới phải có; và

    4/có một tổ chức đủ mạnh để làm tụ điểm cho nguyện vọng đổi mới.

    Vào thời điểm 1984, khi chúng tôi nhận ra những điều kiện này, t́nh h́nh Việt Nam đúng là chưa chín muồi. Người dân trong Nam cũng như ngoài Bắc quả là rất thất vọng với chính quyền cộng sản nhưng đảng cộng sản dù rất bối rối cũng c̣n khá gắn bó. Mặt khác chưa có đồng thuận dân tộc về một chế độ mới; đa số đảng viên cộng sản v́ nhiều lư do khác nhau c̣n gắn bó với đảng trong khi đa số những người đấu tranh tại hải ngoại chỉ muốn lập lại chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.

    Trong bốn điều kiện này điều kiện thứ tư, nghĩa là tổ chức, là điều kiện quan trọng nhất và cũng là điều kiện hoàn toàn thiếu vắng, thậm chí c̣n có những trở ngại. V́ thế chúng tôi đă nghiên cứu và thảo luận nhiều nhất về tiến tŕnh thành lập và hành động của một đảng cách mạng. Và kết luận đă rất đặc sắc. Nó trái ngược hẳn với thành kiến chung không biết từ đâu mà có của trí thức Việt Nam về đấu tranh chính trị. Chúng tôi đă nhận diện năm giai đoạn đấu tranh cách mạng:

    1/ xây dựng một tư tưởng chính trị;

    2/ xây dựng một đội ngũ ṇng cốt

    3/ xây dựng và kiểm điểm phương tiện

    4/ xây dựng cơ sở quần chúng

    5/ vận động quần chúng đứng dậy và tiến công giành chính quyền.

    Kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn cho thấy trong năm giai đoạn này hai giai đoạn đầu khó khăn và dài nhất. Phải vài thập niên mới xây dựng được một tư tưởng chính trị đúng nghĩa và một đội ngũ ṇng cốt đúng nghĩa, nhưng một khi đă có hai yếu tố này rồi th́ tổ chức có thể vận dụng một cơ hội để giành thắng lợi trong và́ năm, thậm chí vài tháng.

    Đối chiếu với t́nh h́nh Việt Nam chúng tôi nhận định rằng thời gian để xậy dựng tổ chức có thể c̣n lâu hơn do di sản văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam, nhất là trí thức, không những không có tổ chức mà c̣n dị ứng với tổ chức, hay nếu có nh́n thấy sự cần thiết của tổ chức th́ cũng không hiểu sự khó khăn của nó, và thường nhảy xổ vào giai đoạn vận động quần chúng nổi dậy, nghĩa là giai đoạn cuối cùng của tiến tŕnh đấu tranh. Không khác ǵ chỉ muốn hái quả mà không chịu trồng cây. Những manh động như vậy chỉ có thể thất bại và gây thất vọng. Chúng tôi kết luận: dù phải kiên tŕ trong nhiều thập niên, nghĩa là dài hơn vốn thời gian hoạt động của hầu hết anh em chúng tôi, cũng phải xây dựng tổ chức v́ không có chọn lựa nào khác. Chính kết luận này, mà tất cả chúng tôi đều hoàn toàn nhất trí, đă khiến hai anh bạn chuyên gia rời tổ chức. B́nh thường người ta chia tay v́ không đồng ư, ở đây chúng tôi chia tay v́ đồng ư. Chúng tôi vẫn là bạn.

    Ngay cả giai đoạn vận động quần chúng mà nhiều người và tổ chức cho là công việc duy nhất của cuộc đấu tranh v́ dân chủ cũng không như họ tưởng. Đă có vô số kinh nghiệm và nghiên cứu về chủ đề này và tất cả đều có cùng một kết luận là một khối quần chúng dù đông đảo và bị ức hiếp đến đâu cũng không nổi dậy đánh đổ tập đoàn thống trị. Họ chỉ nổi dậy khi đă hội đủ hai điều kiện :

    - Một là họ ư thức một cách rơ rệt rằng họ là một khối người liên đới với nhau trong một số phận chung đang bị một nhóm người khác ức hiếp. Nói cách khác, một mặt, phải có một giải pháp chung cho tất cả chứ mỗi người không thể luồn lách để tự giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân; và, mặt khác, phải có sự hiện hữu được nhận diện một cách rơ rệt của hai tập thể : một tập thể ta và một tập thể địch.

    - Hai là quần chúng chỉ đứng dậy tranh đấu nếucó mộttổ chức để động viên và lănh đạo họ và tổ chức này phải đủ mạnh để đem lại cho họ niềm tin vào thắng lợi. Quần chúng không lăng mạn.

    Chưa xây dựng được một tổ chức mạnh th́ không động viên được quần chúng, cùng lắm chỉ động viên được một số nhỏ, rồi thất bại và gây thất vọng, như kinh nghiệm của hơn ba mươi năm qua đă chứng tỏ.

    Chuyển động xă hội đưa đến cuộc cách mạng thay đổi chế độ diễn ra như thế nào? Điều kiện thứ hai trong bốn điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công là đảng cầm quyền mất lư tưởng và phân hóa để chỉ c̣n là một hư cấu, chế độ chuyển từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Từ đó, bất măn và phẫn nộ tập trung vào một khuôn mặt cụ thể và dễ bộc lộ hơn trong khi đàn áp cũng gia tăng một cách tự nhiên v́ quyết định nằm trong tay một người và người đó lại chính là đối tượng bị chống đối. Ṿng xoắn leo thang phẫn nộ - chống đối – đàn áp - chống đối này sẽ đưa nhiều thành phần xă hội nhập cuộc đấu tranh cho dân chủ. Kinh nghiệm cho thấy trong hầu như mọi trường hợp chuyển hóa về dân chủ các thành phần này thường nhập cuộc theo cùng một thứ tự đă được nhiều nghiên cứu xác định, đặc biệt là một công tŕnh nghiên cứu rất công phu của Trung Tâm Woodrow Wilson Center, cho đến nay chưa bị phản bác, qui tụ một số lượng đông đảo những nhà nghiên cứu có uy tín trong hơn hai năm từ 1979 đến 1981.

    -Đầu tiên là giới văn nghệ sĩ, những người cần tự do nhất để có thể sáng tạo đồng thời cũng là những người có bản chất phóng khoáng và chính quyền cũng không lo ngại. Lớp người này tuy ít và hiểu biết chính trị sơ sài nhưng lại có một khả năng động viên lớn do sức thu hút quần chúng của họ.

    -Kế tiếp là thành phần cởi mở trong đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước. Cần nhấn mạnh rằng mục đích ban đầu của thành phần này không phải là thay đổi chế độ mà là bảo vệ chế độ. Một phần v́ cảm thấy không được đăi ngộ xứng đáng, một phần v́ sáng suốt, họ tin rằng chế độ không thể tồn tại như hiện trạng và họ vận động cải tiến nó để giúp nó tiếp tục tồn tại. Chỉ sau khi những cố gắng này chứng tỏ rơ ràng là tuyệt vọng họ mới đứng về phe dân chủ.

    -Sau đó là các tập hợp ngành nghề, như các đoàn thể nhà báo, luật gia, y sĩ, kiến trúc sư, nhà giáo, nhà nông v.v. Tất cả đều bực bội v́ ngành nghề của họ bị bế tắc do chính quyền. Đặc tính chung của những chế độ độc tài tham nhũng là tất cả mọi ngành nghề đều bị chèn ép, quyền lợi tập trung trong tay một vài băng đảng tay chân của chính quyền, v́ thế mỗi tập thể đều là một trái bom nổ chậm và khi một ngành đứng dậy phản đối th́ một cách nhanh chóng các ngành nghề khác cũng hưởng ứng theo.

    -Sau cùng là tuổi trẻ, thanh niên và sinh viên. Khi tuổi trẻ đă nhập cuộc một cách đông đảo th́ sự sụp đổ của chính quyền là điều chắc chắn.



    Những nghiên cứu này có thể giúp giải thích biến cố Thiên An Môn năm 1989 trong đó sinh viên Trung Quốc đă nổi dậy và bị tàn sát nhưng sau đó chính quyền cộng sản Trung Quốc vẫn đứng vững. Đó là v́ tuổi trẻ Trung Quốc đă nổi dậy bồng bột và đơn độc trong một xă hội chưa sẵn sàng. Con số 10.000 sinh viên trong một nước với 1.300 triệu người cũng là một tỷ lệ quá nhỏ. Chúng cũng giải thích tại sao t́nh h́nh Việt Nam đă không chuyển động cho tới nay, đồng thời cho phép đánh giá mức độ chín muồi của tiến tŕnh dân chủ hóa tại nước ta.

    Giới văn nghệ sĩ Việt Nam đă bất động; họ không cần tự do v́ không có nhu cầu sáng tạo. Văn học và nghệ thuật Việt Nam không sáng tạo và do đó không làm nảy sinh nhu cầu đ̣i tự do. Điều này chúng ta có thể thấy rơ, văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại không bị kềm kẹp nhưng cũng không có sáng tạo nào dù những thảm kịch của giai đoạn lịch sử vừa qua đă có thể là chủ đề cho những tác phẩm rất lớn, các ca sĩ hát đi hát lại những bản nhạc đă quá cũ về cả nhạc lẫn lời và ư. Chỉ mới gần đây mới có những hiện tượng Việt Khang, Kim Chi v.v. Hy vọng đó là những con én báo mùa xuân.

    Các tập thể nghề nghiệp cũng không nhiều tâm sự. Kể cả hai tập thể đông đảo đáng lẽ phải rất đau nhức là giới nhà báo và giới luật gia. Họ bị bắt buộc phải hàng ngày phản bội nghề nghiệp và danh dự của ḿnh, nhà báo phải xuyên tạc, thẩm phán phải xử ngược với luật pháp và lương tâm, luật sư không được bào chữa tận t́nh. Thậm chí cơ quan lập pháp cao nhất, quốc hội, cũng là cơ quan quyền lực cao nhất trên danh nghĩa, cũng không hề phiền ḷng khi luật pháp và hiến pháp bị vi phạm thô bạo. Chắc chắn tuyệt đại đa số "đại biểu" tin chắc rằng vai tṛ của quốc hội chỉ là để làm công cụ cho chính phủ và không cần thắc mắc.

    Vậy phải chăng chỉ c̣n trông đợi ở những "thành phần sáng suốt" trong đảng và nhà nước cộng sản? Không ít người tin như vậy, nghĩa là Việt Nam chỉ có thể thay đổi nhờ một "Gorbachev Việt Nam" hay là nhờ đảng cộng sản tự vỡ, tự tách. Nếu như thế th́ c̣n phải chờ đợi rất lâu v́ các "thành phần sáng suốt" này hoặc chỉ muốn chấn chỉnh đảng để có thể chống lại dân chủ, hoặc chỉ lên tiếng kêu gọi dân chủ một cách rụt rè sau khi đă trở thành những vị "nguyên là". Các xung khắc trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản có và ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đẩy một cấp lănh đạo thất vọng nào vào hàng ngũ dân chủ.

    Một số người, chủ yếu ở hải ngoại, hy vọng khối dân oan sẽ là chủ lực của cuộc tiến công giành dân chủ. Nhưng khối dân oan là một khối cần được giúp đỡ hơn là một lực lượng. Họ không phải là một tập thể liên đới. Họ đi cùng nhau nhưng không có đ̣i hỏi chung. Họ chỉ có thể hưởng ứng và tăng cường cuộc nổi dậy đ̣i dân chủ chứ không thể là chủ lực.

    Nhưng tại sao các thành phần đáng lẽ phải đi đầu trong đấu tranh dân chủ hóa lại bất động như thế? Đó là v́ mọi thành phần xă hội đều phải do trí thức lănh đạo, nhất là trong kỷ nguyên tri thức này, trong khi trí thức Việt Nam nhất định không chịu đảm nhiệm vai tṛ của ḿnh. Thay đổi từ độc tài sang dân chủ là một cuộc cách mạng lớn, rất lớn, nhưng trí thức Việt Nam, hậu duệ của giai cấp sĩ ngày xưa, chỉ có văn hoá làm quan chứ không có văn hóa cách mạng, họ được đào tạo và tự đào tạo để làm công cụ cho một chế độ chứ không phải để thay đổi chế độ. Cái kẹt của chúng ta là thế. Quần chúng Việt Nam đă chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức th́ không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đă sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy. T́nh trạng này không mới, nó chỉ là sự tiếp nối của một di sản lịch sử và văn hóa. Do ảnh hưởng tồi tệ của Khổng Giáo, một hằng số trong lịch sử Việt Nam và Trung Hoa là những thay đổi chế độ đều hoàn toàn không do kẻ sĩ mà do những vương tôn, những vơ tướng hay những anh hùng áo vải xuất phát từ quần chúng.

    Trí thức Việt Nam thừa hưởng của giai cấp sĩ ít nhất hai tật nguyền nặng nề.

    Một là họ hoàn toàn không có văn hóa chính trị. Những sĩ tử đậu những khoá thi thơ phú vớ vẩn được cử làm quan trị dân để lại cho lớp hậu duệ thành kiến tệ hại là làm chính trị không cần phải học. Trí thức Việt Nam không có kiến thức chính trị không phải v́ không học nổi mà v́ không thấy cần phải học.

    Tật nguyền thứ hai, c̣n nghiêm trọng hơn, là họ không yêu nước. Tổ quốc trước hết là đồng bào, yêu nước trước hết là quí trọng đồng bào của ḿnh nhưng mộng đời của kẻ sĩ trong hàng ngàn năm đă chỉ là được làm quan để "giúp vua trị nước", nghĩa là làm tay sai cho một bạo quyền để thống trị và bóc lột quần chúng. Trong mỗi trí thức Việt Nam đều mai phục một tên phản quốc. Đó là lư do khiến trí thức Việt Nam không phẫn nộ trước một chính quyền kéo đất nước vào thảm họa một cách hung bạo, hay không đủ phẫn nộ để thấy phải có phản ứng.

    Trí thức Việt Nam vẫn chứng tỏ chưa khắc phục được hai tật nguyền truyền kiếp này.

    Nói như thế không có nghĩa là đất nước không có lối thoát. Trí thức Việt Nam về kiến thức và kỹ năng không thua kém trí thức nhiều nước dân chủ phát triển. Họ thiếu ư chí, nhưng ngay về điểm này họ cũng đă thay đổi khá nhiều. Tâng bốc chế độ cộng sản là điều không một trí thức nào c̣n đủ trơ trẽn để làm nữa. Anh bạn tôi kể chuyện một trí thức khá nổi tiếng từng đóng góp nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản. Vị này nói rằng: "Có lẽ chúng tôi lại sắp phải hy sinh một lần nữa". "Chúng tôi" là những vị "nguyên là" đă từng có danh phận trong chế độ. Hơi muộn, nhưng cũng c̣n hơn không.

    Nhưng hy vọng không phải ở đó. Hy vọng v́ một lư do khác. Lớp trí thức cũ có thức tỉnh và nhập cuộc th́ càng tốt nhưng họ không c̣n là thành phần không có không được nữa. Một lớp trí thức mới đă xuất hiện và ngày càng đông đảo. Họ không phải chỉ là những sinh viên. Các sinh viên chỉ là một thiểu số. Trong đại đa số họ là những người ở lứa tuổi 25 – 45, đă tốt nghiệp và đă tự lập. Họ gặp nhau, kết bạn và trao đổi với nhau trên mạng qua các Blog, Twitter, Facebook. Họ đă thất vọng với thế hệ cha anh và có lư. Thế hệ F. Họ ngày càng đông đảo và những trao đổi của họ càng ngày càng có chất lượng. Thực tế cơ bản của Việt Nam hiện nay là đang có hai không gian chính trị, một không gian thực trong đó người ta bắt buộc phải nói dối và một không gian ảo trong đó người ta nói thực. Chính quyền cộng sản khống chế không gian thực nhưng đă bị đánh bật khỏi không gian ảo mặc dù những phương tiện khổng lồ và một đội ngũ công an mạng hùng hậu bởi v́ không có ǵ để nói. Dùi cui và chó nghiệp vụ không thể sử dụng trên mạng. Trong thế giới ngày nay không gian mạng quan trọng hơn hẳn không gian thực và ngày càng áp đảo hơn nữa. Đă thất bại trên không gian mạng th́ chắc chắn sẽ thất bại trên thế giới thực. Một sản phẩm của không gian mạng là lớp người mà Việt Nam mong đợi nhưng chưa có: lớp trí thức chính trị. Thắng lợi của dân chủ sẽ tới khi lớp trí thức này đủ mạnh và gắn bó để dắt tay nhau từ không gian mạng bước ra đời thực. Quần chúng đă chín muồi và đang chờ đợi họ.

    Bao giờ? Không ai có thể quả quyết, chỉ biết chắc một điều là đặc tính của không gian mạng là sự nhanh chóng.

    Chúng ta cũng có thể đóng góp để tiến tŕnh này nhanh chóng hơn. Lớp người lớn tuổi bằng thái độ khuyến khích và hợp tác khiêm tốn. Lớp trẻ bằng cách dứt khoát đoạn tuyệt với văn hóa nhân sĩ của tầng lớp cha anh và quả quyết sống như những con người tự do, quả quyết sống khác với cách cha anh ḿnh đă sống. Họ sẽ hiểu, họ đang hiểu, rằng tự do và dân chủ không bao giờ miễn phí mà luôn luôn đ̣i hỏi phấn đấu và hy sinh để có. Và một khi đă quyết định đấu tranh tranh thực sự họ sẽ hiểu rằng chỉ có thể giành thắng lợi cho dân chủ nếu xây dựng được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Họ cũng sẽ hiểu phải làm ǵ và như thế nào trong mỗi chặng đường.

    (tháng 01/2013)
    Nguyễn Gia Kiểng

  10. #200
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Hai cuộc chiến: một nội dung, hai kết cuộc và nỗi tủi nhục Thành Đô (Lê Quế Lâm)


    “…Phải từ bỏ xă hội chủ nghĩa để đất nước tồn sinh. Mục tiêu xây dựng xă hội chủ nghĩa không c̣n th́ vai tṛ của Đảng CSVN cũng chấm dứt. Nhân kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris 1973, cầu mong mọi giới đồng bào kể cả những người lănh đạo đất nước nhận thức được điểm cốt lơi của bản hiệp định này…”








    Sách Bên Thắng Cuộc cuốn I Giải Phóng ghi lại các hành động trả thù và đối xử tàn tệ của CS Hà Nội đối với miền Nam sau ngày 30/4/1975. Sau đó áp đặt kinh tế xă hội chủ nghĩa khiến người dân miền Nam, đặc biệt là ông Vơ Văn Kiệt v́ sinh lộ của dân tộc phải phản ứng. Ông Kiệt đă “xé rào” làm sụp đổ các cơ chế xă hội chủ nghĩa đă cản trở bước tiến của đất nước, buộc giới lănh đạo chóp bu cực kỳ bảo thủ của Đảng CSVN phải chấp nhận “đổi mới”. Tác giả Huy Đức kết thúc bằng chương XI đề cập đến cuộc chiến Campuchia.

    Đại hội đồng LHQ trong 10 khóa liên tiếp đă lên án CSVN xâm lược Cam Bốt. Sau cùng Hà Nội chịu rút quân khỏi Campuchia đưa đến Hiệp Định Paris 1991, giúp các phe phái người Cam Bốt giải quyết công việc nội bộ của họ. Trước đây Hoa Kỳ cũng lên án CSVN xâm lược Miền Nam Việt Nam, đ̣i Hà Nội phải rút quân ra khỏi miền Nam. Nhưng ông Lê Đức Thọ chối không có quân BV ở MN. Kissinger trưng ra tài liệu chứng minh có quân BV ở MN, ông Thọ trả lời: nơi nào trên đất nước Việt Nam là có quân đội nhân dân Việt Nam. Những người CS cho rằng v́ nghĩa vụ dân tộc, họ giải phóng MN để thống nhất nước nhà, nhưng những hành động của họ sau 30/4/1975 qua sách Bên Thắng Cuộc cho thấy không phải họ “giải phóng” mà là xâm lược Miền Nam.

    Đọc chương này tôi liên tưởng đến cuộc chiến Giải phóng miền Nam của CSVN trước đó v́ hai cuộc chiến có những điểm trùng hợp cả nội dung lẫn h́nh thức. Chiến tranh giải phóng Miền Nam kéo dài 13 năm từ 1960 kết thúc bằng HĐ Paris 1973. Chiến tranh Campuchia cũng kéo dài 13 năm từ 1978 kết thúc bằng HĐ Paris 1991. Nội dung hiệp định này gần như rập khuôn HĐ Paris 1973.

    Cuộc chiến ở Campuchia khởi đầu từ cuối năm 1978 khi Hà Nội “xuất khẩu Cách mạng” dựng lên Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia, đưa quân sang Miên lấy cớ giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot được Trung Cộng hậu thuẫn. Tổ chức này ra đời 5 năm sau ngày chiến tranh VN chấm dứt bằng Hiệp định Paris 1973, kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần hai giữa CS/BV và HK. C̣n Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20/12/1960 nhằm lật đổ chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, bị lên án là tay sai của đế quốc Mỹ. MTGPMN ra đời, 6 năm sau khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc với HĐ Genève 1954.

    Cả hai mặt trận đều do Hà Nội dựng lên. Cương lĩnh cũng do Hà Nội soạn thảo và đều được CSVN tổ chức lễ ra mắt. Trung ương cục Miền Nam (Cục R) là một bộ phận của Đảng Lao động Việt Nam tức Đảng CSVN được thành lập ngày 23/1/1961 để trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam, chủ yếu là Nam Bộ. Tương tự như vậy, ở Miên năm 1978, Hà Nội thành lập “Ban chỉ đạo giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn” với mật danh là Ban B68. Bên cạnh có Đoàn chuyên gia giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự. Ở miền Nam có Cộng ḥa miền Nam Việt Nam, ở Cam Bốt có Cộng hoà Nhân dân Campuchia. Ở miền Nam có Bộ Tư lịnh R th́ ở Miên có Bộ Tư lệnh Quân T́nh nguyện VN tại Campuchia phụ trách về quân sự với phiên hiệu là “Bộ Tư lệnh 719”.

    Ở miền Nam có Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam, thực chất là đảng bộ miền Nam của Đảng Lao động VN do Vơ Chí Công, ủy viên Trung ương Đảng LĐVN làm chủ tịch. Ở Miên có Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Pen Soven, vốn là trưởng pḥng tiếng Khmer ở Đài Tiếng nói VN ở Hà Nội được ông Lê Đức Thọ cử làm Tổng bí thư. Trên thực tế mọi quyết định lớn đều do Hà Nội làm rồi truyền đạt cho Pen Sovan, “cái đầu thực sự là Đảng CSVN, cụ thể là Lê Đức Thọ”. Trong giai đoạn 1979-1981, nhóm Khmer CS “tập kết” ở miền Bắc VN khoảng 40 người, tŕnh độ rất giới hạn, được Lê Đức Thọ đưa về nắm giữ các chức vụ tổng bí thư, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bộ trưởng Quốc pḥng, 3 trong 8 ủy viên Bộ chính trị, 8 trong số 17 bộ trưởng, 7 trong số 29 chủ tịch hoặc bí thư các tỉnh thành ở Miên.

    Tác giả Huy Đức không đề cập đến những nguyên nhân đưa đến chiến tranh ở Campuchia, ông cũng không nói đến cuộc chiến xảy ra trên quê hương trước ngày 30/4/1975. Trong lời tựa, tác giả đă viết: “Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần trách nhiệm”. Ông Huy Đức ghi lại lịch sử theo chiều sâu: phỏng vấn rất nhiều nhân chứng để t́m hiểu tâm tư cũng như nổi thống khổ của đồng bào, cùng nhận định của những trợ lư từng cận kề những nhân vật lănh đạo CS có trách nhiệm. Cá nhân tôi ghi lại những biến cố theo chiều dài và rộng của lịch sử, từ 60 năm trước có sự can dự của 5 cường quốc thế giới, đă tác động như thế nào đối với dân tộc và đất nước?

    Nguyên ủy cuộc chiến Việt Nam

    Cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1949-1954) diễn ra giữa Pháp ủng hộ các chính quyền quốc gia vừa được Pháp trao trả độc lập, chống CS Việt Minh được Trung Cộng hậu thuẫn. Cuộc chiến có nguy cơ bùng nổ lớn khiến 3 cường quốc Anh, Nga, Mỹ họp với Pháp và Trung Cộng tại hội nghị Genève 1954 để t́m cách chấm dứt chiến tranh. Năm cường quốc đồng thỏa thuận chia cắt ảnh hưởng ba nước Đông Dương để chấm dứt cuộc xung đột ở đây: Miên và Lào trung lập, Việt Nam bị chia hai.

    Từ cuối thập niên 1950, t́nh h́nh thế giới đi vào giai đoạn ḥa hoăn. Ông HCM nêu ra nghĩa vụ dân tộc, phát động chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Lănh tụ Xô Viết Khruschev dù chủ trương chung sống ḥa b́nh với Mỹ, nhưng ủng hộ Hà Nội kháng chiến chống Mỹ v́ nghị quyết Đại hội III Đảng CSVN (1960) nêu ra nhiệm vụ chiến lược: giải phóng miền Nam để tăng cường phe xă hội chủ nghĩa. Về phần TC, sau trận đọ sức với Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Đông Dương, họ tách dần khỏi hệ thống XHCN do Liên Xô lănh đạo. TC từng bước h́nh thành Thế giới thứ ba dưới lá cờ độc lập dân tộc, chống cả Mỹ lẫn LX để bảo vệ nền độc lập các nước theo dân tộc chủ nghĩa. V́ thế TC ủng hộ ông HCM thống nhất Việt Nam v́ nghĩa vụ dân tộc.

    Theo chiều hướng đó, năm 1972 TT Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để t́m hậu thuẫn của hai nước đàn anh của CSVN để kết thúc chiến tranh Việt Nam. Chủ trương của HK là trung lập toàn vùng Đông Nam Á. Các nước ASEAN cũng ra tuyên bố ĐNÁ là khu vực ḥa b́nh, tự do, trung lập. HĐ Paris 1973 chấm dứt chiến tranh Việt Nam không làm thương tổn bất cứ cường quốc nào đă can dự vào cuộc chiến. Công việc miền Nam Việt Nam sẽ do nhân dân miền Nam Việt Nam quyết định thông qua một cuộc tổng tuyển cử tự do có quốc tế giám sát, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Chính phủ miền Nam do nhân dân bầu chọn sẽ hiệp thương với chính phủ miền Bắc để thống nhất đất nước theo tinh thần HĐ Genève 1954.

    Căn nguyên chiến tranh Campuchia

    Tại hội nghị Genève 1954, đại biểu Pháp và nhất là TT Chu Ân Lai đă nhiệt t́nh đấu tranh cho Lào và Cao Miên thoát khỏi ảnh hưởng của VN. Họ muốn hai nước này đứng ngoài cuộc tranh chấp Đông Tây với một h́nh hức trung lập như Ấn Độ và Nam Dương lúc bấy giờ. Từ đầu thập niên 1960, Hà Nội phát động cuộc chiến giải phóng miền Nam, họ xây dựng đường ṃn HCM để chuyển vận người và vũ khí vào MN. Quốc trưởng Sihanouk tin tưởng công cuộc giải phóng MN của ông HCM sẽ thành công v́ VN chiến đấu chống đế quốc Mỹ để giành độc lập cho dân tộc. Những mục tiêu này là chủ trương của Phong trào liên kết, bao gồm các nước mới giành được độc lập như Cam Bốt. Cuộc chiến này c̣n được LX và TC ủng hộ. Từ năm 1965, Sihanouk cắt đứt ngoại giao với Mỹ và cho phép BV xây dựng căn cứ địa ở các khu vực phía Đông nước Miên tiếp giáp VN. Hải cảng Sihanoukville (Kompong Som) được Sihanouk cho phép khối CS sử dụng để chuyển vũ khí và lương thực cung cấp cho lực lượng CSBV và VC ở MNVN.

    Tại các tỉnh Đông Bắc giáp giới ba nước ĐD, với sự hiện diện của nhiều đoàn cán bộ CSBV vừa hồi kết vừa xâm nhập, đă hỗ trợ đắc lực những trí thức trẻ thân cộng từng du học ở Pháp về như Khieu Samphan, Pol Pot, Ieng Sary, Penouth...từng bước phát triển Khmer Đỏ. Cần phân biệt thành phần CS Khmer có hai nhóm: một là Khmer Việt Minh hay Khmer Issarak h́nh thành trong giai đoạn chống thực dân Pháp. Hai là Khmer Đỏ chịu ảnh hưởng của TC.

    Trước sự phát triển của cánh tả, các lănh tụ có khuynh hướng quốc gia như Lon Nol, hoàng thân Sirak Matak, Cheng Heng, In Tam, Sơn ngọc Thành...h́nh thành cánh trung lập thân Tây phương. Tại VN sau biến cố Tết Mậu Thân quân CSVN bị đánh bật ra khỏi nội địa MN, phải chạy sang Miên ẩn náo. Từ tháng Giêng 1969 hai bên miền Nam đă cùng HK và BV tham dự ḥa đàm chấm dứt chiến tranh. Sihanouk rất lo lắng đến chủ quyền của đất nước trước việc bị CSVN khống chế và hỗ trợ Khmer Đỏ lật đổ ông. Với chủ trương của TT Nixon, cuộc chiến VN sẽ chấm dứt trong khi tại Miên chẳng có dấu hiệu nào cho thấy CSBV rút quân mà c̣n tăng cường thêm. Tháng 9/1970 TT Lon Nol được TC mời sang Bắc Kinh dự lễ Quốc khánh. Ngày 27/9/1969 tờ Nhân dân Nhật báo đang nguyên văn bản tuyên bố của Thủ tướng Lon Nol “bày tỏ sự tin tưởng TQ vĩ đại sẽ tôn trọng và làm cho người khác tôn trọng chủ quyền của Cam Bốt”.

    Tại Nam Vang cuối tháng Hai 1970 hai vạn thanh niên Miên đột nhập vào bên trong sứ quán Hà Nội và Chính phủ Cộng ḥa MNVN đập phá và tiêu hủy các tài liệu của sứ quán. Trước phản ứng của dân chúng về sự hiện diện của bộ đội CSVN trên đất nước họ, hai viện Quốc hội Miên đă yêu cầu chính phủ tái xác nhận nền trung lập của quốc gia, thúc giục chính phủ tăng cường lực lượng để bảo vệ lănh thổ. Ngày 13/3/1970 Bộ Ngoại giao Miên gởi công hàm yêu cầu BV và MTGPMN rút toàn bộ lực lượng vũ trang ra khỏi lănh thổ Miên trong ṿng hai ngày. Năm ngày sau Quốc hội biểu quyết với tỷ số 89/100 truất phế Sihanouk.

    Trong khi Lon Nol làm cuộc đảo chính th́ lực lượng Khmer Đỏ thừa cơ hội chính biến ở thủ đô, tiến chiếm nhiều vùng nông thôn. Hành động trước tiên của chính quyền mới ở Cam Bốt cả Lon Nol lẫn Khmer là xua đuổi người Việt. Đă đến giai đoạn người Cam Bốt thấy rơ con đường bị lệ thuộc Việt Nam hoặc bị Việt Nam đồng hóa không thể nào tránh khỏi v́ lỗi lầm của Sihanouk đă cho phép CSBV hoạt động ở Miên, nên hạ bệ ông. Lúc bấy giờ VNCH đă thảo luận với Lon Nol hồi hương hàng trăm ngàn kiều bào Việt Nam về nước. Trong khi đó tại các vùng do Khmer Đỏ kiểm soát, bộ độ CSVN cũng được yêu cầu rút đi.

    Để chống lại Việt Nam, tập đoàn Pol Pot gieo rắc tâm lư chống Việt Nam trong nhân dân Khmer, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”. Họ theo đuôi Bắc Kinh tố cáo Hà Nội theo chủ nghĩa xét lại, vừa đánh Mỹ vừa đàm phán với Mỹ để thoả hiệp với đế quốc và bọn xét lại quốc tế ám chỉ Liên Xô. Tháng 9/1970 trong nghị quyết của thường vụ TƯĐ Pol Pot kêu gọi đảng viên “đề cao lập trường độc lập tự chủ, chống tư tưởng lệ thuộc nước ngoài” với ư đồ rơ rệt chống CSVN trong nội bộ đảng. Pol Pot bắt đầu thủ tiêu hàng ngh́n cán bộ đảng viên có cảm t́nh với bộ đội CSVN trong đó có hơn 1000 tên được đào tạo ở miền Bắc VN. Trước 1969 có khoảng 400 ngàn Việt kiều sinh sống bằng nghề đánh cá và chài lưới trên các sông rạch và khu vực Biển Hồ. Phân nửa số này đă bị chính quyền Lon Nol tàn sát hoặc bị đuổi về Việt Nam. Số c̣n lại bị Pol Pot thanh toán từ 1973 đến 1975. Hàng chục ngàn Việt kiều bị kết tội gián điệp hoặc thuộc đội quân thứ 5 của CSVN đă bị Khmer Đỏ thủ tiêu.

    Ngay sau khi HĐ Paris 1973 được kư kết, Hoa Kỳ thuyết phục Lon Nol tuyên bố đơn phương đ́nh chỉ các cuộc hành quân và kêu gọi ngưng bắn ở Cam Bốt. Đồng thời Kissinger nhờ Phạm Hùng chuyển đến Pol Pot lời đề nghị giải quyết vấn đề Cam Bốt bằng một giải pháp chính trị như HĐ Paris về VN. Nếu không, HK sẽ dùng đến sức mạnh để tái lập ḥa b́nh. Khmer Đỏ bác bỏ đề nghị ngưng bắn mà c̣n mở các cuộc tấn công mới. V́ thái độ cứng rắn của Khmer Đỏ, HK bắt đầu dùng B52 phá hủy các cơ quan đơn vị của Khmer Đỏ trong 6 tháng liền từ khi HĐ Paris 1973 ra đời đến ngày 15/8/1973 là thời hạn cuối cùng mà chính quyền Nixon phải chấm dứt mọi hành động quân sự ở ĐD theo lịnh của Quốc hội. V́ những thù hận đó mà từ giữa năm 1973, Khmer Đỏ không những thanh lọc nội bộ, tiêu diệt tất cả cán bộ đảng viên kể cả thành phần Khmer Đỏ có khuynh hướng thân VN, mà c̣n xóa sạch người Việt ở những vùng do họ kiểm soát. Đồng thời họ c̣n yêu cầu lực lượng vũ trang của CSBV và VC phải rút khỏi Miên.

    Ngày 30/12/1977 Pol Pot cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Hôm sau chính phủ Campuchia Dân chủ ra tuyên bố tố cáo CSVN trong nhiều thập nên qua đă t́m mọi cách thôn tính và sát phập Campuchia vào Liên Bang Đông Dương do VN lănh đạo nhằm biến VN thành một thế lực mạnh ở ĐNÁ. Từ đó bộ máy tuyên truyền của Pol Pot Ieng Sary không ngừng sách động dân chúng Miên “coi VN là kẻ thủ tuyền kiếp” và “dứt khoát không có người Campuchia nào trong thế hệ hiện nay cũng như sau này rời vũ khí thôi đánh Việt Nam”. Chúng hô hào “nhân dân Campuchia phải sẳn sàng hy sinh 2 triệu sinh mạng và chiến đấu 700 năm nữa để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.

    Bắc Kinh ủng hộ Cam Bốt thoát khỏi ảnh hưởng của CSVN là đường lối mà họ đă đeo đuổi từ sau 1954, nay càng quyết liệt v́ sự phản bội của Hà Nội. Sau HĐ Paris 1973 đích thân TT Chu Ân Lai đến Việt Nam gặp Lê Duẩn, yêu cầu Hà Nội chấp nhận để MNVN, Lào và Campuchia được ḥa b́nh, độc lập và trung lập một thời gian dài. Lê Duẩn cho rằng TC đă làm theo những ǵ mà họ đă thỏa thuận với Mỹ. Ông bác bỏ khuyến cáo của TC, xé bỏ HĐ Paris 1973 để thống nhất VN. Với hành động này, ông Duẩn đă thách thức TC lẫn HK. Sau khi thống nhất Việt Nam, Hà Nội bắt đầu bài xích người Hoa, t́m mọi cách xua đuổi họ rời khỏi VN v́ ông Duẩn sợ người Hoa sẽ làm nội ứng một khi TC gây sự với Việt Nam. Tên nước cũng đổi thành Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, theo khuôn mẫu Liên Xô.

    Ngày 3/9/1978 tại Mạc Tư Khoa, Lê Duẩn cùng Brezhnev kư Hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt-Xô. Ông Duẩn tuyên bố: “Trước những thắng lợi và tương lai xán lạn của VN, th́ các lực lượng phản động quốc tế tỏ ra căm tức. Chúng coi sự ra đời và lớn mạnh của một nước VN ḥa b́nh, thống nhất và xă hội chủ nghĩa là trở ngại lớn cho mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, trước hết trong vùng Đông-Nam châu Á. Chúng điên cuồng thi hành chính sách thù địch chống VN, phá hoại t́nh đoàn kết truyền thống giữa nhân dân VN và nhân dân các nước láng giềng...Tôi nhiệt liệt cám ơn đồng chí Bơ-ê-giơ-nép, Đảng CS Liên Xô, Chính phủ và nhân dân LX đă khẳng định kiên quyết đứng bên cạnh nhân dân VN trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ nền độc lập của nước Cộng ḥa XHCN Việt Nam”.

    Dựa vào Liên Xô, đúng ngày lễ Giáng sinh 1978, Hà Nội công khai đưa 18 vạn quân dưới sự điều động của Văn Tiến Dũng, người đă chỉ huy chiến dịch HCM thôn tính MNVN năm 1975, xâm lược Cam Bốt. CSVN xóa bỏ nhà nước Campuchia Dân chủ của Pol Pot và dựng lên nước Cộng ḥa Nhân dân Campuchia do số cán bộ CS Miên từ Hà Nội trở về lănh đạo. TC tố cáo CSVN xâm lược Cam Bốt nhằm thực hiện mưu đồ thành lập Liên bang Đông Dương, mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô ở Châu Á. Bắc Kinh tuyên bố chấm dứt, không gia hạn Hiệp ước hữu nghị, đồng minh tương trợ mà Mao đă kư với Stalin, khi hiệp ước hết hiệu lực trong năm 1980.

    Ngày 15/11/1978 TC thiết lập bang giao với HK. Đầu năm 1979, Đặng Tiểu B́nh viếng thăm Mỹ, ông hô hào “Trung Quốc, Tây Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ cần phải thống nhất trong một liên minh chống bá quyền”. Ông tuyên bố “Bắc kinh sẽ dạy cho Việt Nam một bài học”. Dù điều 6 của Hiệp ước hữu nghị hợp tác Xô Việt qui định: “Trong trường hợp một trong hai bên bị tấn công th́ hai bên đă kư hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ư kiến và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm ḥa b́nh và an ninh của hai nước”. Song TC bất kể phản ứng của Liên Xô, ngày 17/2/1979 họ huy động mấy chục sư đoàn tấn công qui mô vào Việt Nam trên tuyến biên giới dài 1000 cây số. Lúc bấy giờ LX có 56 Sư đoàn ở vùng biên giới với TC, nhưng không phản ứng. Đến cuối năm 1979, LX xâm lăng Afghanistan, lật đổ tổng thống Hafizullah Amin, dựng lên chính quyền mới do Babrak Karmal làm thủ tưởng. TC tố cáo LX đă can thiệp quân sự trên qui mô lớn vào một nước thế giới thứ ba, đe dọa nền ḥa b́nh và an ninh ở Châu Á.

    Với chính sách mở cửa hợp tác với Tây phương, TC đă phát triển mạnh và mau lẹ việc giao thương với nước ngoài, đứng đầu là Nhật lên đến 10 tỉ đô la vào năm 1985, sau đó là Tây Âu 6,8 tỉ. HK đứng thứ ba chiếm 11% trong tổng số ngoại thương của TC với 4,4 tỉ đô la. Trong khi đó, sau khi HK rút lui khỏi VN, th́ LX lấn tới tại nhiều khu vực trên thế giới. Ngoài sự dính líu trực tiếp vào Afghanistan mà Gorbachev gọi vấn đề này là “vết thương rướm máu”, hàng năm LX c̣n phải chi viện 3,5 tỉ đôla cho VN, 4,9 cho Cuba, 1 tỉ cho Nicaragua và hơn 3 tỉ cho Mozambique, Angola và Ethiopia.

    Để cứu văn t́nh trạng kinh tế suy sụp, Gorbachev đề ra kế hoạch Glasnost (cải tổ) và Perestroika (tái thiết). LX sẳn sàng ḥa giải với TC và cùng HK thương thảo vấn đề tài giảm binh bị. Đối với TT Reagan, điều kiện thương thảo là Gorbachev phải tôn trọng nhân quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước Đông Âu và giải quyết các cuộc xung đột địa phương do LX trực tiếp hay gián tiếp gây ra, như cuộc chiến ở Afghanistan và Campuchia. Về phần TC, tháng 12/1984 Phó TT Ivan Arkhipov đến thăm Bắc Kinh. Đây là nhân vật cao cấp nhất của LX chính thức đến thăm TC sau hơn 15 năm hai nước đặt trong t́nh trạng thù nghịch. Arkhipov đă kư hiệp ước thương mại và một số thỏa ước hợp tác với TC về kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tháng 4/1985, Phó TT Lư Bằng đến Mạc Tư Khoa, hai bên lại kư một thỏa ước thương măi trong ṿng 5 năm lên đến nhiều tỉ đô la.

    Dù mối bang giao Nga Hoa đă được cải thiện đáng kể về kinh tế, giao thương... Nhưng vấn đề chính trị c̣n trong t́nh trạng bế tắc v́ LX ủng hộ CSVN chiếm đóng Campuchia. Trong diễn văn đọc tại Hải Sâm Uy ngày 28/7/1986, Gorbachev tuyên bố “sẽ xích gần với TQ” bằng thiện chí rút 6 trung đoàn khỏi Afghanistan, giảm dần các đơn vị trú đóng ở biên giới TC và một lực lượng đáng kể ở Mông Cổ. LX đă đáp ứng 2 trong 3 điều kiện tiên quyết của Đặng Tiểu B́nh. Về vấn đề Campuchia, Gorbachev nhận định “không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi kể cả LHQ mà phải giải quyết giữa VN và TQ là hai nước xă hội chủ nghĩa láng giềng”. Ông mong muốn cuộc xung đột ở đây sẽ được giải quyết êm đẹp nếu TQ và VN tham gia vào một cuộc đối thoại trong t́nh đồng chí, gạt bỏ những tị hiềm và nghi kỵ không cần thiết.

    Qua chi tiết trên cho thấy, v́ quyền lợi ưu tiên của LX, Gorbachev đă lợi dụng việc giải quyết cuộc chiến Campuchia để đẩy CSVN trở về hợp tác toàn diện với TQ. Để giải tỏa những nghi kỵ không cần thiết, từ đầu năm 1987, Việt Nam bắt đầu giảm tuyên truyền chống TQ. Lời nói đầu trong Hiến pháp đă bỏ đoạn văn “TQ là kẻ thù truyền kiếp và nguy hiểm nhất” như đă sửa Điều lệ Đảng.

    Tháng 9/1986, tại Hoa Thạnh Đốn, Đặng Tiểu B́nh tuyên bố trên đài truyền h́nh CBS: “Nếu Gorbachev thực sự muốn tiến tới để giải tỏa ba điều kiện tiên quyết, điều quan trọng nhất là bắt CSVN chấm dứt ngay cuộc xâm lược và rút quân từ Cam Bốt về. Chính tôi sẽ sẳn sàng gặp gỡ ông ta ở bất cứ nơi đâu”. Năm 1989, sau khi LX rút quân khỏi Afghanistan và áp lực CSVN rút quân khỏi Cam Bốt, đáp ứng trọn vẹn ba điều kiện tiên quyết của Đặng Tiểu B́nh, giữa tháng 5/1989 Gorbachev đến Bắc Kinh để mở đầu giai đoạn mới mà ông ta gọi là “một kỷ nguyên to tát trong quan hệ hai nước”.

    Dấu ấn Thành Đô năm 1990: Mối nhục muôn đời của CSVN

    Thập niên trước, CSVN kư hiệp ước hữu nghị hợp tác với LX để đương đầu với “tập đoàn phản động Bắc Kinh đang h́nh thành một liên minh với chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai phát xít, chĩa mũi nhọn vào hệ thống xă hội chủ nghĩa” (Lê Duẩn tuyên bố trong lễ kư kết hiệp ước Xô Việt 3/9/1978) Để bành trướng hệ thống XHCN, cuối năm 1978 CSVN xâm lăng Campuchia, đến cuối năm sau (1979) LX xâm lăng nước láng giềng trung lập Afghanistan. Cả hai cuộc chiến đều bị thế giới lên án nặng nề. Cuối cùng đoàn quân xâm lược phải rút về nước. LX hợp tác với HK và TC để chấm dứt cuộc chiến ở Campuchia (HĐ Paris 1991) Nhờ đó, Gorbachev trở thành người bạn đối tác chân thành của TT Reagan. Gorbachev cũng đến Bắc Kinh gặp Đặng Tiểu B́nh để nối lại mối thân hữu Nga-Hoa.

    Năm 1979 CSVN lên án TC đă ba lần phản bội họ, nên phải hợp tác toàn diện với LX. Thử hỏi, năm 1954 LX và Anh Quốc là đồng Chủ tịch Hội nghị Genève 1954 đưa đến chia cắt VN. Năm 1972 LX đă thỏa thuận với HK về HĐ Paris 1973, như vậy LX có phản bội không? Đến cuối thập niên 1980, LX hợp tác trở lại với TC, lần này, Gorbachev “phản bội” CSVN để tranh thủ Bắc Kinh. Trong khi ông ta cho phép các nước trong khối XHCN Đông Âu được tự do quyết định vận mạng riêng của họ, nhưng lại đẩy CSVN trở về TC, mà Hà Hội “coi là kẻ thù truyền kiếp và nguy hiểm nhất”.

    Nghe lời khuyến cáo của Gorbachev: “VN và TQ là hai nước XHCN láng giềng, nên gạt bỏ mọi tị hiềm, đối thoại trong t́nh đồng chí”, nên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Đỗ Mười cùng Cố vấn tối cao Phạm Văn Đồng hăm hở đến Thành Đô, chớ không phải Bắc Kinh mời như thường lệ. Phía TC, không có lănh tụ tối cao Đặng Tiểu B́nh, có lẽ ông ta không muốn tiếp xúc với những người bị ông lên án là phường vong ân bội nghĩa. Lê Đức Anh lập luận: “Mỹ đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rơ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải t́m đồng minh. Đồng minh này là TQ”. C̣n Nguyễn Văn Linh “TQ muốn thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào th́ TQ vẫn là một nước XHCN”.

    Từ nhận định trên, giới lănh đạo cao cấp nhất của VN đă t́m cách ḥa giải với TC bằng đề nghị kết hợp hai lực lượng Khmer CS (Khmer Đỏ của Pol Pot và Campuchia CS của Hun Sen) lănh đạo Cam Bốt để xây dựng XHCN. Từ nay, CSVN đoàn kết chặt chẽ với TC chống đế quốc Mỹ để bảo vệ XHCN thế giới. Hai điểm trên đều bị TC bác bỏ. Thế giới đă kinh sợ Khmer Đỏ, họ cũng phản đối Hà Nội dựng lên ở Cam Bốt một chế độ tay sai VN do Hun Sen lănh đạo. Chủ trương của Bắc Kinh là Campuchia trở lại t́nh trạng trung lập cố hữu, dưới sự lănh đạo của cựu hoàng Sihanouk.

    Trung Quốc cũng không chống Mỹ để bảo vệ XHCN thế giới. Chiến lược của họ là thực hiện “bốn hiện đại” để TQ trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. V́ lợi ích đó, TQ kiên tŕ tranh thủ Mỹ, Nhật và các nước phương Tây. Trong hồi kư, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ nhắc lời Phạm Văn Đồng: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là v́ chính ta đă lừa ta. Ta đă tự ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ XHCN, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng VN và chủ nghĩa xă hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn tiến ḥa b́nh” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đă dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp đỏ”.

    Chủ nghĩa xă hội là ǵ, mà Phạm Văn Đồng làm thủ tướng 30 năm c̣n bị “mắc lừa” hai đàn anh? Năm 1848, trong Tuyên ngôn Cộng sản (1848) Karl Marx khẳng định:” Lịch sử loài người từ khi có giai cấp đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Chế độ tư bản đă lỗi thời nhất định sẽ diệt vong và nhường chỗ cho xă hội chủ nghĩa văn minh”. Giai cấp công nhân được Marx tuyển chọn để lănh đạo cuộc Cách mạng XHCN. Ông vạch ra sứ mạng lịch sử của họ là “lực lượng đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, tiến hành đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực thủ tiêu nhà nước tư sản và thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản”.

    Trong 165 năm qua, chế độ tư bản ngày càng phát triển, chưa có một dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ diệt vong. Cũng chưa thấy một nước Xă hội chủ nghĩa văn minh nào xuất hiện trên hành tinh này. Đấu tranh giai cấp, xây dựng XHCH qua Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đă phá nát nền tảng đạo đức dân tộc. Sau đó Hà Nội “giải phóng” miền Nam triệt hạ nền kinh tế phát triển ở đây, khiến người dân nghèo khổ phải xóa bỏ những định chế XHCN.

    Trong khi đó, giới lănh đạo CSVN luôn vọng ngoại, t́m đến “tổ quốc-xă hội chủ nghĩa” ở LX để hợp tác. Nhưng “tổ quốc XHCN” cũng đang hồi mạt vận, nên đẩy CSVN trở về với TC để họ t́m “thiên đường” XHCN ở Bắc Kinh. Phản ứng của TC ở Thành Đô như là cái tát vào mặt CSVN, cho thấy giới lănh đạo Đảng chỉ sống trong ảo tưởng, làm khổ cả dân tộc.

    Hai cuộc chiến: một nội dung, hai kết cuộc

    Sau 1954, miền Nam Việt Nam trên danh nghĩa là một trong bốn nước Đông Dương. Hà Nội đă xâm lược miền Nam để tăng cường phe XHCN, nhưng che đậy dưới chiêu bài chiến đấu v́ nghĩa vụ dân tộc để lừa dối người dân miền Nam và thế giới. HK can dự vào cuộc chiến, Kissinger đă mật đàm với Lê Đức Thọ để kết thúc chiến tranh. Mục tiêu của HK là một miền Nam Việt Nam hoặc một nước Việt Nam thống nhất không lệ thuộc LX, HK hoặc TC. Ba nước Đông Dương sống trong ḥa b́nh, độc lập và trung lập như 5 nước ASEAN lúc bấy giờ.

    Hội nghị Genève 1954 chia cắt Việt Nam chỉ để xoa dịu các cường quốc. HĐ Paris 1973 do HK chủ xướng sẽ giúp Việt Nam đẩy lùi ảnh hưởng các cường quốc, đưa đất nước thống nhất đi vào con đường độc lập tự chủ. Rất tiếc, CSVN đă xé bỏ hiệp định cưỡng chiếm MN, đưa cả nước vào hệ thống XHCN thế giới. Đến năm 1978, CSVN xâm lược Campuchia cũng v́ mục tiêu xây dựng XHCN cả ba nước Đông Dương. Lần này, TC gây áp lực buộc Hà Nội phải rút quân về nước, để người dân Campuchia tự quyết định vận mạng của họ. Giới lănh đạo CSVN đă gặp Giang Trạch Dân tại Thành Đô để giải quyết cuộc chiến Campuchia và thiết lập mối bang giao mới giữa CSVN và TC.

    Tác giả Huy Đức viết: “Năm tháng trước khi Việt Nam rút hết quân, ngày 30/4/1989, Phnom Penh quyết định đổi tên nước “Cộng ḥa Nhân dân Campuchia” thành “Nhà nước Campuchia”. Ngày 18/10/1991 khi Việt Nam không c̣n can thiệp được vào các quyết định của Phnom Penh, Campuchia đă sửa đổi Hiến pháp theo chiều hướng từ bỏ xă hội chủ nghĩa: chấp nhận kinh tế thị trường tự do và hệ thống chính trị đa đảng. Tên nước, quốc kỳ, quốc ca, ngày quốc khánh thời Sihanouk được đưa ra dùng trở lại. Hai chữ “cách mạng” trong tên gọi Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đảng mà CSVN giúp dựng lên, đă được bỏ đi”. Từ giữa tháng 9/1991, Hun Sen bốn lần từ chối tiếp “người thầy vĩ đại của ḿnh”. Sau 13 năm làm “thái thú” ở Campuchia, ông Ngô Điền phải rời Phnom Penh mà không được một viên chức Campuchia nào đưa tiễn”.

    Đó là kết quả thảm hại của CSVN ở Campuchia sau 10 năm “xuất khẩu Cách mạng” với “con số bộ đội bị chết, bị tàn phá bởi ḿn zip và ḿn K58 trong 10 năm ở đây lên đến hàng trăm ngh́n”. V́ XHCN mà dân tộc gánh chịu ba cuộc chiến tranh đẫm máu kéo dài gần nửa thế kỷ (1946-1989), song lănh thổ gần như toàn vẹn, chỉ mất hai đảo Trường Sa và Hoàng Sa v́ Công hàm năm 1958.

    Đất nước vừa chấm dứt chiến tranh, cũng v́ bảo vệ xă hội chủ nghĩa mà CSVN phải đến Thành Đô. Nhưng sau khi thấy được hai đàn anh “phản bội” và “dạy cho bài học” về XHCN, đáng lẽ CSVN phải quay về với dân tộc. Chủ nghĩa xă hội đă sụp đổ ở nơi sản sinh ra nó th́ c̣n ǵ mà bảo vệ, nhưng giới lănh đạo CSVN thà phản bội dân tộc chớ không thể bỏ XHCH. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Ĺnh đă nói: “Dù TQ là bành trướng, nhưng họ là xă hội chủ nghĩa” V́ thế ải Nam Quan, một phần thác Bản Giốc và mấy chục ngàn cây số vuông ở vịnh Bắc Bộ trở thành của TQ, qua hai hiệp ước về biên giới năm 1999 và 2000. Rồi đây đất nước Việt Nam từng bước sẽ bị Hán hóa bằng chiêu bài xă hội chủ nghĩa.

    Phải từ bỏ xă hội chủ nghĩa để đất nước tồn sinh. Mục tiêu xây dựng xă hội chủ nghĩa không c̣n th́ vai tṛ của Đảng CSVN cũng chấm dứt. Nhân kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris 1973, cầu mong mọi giới đồng bào kể cả những người lănh đạo đất nước nhận thức được điểm cốt lơi của bản hiệp định này là HK và TC đều mong muốn Việt Nam ḥa b́nh, độc lập và trung lập cùng với các nuớc ĐNÁ. Đó là chính sách ngoại giao mới của Việt Nam trong thời “hậu cộng sản”.

    Lê Quế Lâm
    http://ethongluan.org

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 9
    Last Post: 08-11-2011, 08:37 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 21-08-2011, 07:12 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 05-01-2011, 04:40 AM
  4. Toàn bộ cuốn DVD "Đại Họa Mất Nước" (1 giờ 39 phút)
    By việtdươngnhân in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 18-12-2010, 12:31 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •