Page 1 of 8 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 77

Thread: TƯỞNG NIỆM VINH DANH NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ 19.6 : CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG

  1. #1
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    TƯỞNG NIỆM VINH DANH NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ 19.6 : CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG

    Blog : Nguyễn Hùng Kiệt










    HUY HIỆU QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ






    BỘ TỔNG THAM MƯU QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

















    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN (December 21, 1921 – January 22, 2008) : TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ 1965-1975.



    Một trong những bức thư cuối cùng của Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên (1921-2008), nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa là bức thư gởi cho Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH tiểu bang Washington nhân ngày Quân Lực năm 2006. Dưới đây là trích đoạn chứa đựng tâm tư của Ông gởi cho các Chiến Hữu:

    “Mấy chục năm trôi qua, nhưng tôi biết Anh Chị Em vẫn c̣n ưu tư và suy nghĩ nhiều về quá khứ khi nh́n thấy cuộc chiến đấu chính nghiă của Dân và Quân miền Nam Tự Do đă không kết thúc như ư ta mong muốn.
    Đó chỉ là cái nh́n trên bề mặt nhưng khi nh́n vào chiều sâu của cuộc chiến, tôi xin các Chiến Hữu hăy tự hào và hănh diện: v́ những hy sinh xương máu lớn lao của Quân và Dân ta trong hơn hai thập niên đă giúp ngăn chận được làn sóng đỏ tại Đông Nam Á và góp phần trọng đại vào nổ lực chung của Thế Giới Tự Do làm sụp đổ thành tŕ của Quốc tế Cộng sản và sẽ đưa đến sự cáo chung của chủ nghiă Cộng sản trên thế giới trong một tương lai không xa.
    Lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam từng chứng minh rằng: Đất nước và Nhân dân ta – trải qua bao thời đại – nhiều lần đă phải sống trong lầm than khổ nhục nhưng sau đó đều luôn luôn quật khởi và thoát ra khỏi chốn tối tăm. Lịch sử đang tiếp diễn.
    Các Chiến Hữu hăy vững tin vào tương lai tươi sáng của Đất nước và Chính nghiă Tự do. Hăy kiên tŕ tranh đấu cho đến thắng lợi cuối cùng trong nhiệm vụ quang phục Quê hương.
    Tổ Quốc đang mong chờ nơi các thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại, ở trong nước và ở nơi các Anh Chị Em – một thời – là những người chiến sĩ kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
    Mặc dầu Quân đội ta không c̣n nữa nhưng mỗi năm các Chiến Hữu ở hải ngoại vẫn c̣n tổ chức lễ kỷ niệm, đây là một điều đáng quư.
    Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam đời đời ghi công các Chiến sĩ Anh Hùng và Thương Phế Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Xin đừng quên họ.”
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 06:56 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    VINH DANH ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN



    QUÂN HIỆU KỲ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ









    LỄ NHẬP QUAN ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN

    Tại nhà quàn Fairfax Memorial Funeral Home 26.1.2008, lần lượt từng người trong phái đoàn kư sổ tang phân ưu. Trước Quốc kỳ Quốc gia Việt Nam, Quân kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và Tướng kỳ 4 sao bạc trước linh cửu cố Đại Tướng được phủ cờ Vàng ba sọc đỏ..





    CÔ CAO PHƯƠNG LAN ÁI NỮ CUẢ CỐ ĐẠI TƯỚNG VÀ ĐẠI DIỆN CỘNG ĐỒNG TIỂU BANG MASSACHUSETTS

    Vị Đại diện Cộng đồng Massachusetts, ông Vũ Hữu Vy đă xúc động nghẹn ngào:

    “Kính xin Đại Tướng, người Anh cả của Quân Lực, yên nghỉ ngh́n thu bên các chiến sĩ Việt Nam Cộng ḥa đă hy sinh v́ đại nghiă. Xin phù hộ cho Dân tộc Việt Nam sớm thoát nạn cộng sản, thật sự được tự do dân chủ và xây dựng một đất nước Việt Nam phú cường.”

    HỒ SƠ TƯỚNG MẠO QUÂN VỤ ĐẠI TƯỚNG TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ :

    Full Name: Cao Van Vien

    Date and Place of birth: December 11, 1921, Vientiane, Laos

    Family status: Married, four children

    Education:


    - Licentiate of Letters, Faculty of Letters, Saigon University, Saigon

    - Graduate, Command and General Staff College, Forth Leavenworth, USA

    - Vietnamese Parachute Training certificate

    - Vietnamese Pilot Training certificate

    - American Parachute (Advanced Training) certificate

    - American Helicopter Pilot certificate
    Present position: Chief, Joint General Staff, ARVN, October 14, 1965

    Former positions:


    - Second Lieutenant, Cap Saint Jacques Military School, 1949

    - First Lieutenant, Deputy Head of Administrative Section, Defense Ministry, 1951

    - Chief, Press and Information Section, Defense Ministry, 1951

    - Captain, G2 Chief for Hung Yen Field Force, 1953

    - Commander, 10th Battalion, 1953

    - Chief of Staff, Hung Yen Field Force, 1953

    - Major, G2 Chief for III Military Region, 1954

    - G4 Chief for III Military Region, 1954

    - Commander, 56th Battalion, 1954

    - G4 Chief, Joint General Staff, ARVN, 1955

    - Lieutenant Colonel, Chief of Staff, Special Military Staff, Presidency of the Republic, 1956

    - Colonel, Commander, Airborne Brigade, 1960

    - Brigadier General, Chief of Staff, JGS, 1964

    - Commander, III Corps, 1964

    - Major General, Chief, JGS, October 14, 1965

    - Chief of JGS and Minister of Defense, 1967

    - Chief of JGS, 1967 -1975
    Decorations, awards:


    - National Order of Vietnam, 1st class

    - Army Distinguished Service order, 1st class

    - Air Force Order 1st class

    - Navy Distinguished Service Order, 1st class

    - Gallantry Crosses (12 Citations: 8 with Palm, 2 with Silver Star, 2 with Brass Star)

    - Air Gallantry Medal (Golden Wing)

    - Hazardous Service Medal

    - 10 Foreign Medals including three Korean, one Philippine, two Thai, two ROC and two American



    Tên Họ: Cao Văn Viên

    Ngày và Nơi Sinh: 11/12/1921, Vạn Tượng, Lào

    Học Vấn:


    - Cử Nhân Văn Chương Pháp, Đại Học Văn Khoa Sàig̣n

    - Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ

    - Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH

    - Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH

    - Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK

    - Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ
    Chức vụ hiện tại: Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, 14/10/1965

    Chức vụ quá khứ:


    - Thiếu Úy Vơ Bị Cap Saint Jacques, 1949

    - Trung Úy Phó Trưởng Pḥng Ban Hành Chánh, Bộ Quốc Pḥng 1951

    - Trưởng Pḥng Ban Báo Chí và Thông Tin, Bộ Quốc Pḥng 1951

    - Đại Úy Trưởng Pḥng P2, Lực Lượng Dă Chiến Hưng Yên 1953

    - Chỉ Huy Trưởng Tiểu Đoàn 10 1953

    - Tham Mưu Trưởng, Lực Lượng Dă Chiến Hưng Yên, 1953

    - Thiếu Tá Trưởng Pḥng P2 Vùng III 1954

    - Trưởng Pḥng P4 Vùng, 1954

    - Chỉ Huy Trưởng Tiểu Đoàn 56, 1954

    - Trưởng Pḥng P4 Tổng Tham Mưu QLVN 1955

    - Trung Tá Tham Mưu Trưởng Ban Quân Sự Đặc Nhiệm, Phủ Tổng Thống 1956

    - Đại Tá Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù 1960

    - Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng, Tổng Tham Mưu 1964

    - Tư Lệnh Quân Đoàn III, 1964

    - Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng 14/10/1965

    - Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng 1967

    - Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH 1967-1975
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 06:22 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ : CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG 30.4.1975












    DANH TƯỚNG QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ -TƯỚNG QUÂN : TRẦN QUANG KHÔI TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH QUÂN ĐOÀN 3 , TIẾN QUÂN VỀ SÀI G̉N BẢO VỆ BIỆT KHU THỦ ĐÔ GIỜ THỨ 25- SÁNG 30.4.1975

    Lực lượng Xung Kích Quân đoàn 3 bao gồm :
    Lữ đoàn 3 Kỵ binh,1 Liên đoàn Biệt Động quân, 1 Lữ đoàn TQLC, 1 Lữ đoàn Dù và Liên đoàn 81 Biệt Kích Dù ......





    NĂM 1970 ĐẠI TÁ TRẦN QUANG KHÔI TƯ LỆNH LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH QUÂN ĐOÀN 3 TIẾN QUÂN VÀO KAMPUCHEA , TRẬN CHIẾN THẮNG LẪY LỪNG ĐĂ MĂI MĂI ĐI VÀO QUÂN SỬ THẾ GIỚI.

    VỚI 3 ĐẠI DANH TƯỚNG : QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ :

    TƯỚNG QUÂN ĐỖ CAO TRÍ - TƯỚNG QUÂN NGUYỄN VĂN HIẾU , VÀ TƯỚNG QUÂN TRẦN QUANG KHÔI

    Tài liệu Lục quân Hoa Kỳ nhận xét về Danh tướng QLVNCH : Trần Quang Khôi

    "Nếu Tướng Khôi là chỉ huy trưởng của một Sư đoàn thiết giáp thuộc Third Army trong Đệ Nhị Thế Chiến, th́ hẳn là Tướng Patton đă phải nh́n nhận hai chiến binh đồng hạng: Creighton Abrams và Trần Quang Khôi. "



    ...
    "Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi tốt nghiệp Trường Vơ Bị Đà Lạt năm 1952, Trường Thiết Giáp Pháp tại Saumur năm 1955, và Trường Thiết Giáp Hoa Kỳ tại Fort Knox năm 1959.

    Với tư cách cố vấn trưởng cho Tư Lệnh Thiết Giáp QLVNCH, tôi gặp Tướng Khôi lần đầu tiên vào năm 1966 khi ông dàn Thiết Kỵ 5 QLVNCH tại Xuân Lộc. Tôi theo chân ông trong nhiều cuộc hành quân để thăm ḍ chuẩn bị cho sự tham chiến của Trung Đoàn Thiết Kỵ 11 QLHK.

    Tháng 5 năm 1966, Tướng Khôi cung cấp Thiết Đoàn 1/5 (M41A3) để được không vận ra Đà Nẵng ("When Tanks Took Wings," ARMOR, May-June 1994)

    Vào đầu năm 1970, Chiến Đoàn 318 cuả Tướng Khôi đi tiên phong trong cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ/Việt vượt biên vào lănh thổ Cam Bốt, khiến cho Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 3 của ông được mệnh danh "Patton của Vùng Mỏ Vẹt."

    Tháng 11 năm 1970, Tướng Khôi tổ chức và huấn luyện Lữ Đoàn Thiết Giáp Quân Đoàn 3 và chỉ huy Lữ Đoàn này tại Cam Bốt, trước cũng như sau thời gian theo học US Army Command & General Staff College tại Fort Leavenworth năm 1972-73.

    Năm 1971-72, tôi thường gặp Tướng Khôi tại nhiều nơi tỉ như An Lộc và Lộc Ninh, trong những lúc Lữ Đoàn của ông đánh Đông dẹp Tây tại những Mặt trận sôi bỏng trên lănh thổ Cam Bốt.

    Sau khi được phóng thích khỏi trại tù cải tạo sau 17 năm, Tướng Khôi hiện cư ngụ tại Springfield, VA.

    Tướng Khôi là một trong số những vị lănh đạo Thiết Giáp cừ khôi nhất tôi được quen biết: táo bạo và xông xáo, nhưng không húc bậy, biết dùng di động tính và hỏa lực đề tạo chấn động gây khiếp đảm ngay cả trên chiến trường Việt Nam. Tướng Khôi đồng thời cũng biết chế biến và uyển chuyển để tận dụng những lợi khí có trong tầm tay. Nếu Tướng Khôi là chỉ huy trưởng của một Sư đoàn thiết giáp thuộc Third Army trong Đệ Nhị Thế Chiến, th́ hẳn là Tướng Patton đă phải nh́n nhận hai chiến binh đồng hạng: Creighton Abrams và Trần Quang Khôi ".


    Raymond R. Battreall
    Đại Tá, Thiết Giáp (Hưu Trí)
    (Armor, March-April 1996)
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 08:13 AM.

  4. #4
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    DANH TƯỚNG QLVNCH : TƯỚNG QUÂN TRẦN QUANG KHÔI TIẾN QUÂN VỀ SÀI G̉N GIỜ THỨ 25 :30.4.1975



    QUÂN HIỆU KỲ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ


    PHÙ HIỆU BINH CHỦNG NHẨY DÙ

    LỮ ĐOÀN 4 NHẨY DÙ -THAM CHIẾN GIỜ THỨ 25

    * Lữ Đoàn 4 Nhẩy Dù QLVNCH thành lập 1.1975




    PHÙ HIỆU BINH CHỦNG THUỶ QUÂN LỤC CHIẾN

    LỮ ĐOÀN 258 THUỶ QUÂN LỤC CHIẾN -THAM CHIẾN GIỜ THỨ 25





    LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT KÍCH NHẨY DÙ -THAM CHIẾN GIỜ THỨ 25




    LIÊN ĐOÀN 33 BIỆT ĐỘNG QUÂN THAM CHIẾN GIỜ THỨ 25
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 07:45 AM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022





    LỮ ĐOÀN 3 KỴ BINH THAM CHIẾN GIỜ THỨ 25








    TƯỚNG QUÂN TRẦN QUANG KHÔI


    TIẾN QUÂN TỪ BIÊN HOÀ VỀ SÀI G̉N :




    TỪ BIÊN HOÀ




    CHIẾN ĐOÀN 315 TIÊN PHONG , KẾ ĐẾN CHIẾN ĐOÀN 332 , SAU CÙNG CHIẾN ĐOÀN 318 XUẤT QUÂN ,TIẾN VỀ SÀI G̉N SÁNG 30.4.1975
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 07:46 AM.

  6. #6
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022


    ĐẠI QUÂN TIẾN ĐẾN THỦ ĐỨC











    TIẾN VÀO SÀI G̉N





    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 04:47 AM.

  7. #7
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    CHIẾN ĐẤU ĐẾN GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG

    ]








    Bài viết của Danh Tướng- Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà : Tướng quân Trần Quang Khôi :




    CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG


    Vai Tṛ Của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh
    Và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III
    Trong Những Ngày Cuối Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
    ::: Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi :::


    Nhân đọc KBC số 14 “Ngày tàn binh của tôi hay là ngày cuối cùng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh” của Nguyễn Minh Tánh, ở trang 35 có câu “…nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp th́ đă tan hàng từ khuya.” Anh Nguyễn Minh Tánh kể lại diễn biến sáng ngày 30-4-1975 tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê và nghĩ rằng Lữ Đoàn Kỵ Binh trấn giữ Biên Ḥa lúc đó đă tan hàng từ lâu rồi!
    Tôi không rơ anh Tánh dựa vào đâu mà nói như vậy. Tôi đề nghị anh công khai đưa lên báo chí hay KBC chứng cớ rơ ràng để cho Cộng Đồng Việt Nam nhất là những chiến hữu của chúng ta biết rơ. Điều mong muốn của tôi là tất cả quân nhân các cấp đă anh dũng chiến đấu, dưới ngọn cờ của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trong đó có Thiết Giáp Kỵ Binh, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, Quân Y, Quân Cụ, Tiếp Vận, những chiến sĩ kiên cường đă nằm xuống, bị thương tật hay c̣n sống hiện nay trong nước hay ở ngoài nước không hổ thẹn khi nhắc đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam.


    1. Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III

    Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn II˜ Lực lượng này do Đại Tướng Đỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11/1970 để phục vụ chiến trường Campuchia.
    Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III là một lực lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến đấu trên chiến trường, lúc cao điểm quân số và khả năng tác chiến của nó tương đương với một Sư Đoàn cơ giới. Đây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, trừ bị xung kích Quân Đoàn III, khi th́ can thiệp vào khu vực hành quân của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, khi th́ tác chiến trong khu vực hành quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng III Chiến Thuật, chỗ nào “nặng” là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, nó là lực lượng chủ lực Quân Đoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt động trên chiến trường ngoại biên Campuchia.
    Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đă từng quần thảo nhiều với các Sư Đoàn cộng sản Bắc Việt c̣n gọi là Công Trường CT-5, CT-7 và CT-9 ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Đambe, Krek, Snoul, Đức Huệ, An Điền, Rạch Bắp.
    Nó cứu Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân của Đại Tá Đương ở Chlong và Đambe tháng 2/3-71 khi rút ra QL-7. Nó tiếp cứu Chiến Đoàn 8/SĐ5BB ở Snoul rút về Lộc Ninh tháng 6-71. Nó giải vây và cứu Tiểu Đoàn 30 BĐQ của Thiếu Tá Vơ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11-71.
    Cuối năm 1971 tôi rời LĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Trong hai năm 1972-1973 tôi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III phân tán và giải thể LĐ3KB đồng thời giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Khi trận An Lộc- B́nh Long bùng nổ dữ dội mùa Hè 1972, lực lượng Thiết Giáp QĐ III hoàn toàn bị tê liệt.

    Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại LĐ3KB. Ngày 7-11-1973 tôi nhận Lữ Đoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III theo mô h́nh tổ chức của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ ḿnh đă có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi Chi Đội 3 chiến xa M-48, nó nhẹ nhàng, linh hoạt và hữu hiệu hơn 1 Chi Đội 5 chiến xa. Mỗi Chi Đoàn 11 chiến xa M-48 giờ đây có 4 Chi Đoàn chiến xa 44 chiếc và 3 xe chỉ huy = 47 chiếc. Một Thiết Đoàn chiến xa M-48 tổ chức theo Mỹ có 54 chiếc, v́ vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cơ động hóa TĐ61 PB 105/Quân Đoàn III bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở nặng đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải chở đại bác 105 ly của Pháo Binh đồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ. Được tăng phái Liên Đoàn 33 BĐQ, Tiểu Đoàn 46 PB 155, Tiểu Đoàn 61 PB PB 105 và Tiểu Đoàn 302 CB, tôi tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III thành 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp: Chiến Đoàn 315, Chiến Đoàn 318 và Chiến Đoàn 322. Các Chiến Đoàn đều có tổ chức giống nhau. Mỗi Chiến Đoàn có: 2 Chi Đoàn Thiết Kỵ M-113, 1 Chi Đoàn Chiến Xa M-48, 1 Tiểu Đoàn BĐQ, 1 Pháo Đội 105 ly cơ động trên xe M-548 và 1 Trung Đội Công Binh. BDH/LĐ 33 BĐQ, Đội Trinh Sát/LĐ33, PĐ 105/LĐ 33, TĐ 46 PB 155, TĐ 302 CB(-) Chiến Đoàn Chiến Xa M-48/TH.Đ 22 và ĐĐ Yểm Trợ Tiếp Vận/ BCH3TV.
    Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và tuyên truyền giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Đoàn III là chúng tôi đă sẵn sàng.
    Ngày 2-4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Ḅ Cạp ở Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Đoàn 315 đập tan TĐ Tây Sơn thuộc Trung Đoàn 101 địa phương. Cuối tháng 4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đánh bại hoàn toàn Sư Đoàn 5 Cộng Sản BV, giải vây cứu TĐ 83 BĐQ Biên Pḥng ở Căn Cứ Đức Huệ. Nó yểm trợ Sư Đoàn 5 BB phản công chiếm lại An Điền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng 7/8-74. Nó giải tỏa áp lực địch ở phía Bắc B́nh Dương, tiêu diệt BCH/TĐ Phú Lợi tháng 2-75. Nó gỉai tỏa áp lực ở G̣ Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh tháng 3-75 để yểm trợ SĐ 25 BB tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11-4-75 đến ngày 25-4-75, trong 14 ngày đêm nó chận đứng mũi tấn công của 1 Quân Đoàn Cộng Sản BV ở Hưng Lộc-Ngă Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Đoàn 52/SĐ 18 BB rút về Long B́nh-Biên Ḥa.
    2. Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
    T́nh h́nh vào hạ tuần tháng 4-75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8/SĐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngă Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Ḥa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Đoàn 52/SĐ18BB của Đại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. — Sài G̣n có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Ḥa đóng cửa. Ngày 20-4-75 SĐ18BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long B́nh. Ngày 21-4-75, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, Phụ Tá Đại Sứ Martin ở Sài G̣n, đại ư nói: “Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các Sư Đoàn Cộng Sản ở đây th́ cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không. T́nh h́nh gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho Quân Lực chúng tôi đi nữa th́ cũng đă quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đ́nh tôi được di tản đến một nơi an toàn…”
    Sau khi SĐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25-4-75 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngă Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III được rút về Biên Ḥa dưỡng quân. Trung Đoàn 9/SĐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Đoàn.
    Về tới Biên Ḥa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25-4-75, có tin lực lượng địch chiến trường Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến Đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu Đoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngă Ba Long Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến Đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, th́ chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức ḷng toàn dân ở Biên Ḥa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III hứa sẽ thưởng 1.200.000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100.000 đồng.
    Ngày 29-4-75 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III ngoài Liên Đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù(- Tiểu Đoàn) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu Đoàn 46 PB 155 và Tiểu Đoàn 61 PB 106 Quân Đoàn.

    12 giờ trưa ngày 29-4-75, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long B́nh. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ18BB của Đảo pḥng thủ khu vực Long B́nh và kiểm soát xa lộ Biên Ḥa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa và đặt lực lượng ĐPQ và NQ của Tiểu Khu Biên Ḥa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đă bị địch chiếm, SĐ25BB đă bị đánh tan và Tướng Lư Ṭng Bá đă bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43/SĐ18BB với giọng rung rung xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bôm và Trung Đoàn 43 BB đang rút quân về hướng Long B́nh, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Ḥa ở Trảng Bôm của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi v́ SĐ18BB đă bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: C̣n số tiền thưởng 1.200.000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ Đoàn.” Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Đoàn III.....
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 21-06-2011 at 04:09 AM.

  8. #8
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    SÀI G̉N GIỜ THỨ 25


















    QUÂN HIỆU KỲ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ














    Về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III, tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Ḥa đă bỏ trốn từ mấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Ḥa kể từ 15 giờ 00 ngày 29-4-75, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xă Biên Ḥa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Ḥa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để pḥng thủ bảo vệ thành phố Biên Ḥa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III như sau:

    - Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Ḥa, giữ mặt Bắc BTL/Quân Đoàn III.

    - Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: 1 Tiểu Đoàn bảo vệ BTL/Quân Đoàn III, Lữ Đoàn(-1 Tiểu Đoàn) bố trí pḥng thủ mặt Nam BTL/Quân Đoàn III.

    - Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu Đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới Biên Ḥa, giữ Cầu Sắt Biên Ḥa và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Ḥa.

    - Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ Ngă Tư Ḷ Than đến ngă Tư Ḷ Than (gần trại Ngô Văn Sáng).

    - Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngă Tư Ḷ Than đến cổng phi trường Biên Ḥa (trừ bị 1).

    - Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Ḥa đến Cầu Mới Biên Ḥa (trừ bị 2).

    - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.


    - BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.

    Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn, th́ th́nh ĺnh chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống băi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long B́nh, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lăm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ư v́ đơn vị trực thăng của anh giờ này không c̣n ở Biên Ḥa nữa.

    Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một ṿng quan sát t́nh h́nh trong và chung quanh thành phố Biên Ḥa. T́nh h́nh chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến pḥng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có t́nh trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến pḥng thủ.

    Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài G̣n. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách ǵ liên lạc được. Tôi nóng ḷng chờ lệnh của Sài G̣n. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp ǵ không? Có lệnh ǵ mới cho chúng tôi không?

    Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết t́nh h́nh ở Biên Ḥa như thế nào?” “Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xă Biên Ḥa, Đảo giữ Long B́nh, Toàn đă bỏ chạy, phi trường Biên Ḥa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Ḥa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp” “Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự “Được, tôi có thể giữ vững Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy pḥng thủ bảo vệ Biên Ḥa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận.
    Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xă Biên Ḥa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung Đoàn từ Ngă Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.

    Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long B́nh đă bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần ǵ tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, v́ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ư đến hai chúng tôi v́ đă gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.

    Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Ḥa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đă chiếm được Long B́nh. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xă Biên Ḥa trở nên yên tĩnh.

    Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận t́nh h́nh ở mặt trận, t́nh h́nh trong thành phố Biên Ḥa. Áp lực địch bên ngoài không c̣n nữa. Chung quanh bên ngoài thị xă, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Ḥa. Không có t́nh trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có t́nh trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có t́nh trạng hăm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB ră ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm v́ sợ có t́nh trạng gây mất tinh thần ră ngũ giây truyền như đă xảy ra ở miền Trung trước đây.
    Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: “Biên Ḥa không c̣n là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài G̣n. Rơ ràng chúng bỏ Biên Ḥa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III về tiếp cứu Sài G̣n.” Tất cả các Đơn Vị Trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.

    Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III tiến về Sài G̣n theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Ḥa-Sài G̣n và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.

    a) Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.

    b) Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài G̣n. Đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.

    c) Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh + Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND và TQLC rời vị trí pḥng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Ḥa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài G̣n theo thứ tự như sau:

    - Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí bên này cầu B́nh Triệu, chờ lệnh.

    - Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài G̣n, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.

    - Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài G̣n, bố trí sau BTL và Đơn Vị Yểm Trợ, chờ lệnh.

    Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Ḥa trong ṿng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi c̣n Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30-4-75.
    Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Ḥa, quan sát thấy t́nh h́nh bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài G̣n. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo v́ không liên lạc được với Sài G̣n, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó th́ đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “C̣n anh th́ sao?” “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con c̣n ở Biên Ḥạ” “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đă quyết định việc này từ lâu rồi.”

    Chúng tôi bay về hướng G̣ Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân cộng sản BV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Ḥa và trên Quốc Lộ 13 ḅ vô Sài G̣n. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân Đoàn III. Tôi vội đi vào văn pḥng t́m sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn pḥng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung Úy mang huy hiệu Quân Đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngơ Bắc Sài G̣n để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến B́nh Triệu gần khu nhà thờ Fatima.

    Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, th́ th́nh ĺnh tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nh́n đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.

    Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của ḿnh và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có ǵ để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đă cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tṛn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc.

    3. Quan Điểm và Kết Luận

    Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30-4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên Cộng Sản cũng như của bên ta về cuộc chiến tranh Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biết khi viết về Biên Ḥa th́ không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Ḥa là vị trí chiến lược số 1 của MNVN, phi trường Biên Ḥa c̣n là nơi đặt bản doanh BTL/Quân Đoàn III và V3CT, đầu năo của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Ḥa là cửa ngơ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài G̣n. Để mất Biên Ḥa là mất Sài G̣n, mất miền Nam Việt Nam. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rơ về Biên Ḥa trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, v́ nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà ḿnh là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về ḿnh, cái mà tôi không hề thích v́ như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đă viết sai sự thật về LĐ3KB do tôi chỉ huy, đă xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những ngưỡi đă hy sinh và những người c̣n sống, phải cải chính và nói lại cho rơ để không phụ ḷng những chiến sĩ anh hùng đă cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng.

    Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ Cộng Sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III, đặc biết chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III do tôi chỉ huy không bị tan ră trước sức tấn công của Quân Đội Cách Mạng.

    Chính miệng chúng nói với tôi: “Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Đội Sài G̣n chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến Đoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Đỗ Cao Trí của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Đất không tha” và kết tội tôi đă kéo dài chiến tranh nhiều năm.
    Chúng đă chọn và định đưa một số chúng tôi ra Ṭa Án Chiến Tranh của chúng xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Đồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ.

    Tôi không hề ân hận việc ḿnh đă làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà ḿnh phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, th́ tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.



    Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
    Virginia ngày 16/6/1995
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 21-06-2011 at 04:29 AM.

  9. #9
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022

    Fighting To The Finish -Chiến Đấu Đến Cùng

    Fighting To The Finish ( bản tiếng Mỹ )
    The Role of South Viet Nam's III Armor Brigade
    and III Corps Assault Force in the War's Final Days














    BRIGADIER GENERAL TRAN QUANG KHOI


    During the final days of the Viet Nam War, I commanded the ARVN III Armor Brigade and III Corps Assault Task Force (ATF) throughout III Corps Tactical Zone and in defense of the City of Bien Hoa against the final Communist offensive in South Viet Nam. For twenty years since the fall of South Viet Nam on 30 April 1975, I have read many articles by both Communist and Free-World writers. Many of them are ambiguous or inexact, especially when referring to actions east of and in Bien Hoa. Some even distort the truth and wound the honor of III Armor Brigade/III Corps ATF, so I have an obligation to both the living and the dead to correct the record so as not to be ungrateful to the heroes who willingly followed me and fought to the very last minute of the war.

    The Early Days

    From 1970 on, there were four armor brigades, one per corps. Each headquarters was highly mobile track-mounted, packed with radio gear, and manned by a carefully selected, battle-tested staff. Designed to control up to six maneuver battalions (a division has nine) the brigade had no organic units but were "task organized" by their corps commanders according to the mission at hand: sometimes with as many as 19 battalions!

    III Armor Brigade headquarters was activated in November 1970 and, after intensive training with a U.S. advisory team headed by LTC. C.M. Crawford, with Maj Racine, Cpt Waer, and others, was declared combat ready and assigned to III Corps for employment in January 1971. Task-organized with the 15th and 18th Armored Cavalry Squadrons and a variety of infantry, artillery, and supporting units, it was the core and frame of LTG Do Cao Tri's III Corps ATF, established to meet battle-field demands in Cambodia. The ATF was the corps' combined-arms reserve. When reinforced for violent combat, its strengthand capability were equivalent to a mechanized division. It operated either alone or with the ARVN's 5th, 18th, or 25th Infantry Divisions. Wherever there was heavy combat in the III Corps Tactical Zone, the ATF was always present.

    The Task Force crossed swords many times with the North Vietnamese Army's (NVA) 5th, 7th and 9th Infantry Divisions, both in Cambodia and Viet Nam. It rescued from destruction the 5th Ranger TF at Chlong and Dambe in February and March 1971, the 8th Regimental Combat Team(RCT) of the 5th Infantry Division at Snoul in June 1971, and the 30th Ranger Battalion at Alpha Base, six km east of Krek plantation, in November 1971.

    The tragic death of General Do Cao Tri in a helicopter crash in February 1971 marked the turning point of the war in South Viet Nam. LTG Nguyen Van Minh, succeeding General Tri as III Corps Commander, made mistake after mistake from the very start. He and I differed on many points regarding the conduct of operations in Cambodia. Because of his weakness, we suffered many setbacks and, little by little, lost the initiative to the enemy. Often, I could not help arguing with him, and our relationship became more and more tense. After the victory near Krek in November 1971, I made up my mind to apply for admission to the U.S. Army's Command and General Staff College at Fort Leavenworth, Kansas.

    From 1972 to 1973, I went to the U.S. to complete my advanced military education. Shortly after my departure, General Minh dispersed the resources of the III Armor Brigade and completely disbanded the III Corps ATF. When the battle of An Loc - Binh Long broke out violently during the summer of 1972, the Armor units of III Corps were completely paralyzed.

    When I returned to Viet Nam in 1973, LTG Pham Quoc Thuan had replace General Minh. He insisted that I rejoined III Armor Brigade. I resumed command of the brigade on 7 November 1973 and suggested to the new corps commander that III Corps ATF be reestablished according to General Tri's model. He gave me complete authority for this task. I reassembled dispersed armor units and, with the new M48 medium tanks of 22d Armor and M548 tracked cargo carriers to transport fuel and ammunition, I changed the composition of Armor units and improved the mobility of 105mm towed artillery units.

    The 15th and 18th Armored Cavalry Squadrons had had their M41A3 light tank troops reassigned during my absence. They had five M113-equipped Armored Cavalry Assault Troops (ACATs) when I returned. I shifted men and equipment to squeeze a sixth ACAT out of available resources.

    The recently fielded M48 tank battalion (22d Armor) was identical to the U.S. tank battalion of that time: three 17-tank companies plus three command tanks for a total of 54. I reduced their platoons from five tanks to three (easier for a platoon leader to control) which, with two command tanks, made eleven per company. I was then able to activate a fourth tank company which with three battalion-level command tanks, gave a total of 47, with seven of the original tanks left over as a supply reserve.

    Reinforcement from III Corps were 33rd Ranger Group, 46th Artillery Battalion (155mm towed), 61st Artillery Battalion (105mm towed), and 302d Engineer Battalion.

    The 105 mm towed artillery battalion was converted to "self-propelled" by mounting the howitzers on M548 tracked cargo carriers. Each M548 was modified by adding two rmovable ramps for the 105s to mount and dismount. Each 105 crew was trained to mount and dismount its howitzer and fire as quickly as possible. The result was a unit almost as effective as a truly self-propelled battalion.

    III Corps ATF was organized into three sub task forces, 315, 318, and 322, based on the 15th and 18th Cavalry and 22d Armor. Each had two ACATs, one M48 medium tank company, one Ranger battalion, one track-mounted 105 battery, and one engineer platoon.

    Under III Corps ATF control was the 33d Ranger Group HQ, with its own reconnaissance company and 105 battery, an M48 tank company, the 46th Artillery Battalion (155mm towed), the 302d Engineer Battalion (-) and a logistics company from 3d Log Command.

    In addition to intensive combat training, the troops were also educated on the Communism's ideology so they could understand the enemy and his tactics. When all were well prepared both physically and mentally, I reported the ATF to the corps commander as combat ready. On 2 April 1974, III Corps ATF took the enemy by surprise on the border between Cu Chi and Trang Bang Districts, relieving enemy pressure on Bo Cap and Cha Ray outposts. TF 315 inflicted heavy losses on the Viet Cong Tay Son Battalion.

    Near the end of March 1974, the 83d Ranger Battalion at Duc Hue Base near the Cambodian border was surrounded by the NVA 5th Division. A valiant month-long effort by the ARVN 25th Division - attacking, as expected, from east to west inside Viet Nam - failed to break the siege. Even aerial resupply and medevac missions were cut off, and the situation appeared almost hopeless. LTG Thuan asked me for a plan. My plan, to take the enemy from the rear in a cross-border attack, shocked him. He feared that a new incursion into Cambodia would cause problems with the United Nations. I insisted, however, that this was the only hope for success, so he took the plan to President Thieu for approval.

    The actual operation consisted of two phases:


    Deception. On 22 April, III ATF moved from Go Dau Ha to Lai Thieu in Binh Duong Province.

    Attack. III ATF returned to Go Dau Ha, under blackout condition on the night of 28 April. Tanks crossed the river at midnight on rubber rafts provided by the 302d Engineers. The ATF crossed the border and occupied attack positions by 0300 on the 29th. TF 315 made the main attack and TF318 the secondary. TF 322 in reserve followed TF 315. The mission was accomplished by 1 May.
    This relief of the 83rd Ranger Battalion at Duc Hue proved to be the last major ARVN offensive of the war. Severe constraints on ammunition, fuel, and flying hours caused by lack of promised U.S. support allowed no new initiatives. Nevertheless, the NVA 5th Division was never again a threat.

    From late May until November, the ATF supported the 18th and later the 5th Infantry Divisions in their struggle to retake An Dien, Base 82, and Rach Bap in the Iron Triangle.

    On 30 October, LTG Du Quoc Dong replaced General Thuan as III Corps commander. Communist forces became stronger and stronger, and more and more aggressive. Their attacks all over the country flagrantly violated the Paris Peace Agreement. In January 1975, Phuoc Long Province fell into their hands; General Dong resigned; and LTG Nguyen Van Toan, the Chief of Armor, took command of III Corps. Toan, who had commanded II Corps during the Communist Easter Offensive of 1972, promptly set about making his over-worked regular divisions more mobile by assigning all fixed posts to Regional Forces. He also launched periodic sopiling attacks in an attempt to keep the enemy off balance.

    As part of these efforts, III Corps ATF encircled northern Binh Duong Province in February and destroyed the VC Phu Loi Battalion headquarters. It also relieved enemy pressure at Go Dau Ha, Khiem Hanh, and Dau Tieng in March, and on the 25th retook Truong Mit, virtually destroying the VNA 271st Regiment in the process.

    But, especially for 14 days and nights from 11 to 25 April 1975, III Corps ATF reinforced by the 8th Regiment of the 5th Infantry Division fought and stopped a ferocious NVA corps advance near the junction of National Routes 1 and 20 as part of the epic battle of Xuan Loc, the war's bloodiest. At the end of this time, I was forced to use two CBU-55 bombs from Bien Hoa Air Base to rescue the 18th Division's 52d Infantry. We then supported its withdrawal to Long Binh Base....
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 05:36 AM.

  10. #10
    Member
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    3,022






    Events developed at a chaotic pace in late April. I and II Corps had disintegrated, all NVA fighting divisions were moving south, and pressure east of Bien Hoa worsened with each passing day. I was invited to join a coup to overthrow President Thieu but refused strongly and publicly declared against it. Bien Hoa Air Base was neutralized by enemy artillery fires and shut down. On 20 April, BG Le Minh Dao's 18th Division finally abandoned its magnificent defense of Xuan Loc and withdrew to Long Binh. On the 21st, President Thieu resigned. From the front on 22 April, I wrote to General Charles Timmes, Assistant to the U.S. Ambassador in Saigon "...I have been engaging with NVA divisions in the vicinity of Dau Giay, Xuan Loc while Congress debates whether or not to give further military assistance of 300 million dollars to the ARVN. I think the situation is almost hopeless. Even if Congress approves the funding now, it is too late. Neverthelesss, I and my fellow soldiers have decided to stay and fight until the very end. My only request is that you would help my family migrate to a safe location..."

    II Armor Brigade and III Corps ATF. The Last Five Days of the Viet Nam War

    After five days of recuperation, the 18th Infantry Division was ordered to move east on 25 April and replace III Corps ATF on the front line at Hung Loc-Dau Giay. The ATF returned to its base in Bien Hoa for equipment maintenance and rest. The 8th Infantry Regiment returned to its parent unit. That evening, the enemy seized the ARVN Armor School at Long Thanh. On corps order, I immediately sent TF 322 and a Marine Battalion to meet the enemy. They engaged heavily with a strong enemy force supported by tanks, destroying 12 T54 tanks and forcing the enemy to withdraw by midnight. This victory raised the morale and fighting spirit of all combat units in Bien Hoa. After inspecting the battlefield, LTG Toan promised a 1.2 million piastre reward (100,00 piastres per tank) to those who had contributed to the destruction of the T54s. From now on, the ATF became III Corps reserve.

    On 29 April, III Corps ATF was reinforced by the 2d Marine Brigade and 4th Airborne Brigade. At noon, General Toan held an urgent conference at 18th Infantry Division Headquarters in Long Binh. Only General Toan, General Le Minh Dao, and myself were present. Dao was ordered to defend Long Binh and control the Bien Hoa highway. My ATF was to defend the City of Bien Hoa with all Regional and Popular Forces in the area under my control. At that time, Cu Chi had been lost; the 25th Infantry Division had been overrun; and its commander, BG Ly Tong Ba, had been captured. General Toan withheld that information from us, as he was preparing to desert. Dao and I later learned the truth when we met Ba in a Communist concentration camp.

    As the meeting concluded, Colonel Hieu, commander of the 18th Division's 43rd Regiment, burst into the room to report in an emotional tone that the enemy was attacking Trang Bom and his regiment was retreating to Long Binh. General Dao's facial expression changed as he heard the news. General Toan reacted furiously and screamed his orders: Hieu was to take his regiment and return to Trang Bom. He pretended to accept the order, saluted, and left. I knew, however, that the 18th Division could not sustain the front at Trang Bom. It was already weakened by the fighting at Xuan Loc, had had only five days to recuperate, and the inevitable would happen in time.

    General Toan stood up, shook my hand and Dao's, and said, "I wish you both the best of luck in combat. I will fly back to JGS to request support for you." He then turned to me and said, "As for the 1.2 million piastres, I will send someone to deliver the money to your headquarters." These were his last words to me before he deserted.

    As soon as I returned to my headquarters, I held a meeting with my unit commanders. Everyone was present except the Bien Hoa sector commander and his assistant. They had deserted a few days earlier.

    These were my orders as of 1300 hours, 29 April 1975:


    - The City of Bien Hoa is now under martial law. Curfew will be at 1500 hours.

    - Each Regional and Popular Force unit is to stay at its assigned post. No movement is permitted.

    - The Police Force is responsible for the internal safety of the City.

    - Absolutely no one is to enter or leave the City.
    To defend Bien Hoa I organized the following:


    - TF 322 defend the northern sector from the airfield to III Corps headquarters.

    -2d Marine Grigade protect III Corps headquarters with one battalion. Brigade (-) defend the southern sector south of National Route 1.

    - 4th Airborne Grigade secure the new Bien Hoa highway and railroad bridges. Establish blocking positions on all routes of approach.

    - TF 315 defend the eastern sector from the intersection of Bien Hoa Highway and National Route 1 to Lo Than (near Camp Ngo Van Sang).

    - TF 318 asseemble between the main gate of Bien Hoa Air Base and the new Bien Hoa Highway bridge as a reserve. Screen the western sector along the Bien Hoa River.

    - Artilleery support: Fire support plan.

    - ATF Headquarters positioned in the garden of the Corps Commander's Palace.
    Around 1500 hours, while I was having lunch with my staff in the palace, General Toan's helicopter landed next to mine in the garden. His pilot, Major Co, reported that he had flown General Toan and his aides to Vung Tau (Cap St. Jacques) where they were met by LTG Hoang Xuan Lam and BG Phan Hoa Hiep. The generals and their aides then booked a fishing boat to rendezvous with the U.S. fleet at sea. This didn't surprise me. Major Co then asked if he could stay and work for me. I agreed.

    At 1700 hours, I rode in an escorted jeep to inspect inside and outside the city. The people were absent from the streets, and the shops were closed. Everything seemed to be in order.

    At around 1800 hours, the enemy began to infiltrate from the north. They were met by TF 322. A Ranger unit of TF 315 also engaged them near Camp Ngo Van Sang. The enemy hugged close to our positions, and both sides exchanged continous fire fire at a distance of 15-20 meters. Even so, our men fought courageously and confidently. There was no incident of desertion within the ATF. Under strong fire support from Armor strong fire support from Armor units, the enemy was pushed back.

    At 2000 hours, I called Camp Phu Dong near Saigon. This was the location of Armor Command, where III Corps headquarters had settled a couple of days ago. There was an answer, but no one had the authority to receive my report. I then called the Operations Center of the Joint General Staff without avail. Finally, I was forced simply to wait impatiently for further orders from Saigon. I wondered if the new President and commander-in-chief had a solution to this national disaster and if he had any further mission for us.

    Around 2200 hours, I was called by LTG Nguyen Huu Co. He was a former cief of the Joint General Staff and Minister of Defense in 1965. Because of his political differences with then Prime Minsiter Nguyen Cao Ky, he had been forced to resign in 1966. He said, "I am General Co. Right now I am standing next to the President. We want to know your current situation in Bien Hoa." I replied, "I am defending Bien Hoa. Le Minh Dao is defending Long Binh. Nguyen Van Toan has deserted. The airfield has been seized by the enemy. Heavy enemy pressure is coming from the north and northeast."

    A few minutes passed, then General Co said, "The President wants to now whether you can defend Bien Hoa until 0800 tomorrow so that negotiation with the other side can take place." I replied without hesitation, "Yes, I can do that." At the other end of the line I heard General Co's voice reporting to the President. Finally he said to me, "General Khoi, this is your order from the President: Defend the City of Bien Hoa until 0800 hours, 30 April 1975. I wish you good luck." I responded, "Yes, sir."

    Around 2345 hours, the enemy opened heavy artillery fire on the city. Then a regimental-size combined armor-infantry force attacked along National Route 1 from Ho Nai to the III Corps headquarters. TF 315, under LTC Do Duc Thao, engaged them and broke their attack. Many T54 tanks were destroyed, and the enemy retreated.

    At 0200 hours, 30 April, BG Dao of the 18th Infantry Division called me on the radio and sai, "I have been overwhelemed and Long Binh is lost." I asked, "Where are your now? Do you need any help?" He replied, "I am at the National Military Cemetery and retreating toward Thu Duc." I felt very sorry for Dao. During the last two years, he and I had worked very hard together, always on the move, and against time. We had been together at all the battlefield in III Corps Tactical Zone because my ATF was Corps Mobile Force 1 and Dao's 18th Division was Corps Mobile Force 2, according to General Do Cao Tri's SOP. When we were toghter in prison, the Communists kept a close watch on both of us because we had caused the most damage to their forces and were considered the two most anti-Communist "fanatics".

    Around 0300 hours, the enemy bombarded Bien Hoa again. This time their fire was stronger and more accurate. I guessed their intention was to control Bien Hoa at all costs after seizing Long Binh. I was prepareing to engage in this decisive battle with my entire force; but surprisingly, TF 315 stopped their frontal attack, enveloped their left flank, and inflicted serious casualties upon them. They were force to retreat to the Bien Hoa Highway, adn the city returned to calm.

    At exactly 0800 hours, 30 April, I tried to call General Co or the JGS headquarters in Saigon, but to no avail. I then held a conference with all my unit commanders to exchange information concerning the internal and external situation of the city. The enemy had retreated, leaving only minor guerrilla activity outside the city. Inside, it was calm. Everyone stayed indoos in compliance with the curfew, and the streets were deserted. The night before, I had helped the city police with additional manpower to prevent any outbreak from the jail. I was so happy to see that our troops' morale was still high. They had plenty of courage and discipline. There was no rioting, looting, raping, or other activity in the streets. The city was under complete control. Also, the night before, a group of disbanded 18th Division soldiers had tried to enter under curfew. I had ordered them driven out because their presence might have caused major security porblems to the civilians and loss of morale and discipline among our troops leading to chain-reaction disintegration, as had occured last month in the Central Highlands.

    Now it was 0830, I concluded that Bien Hoa was no longer the enemy's objective, he was concentrating all his forces to attack Saigon. We had no communications with any higher headquarters, so I decided to pull out of Bien Hoa and march to rescue the capital. All the unit commanders present supported my decision. I immediately issued an operation order. III Corps ATF was to move toward Saigon as follows:

    a. 4th Airborne Brigade, LTC Lo:


    - Move on the right side of the Bien Hoa-Saigon railroad.

    - At the outskirts of Saigon, deploy to the right of the railroad and await further orders.
    b. 2d Marine Brigade. LTC Lien:


    - Move on the left side of the Bien Hoa-Saigon railroad.

    - At the outskirts of Saigon, deploy on the left side of the railroad and await further orders.
    c. III Corps ATF:


    - Remain in position for support until the Airborne and Marine troops have safely crossed the new Bien Hoa Bridge.

    - Using the Korean Highway as the axis of advance, move toward Saigon in the follwing formation:

    (1) TF 315, LTC Do Duc Thao: Lead the column; Deploy on the near side of the Binh Trieu bridge and await further orders.

    (2) TF 322, LTC Nguyen Van Lien: Follow TF 315; Deploy behind TF 315 at the Binh Trieu bridge and await further orders.

    (3) III Corps ATF and units under direct control: Follow TF 322; Deploy behind TF 322 at the Binh Trieu bridge and await further orders.

    TF 318, LTC Nguyen Duc Duong: Rear guard; Deploy behind ATF Hq at the Binh Trieu bridge and await further orders.
    Before boarding my helicopter, I inspected my troops for the last time. They were departing the City of Bien Hoa in an organized formation. Each man was neatly dressed, of dignified bearing, with a look of self-confidence and resignation on his face, showing no fear. They looked just as proud as they had in earlier times when we fought in Cambodia under General Do Cao Tri. I looked at my watch: it was 0900.

    I boarded General Toan's helicopter, piloted by Major Co. My own helicopter, piloted by Captain Tan, followed. We flew over Bien Hoa at low altitude and saw that the city was still calm and apparently in good order. My forces moved steadily toward Saigon, destroying all enemy blocking positions in their path.

    Then an anxious thought came to mind: what would happen if our forces approaching Saigon were mistaken for the enemy and fired upon? Without communications, this was a great risk to my men. While I was pondering a solution to this problem, Major Co interrupted and asked, "Sir, if you wish to flee the country, I can help you." I replied, "What about you?" he said, "After flying you out there, I will return to my family in Bien Hoa." I responded, "Thanks very much for your concern, but I have decided to stay with my men."

    We flew at high altitude toward the Armor Command and III Corps headquarters in Camp Phu Dong. Far below, I saw a huge concentration of enemy guns, tanks, and troop-carrying trucks stretched out along Bien Hoa Highway and Route 13, like tow long snakes crawling into the Capital. We landed at Camp Phu Dong, and I dashed inside looking for an officer on duty. People were pacing back forth anxiously, and I didn't meet anyone in authority, except a young lieutennt wearing III Corps insignia. I told him that I needed to use the telephone to contact the Capital Military District to inform them that my troops were approaching and shoudl not be fired upon.

    I made countless attempts to contact CMD, but it was hopeless. I then tried calling the JGS Operations Center, also without success. In the meantime, I heard volleys of enemy artillery fire coming from the direction of Tan Son Nhut Air Base. AT that moment my Armor units arrived at the Binh Trieu bridge.

    Then I heard the President's voice on the radio ordering all Republic of Viet Nam Armed Forces to cease fire and surrender. It was 1025 hours, 30 April 1975 by my watch. this was the end. I was most sorry for the outcome of the war, but I had done my best. I let my troops execute the President's final order for themselves: I had nothing more to say. But deep in my heart, I silently thanked all of them for their courage, sacrifice, and dedication until the very last minute of the war. Together, we had fulfilled our obligation and oath of allegiance.

    Conclusion

    I was, of course, arrested by the Communists and held captive in various concentration camps for 17 years. After my release in 1992, I came to the U.S. as a political refugee in 1993.

    During the early years of captivity, I was interrogated intensively. The Communists were puzzled by the effectiveness of III Armor Brigade/III ATF. They studied our organization and operations and made me write an essay entitled "How could III Armor Brigade/III Corps ATF fight unfailingly against the Revolutionary Forces during the Spring Offensive?" They told me that III Corps ATF had been the only ARVN unit to confront them successfully until the last minute of the war.

    Later on, we were transferred from the management of the Communist Ministry of Defense to that of the Ministry of Interior. They investigated our past military activities and were shocked by our exploits, which they regarded as war crimes. They accused me of prolonging the war for years, and, along with the other commanding generals, I was selected to be prosecuted as a war criminal. Fortunnately, the U.S. the UN, and the international media intervened on our behalf.

    I shall never repent having done what I did, nor complain about the consequences of my captivity. If history were to repeat itself, I would choose the same path. By so doing, I know from experience that I would lose everything but HONOR.


    Brigadier General Tran Quang Khoi
    Last edited by Nguyen Hung Kiet; 18-06-2011 at 05:49 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 37
    Last Post: 12-06-2012, 06:35 AM
  2. Replies: 28
    Last Post: 16-07-2011, 04:58 AM
  3. Replies: 10
    Last Post: 18-06-2011, 04:04 PM
  4. THƯ MỜI THAM DỰ ĐÊM VĂN NGHỆ VINH DANH CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VNCH
    By NguyễnQuân in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 12-06-2011, 07:25 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 17-11-2010, 04:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •