1. Đèo Ngang

"Bước tới Đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều dăm chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà".


Điều đáng ghi trước hết khi đọc xong bốn câu thơ trên là một tấm ḷng thanh thoát không bám víu : cái nh́n đặt trên sự vật thật là lâng lâng như muốn bay bổng. Thoạt coi tưởng đâu như khác vô t́nh, nhưng nh́n lại mới nhận ra mối t́nh của khách nổi dậy tuy êm ả nhưng mênh mông bao la trùm cả nước, cả nhà, cả thiên địa.

"Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia".


Đó mới là mối t́nh phát xuất từ cỗi nguồn sâu thẳm làm bằng bâng khuâng xao xuyến. Thứ bâng khuâng gợi dậy do không gian đang loăng ra trước một lữ khách xa nhà, thứ xao xuyến do một thời gian ngày đang sửa soạn bàn giao cho thời gian đêm. Tất cả nhà, cỏ, hoa, đá đang bị xóa mất đường phân ranh và gây ra cho khách một mối t́nh xao xuyến u hoài như mong muốn một cuộc tương phùng mà chưa biết là với ai: một tác động chưa t́m ra đối tượng. V́ tất cả đang tản mát vào cḥm cây khối đá, lẩn lút giữa các quốc quốc gia gia.

Ở những mối t́nh khác như sợ hăi cầu mong người ta t́m ra được đối tượng hơn kém có quy định, c̣n đấy là mối t́nh rất mông lung khó xếp loại. T́nh trong hai câu nhớ nước thương nhà h́nh như bao hàm cả hai loại t́nh đó. Thoạt tiên là t́nh có đối tượng tức là t́nh nhớ nước thương nhà, nhưng liền đó cả nước cả nhà bị hai tiếng trùng điệp "quốc quốc, gia gia" làm tan ḥa vào phổ quát gồm hết mọi nước, mọi nhà và từ phổ quát tan vào phổ biến tức là nền tảng cho các nước gần nhau : nơi ta ngoại gặp ta nội trong một trạng thái trung dung siêu việt. Đó là đại để mấy nét chấm phá của lộ tŕnh, mà đích điểm nằm trong ba chữ "ta với ta". Ba chữ đó bao hàm một nguồn vui siêu việt khôn tả, và là một thành công chỉ thâu đạt được sau bao nguy hiểm, bao cạm bẫy đă tránh được trên con đường dẫn đến chỗ hai ta t́m lại nhau. Người Việt Nam chúng ta quen sống trong bầu không khí nhân sinh không hay biết nhiều đến những nguy khốn ŕnh chực, nên ta coi kết quả đó cũng thường thường. V́ thế để ư thức được giá trị trong kết quả kia, cần nhận thức ra các mối nguy cơ thường ŕnh chực hành giả trên nẻo đường về. Nhưng trước tiên phải biết "ta với ta" là ai đây đă?

Thưa là "Ta với Ḿnh tuy hai mà Một". Một trong trạng thái thống nhất nguyên sơ (unité originelle) nhưng trong cuộc đại diễn vũ trụ cũng như trong xuất hoạt của con người bó buộc phải chia ly và từ hôn ấy…

"Sông Tương nước chảy hai chiều…
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy".


Sao lại quân với thiếp chi đây?

Thưa là v́ có sự biệt ly kẻ ở lại nhà, người xa muôn dặm. Ở lại nhà gọi là nội tướng thuộc thiếp, hay là siêu thức vũ trụ, c̣n xuất hoạt gọi là ngoại thuộc chàng, hay là ư thức cá nhân. Trong trạng thái sơ nguyên lư tưởng th́ siêu thức phải thẩm thấu với ư thức, để vừa có nhận thức (ư thức) vừa có tầm mở rộng như vũ trụ (vô thức). Nhưng đấy là cùng đích, trong khi chưa đạt th́ ư thức là vô thức phân ly như không c̣n biết có nhau nữa.

V́ xa nhau mà trở thành hai tính dị biệt và cũng v́ đấy tuy Một và Hai rồi, v́ chàng (ư thức) măi theo hai (nhị nguyên) mà quên phắt nàng vô thức. Trừ vài ba đại hiền triết, dăm ba vị thánh huyền niệm c̣n nhận ra Nhất thể (tâm linh) ngoại giả chỉ biết có đa tạp ư thức, không ngờ chi đến Nhất nữa. Cho đến nay thêm được một số nhà tâm lư miền sâu mới khám phá ra Nhất thể dưới h́nh thức Ư Trung Nhân. Đấy là khám phá sẽ gây tiếng vang lớn sau này trong văn học. Ở triết lư chúng ta cũng đang được chứng kiến sự khám phá kia trong số hi hữu một vài triết gia tiên phong như Heidegger khi định nghĩa "Người là một cuộc đối thoại, là sự trao đổi giữa ngoại và nội" (Phévé 159). "L'homme est un dialogue, l'échange de l'intériorité et de l'extériorité": người là sự trao đổi giữa ngoại và nội. Vô t́nh mà dùng đúng danh từ ngoại và nội của Khổng Tử và danh từ "quân, thiếp" của thi sĩ. Hy vọng rồi đây sự truy nhận bản chất ngoại nội này sẽ tiến được những bước dài trong việc mở rộng tâm thức con người nó ở tại ư thức (ngoại) giao hợp với tiềm thức cộng thông (nội). Nhưng cho đến nay sự ngộ nhận đă gây nên biết bao tang tóc và chắc c̣n lâu lắm loài người mới thoát khỏi cảnh huống trên, nên chúng ta cần ôn lại những khó khăn trên đường để tự liệu. Bởi v́ chứng từ thưở xa xăm nào đó, khi mà "vầng trăng ai sẻ làm đôi, nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường" th́ nửa "soi dặm đường" (đa tạp ư thức) vẫn nao nao nhớ "nửa in chiếc gối" (là Tiểm thể Tâm linh).

Con người trở thành những bóng ma đi t́m hồn, bất cứ đâu cũng ghé, bất cứ cửa nào cũng gơ. Nửa in gối chiếc những ngóng cùng trông, luôn luôn t́m dịp gửi tin về ư thức. Nhưng khốn nỗi bao thư tín của Tiểm thể đều bị chặn dọc đường, tệ hơn nữa nội dung bị xuyên tạc và lợi dụng. Đấy là đầu mối nguy hại thường xuyên cho đại đa số quần chúng.

Thư tín là ǵ? Thưa chính là ḷng khát mong siêu việt Tiềm Thể, là sự nhắn gửi bằng mối t́nh lênh láng bâng quơ với một nội dung mập mờ thấp thoáng, nó thường gây nên nơi tâm hồn con người một khắc khoải, một hướng vọng về do lai nơi xuất phát uyên nguyên, v́ chính đó mới là căn tính của con người, một hữu thể siêu h́nh, một vật đói khát cơi U linh Tiềm thể. Nhưng v́ Tiềm thể man mác, không có quy định, không thể quy định, nên dễ xảy ra những chuyện xuyên tạc : ai bảo đây là Tiềm thể, kia là Tiềm thể cũng theo. Theo v́ ḷng khát vọng linh thiêng toàn thể. Do đó nảy sinh những cái hại sâu xa như khi bị xuyên tạc do một t́nh ư nào đó đă được triển nở đến độ phát ph́ cách bệnh hoạn đủ để nuốt trôi t́nh hướng vọng do lai kia, như t́nh cảm về tội lỗi nơi một Kierkegaard và đây là trường hợp thường xuyên dưới những h́nh thức khác nhau của ma thuật, của tôn giáo vu nghiễn đủ loại, các thứ hương nguyện đủ cỡ hiện diện khắp trên con đường ḿnh ư thức đi t́m lại Ḿnh Tiềm thể và vô t́nh khai thác ḷng khát vọng đó của con người vốn nhớ nhung thương mến đầy hông, nên các trung gian dễ bề thao túng.

V́ ḷng khắc khỏai mong cầu nên đại chúng dễ để ḿnh bị lợi dụng, giá trị tinh thần hướng thượng ở đại chúng phát hiện rơ rệt nhất qua sự để ḿnh bị lợi dụng. Tuy những việc đại chúng làm nhiều khi có hại cho đời sống vật chất và tinh thần của họ, nhưng ít ra nó chứng tỏ c̣n có cái chi cao hơn ích lợi vật chất. Tuy nhiên cái chi cao hơn đó quá tinh vi tế nhị đại chúng ồn ào làm sao chân nhận được. Những người lợi dụng lại thành tâm không biết ḿnh lợi dụng, nên càng thẳng tay khai thác v́ không cho đó là khai thác, mà là làm việc thiện chứ có ngờ đâu là cản bước đại chúng tiến về hợp với Tiềm thể. Tai nạn loại này kinh khủng hơn khi con người đă ăn sâu vào trong ngơ ngách nào đó rồi, th́ có cuộc gặp gỡ với cục cưng (anima), nhưng là cục cưng trá ngụy, nên cuộc gặp gỡ kết thúc bằng "một c̣n một mất" như thiếu phụ Nam Xương sau bao năm tháng mong chờ để lúc gặp lại được t́nh xưa th́ cuộc trùng phùng trở nên bi đát. Đấy là những trường hợp mà các nhà sử huyền niệm gọi là huyền niệm nuốt trôi (mystique inclusive) một thứ đồng nhất bằng bạo hành mà nàng (tiềm thể giả tạo) nuốt chửng mất chàng (ư thức) như bồng ngựa cái ăn thịt con đực lúc giao hoan. Đó là những thứ "Nhất" ngụy trang trong những thuyết phiếm thần và duy hữu đủ loại.

Ta có thể kể đến duy tâm của Hégel, đại biểu của các thứ duy hữu tế vi, nơi mà ư niệm mang danh tinh thần, nuốt trôi cái ta ngoại (cá nhân) chỉ được coi như những "lúc" của ṿng biện chứng cần được nuốt trôi vào bánh xe lịch sử. Sau này ở người Cộng sản con người cá thể chỉ c̣n được coi là bèo bọt (épiphénomenon) của hạ tầng cơ sở kinh tế (thay thế cho Tiềm thể trừu tượng).

Thí dụ thứ hai : theo phiếm thần Đế thiên (một thứ tiềm thể giả tạo) th́ Huyền Trân công chúa phải lên giàn hỏa (sutee) để bị nuốt trôi vào "Ta nội". Nhưng Huyền Trân đă kịp cao chạy xa bay nhờ cha nàng không theo phiếm thần nhưng là theo triết lư nhân sinh : nên liệu cho nàng thoát thân trở về đất tổ để ghi lại sử xanh cái hậu quả rơ rệt nhất của hai nền triết lư. Một bên là đồng nhất nuốt trôi (harmonie) mà nữ sĩ Thanh Quan là phát ngôn viên có giọng trong trẻo lạ. Đó là vài thí dụ cùng cực có ư đưa ra để đặt nổi bật mối nguy cơ trên con đường t́m về Siêu Việt.

Bao lâu Siêu Việt thể hay Tiềm thể c̣n được quan niệm có h́nh có tượng th́ c̣n xa người, và sẽ có trung gian đứng ra liên lạc, gây nên các nguy cơ khi lộ liễu, khi kín nhiệm mà trong thực tế mối nguy cơ thường ít lộ liễu, nhưng chính v́ thế nên có thể lưu hại lâu dài v́ cần phải tinh tế mới nhận ra được.

Sinh ra trong một xứ thấm nhuần triết lư nhân sinh coi con người cao trọng hơn cả, nên Đạo không thể xa người một ly, nhờ đó những hành ngơi của bọn trung gian nói trên kia chỉ hoạt động phần nào trong chốn hạ dân : c̣n nơi những người có được may mắn ăn học đều lấy xă hội nhân trần làm môi trường đạo hạnh, đôi khi thêm sơn thủy làm bàn nhún bay lên (văn vô sơn thủy vô kỳ khí). Thi sĩ Thanh Quan cũng đi t́m "kỳ khí" nơi sơn thủy và ḷng có thể cũng rộn lên những tiếng gọi kiểu Tản Đà :

Chung quanh những đá cùng cây
Biết người tri kỷ đâu đây mà t́m
Hỏi thăm những cá cùng chim
Chim bay xa bóng cá ch́m mất tăm
Bây giờ vắng mặt tri âm
Lấy ai là kẻ đồng tâm với ḿnh
Nước non vắng khách hữu t́nh
Non xanh nước biếc cho ḿnh nhớ Ai.


Hăy viết chữ Ai hoa và hiểu là Tiềm thể đang gọi cá thể th́ sẽ nhận ra sự thanh thoát của Đạo làm người. Thật là nhân sinh, non xanh nước biếc không làm át được nỗi nhớ Ai, cũng không ăn chặn mất ḷng mong ngóng đó : không dồn hết t́nh ư vào thiên nhiên được coi trọng hơn t́nh người (non plus sensible aux subtilités de nature qu'aux subtilités du coeur). Một lúc nào đó có lẽ thi sĩ đă chực ghé siêu, nhưng "thiên kỳ phản nhi" nên "dừng chân đứng lại trời non nước" cái dừng chân có giá trị như cái giật ḿnh của Nguyễn Công Trứ :
"Sực nghĩ lại giật ḿnh bao xiết kể".

Nếu không giật ḿnh, nếu không dừng chân cứ buông theo những ư tưởng quốc tế, quốc gia tuy rất cao thượng nhưng c̣n thuộc ư thức cá nhân nên đi quá sẽ thành quay cuồng trống rỗng v́ đánh mất đầu mối quan trọng nhất với ḍng sống mênh mông của Tiềm thể Ta nội. Sự quên đó chính là quên Ḿnh, đó là "vong thân". V́ thế tác giả phải "dừng chân", không để ḿnh bị ứ đọng trong t́nh nước t́nh nhà, dầu sao đó mới là Đèo ngang hiện tượng, ư thức cần đi vào Động dọc tâm linh nữa mới mong t́m ra cái Tổ trên các tổ (Văn tổ), cái Thất trên hết các thất (Thái thất). V́ thế từ "quốc quốc" trở lại "gia gia", và từ "gia gia" trở lại thẳm cung ḷng ḿnh.

Thiên hạ chi bổn tự quốc,
Quốc chi bổn tự gia,
Gia chi bổn tự thân.

天 下 之 本 在 國 , 國 之 本 在 家 , 家 之 本 在 身 (Mạnh Tử IV.5)
Để rồi:
Phản thân nhi thành
Lạc mạc đại yên
.

Trở lại với thân không vui nào b́ kịp. B́ sao kịp v́ lúc ấy con người sẽ t́m lại được sự thống nhất nguyên sơ tṛn đầy viên măn, đem lại một sự hoan lạc siêu việt khôn tả, đến nỗi một số nhà huyền niệm quen dùng ngôn ngữ thân t́nh của ái ân để nói bóng : v́ lúc giao hoan cũng có một sự sảng khoái do hai mảnh nam nữ chấp lại cho thành người toàn khối, nhân đấy có sự hoan lạc. Hoan lạc đó báo hiệu một sự hoan lạc khác khi t́m lại được sự viên măn xa xưa, trên b́nh diện tâm linh, nên sự vui cao sâu hơn vạn bội, v́ trong đó Hồn có thể thả trôi theo triều hoan lạc khoái sảng.

Và từ đấy "cấm ngoại thủy không ai được biết" để cho cuộc căn cơ Hội thoại bắt đầu, "khách văn nhân xe với khách giai nhân" của "lư ngoại t́nh nội" trong một cái hôn dài "ngh́n năm giao ước kết đôi" và sẽ không c̣n "os ad os" (miệng với miệng, tâm với tâm) nữa, nhưng là "cor ad cor": heart speaks to heart chỉ có trong cuộc, chỉ có "thính ư vô thanh" mới nghe lọt Hội thoại nghĩa là "ḥa vào" cái ḍng vận chuyển của "yêu thương" của sinh sinh hóa hóa giữa Một mà Hai : không bên nào nuốt trôi bên nào. "Trước sau ta vẫn là ta".
Toujours un, toujours deux
C'est un chant de l'amour
(Tagore).

Trong cái thái ḥa gây nên do Tâm linh tinh ṛng không c̣n chỗ pha trộn : để mặc cho đôi "ta với ta" vỗ cánh tung bay trong bầu trời siêu thoát "Flight of the alone to the Alone". (Plotin)

2. Đường lên ngũ lĩnh

Đọc đoạn thơ trên nhiều người sẽ hỏi có thật tác giả bài thơ đă đạt tŕnh độ đó chưa? Thưa chắc là không. Thế tại sao lại đưa ra bấy nhiêu suy luận? Thưa tác giả đă muốn làm thế để chứng minh rằng lối tâm tư có những chiều kích vượt ư thức, ư thức hết kiểm soát nữa, mà để cho tâm thức tự do bay lên trên những cánh cửa nghệ thuật : thi, ca, nhạc… nên thoạt nh́n tưởng như không có lư luận, và thi sĩ cũng không có ư lư luận để thắng lư với ai. Tác giả chỉ nói lên những cảm nghĩ trong lúc đối cảnh sinh t́nh, nhưng ta vẫn có thể coi đó như một "sơ nguyên tượng", mà tác giả chỉ cảm thấy lơ mơ rồi đưa tay phóng ra một hai nét chấm phá lung linh. Nay nếu muốn nhận thức ra cách xác định hơn nội dung của bức họa th́ cần triết lư phải đặt nó vào đồng văn phổ quát của nền văn hóa Viễn Đông. Đồng văn đó hay môi trường đó là suy tư bằng tâm t́nh hoặc nói cụ thể hơn là bằng nghệ thuật. Ba trăm bài của Kinh Thi không có mục đích khác hơn là giúp cho biết suy tư không tà vạy, "thi tam bá, nhất ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà, 詩 三 百 , 一 言 以 蔽 之 , 曰 ‘ 思 無 邪’ " (LN. II.2). Thi giúp cho hưng khởi thần hứng, giúp cho biết quan. Vậy quan là ǵ? Chữ Quan có một tầm quan trọng đặc biệt trong Kinh Dịch nếu không hiểu th́ không biết Kinh Dịch nói chi. Không hiểu chữ "Quan kỳ hội thông" hệ trọng như thế nào. Muốn hiểu sơ qua chúng ta cần căn cứ vào lối nh́n và nguyên lư nền móng.

Trước hết về lối nh́n ta có thể căn cứ vào câu hệ từ (IV) sau đây đặng phân biệt:

Ngưỡng dĩ quan ư thiên văn,
Phủ dĩ sát ư địa lư

仰 以 觀 於 天 文 .
俯 以 察 於 地 理
Ngửa lên là để quan chiêm thiên văn, cúi xuống là để thị sát địa lư. Theo câu đó ta nhận ra Quan là lối nh́n cởi mở, không chú ư hẳn đến một đối vật, nhưng là cái nh́n rộng mở đón nhận tất cả mọi đối tượng hiện lên trước mắt như tấm gương trong chiếu giăi lại hết mọi h́nh ảnh mà không giữ lại h́nh nào. Quan như thế là đối với Sát. Sát tuy có nh́n gần hơn, nhưng vẫn chưa chú ư tới một vật riêng lẻ. Khi nào có sự chú ư vào một vật th́ gọi là xác định. Xác định là lối nh́n độc chú vào một sự vật, vào một khía cạnh riêng biệt không để vật khác xen vào. Lối xác định này đôi khi được dùng trong việc thiền định, thường là ở những bước sơ bộ, rồi sau chuyển sang lối quan, lối sát. C̣n xác định chỉ là lối nh́n của các khoa học thực nghiệm chuyên môn, của các loại tri thức có kiện tính (factual) để biết một sự vật riêng lẻ, biết để chinh phục, để sử dụng.
Đấy là một lối tiêu tri, một tai họa cần thiết (un mal nécessaire) cho khoa học thực nghiệm. Khoa học không thể tiến lối khác, tuy nhiên đó vẫn là tai họa v́ nó làm cho sự vật bị cô lập khỏi môi trường, trở nên bé nhỏ. Nên người có nhiệm vụ phải sử dụng lối nh́n xác định có kiện tính cách thường xuyên, th́ tầm mắt dễ trở thành co rút thắt bóp lại, và khả năng nh́n toàn diện bị tê liệt. Đó là lư do tại sao những người chuyên môn thường có cái nh́n rất thiển cận hẹp ḥi. V́ thế phải nh́n lối quan là lối nh́n đầy thông cảm sẵn sàng đón nhận trong yêu thương kính nể, nghĩa là để mặc cho sự vật hiện h́nh ra như chúng có, mà không "chinh phục" nghĩa là không bắt sự vật phải khuôn theo những phạm trù, những ư niệm đă sắp đặt trước là cái sẽ bóp méo sự vật, chặt nhỏ sự vật ra. Trái lại Quan là một thái độ thanh thản hồn nhiên để mặc sự vật biểu lộ ra sao tùy chúng. Và đó là thái độ thuận lợi nhất để nh́n ra cái tế vi của sự vật hay là sự vật trong liên hệ với cái Toàn thể.

Đó là ư câu "thuận nhi tốn, 順 而 巽 " hay là "ṭng viết nghệ, 從 曰 藝 " trong ngũ hành. Có ṭng theo th́ mới đạt tới nghệ với ư nghĩa nghệ là ưu tú đặc biệt trong tài năng và huyền đức (éminent en talent et en vertu). Bởi v́ sự vật đă thoát ra khỏi những ư niệm về trước sau, đây đó, nhân quả, sở năng… để hiện lên tṛn đầy viên măn mà Nho triết kêu là "Quan kỳ hội thông, 觀 其 會 通" nghĩa là nh́n sự vật trong liên hệ với Toàn thể tức vượt qua mọi hiện tượng ở ngoài chu vi của lối xác định, hầu đạt đến nơi căn để của Đất, Trời, Người giao hội, tức là đạt tới một cái ǵ bao la như vũ trụ, vượt hẳn tầm tai mắt hay mọi giác quan của ta.

Tới đây ta chạm đến điểm thứ hai thuộc nội dung chữ Quan là chữ Tín hay là "hữu phù" mà Kinh Dịch hay nói tới. Hữu phù là có ḷng tin rằng nơi ḿnh có một cái linh lực vô biên rất cương kiện đầy hiệu năng có thể làm tất cả thay cho ḿnh miễn là ḿnh đừng chống lại bằng những cái bé nhỏ ư thức hữu vi để che khuất lấp mất tác động của nó. Muốn được như vậy th́ cần tin mạnh v́ càng có ḷng tin mạnh mẽ th́ càng không chú trọng đến tai mắt hay bất kể giác quan nào, cũng như mọi phương pháp đặt ra đều vô hiệu, có chăng chỉ là sửa soạn cho tâm trạng được sẵn sàng đón nhận sự xuất hiện của cái nội lực tâm linh mà thôi, và do đó những phương pháp được kể là những phương pháp làm buông lơi, phương pháp xả. Những lối sống, lối nghĩ làm cho nghị lực lơi ra khỏi cơi hiện tượng, không tin trọn vẹn vào hiện tượng như trước nữa, nói khác đi là tương đối hóa hết mọi phương pháp, nghĩa là coi chúng chỉ có một giá trị sửa soạn dọn đường mà không đặt tin tưởng vào chúng, nhưng đặt vào cái Đức vô h́nh. Quan chính là lối nh́n thuận theo ḷng tin đó, cho nên nh́n mà là không nh́n.

Đó là một lối áp dụng triết lư an vi vào cái nh́n. Triết lư an vi ở tại làm việc hăng say hết ḿnh, gọi là "chí thành", nhưng cái "hết ḿnh" đó không để vào đối tượng của tác động, nhưng để vào chính tác động. Quan là thế : nh́n mà không chăm chú đến chi cả. Đây có thể là phần tích cực về giác quan để bù trừ với câu "nhĩ mục chi quan bất tư " của Mạnh Tử ở chương III. Ở trên mới có phần tiêu cực rằng giác quan không thể suy tư. Nhưng câu đó cũng như một hai câu khác của Mạnh Tử lại hơi quá đáng dùng để đối chọi với cái lối suy tư y cứ trọn vẹn trên giác quan lư trí th́ tốt, nhưng bóc trần ra th́ chưa đủ v́ tai mắt cũng như lư trí có phần đóng góp của nó tuy tương đối, nhưng nó có đóng góp. Và ở đây xác định sự đóng góp đó bằng quan là nh́n mà không đặc chú đối tượng.

Ở danh lư (logique) nh́n đối tượng cách tuyệt đối. Ở lối phản lư th́ từ chối cả nh́n cả đối tượng; c̣n ở đây là nh́n mà không nh́n chi cả : nh́n mà không có đối tượng nh́n, cốt tránh không để cho đối tượng bẻ quặt sự cảm nhận của những cảnh vật mới xuất hiện xuyên qua lăng kính ư niệm đă có trong óc trước làm ngăng trở việc cảm nhận được y nguyên như là sự vật có thế. V́ giữa sự vật được nh́n và tác động nh́n có những ư niệm khác được lưu trữ làm cách biệt ra để có chủ tri và sở tri mà không đạt "trí tri" là cái biết ở tại "cách vật", nghĩa là không c̣n ǵ ngăng trở nữa để được đi đến tận cùng cái lư vạn vật phổ biến, và nếu đă hoàn toàn phổ biến th́ c̣n ǵ là sự vật riêng lẻ nữa để mà có năng tri và sở tri, mà chỉ c̣n có thể nghiệm.

V́ thế muốn cho Quan được dễ hiện thực thường đôi khi người ta lên núi hay xuống bể. Những cảnh bao la đó giúp ta có được cái nh́n thanh thoát. Một vị tu hành nào đó nói khi tôi đă sống ít ngày trong sa mạc tôi cảm thấy như mọi cái tương đối biến đâu cả để cho tuyệt đối dâng lên. Nói thế là v́ cảnh vật đă biến đi, chỉ c̣n có không gian trơ trọi bao la, để giúp ḷng lơi khỏi sự vật và những chỗ cho tiềm thức xuất hiện lên chân trời tâm thức, đặng bơm sinh khí mới vào, giúp cho ḿnh nh́n xuyên qua sự vật lẻ tẻ để thấy được cái toàn thể u linh. Có thể v́ đó mà các cụ xưa nói "văn vô sơn thủy vô kỳ khí". Cái Khí nói đó là cái ǵ thuộc tiềm thể mới giô lên mặt tâm thức mà chỉ người nào biết Quan mới cảm nhận được, nên gọi là kỳ khí, là huyền lực, v́ nó khác cái hứng khởi ở đợt thường nghiệm.

Về thời gian thuận lợi cho việc Quan th́ là hết mọi lúc ở đây và bây giờ, nhưng có những lúc thuận lợi hơn như là hoàng hôn và ban mai. Hoàng hôn là lúc ngày sắp trao về đêm : ư thức sắp giao lại với tiềm thức, và buổi b́nh minh là lúc đêm sắp trả lại ngày : tiềm thức sắp giao hội với ư thức. Nên đó là những lúc có nhiều may mắn để "triêu văn đạo".

Chúng ta hăy trở lại cái nh́n của thi nhân và quan sát theo tiến tŕnh của quẻ Quan trong Kinh Dịch. Quẻ Quan nói rằng :

Quán nhi bất tiến, hữu phù ngung nhược. Đại quan tại thượng. Thuận nhi tốn. Hạ quan nhi ḥa dă…
盥 而 不 薦 . 有 孚 顒 若 . 彖 曰 . 大 觀 在 上 . 順 而 巽 . 下 觀 而 化 也
- Sơ lục : đồng quan, tiểu nhơn đạo dă.
- Lục nhị : khuy quan, khuy quan nữ trinh, diệc khả sũ dă.
- Lục tam : quan ngă sinh, tiến thoái vị thất đạo dă.
- Lục tứ : quan quốc chi quang, thượng tân dă.
- Cửu ngũ : quan ngă sinh, quan dân dă.
- Thượng cửu : quan kỳ sinh, chí vị b́nh dă.

初 六: 童 觀 . 小 人 道 也
六 二: 闚 觀. 闚 觀 女 貞. 亦 可 醜 也
六 三: 觀 我 生 進 退. 未 失 道 也
六 四: 觀 國 之 光. 尚 賓 也 .
九 五: 觀 我 生. 觀 民 也 .
上 九: 觀 其 生. 志 未 平 也 .

Giải nghĩa:
- Ở hào đầu (sơ lục) là đồng quan, đó là lối quan của tiểu nhơn. Tiểu nhơn theo lối thế tục quan sát bằng tai mắt theo những lề lối ứơc định của xă hội đương thời. Đây là lối nh́n theo lưu tục chưa chút chi khoa học cả, mới chỉ thấy một chiều duy nhất, nên gọi là đồng quan là lối quan của trẻ con, của "đồng hộ lưu tục", của lũ đông.

- Hào hai (nhị lục) là khuy quan tức là xem qua lỗ khóa. Đó là cái nh́n của tiểu ngă, của cái "Ego cogito". Có ư thu gọn lại một khía cạnh cho dễ đáo sâu cách khoa học. Tuy thế, có sâu là đối với đồng quan ở hào thứ nhất, nhưng chưa đủ sâu để thấy toàn thể Tính trong sự vật. Lẽ ra phải dùng chữ xác định thay chữ quan, nhưng v́ trong một quẻ, nên dùng chữ quan kèm thêm hai chữ đồng quan và khuy quan khiến Quan trở thành xác định. C̣n khi muốn chỉ vào quan thực th́ phải nói là đại quan.
Lối khuy quan dùng trong khoa học thực nghiệm th́ hay, nhưng đưa vào triết lư th́ dẫu có "trinh bền như nữ nhân" cuối cùng cũng đáng xấu hổ (nữ trinh diệc khả sũ dă) y như các thuyết nhất nguyên độc khối v́ quá chú trọng đến ư niệm là sản phẩm của giác quan, nên c̣n mắc trong trừu tượng khô đét, làm cho tâm thức co thắt lại do những h́nh ảnh chồng chất, v́ thế thường không theo kịp đà sống luôn luôn chuyển động lung linh. Vậy cần dùng lối quan thứ ba hướng vào chính đời sống th́ mới "tiến bộ".

Thi sĩ của chúng ta đă trực thị điều đó, nên đă vượt hai hào đầu là đồng quan và khuy quan. Bằng chứng nằm là liệt trong bốn câu thơ đầu. Bước tới Đèo Ngang là bước tới khúc rẽ tâm t́nh. Tâm t́nh không c̣n để trôi theo ḍng lưu tục, nhưng khởi đầu để lên Đèo và đâm ngang ra để sửa soạn cho một cuộc hôn phối ư thức với vô thức. Nên hôn phối thời xưa được cử hành vào lúc hoàng hôn (nên gọi là hôn phối) nói lên ư nghĩa ngày (dương) sắp giao hợp với đêm (âm): ngày là ư thức sáng sủa của tác giả sắp giao hội với tiềm thức đầy chất sống là Ta lớn tâm linh thường hoạt động về đêm, lúc ư thức ngủ (v́ thế đêm với Tiềm thức có họ âm u linh diệu). Đến lúc ấy th́ những ranh giới phân chia sự vật trở thành nhập nhằng, thẩm thấu ăn ngoàm vào nhau để sửa soạn cho sự biến dần. Điều đó có thể đọc được trong những chữ chen, lom khom, lác đác : "cỏ cây chen đá, là chen hoa. Lom khom dưới núi tiều dăm chú. Lác đác bên sông chợ mấy nhà". Hai cặp chữ lom khom và lác đác cũng nhấn mạnh trong chiều hướng xóa dần : người không c̣n thấy mặt thấy đầu mà chỉ c̣n thấy có lưng (lom khom) và xóa nữa nên nhà cũng thưa thớt dần ra. Tất cả sửa soạn cho một cuộc bay bổng được diễn tả bằng những mối t́nh mênh mông : nhớ nước thường nhà. Nhà là nước, nước là nhà, ta quen nói nhà nước: hai mà một, bài thơ nói đến nước trước nhà. Quả quan nói tới nhà rồi mới đến nước.

- Hào ba rằng "Quan ngă sinh: tiến thoái". Quan tâm đến đời sống và xă hội là tiến bộ hơn chú mục đến những ư niệm trừu tượng. Chữ Ngă có thể hiểu cả về nước lẫn nhà. Nhưng cái vị của hào ba chưa phải là vị của quân tử nên mới chỉ trỏ vào nhà, trỏ vào cái sinh sống của tiểu ngă hay của gia đ́nh. Tuy vậy cũng đă là tiến bộ hơn cái Quan trừu tượng ở hào hai. V́ thế chưa thất đạo. Nhưng chưa thất đạo c̣n thấp hơn chưa "đắc đạo" và có thể thoái nếu chỉ dừng lại lo cho gia đ́nh tư riêng.

- Muốn khỏi thất đạo phải bước lên hào bốn, và chỉ ở đây mới nói là chưa đắc đạo. Đắc Đạo chỉ xảy ra ở hào 5: chỉ trên ngọn Ngũ lĩnh Đế Minh mới gặp Tiên nữ tức là nền Minh triết uyên nguyên. V́ thế phải từ giă hào 3 để lên hào 4, bằng "nhớ nước đau ḷng con quốc quốc. Thương nhà mỏi miệng cái gia gia".

Thiệt đúng là một sự ngẫu hợp với hai chữ "Thanh Quan" nghĩa là quan mà không có đối tượng, hay đối tượng sở quan với năng quan ḥa hợp. Sở quan là nhớ nước, năng quan là đau ḷng con quốc quốc. Nước với quốc là một, cũng như gia với nhà không hai : vô nhị. V́ thế trong quẻ nói: "quan quốc chi quan thượng tân dă".

Xem đến hoặc lo về vận mạng vinh quang của nước với tấm ḷng của tân khách nghĩa là với tấm ḷng thanh thoát không mong cầu vinh thân ph́ gia. Đó là tấm ḷng mà bất cứ ai thực t́nh thương nước cũng phải có, nên lời Kinh nói: "lợi dụng tân vu vương, 利 用 賓 于 王", nên dùng cái ḷng không màng chi như khách cho các bậc đế vương, tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng… tất cả phải lấy ḷng thanh thoát như khách qua đường trước của chung, th́ may chăng công quỹ mới tiêu vào việc chung được 2/3 nghĩa là đủ cho việc chung thành tựu.

- Từ hào 5 trở đi là trở lại với ḷng ḿnh đến mức độ mà ư thức có thể hội thông với tiềm thức: ta ngoại gặp ta nội "một mảnh t́nh riêng ta với ta". Và ở hào này có lấy chính ḿnh làm đích cũng không mắc lỗi: "quan ngă sinh: quân tử vô cữu" v́ tuy quan ngă sinh mà cuối cùng vẫn ḥa với "quan dân dă". V́ đây là cái Đạo Nhân sinh không xuất thế, nhưng là xử thế: nên Ḥa nội thánh (quan ngă sinh) hợp với ngoại vương (quan dân dă) trong cái Đạo An Vi, là "hậu quả" tất nhiên của Thanh Quan.

Thanh quan là quan không dính bén vào một vật riêng tư nhất định nào cả để có thể quan tất cả sự vật trong liên hệ với toàn thể, mà trong thực tế là thuận theo nhịp trời đất 4 mùa. Lời Kinh: "Đại quan tại thượng, thuận nhi tốn, 大 觀 在 上 . 順 而 巽 " Quan được cái thần đạo của trời th́ bốn mùa không sai chạy, ư nói thuận theo tất cả, đón nhận bất cứ cái chi như đón gió trời, đón sự sự vật vật diễn hành qua mắt, đón mọi t́nh cảm, mọi súc động đột khởi lưu linh qua lại trước tâm thức lâng lâng rộng mở : từ cỏ cây chen đá, cho tới lá chen hoa, qua tiều dăm chú, qua chợ mấy nhà, rồi nhớ nước, rồi thương nhà, để cuối cùng gặp ra chính năng quan ḿnh bắt gặp ḿnh, ta gặp ta, tuy hai mà Một, cái lưỡng nhất thể đó là suối nguồn cho mọi cuộc cải hóa chân thực, và tất cả ư nghĩa quẻ Quan là đạt đến đó, nên lời Kinh nói "Khi rửa tay rồi mà chưa dâng tế th́ đó là lúc thuận lợi nhất để xem vào ḿnh một cách đầy thành tín, đầy đức tin". Quán nhi bất tiến, hữu phù ngung nhược, 盥 而 不 薦 . 有 孚 顒 若 , để đạt đến suối nguồn của ḷng thành tính là cái làm cho con người trở thành cao cả như vũ trụ, đồng thời cấp cho một sức thần diệu tỏa ra từ tâm thức có đầy sức cảm hóa (hạ quan nhi hóa dă) và gây nên những âm vang sâu thẳm vào tâm hồn của những ai đă được chiêm ngưỡng.

Quan Đạo chính là đường đi của những người muốn "an bang tế thế" vậy. Khác ít nhiều lối "bích quan" của Bồ Đề Đạt Ma chín năm ngồi ngắm tường. Đó là "tọa thiền". Sau này đến lục tổ Huệ Năng th́ tọa sẽ bớt đi để chỉ c̣n có thiền không, nên đă khá giống với Quan Đạo, khác chăng là quan trong Kinh Dịch có điểm đặc trưng là "quan ngă sinh""quan quốc chi quan", "quan dân dă" mà thiền v́ đứng trong thế tu hành, nên không chú trọng tới ngoại vương cách trực tiếp. Nhưng xét theo đại để th́ trong ḍng máu của thiền tông có chứa nhiều yếu tố Viễn Đông dịch lư hơn là nặng lư trí Dhyana của Ấn Độ, nên mối b́nh quân giữa ta hiện tượng nhập thế với ta ẩn tượng xuất thế được săn sóc nhiều hơn, do đấy thay v́ tọa thiền ta có trà thiền, hoa thiền, xạ thiền, thơ thiền… tức là những bước đi gần là Tâm tư : khi hiểu Tâm là t́nh tự bằng lư trí, và Tư là lư luận bằng tâm t́nh, ngoài là lư nhưng trong là t́nh, t́nh một cực giữa "ta với ta". Riêng là không c̣n chi chen kẽ giữa ta ngoại và ta nội, hai bên thông suốt xem tận mắt "bản lai diện mục" để cùng nhau mở cuộc hội thoại uyên nguyên. Đó gọi là giây phút uy linh của "triêu văn đạo" khi Đế Minh gặp Tiên nữ.

3. Triêu văn Đạo

Nghe Đạo trong ánh b́nh minh sơ nguyên triêu triệt, nghĩa là nghe Lời Nguyên Ngôn đầy sinh đức huyền lực (logos spermatikos) của ḍng "sinh sinh bất tức" chiếu tỏa vào những miền sâu thẳm của tâm thức con người, để làm phát triển ra nguồn nghị lực cùng sáng nóng vô biên khiến con người xem sự sự vật vật trong mối liên hệ với toàn thể nên là xem dưới một ṿm trời mới lạ được cảm thấy trong đường gân máu mạch rơ ràng ḿnh với vũ trụ là một, và câu nói "sáng nghe Đạo" không c̣n là nghe cái chi xa lạ, nhưng chính là nghe tiết điệu Uyên Nguyên của tâm hồn ḿnh lúc đó đột nhiên mở rộng ra bằng tầm vóc vũ trụ bao la man mác, và cảm thấy ḿnh tiêu diêu thanh thoát tự tại khác thường, v́ vũ trụ không c̣n là cái chi khách thể bên ngoài ḿnh, đứng đó để hạn chế khả năng của ḿnh, nhưng bây giờ ḿnh cảm nhận thấy rơ ràng với ḿnh như một, nên năng lực như được gia tăng vô kể để đôi môi nồng cháy kề thẳng vào nguồn suối luôn luôn vọt lên sáng láng và sức sống, không c̣n một trung gian nào, không một ư nghĩ về trước sau, tốt xấu, có không chen kẽ. Tâm thức như tung tăng giữa Đại Dương man mác không cần t́m cầu cái chi, theo đuổi mục đích nào. C̣n thiếu cái chi, c̣n vật ǵ ngoài ḿnh đâu nữa để mà phải kiếm t́m theo đuổi. Lúc ấy tất cả bầu nghị lực được giốc trọn vẹn vào động tác đang thực thi trong lúc hiện tại, khiến động tác át cả đối tượng nên làm một cách hăng say nồng nhiệt : chí thành. Đó có thể là ư câu "châu công chi tâm, dĩ thính ư thiên nhi dĩ": cái tâm của ông Châu Công, của nhà hiền triết là ở tại nghe được trời, cũng gọi là nghe Đạo.

Sở dĩ trước lúc đó không nghe được Đạo, v́ lư trí ḿnh tự đồng hóa với những ư niệm nhỏ bé của sự vật, của thiên kiến tư dục, coi chúng chính là ḿnh, thành ra bị ứ đọng lại ở đợt ngang là "vật giao vật", tưởng ḿnh là vật tức là ư nghĩ này, t́nh cảm kia, liên tiếp theo nhau trong cái chuỗi nhị nguyên đối kháng bỉ thử, hữu vô, thiện ác, có không, sướng khổ, vui buồn… tất cả song đôi chạy thẳng chẳng bao giờ gặp nhau, nhưng cùng vào hùa để dệt nên bức mành mành chắn giữa "làm cho nh́n chẳng được nhau" nên ta nhỏ nhận lầm ư niệm này dục vọng kia là chính ḿnh ta. Trong nhà đâm ra lắm kẻ khác cũng nói năng om ṣm làm khuất lấp mất tiếng của Chân Nhân Ta Nội, và mảnh t́nh không c̣n là "riêng" nữa, nhưng đă bị chung chạ giữa bao trung gian. Chỉ khi nào biết xả, biết quan, nghĩa là biết lướt nhẹ trên tất cả hoa, lá, đá, nhà, chợ, thương, nhớ… th́ lúc ấy mới gặp lại được mối t́nh riêng theo nghĩa huyền diệu không thể nào nói ra được. Và lúc ấy mới trông "sáng được nghe đạo" tức là nhận thức ra được sứ điệp của cơi Tiềm thức bao la sâu thẳm đâm thấu đến những miền u tối nhất của tâm hồn, để tất cả con người như thăng ḥa đồng nhất với cái tiết điệu Uyên Nguyên của vũ trụ.

"Sáng nghe đạo" như vậy có nghĩa là "nghe Lời Người sơ nguyên": "Le verbe de l'homme primordial": nghe không bằng tai nhưng bằng tâm, v́ kẻ nói với người nghe là Một, nên Nho triết kêu là Thành tín.

Tín là Lời Người : lời với người tương kiến tương nhập để trở thành vô nhị, nghĩa là Lời không c̣n đối tượng mà chính là Lời nói lên cơ cấu Uyên Nguyên của Người cũng là của Trời cùng Đất, nên cũng gọi là Lời tự khải thị Chân Như. Lời của Ta chân thực mà Héraclite bảo phải nghe theo chứ đừng nghe lời của cái ta nhỏ bé b́ phu ngoại tại: "Il est sage d'entendre non pas moi, mais le Verbe". Hết mọi nền Minh triết, mọi nền triết lư chân chính, mọi phương pháp suy tư chân thực đều phải làm sao cho con người nghe được Lời huyền diệu đó, Lời của con người chí nhân kêu gọi người tiểu ngă thức dậy khỏi giấc ngủ mê man giữa các vật thể, đặng tham dự vào nhịp sống Uyên Nguyên của vũ trụ, của Nhân tính.

Đó là tiếng nói diệu huyền linh động mọi tơ ḷng để chúng rung theo nhịp của Đại Đạo. "Thánh nhân dữ thiên địa hợp kỳ đức". Và từ sáng hôm ấy, một buổi b́nh minh triêu triệt sơ nguyên "d'une clarté originelle, d'une aurore primordiale" của mặt nhật tâm linh hiện lên trên ngọn đồi dâu huyền diệu, thứ dâu đă dùng làm tên để phóng tới bốn phương khi con người mới ra đời đặng nói lên sứ mạng của người, nói lên tinh túy Đạo làm người, là phải xua đuổi xong bốn xú khí là các ư niệm, công ước, thiên kiến để vượt tới chốn thiên thai chưa gặp bước trần ai, đặng ôm lấy Trung Dung nương tử vừa thức giấc giữa cánh rừng âm u, dưới cái hôn nồng cháy của công tử đặng hưởng một mảnh t́nh riêng "ta với ta", để chấm dứt giai đoạn nô lệ cho những ư hệ trừu tượng vô cứ, đặng bước vào giai đoạn ḿnh tự đổi với Ḿnh, với Kỷ Đại Thể bao trùm được cả vạn vật, cả chính cái ta ư thức và nhờ đó ta ư thức được che chở không c̣n bị nô lệ, không c̣n ǵ ở ngoài Kỷ để có thể nô lệ hóa ḿnh nữa.

Bao lâu chưa đạt được trạng thái đó th́ có suy tư cũng chỉ là suy tư một chiều. Một nền suy tư chân thực là nhắm đạt được tâm trạng hai chiều, đạt trạng thái thể nghiệm của "ta với ta" đó vậy.

(Kim-Định)