Page 1 of 17 1234511 ... LastLast
Results 1 to 10 of 168

Thread: Lê Duẩn đă nói ǵ về " bọn bành trướng Bắc Kinh " ?

  1. #1
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546

    Lê Duẩn đă nói ǵ về " bọn bành trướng Bắc Kinh " ?

    Bài phát biểu của Lê Duẩn năm 1979

    Mô tả: Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn về tập đoàn phản động Trung Quốc chống Việt Nam.

    Nguồn: Thư viện Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Tài liệu do Christopher Goscha có được và dịch cho CWIHP.



    Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ phản động Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ phản động Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, th́ họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

    Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, th́ các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. V́ nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, th́ t́nh h́nh sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, th́ sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi v́ lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới c̣n lại đều sợ Mỹ ...

    Mặc dù Trung Quốc đă giúp [Bắc] Triều Tiên chỉ với mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ. Sau khi cuộc chiến kết thúc [ở Triều Tiên] và khi áp lực lên Việt Nam, ông ta (chỗ này h́nh như nói đến Chu Ân Lai khi đoạn văn sau đó cho thấy vậy) nói rằng, nếu Việt Nam tiếp tục chiến đấu, th́ sẽ phải tự lo liệu. Ông ta sẽ không giúp thêm nữa và gây áp lực với chúng ta để ngừng chiến đấu.

    Khi chúng ta kư Hiệp Định Geneva, rơ ràng là Chu Ân Lai đă chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam - Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm ǵ đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng ḥa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm ǵ để ngăn cản chúng ta.

    Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi kư Hiệp định Geneva, Mao Trạch Đông đă nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đă được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một t́nh huống rất nguy hiểm [theo cái nh́n của Trung Quốc]! Ngay lập tức, Việt Nam đă phải làm việc với người Mỹ [liên quan đến vấn đề này]. Mao đă bức hiếp chúng ta bằng cách này và chúng ta đă phải làm điều đó.

    Sau đó, khi hai tỉnh này đă được chuyển cho Viêng Chăn, những tên phản động [Lào] ngay lập tức bắt giữ Souphanouvong (Chủ tịch Lào từ năm 1975-1986). Lào có hai tiểu đoàn bị bao vây lúc đó. Hơn nữa, họ vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, một tiểu đoàn đă có thể thoát khỏi sự [bao vây]. Lúc đó, tôi đưa ra quan điểm của tôi là, Lào phải được phép tiến hành chiến tranh du kích. Tôi mời Trung Quốc đến và thảo luận về vấn đề này với chúng ta. Tôi nói với họ: "Các đồng chí, nếu các đồng chí tiếp tục gây áp lực với Lào bằng cách này, th́ lực lượng của họ sẽ hoàn toàn tan ră. Bây giờ họ phải được phép tiến hành chiến tranh du kích".

    Trương Văn Thiên (Zhang Wentian), người trước đó là Tổng Thư kư [Đảng Cộng sản Trung Quốc] và sử dụng bút danh Lạc Phú, trả lời tôi: "Vâng, các đồng chí, điều các đồng chí nói đúng. Hăy để chúng tôi cho phép tiểu đoàn đó của Lào đảm nhiệm chiến tranh du kích".

    Ngay lập tức, tôi hỏi Trương Văn Thiên: "Các đồng chí, nếu các đồng chí cho phép Lào gánh vác chiến tranh du kích, th́ không có ǵ phải sợ việc phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều ǵ làm cho các đồng chí sợ đến nỗi các đồng chí ngăn cản hành động như thế?"

    Ông ta [Trương Văn Thiên] đă nói: "Không có ǵ phải sợ!"

    Trương Văn Thiên đă nói thế. Tuy nhiên, Ho Wei, Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam lúc đó, đă ngồi ở đó và nghe điều đă nói. Ngay lập tức, ông ta điện cho Trung Quốc (báo cáo điều Lê Duẩn và Trương Văn Thiên đă nói). Ngay lập tức, Mao trả lời: "Việt Nam không thể phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Việt Nam phải nằm chờ trong một thời gian dài!" Chúng ta rất nghèo. Làm sao chúng ta có thể đánh Mỹ nếu không có Trung Quốc làm căn cứ hậu tập? Nên chúng ta phải nghe theo họ, đúng không?

    Tuy nhiên, chúng ta đă không đồng ư. Chúng ta đă bí mật tiếp tục phát triển lực lượng. Khi [Ngô Đ́nh] Diệm kéo lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam, chúng ta đă ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đă được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm]. Chúng ta đă không chú ư [đến Trung Quốc].

    Khi cuộc nổi dậy giành chính quyền bắt đầu, chúng tôi đi Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu B́nh. Đặng Tiểu B́nh đă nói với tôi: "Đồng chí, bây giờ sai lầm của đồng chí đă xảy ra rồi, đồng chí chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống". Đó là áp lực mà họ đă áp đặt lên chúng ta.

    Tôi nói [với Trung Quốc]: "Vâng, vâng! tôi sẽ làm điều đó. Tôi sẽ chỉ chiến đấu ở mức một trung đội trở xuống".

    Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, v́ Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là t́m hiểu t́nh h́nh đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lư do nào khác.

    Chúng tôi biết rơ ư đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi th́ cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đă đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.

    Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đă không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

    Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.

    - Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đă phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, th́ chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ư chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.

    Đến lúc họ muốn thương lượng với chúng ta, Ho Wei đă viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: "Các ông không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các ông phải đưa quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ". Ông ta gây áp lực với chúng tôi cách này, làm cho chúng tôi bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề hoàn toàn đơn giản. Rất là mệt mỏi mỗi khi t́nh huống như thế phát sinh [với Trung Quốc].

    Chúng tôi quyết định không thực hiện cách đó (nói đến lời khuyên của Hồ Wei không đàm phán với Hoa Kỳ). Chúng tôi phải ngồi xuống ở Paris. Chúng tôi phải làm cho họ (Mỹ) giảm leo thang để đánh bại họ. Trong thời gian đó, Trung Quốc đă thông báo [với Mỹ]: "Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Nhưng rất nhiều quân lính mà các ông muốn đưa vào Việt Nam, tùy các ông". Trung Quốc nhất trí điều này và đă gây áp lực với chúng tôi bằng cách đó.

    Họ (Trung Quốc) đă trao đổi nhiều với Mỹ và ép buộc chúng ta phục vụ như là một con bài để mặc cả theo cách này. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đă thua trận, ngay lập tức, họ sử dụng Trung Quốc để [tạo điều kiện] rút quân [ở miền Nam Việt Nam]. Nixon và Kissinger đă đến Trung Quốc để thảo luận vấn đề này.

    - Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đă đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: "Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí".

    Tôi trả lời: "Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều ǵ đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đă nêu ra vấn đề nghiêm trọng và v́ thế tôi phải nói:

    - Năm 1954, khi chúng tôi giành chiến thắng tại Điện Biên Phủ, tôi đă ở [tỉnh] Hậu Nghĩa. Bác Hồ đă điện nói với tôi rằng, tôi phải vào miền Nam để tập hợp [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về vấn đề này]. Tôi đi bằng xe tải vào miền Nam. Trên đường đi, đồng bào ra chào đón tôi v́ họ nghĩ rằng chúng tôi đă giành chiến thắng. Đau đớn vô cùng! Nh́n đồng bào miền Nam, tôi đă khóc. V́ sau đó, Hoa Kỳ sẽ đến và tàn sát [người dân] một cách khủng khiếp.

    Khi vừa tới miền Nam, ngay lập tức, tôi đă điện cho Bác Hồ để xin ở lại [miền Nam] và không trở lại miền Bắc để tôi có thể đánh thêm mười năm nữa hoặc hơn. Đồng chí đă gây khó khăn cho tôi như thế này (muốn nói đến vai tṛ của Chu Ân Lai trong việc chia cắt Việt Nam tại Geneva năm 1954), đồng chí có biết không"?

    Chu Ân Lai nói: "Tôi xin lỗi đồng chí. Tôi đă sai. Điều đó tôi sai” (muốn nói đến sự chia cắt Việt Nam tại Geneva). Sau khi Nixon rời khỏi Trung Quốc, một lần nữa, ông ta (Chu Ân Lai) đến Việt Nam để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ngay lập tức, tôi nói với Chu Ân Lai: "Nixon đă gặp các đồng chí rồi. Chẳng bao lâu nữa, họ (Hoa Kỳ) sẽ tấn công chúng tôi thậm chí c̣n mạnh hơn".

    Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai (Mỹ và Trung Quốc) đă thương lượng với nhau để đánh tôi mạnh hơn. Ông ta (Chu Ân Lai) đă không bác bỏ quan điểm này là vô căn cứ và chỉ nói rằng: "Tôi sẽ gửi thêm súng đạn cho các đồng chí".

    Sau đó ông ta (Chu Ân Lai) nói (về mối lo ngại âm mưu bí mật Trung - Mỹ): "Không có điều đó". Tuy nhiên, hai bên đă thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Pḥng. Rơ ràng là như thế.

    - Nếu Liên Xô và Trung Quốc đă không mâu thuẫn với nhau, th́ Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đă tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đă không bị [phe đối lập là khối xă hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đă giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

    Mỗi năm tôi đă phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lănh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói ǵ cả (về t́nh h́nh ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đă phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đă đi một ḿnh. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đă đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

    Họ đă làm rất căng. Đặng Tiểu B́nh, cùng với Khang Sinh đă đến và nói với tôi: "Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ [có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ ǵ từ Liên Xô".

    Tôi không đồng ư điều này. Tôi nói: "Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xă hội chủ nghĩa]".

    Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ư kiến . Anh Trường Chinh và tôi đă đi cùng với một số anh em khác. Trong cuộc thảo luận, họ (Trung Quốc) lắng nghe chúng tôi đến, h́nh như là điểm thứ 10, nhưng khi đến điểm "không từ bỏ phe xă hội chủ nghĩa", họ đă không nghe... Đặng Tiểu B́nh nói: "Tôi chịu trách nhiệm về tài liệu của chính tôi, tôi muốn nghe ư kiến ​​của các đồng chí, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm này của các đồng chí".

    Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống tṛ chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: "Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á". Đặng Tiểu B́nh cũng ngồi ở đó, nói thêm: "Chủ yếu là v́ nông dân nghèo, trong t́nh cảnh khó khăn cùng cực!"

    Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: "Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đă rơ rồi". Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

    Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

    Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
    Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
    Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
    Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
    Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
    Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
    Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
    Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
    Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
    Mao nói: Lạy Chúa! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

    Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đă chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: "Đúng". Ông ta hỏi: "Có phải cũng chính người của đồng chí đă đánh bại quân Thanh?" Tôi nói: "Đúng". Ông ta nói: "Và quân Minh nữa, phải không?" Tôi nói: "Đúng, và cả các ông nữa. Tôi đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?"

    Tôi đă nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: "Có, có!" Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

    Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đă chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, t́nh h́nh gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.

    Mười năm trước, tôi đă triệu tập các anh em trong quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ mâu thuẫn với nhau. Đối với Trung Quốc, họ đă bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong t́nh h́nh căng thẳng này, các đồng chí phải nghiên cứu vấn đề này ngay lập tức. Tôi sợ rằng quân đội không hiểu ư tôi, nên tôi nói với họ rằng, không có cách nào khác để hiểu vấn đề này. Nhưng họ vẫn thấy khó hiểu. Hoàn toàn không dễ. Nhưng tôi không thể nói bằng cách nào khác. Và tôi đă không cho phép những kẻ khác túm lấy tôi.

    Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đă triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, v́ [buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà c̣n có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đă không đi.

    Liên Xô nói: "Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái ǵ? Tại sao các đồng chí làm điều này?" Tôi nói: "Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, th́ phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, th́ Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hăy hiểu cho tôi".

    Tại Trung Quốc cũng có nhiều ư kiến và tranh luận ​​khác nhau. Chu Ân Lai đồng ư việc h́nh thành một mặt trận với Liên Xô để chống Mỹ. Một lần, khi tôi đi Liên Xô để dự lễ kỷ niệm quốc gia, tôi có đọc một bức điện Trung Quốc gửi sang Liên Xô, nói rằng: "Bất cứ khi nào có ai đó tấn công Liên Xô, th́ Trung Quốc sẽ đứng bên cạnh các bạn". Đó là v́ đă có một hiệp ước hữu nghị giữa Liên Xô và Trung Quốc từ thời trước đó (tháng 2 năm 1950).

    Ngồi cạnh Chu Ân Lai, tôi hỏi ông ta: "Trong bức điện gửi đến Liên Xô gần đây, đồng chí đồng ư thành lập một mặt trận với Liên Xô, nhưng tại sao các đồng chí không thành lập một mặt trận chống Mỹ?" Chu Ân Lai nói: "Chúng tôi có thể thành lập mặt trận chống Mỹ. Tôi chia sẻ quan điểm đó. Các đồng chí, tôi sẽ thành lập một mặt trận với các đồng chí [Việt Nam]". Bành Chân cũng ngồi ở đó, nói thêm: "Quan điểm này cực kỳ chính xác!" Nhưng khi vấn đề được thảo luận tại Thượng Hải, Mao nói là không thể và hủy bỏ nó. Các đồng chí thấy nó phức tạp như thế nào.

    Mặc dù Chu Ân Lai giữ vững một số quan điểm này, ông ta dù sao cũng đồng ư xây dựng một mặt trận và [ông ta] đă giúp Việt Nam rất nhiều. Cám ơn ông ta rằng tôi có thể hiểu [nhiều về những ǵ đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không th́ sẽ rất nguy hiểm. Có lần, ông ta nói với tôi: "Tôi đang làm hết sức ḿnh để tồn tại ở đây, sử dụng Li Chiang tích lũy và hỗ trợ cho các đồng chí". Th́ ra vậy (tức là Chu Ân Lai đă sử dụng Li Chiang, để giúp người Việt Nam). Có nghĩa là, không có Chu Ân Lai, điều này sẽ hoàn toàn không thể xảy ra. Tôi đang mắc nợ ông ta.

    Tuy nhiên, không đúng để nói rằng các lănh đạo khác của Trung Quốc hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Chu Ân Lai. Họ khác nhau nhiều thứ. Phải nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay ông ta.

    Điều tương tự cũng áp dụng đối với các nhà lănh đạo hiện tại của Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, [sự thật của vấn đề là] họ đă tấn công chúng ta. Trong quá khứ, Đặng Tiểu B́nh đă làm hai điều mà hiện đang bị đảo lộn. Đó là, khi chúng ta giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam, nhiều [lănh đạo] Trung Quốc không hài ḷng. Tuy nhiên, dù sao Đặng Tiểu B́nh cũng chúc mừng chúng ta. V́ lư do này, ngay lập tức ông ta đă bị những người khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

    Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đă gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu B́nh đứng đầu. Khi nói về vấn đề lănh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số ḥn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lănh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rơ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ư với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu B́nh) đồng ư, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lănh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

    Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu B́nh) điên rồi. Bởi v́ ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đă tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.




    ( c̣n tiếp )

  2. #2
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546
    Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lănh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: "Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?" Tôi nói: "Sau này, các đồng chí sẽ hiểu". Lư do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là v́ mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], th́ điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đă không được duy tŕ một đội quân lớn.

    (B) (Ư nghĩa của chữ "B" này trong văn bản gốc không rơ ràng) - Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.

    Tôi hiểu vấn đề này v́ công việc đă dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đă được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, th́ Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lư do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đă nói: "Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam". Ông ta (Mao) nói: "Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm". Mao Trạch Đông đă sợ Mỹ đến mức độ đó...

    Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đă tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ th́ miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam ...

    Engels đă nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đă nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ v́ các bạn có hàng triệu người, th́ các bạn có thể làm bất cứ điều ǵ các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] "khi kẻ thù tiến lên, th́ chúng ta phải rút lui". Nói cách khác, pḥng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi... Người Trung Quốc ở thế pḥng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 - 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

    Tôi phải lặp lại điều này như thế, v́ trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đă không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

    Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc v́ tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đă bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích...

    Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đă gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

    - Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

    Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.

    - Chú đă thấy ǵ?

    Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.

    Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Ḷng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược pḥng thủ (ư nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.

    Gần đây, họ (Trung Quốc) đă mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đă sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đă xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là v́ chiến lược tấn công của chúng ta.

    Đế quốc Mỹ đă đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đă thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [V́ điều này,] họ đă tấn công chúng ta mạnh như thế này.

    ... Việt Nam đă chiến đấu chống Mỹ, và đă chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. V́ vậy, chúng ta đă phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc th́ không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

    Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: "Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đă làm".

    ... Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: "Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lư Trường chinh".

    Vạn lư Trường chinh là ǵ? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lư Trường chinh chỉ c̣n 30.000 quân. 270.000 người đă chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng ... Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rơ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).

    ... Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đă đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đă giúp Lào và ngay lập tức Mỹ kư một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.

    Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] xung đột với nhau, Mỹ được [Trung Quốc] thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ. Đừng sợ [sự trả đũa của Trung Quốc]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông đă nói với Mỹ: "Nếu các ông không tấn công tôi, th́ tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông có thể đưa nhiều quân vào miền Nam Việt Nam mà các ông muốn. Tùy các ông".

    ... Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ư đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. V́ vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai tṛ lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đă thực hiện nhiệm vụ của ḿnh, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng ḿnh và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là ṿng một. Hiện họ vẫn c̣n chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng ...

    Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 - 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đă không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. V́ lư do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều ǵ. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề ǵ cả. Chúng ta không sợ.

    Chúng ta không sợ bởi v́ chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

    Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xă) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công tŕnh pḥng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) th́ giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

    Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh ... Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách ... Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội h́nh thực sự.

    - Bây giờ đă đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

    - Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đă hét lên: "Không được đụng đến Việt Nam"! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xă hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

    Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rơ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: "Không có ǵ quư hơn độc lập tự do" là một ư tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do ... Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

    - Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đă thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ư đánh. Bộ Chính trị đă bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đă đồng ư đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ư. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ư. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đă thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.

    Mặc dù Bộ Chính trị đă gặp và tổ chức các buổi thảo luận như thế và mọi người đồng ḷng, sau này có một người đă nói với một đồng chí điều mà tôi đă nói. Đồng chí đó đặt câu hỏi cho Bộ Chính trị, hỏi lư do ǵ mà Anh Ba một lần nữa lại nói rằng, nếu chúng ta muốn đánh Mỹ, th́ chúng ta không nên sợ Trung Quốc? Tại sao anh ấy phải nói như vậy nữa?

    Lúc đó, anh Nguyễn Chí Thanh, người đă bị nghi là có cảm t́nh với Trung Quốc, đứng lên và nói: "Kính thưa Bộ Chính trị và kính thưa Bác Hồ, lời phát biểu của Anh Ba là đúng. Phải nói như thế (ư nói không cần phải sợ Trung Quốc), v́ họ (Trung Quốc) gây rắc rối cho chúng ta nhiều điều. Họ chặn chúng ta ở chỗ này, rồi họ trói tay chúng ta ở chỗ kia. Họ không cho chúng ta đánh..."

    Trong khi chúng ta đánh ở miền Nam Việt Nam, Đặng Tiểu B́nh quy định rằng tôi chỉ có thể đánh ở mức trung đội trở xuống và không được đánh ở mức cao hơn. Ông ta (Đặng Tiểu B́nh) nói: "Ở miền Nam, do các ông phạm sai lầm về việc đă khởi động đánh trước, các ông chỉ nên đánh ở mức trung đội trở xuống, không được đánh ở mức cao hơn". Họ gây áp lực lên chúng ta như thế.

    - Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi v́ chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đă đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

    Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi v́ đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt ... Không thể khác được. Nếu không, th́ sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

    - Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, t́m cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. V́ những lư do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà c̣n làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lăng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, th́ họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới ...

    - Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ ḥa b́nh và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản động Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rơ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

    ... Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy tŕ các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi v́ tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

    Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đă bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi v́ trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có ḿnh tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lănh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ phản động Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

    V́ vậy, chúng ta hăy kiểm soát t́nh h́nh chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xă hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. V́ vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

    Hiện nay, chắc chắn không ai c̣n nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là v́ các đồng chí [này] không có kiến ​​thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lănh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đă và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. V́ vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979].

    Ngọc Thu dịch từ: http://www.wilsoncenter.org/index.cf...inese%20troops

  3. #3
    Member Dr_Tran's Avatar
    Join Date
    23-03-2011
    Location
    Northeast US
    Posts
    8,654
    Cho dù bất đồng nhiều điểm, tôi công nhận ông Lê Duẫn là 1 người ngoại hạng về CHÍNH TRỊ, lư luận chính trị, hơn rất xa hàng Tướng Tá VNCH.

    Tôi từng gặp khoảng 30 Tướng Tá VNCH. Theo tôi, phải nói, họ thua ông Duẫn rất xa, không ai có 1 chút lư luận chính trị nào tôi cho là đúng, đừng nói đến khâm phục.

    Ông Kỳ là nguời tôi KHINH BĨ nhất. Ông này cực kỳ ngu dốt về chính trị, các lời đánh giá phe ta, phe địch, đều sai bét.

    Tôi gặp ông ta trong tiệm phở Tây Hồ ở khu Culmore, Virginia. Các lời ông này nói, với 1 số Tướng Tá VNCH, và lời các người này nói lại, đều vô cùng xuẩn ngốc, ngây ngô, đến buồn cười.

    Nghe xong các lời họ, tôi ngạc nhiên là VNCH có thể đứng vững đến 1975. Có lẽ do ḷng can đảm của các chiến sĩ cấp thấp.

    Trong số Tướng Tá VNCH c̣n sống, tôi dám chắc không ai viết lên nổi các lời phân tích chính trị tầm cỡ như bài trên đây của Lê Duẫn.

  4. #4
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546
    Trước khi đi vào phần phân tích bài nói chuyện trên của Lê Duẩn , Hoài An sẽ post 1 số những bài viết / dữ kiện đa chiều về tiểu sử và con người của Lê Duẩn , v́ muốn phê b́nh ư kiến của ai , cần phải hiểu phần nào về họ th́ mới có được nhận định đúng đắn .


    *******


    DrTran có thể nào cho biết bạn bất đồng ở những điểm nào ? Cám ơn .

  5. #5
    Member Dr_Tran's Avatar
    Join Date
    23-03-2011
    Location
    Northeast US
    Posts
    8,654
    Quote Originally Posted by Hoài An View Post
    DrTran có thể nào cho biết bạn bất đồng ở những điểm nào ? Cám ơn .
    Dear Hoài An, nhiều lắm:

    1. "Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế [xâm lăng VN];

    2. "Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi kư Hiệp định Geneva";

    3. "chúng ta đă ban hành lệnh thành lập lực lượng quần chúng để chống lại lệnh đă được lập và nắm quyền [từ chính phủ Diệm].";

    4. "chúng ta đă phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ [Mỹ]giảm leo thang";

    ....

    ---------------------------

    Nói chung, là các điều bất đồng về chính kiến. Ông ta là giặc, là kẻ cướp, không ai cho phép ông ta đặt VN dưới quyền kiểm soát của ĐCSVN.

    Ông ta có thể ngụy biện "khi đó có chiến tranh, không thể hỏi ư dân".

    Vậy th́ sau 1975, ông ta có hỏi ư dân đâu, là dân có muốn ĐCSVN cai trị độc quyền, độc tài, độc đoán hay không?

    Hay dân muốn có nhiều đảng phái đối lập?

    Hoặc nếu dân muốn theo Mỹ, Pháp th́ sao, ai cho phép ông Duẫn quyết định theo CNCS dùm cho, khi đó, là 50 triệu dân VN?

    Đây là điều khác nhau giữa phe tôi có CHÍNH NGHĨA, và phe ông Duẫn có HUNG TÀN, BẠO LỰC, TÀN ÁC, GÂY CHIẾN TRANH, ĐỘC TÀI, ĐỘC QUYỀN, ĐỘC ĐOÁN.

    Tuy nhiên, ông ta biện luận rất hay, hay hơn bất cứ Tướng Tá VNCH nào tôi biết, hoặc từng nghe qua, đọc qua.

  6. #6
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Lê Duẩn, một Tần Thủy Hoàng hoang dâm vô độ

    Ở miền Nam những năm 47, 48 đă lan truyền câu chuyện "Trung ương cục cướp vợ của học sinh". Đó là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, một ông Bí thư, một ông Phó bí thư, có vợ con đàng hoàng ở miền Bắc rồi, vào trong đó thấy mấy cô học sinh kháu khỉnh ở trong thành ra học ở một trường vùng kháng chiến, liền sinh ḷng ham muốn. Mặc dù hai cô này đă sắp là vợ của hai cán bộ, nhưng hai vị vẫn cố t́nh dùng áp lực trên cướp cho bằng được. Những chuyện đó vẫn không xấu xa bằng chuyện Lê Duẩn sau toàn thắng 75, hiện nguyên h́nh là một Tần Thủy Hoàng hoang dâm vô độ, trắng trợn đến mức chẳng c̣n nghĩ ǵ đến đạo đức, chưa nói đến là người đứng đầu của một Đảng. Tự cho ḿnh là người "khai quốc công thần", Lê Duẩn đă tạo cho ḿnh một cuộc sống như vua chúa đời xưa, với hàng chục "cung tần mỹ nữ" thường xuyên vây quanh, giả danh là mát xa, đấm bóp. Nghe kể rằng một lần trong lúc đê mê sung sướng, Lê Duẩn đă ra lệnh cấp cho Hồng một lúc hai căn hộ liền, một ở Kim Liên, một ở Bách Khoa, mặc dù cô này chưa chồng con ǵ, trong lúc hàng vạn cán bộ khác chưa được phân một mét vuông nhà ở nào. Nhưng điển h́nh nhất là vụ quan hệ với nữ Bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con gái Hồ Viết Thắng. Thực ra Hồ Thị Nghĩa chỉ là của thừa của Lê Quang Ḥa, nguyên Chính ủy Quân khu 4, nhưng Lê Duẩn có xá ǵ là của thừa hay không phải là của thừa, miễn là có cái ǵ mà giải trí sau khi đă được Lê Đức Thọ "duyệt". Xin nói thêm đây là một âm mưu thâm độc của Lê Đức Thọ.

    Chính mục đích của Lê Đức Thọ là giăng bẫy đưa các cụ vào tṛng để dễ dàng bịt mồm, bịt miệng các cụ lại, tha hồ mà ḿnh lộng hành. Đến nỗi Lê Duẩn phải than văn "Nhân sự Trung ương khóa 4, khóa 5 tôi chỉ biết 1/3 c̣n 2/3 ở đâu ra tôi chẳng biết ǵ". Có nghĩa là tất cả quyền hành trong Đảng về tay Lê Đức Thọ cả. Để đổi lại Lê Đức Thọ tạo cho các cụ đê mê trong chốn hành lạc, chẳng c̣n biết trời đất ǵ nữa. Mà có biết cũng chẳng dám nói, v́ đă bị Lê Đức Thọ "yểm bằng gái" hết cả rồi.

    Khi Hồ Thị Nghĩa có thai với Lê Duẩn, Ban Bí thư gặp riêng với Nghĩa khuyên nạo thai. Hồ Thị Nghĩa kiên quyết không nghe, nói: "Đây là con của Tổng Bí thư, rơ ràng thế, làm sao tôi phải nạo?" Do đó, trong đám tang Lê Duẩn, người ta thấy một thiếu phụ trẻ và đứa con trai chít khăn. Đó chính là Hồ Thị Nghĩa và đứa con trai, kết quả mối quan hệ bất chính của Tổng Bí thư Lê Duẩn với cô bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho ḿnh.

    Đó là chuyện đời xưa, c̣n hiện nay, ba trong số năm đồng chí Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị cũng có biết bao nhiêu chuyện xấu xa. Lê Đức Anh th́ bỏ vợ cũ, một nữ cán bộ cách mạng trung kiên lấy vợ mới. Chuyện này trước đây coi như một tội tày đ́nh phải kiểm điểm, phải khai trừ khỏi Đảng. C̣n vị đương kim Thường trực Bộ Chính trị hiện nay th́ c̣n xấu xa hơn nhiều. Năm 1974, Thượng tá chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu quan hệ bất chính với một nữ nhân viên dưới quyền, việc vỡ lở ra, may mà Cục trưởng Cục Cán bộ lúc bấy giờ là Nguyễn Trọng Hợp, cùng quê Thanh Hóa, ém nhẹm đi cho Phiêu, và điều động Phiêu vào Quân khu 9 để phi tang. Có ai ngờ sự chuyển dịch ấy dẫn đến cuộc gặp gỡ giữa hai thầy tṛ họ Lê, Lê Đức Anh và Lê Khả Phiêu, tạo nên một "cặp bài trùng" cực kỳ nguy hiểm, thao túng toàn bộ nền chính trị nước nhà trong suốt bao đại hội: Đại hội 7, 8 vừa qua và Đại hội 9 sắp tới. Khi Lê Đức Anh sang làm Tổng Tư lệnh Cămpuchia, kéo Lê Khả Phiêu sang giúp về công tác chính trị, và thế là bắt đầu một "liên minh ma quỷ".

  7. #7
    Member Dr_Tran's Avatar
    Join Date
    23-03-2011
    Location
    Northeast US
    Posts
    8,654

    Tố cáo các tội ác CÁ NHÂN là đúng, nên làm, NHƯNG cùng lúc phải đưa ra các lời phản biện chính thức về CHÍNH TRỊ.

    Quote Originally Posted by nguoibatcao View Post
    Lê Duẩn, một Tần Thủy Hoàng hoang dâm vô độ
    Việc này, cho dù là có, th́ cũng không v́ vậy mà phe VNCH không lên tiếng đả phá các lời nguỵ biện CHÍNH TRỊ của Lê Duẫn.

    Tố cáo các tội ác CÁ NHÂN là đúng, nên làm, NHƯNG cùng lúc phải đưa ra các lời phản biện chính thức về CHÍNH TRỊ.

    Trên đây tôi đưa ra vài lời, đó là:

    1. Ông Duẫn SAI khi cho rằng xâm lăng VN chỉ là do 1 "bè lũ phản động" nào đó trong chính quyền TQ. Việc này, đa số dân TQ ủng hộ, ngay cả dân Tàu Đài loan, Singapore, Los Angeles, cũng ủng hộ xâm lăng VN.

    2. Các điều sai khác, tôi vạch ra trên đây, đó là không ai cho phép ông ta độc quyền quyết định vận mạng dân tộc, quốc gia VN đời đời vĩnh viễn như vậy, v́ chẳng những vào lúc đó, mà c̣n gh́ vào HIẾN PHÁP, điều 4, để vĩnh viễn hoá t́nh trạng độc chiếm VN của ĐCSVN.

    3. Và tôi ghi ra, KHÔNG LƯ DO CHÍNH ĐÁNG NÀO MÀ ĐCSVN KHÔNG HỎI Ư DÂN VN VỀ ĐƯỜNG HƯỚNG CHÍNH TRỊ QUỐC GIA. Khi chiến tranh lẽ ra phải hỏi, cho dù không, th́ nay hoà b́nh 36 năm tại sao vẫn không có cuộc bầu cử tự do nào?

    Tôi đưa ra như trên, th́ Lê Duẫn sống lại, hay cho con trai ông ta nay đại diện, cũng cứng họng không trả lời được.

    Các lời này, dí CSVN vào chỗ cứng họng, cúi đầu chịu thua, th́ mới là hay hơn các lời tố cáo họ hiếp dâm, ăn hối lộ, v.v... v́ đánh vào cả hệ thống, căn bản, chứ không chỉ vào các cá nhân mà CSVN có thể đổ vấy cho "cá nhân sai, nhưng Đảng đúng".

    ---------------------------

    Theo tôi, phe VNCH nên có lư luận chính trị chặt chẽ hơn, chứ theo tôi thấy họ đang QUÁ KÉM.

    Riêng tôi th́ thắng CSVN dễ dàng lắm, về lư luận chính trị. CSVN cả 3 triệu người không thể tranh luận lại 1 ḿnh tôi.

    Lê Duẫn thuộc loại khá, có thể cầm cự 15 phút, chứ hạng Tô Huy Rứa hiện nay th́ 5 phút là thua tôi sát ván.

    C̣n ông Dũng th́ không đủ trí tuệ tối thiểu để tham gia.

  8. #8
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546

    Tiểu sử của Lê Duẩn

    Lê Duẩn (1907–1986) là Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ông là nhà lănh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày.


    Cuộc đời và sự nghiệp

    Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907, tại làng Bích La, xă Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

    Sau đó ông theo gia đ́nh về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xă Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia ḍng sông Thạch Hăn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xă Triệu Thành.

    - Tháng 5 năm 1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.

    - Năm 1927, nhân viên thư kư đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội.

    - Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng.

    - Năm 1929, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.

    - Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

    - Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ.

    - Ngày 20 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Pḥng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Ḷ, Sơn La và Côn Đảo.

    - Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.

    - Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.

    - Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài G̣n, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.

    - Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.

    - Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam). Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng pḥng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn B́nh làm Tư lệnh.

    - Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc.

    - Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lănh đạo cách mạng miền Nam.

    - Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ tŕ công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.

    - Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.

    - Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.

    - Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh.

    - Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.

    - Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.

    - Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1986 tại Hà Nội.


    Đánh giá

    1- Ư kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nh́n chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 .

    2- Chính ông là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam' (sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959) Trong Đề cương, Lê Duẩn sớm nêu lên ư tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ư tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ư tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam .

    3- Lê Duẩn rất chú ư đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: "Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và ḿnh không rút".

    4- Có những ư kiến cho rằng nguyên nhân chính của mười năm tụt dốc và khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt của cả nước sau 1975 bởi sự lănh đạo trực tiếp của ông. Ông đă có những sai lầm về chính sách kinh tế [10]. Nền kinh tế quan liêu, bao cấp ở Việt Nam chỉ thực sự chấm dứt sau khi ông mất. Bên cạnh đó, ông c̣n bị cho là người chuyên quyền khi nắm giữ vị trí Tổng Bí thư (Bí thư thứ nhất từ năm 1960-1986) suốt 26 năm .

    5- Vơ Nguyên Giáp cũng cho rằng Lê Duẩn phải chịu trách nhiệm về sự khủng hoảng nền kinh tế những năm trước đổi mới trong vai tṛ là người chủ tŕ công việc của Ban Chấp hành Trung ương đảng khi đó .


    Khát vọng

    “ Trong ṿng mười năm nữa, mỗi gia đ́nh ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh ”

    —Lê Duẩn (Tết 1976)


    http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Du%E1%BA%A9n

  9. #9
    Member
    Join Date
    07-03-2011
    Posts
    51

    Theo Liên Xô hay TC cũng là bán nước hại dân !

    Thế nhưng ước muốn chân thành và hết sức có lợi cho đất nước và dân tộc trên đây của những người Việt quốc gia ở Miền Nam đă không được những người CSVN ở Miền Bắc đáp ứng. Bởi lư tưởng và mục tiêu của những người CSVN hoàn toàn khác biệt với lư tưởng và mục tiêu của người Việt quốc gia. Sự khác biệt rơ nét nhất là Người Quốc Gia hành động tất cả v́ Quốc Gia Dân Tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam, trong khi những Người Cộng Sản Việt Nam hành động tất cả v́ Quốc Tế Cộng Sản, cho Tổ Quốc Xă Hội Chủ Nghĩa Liên Xô. Do đó, để làm tṛn nghĩa vụ công cụ bành trướng hầu áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước, đảng CSVN đă phát động và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, đẩy chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam vào một cuộc chiến tranh tự vệ và Hoa Kỳ có cớ can thiệp ngày càng sâu rộng vào chủ quyền VNCH. . . Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này đă kéo dài hơn 20 năm, sát hại hàng triệu sinh linh, tàn phá đất nước, di hại lâu dài nhiều mặt cho đất nước và dân tộc.

    Nhưng rồi sau cùng th́ cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn đă kết thúc một cách không b́nh thường, do sự sắp xếp tiền định của Ngoại bang, đă để cho CSBV "thắng" cuộc chiến một cách dễ dàng, không cần chiến đấu(v́ đối phương VNCH bị ép buộc đầu hàng) không cần giữ đất và không đủ người để tiếp thu (v́ bất ngờ, tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ tiến quân của BV)

    Chính v́ sự kết thúc chiến tranh không b́nh thường này, mà ngay từ những ngày tháng năm đầu, khi cuộc chiến vừa tàn, người Việt Quốc Gia ở Miền Nam không khỏi nghĩ lại nhận định có tính tiên liệu của hai ngoại nhân. Một là Tướng độc nhản Moise Dayan, Bộ Trưởng Do Thái lúc bấy giờ khi đến thăm Miền Nam; hai là Sir Wilson. một chuyên viên Anh quốc làm cố vấn về du kích chiến cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam; Cả hai ngoại nhân này đều có chung nhận định "Muốn chiến thắng Cộng sản tại Việt Nam, nên Cộng sản hoá Nam Việt Nam".
    Tóm lại: 36 năm trước đây, ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đă kết thúc không b́nh thường đă chỉ đem lại một chiến thắng biểu kiến cho cộng sản Việt Nam. Thực tế đă ngày một khẳng định cuộc chiến tranh kết thúc như thế không phải là thắng lợi của phe này đối với phe kia, mà chỉ là do nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc nắm các trung tâm quyền lực thế giới.
    Trích một đoạn trong bài VNCH thua để thắng ,CS thắng để thua !

  10. #10
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546

    Nhìn lại vai trò của ông Lê Duẩn - BBC phần 1

    Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
    Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất.

    Vì nhiều lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa được giải mật, cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết được hết mức độ ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy chục năm qua.

    Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam.

    Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with China", 2001), Lê Duẩn là một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp thỏa hiệp.


    Làm cách mạng


    Sinh ra ở Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội“ năm 1928 và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.

    Năm 1931, ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được bổ nhiệm làm Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.

    Cuối năm đó, ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936, được trả tự do sau khi phong trào Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp và ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.

    Lê Duẩn bị bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.

    Các nhà tù thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các “đại học cách mạng” nơi có việc tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và tuyển mộ người cho Đảng Cộng sản Đông Dương.

    Những năm ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông trở thành nhà cách mạng cứng rắn và không ngại thử thách.

    Sau khi ra tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Khi chiến tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục miền Nam) cho đến năm 1954, năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva về Việt Nam và Đông Dương được ký kết.

    Hòa hay chiến?

    Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký, nhiều cán bộ kháng chiến miền Nam đã rất thất vọng.


    Hiệp định Geneva 1954 khiến nhiều người không hài lòng

    Sau khi tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà Hiệp định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc giục Hà Nội chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở miền Nam.

    Nhưng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là Đảng Lao Động) không muốn thông qua phương án này.

    Theo giáo sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade, Honolulu, người viết một tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò của Lê Duẩn, đã tìm cách giải thích cho sự miễn cưỡng của ban lãnh đạo Bắc Việt lúc đó.

    Thứ nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc Việt thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất và tập thể hóa. Nhưng chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính. Thứ hai, lực lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau tám năm đánh Pháp.

    Thứ ba, Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào lúc này, nhiều người trong Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự vào miền Nam nếu không bị khiêu khích và sự sống còn của chính phủ Sài Gòn không bị đe dọa.

    Cuối cùng, Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán thành chính sách “chung sống hòa bình” của Nikita Khrushchev. Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.

    Theo giáo sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng Bắc Việt không mở lại giao tranh, mà – cùng với Bắc Kinh – còn thúc giục Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác biệt với chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.

    Không muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác bỏ chiến lược mới của Moscow và ủng hộ đấu tranh vũ trang. Hà Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu thúc đẩy chính sách vũ trang vượt qua giới tuyến 17.

    Sau Phiên họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám – Chín 1956, Tổng Bí thư Trường Chinh bị buộc từ chức sau những sai lầm của chiến dịch cải cách ruộng đất.

    Ông Hồ Chí Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho đến khi tìm ra một ứng viên thích hợp cho vị trí này.

    Cuối năm ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp hành, ông Lê Duẩn gửi ra Hà Nội Đề cương cách mạng miền Nam, một trong những tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt Nam sau 1954.

    Tài liệu này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc họp của cán bộ miền Nam ở Phnom Penh đầu tháng 12-1956, trước khi ông Lê Duẩn chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà Nội.

    Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự gia tăng hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam, một quyết định sau đó được Bộ Chính trị thông qua.


    Một vài nhận định

    Một bạn đọc ở Hà Nội

    Ông Duẩn nổi lên được là do sự cất nhắc của ông Hồ Chí Minh sau sự xuống thế của ông Trường Chinh do sai lầm của ông trong Cải cách Ruộng đất. Sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Nam Việt Nam đă làm cho luận điểm chiến tranh chính quy của ông Duẩn trở nên thắng thế so với đường lối thận trọng của ông Giáp.

    Tuy nhiên, nếu không có uy tín của ông Hồ đối với cả Liên Xô lẫn Trung Quốc th́ ông Duẩn khó có thể duy tŕ sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, một nhân tố rất quan trọng cho sự thắng lợi của phía chiến binh CS.

    Cuộc chiếm đóng Campuchia lâu hơn cần thiết và cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979 chứng tỏ đường lối thiếu mềm dẻo cũng như sự kiêu ngạo của ông Duẩn. Sự thất bại của công cuộc kiến thiết đất nước sau chiến tranh do áp dụng lư thuyết kinh tế kế hoạch hoá giáo điều đă làm tiêu tan uy tín của ông Duẩn tới mức khi ông chết phần lớn người dân VN đều cảm thấy thở phào nhẹ nhơm.

    Pham, Hà Nội

    Lê Duẩn là một con người giỏi về chính trị và quân sự. Điều này không thể phủ nhận, phải nói rằng ông ta là người quyết định cho việc dành được Nam việt nam. Tuy nhiên giết nhiều người sẽ là anh hùng, theo tôi Lê Duẩn là một anh hùng. Tuy nhiên nếu chiến tranh kết thúc ông ta từ bỏ tham vọng th́ tuyệt vời. Chính v́ ở tù lâu và theo trường phái diều hâu mà Lê Duẩn đẩy việt Nam lùi 30-40 năm. Ông ta giỏi quân sự - đồng ư, vững vàng về chính trị - ok nhưng chắc chắn rằng ông ta là kẻ ngu dốt về đường lối kinh tế.

    Hậu quả là ông ta để lại cả một hệ thống chính trị ngu dốt cho đến ngày nay. Tôi đố các bạn đến Viêt nam mà t́m thấy ở một cơ quan từ trung ương đến địa phương nào mà không tham nhũng. Từ giáo dục y tế... Giáo dục th́ đâu có nhiều bằng thật như giả như Việt Nam? Ở đâu có thể mua điểm đại học cũng như trên đại học và phổ thông dễ dàng như việt nam?? Nhiều vấn đề lắm. Nói chung muốn thay đổi th́ phải làm một cuộc cách mạng thay cả một hệ thống mới thành công. PMU18 chỉ là con bài chính trị mà thôi? Hỏi rằng tầm cỡ như bộ trưởng tham nhũng th́ thủ tướng trách nhiệm ra sao? Tại sao ông ta nói liên hồi mà ông ta chẳng làm được ǵ??

    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/viet..._profile.shtml

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 19-11-2011, 10:22 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 09-11-2011, 10:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 12-07-2011, 10:22 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 07-05-2011, 11:06 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •