Page 3 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 21 to 30 of 49

Thread: Cổ Học Tinh Hoa

  1. #21
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    21. HÀ BÁ LẤY VỢ
    Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy có đă lâu ngày, không ai phá nổi.
    Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá. Trước mặt đông đủ cả bô lăo, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con gái này không được đẹp! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà bá xin hoăn lại hôm khác, để t́m người đẹp hơn". Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông.
    Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này!" Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông.
    Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức ǵ cả! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lăo đi giúp cho. Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông.
    Một lúc, ông nói: "Sao măi không thấy về thế này! Bọn đồng cốt, bô lăo dễ đi cũng không được việc, phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong."
    Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói: "Để thong thả ta xem đă..." Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới bảo: "Thôi tha cho họ. Thế là Hà bá không lấy vợ nữa rồi".
    Thành thử từ đây dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến truyện Hà bá lấy vợ nữa.
    Sử Kư
    GIẢI NGHĨA
    Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Kư trong Phụ Lục D, Tư Mă Thiên trong Phụ Lục C).
    Nghiệp: tên một huyện đời nhà Hán tức là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Tây Môn Báo: người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi, trừ được hại, hưng được lợi cho dân.
    Tục: thói quen lưu truyền lâu ngày đă thành nếp. Hà bá: Thần ở dưới nước. (2)
    Mê tín: tin một cách mê muội không biết lẽ phải là thế nào nữa. (2)
    Thân hành: chính ḿnh đi làm lấy một việc ǵ. (2)
    Bô lăo: các cụ già. (2)
    Hào trưởng: kẻ có quyền thế, làm bực trên trong dân làng. (2)
    LỜI BÀN
    Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại. Khi mê tín đă thành tục, th́ khó ḷng mà phá nổi. Muốn phá, tất phải dụng tâm khéo làm sao mới được. Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi cái tục cưới vợ cho Hà bá là v́ ông biết trừ tự cái gốc rễ; tức là đám đồng cốt quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người ta để kiếm ăn, để cầu lợi. Trừ hai hạng ấy để cứu vớt lương dân, chỉnh đốn phong tục thật là công minh và cương quyết vậy.

    22. GHÉT CON KHÔNG GIỐNG M̀NH
    Doăn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống ḿnh, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại t́nh mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ ..."
    Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói th́ vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Đan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế th́ c̣n cái ǵ mà giống cha? Cái đạo thường, th́ phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy. Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu th́ cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu?"
    Doăn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa."
    Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ.
    Khổng Tùng Tử
    GIẢI NGHĨA
    Khổng Tùng Tử: tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của nhà Bác sĩ là Khổng Phụ làm ra. Khổng Phụ, tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám đức Khổng Tử.
    Nghiêu, Thuấn: xin xem Nghiêu, Thuấn ở Phụ Lục C.
    Tử Tư: xin xem Ngũ Tử Tư ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Có cha ấy tất phải có con ấy, thường th́ vẫn thế. Nhưng không phải cái lư nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con v́ nó không giống ḿnh, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, th́ cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy.

    23. LỢN MẸ GIẾT LỢN CON
    Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống ḿnh rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. C̣n con lợn loang lổ khác ḿnh th́ ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi.
    Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyển di. Mắt đă mờ về kẻ giống ḿnh hay khác ḿnh, th́ bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Đă ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi người khác máu với ḿnh. Người đời lúc b́nh cư, th́ âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau, kiên cố tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, th́ mặt đă đổi sắc, cơn giận nổi lên và t́m cách tàn hại nhau ngay lập tức. Gớm thay! Tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác ǵ con lợn nái.
    Tử Hoa Tử
    GIẢI NGHĨA
    Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hi.
    Tử Xa: quan Đại phu nước Tần.
    Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm năo làm thế này thế kia. (2)
    Chuyển di: thay đổi. (2)
    Thế lợi: quyền thế, tài lợi. (2)
    LỜI BÀN
    Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng t́nh, đồng chí th́ ưa nhau, mến nhau, c̣n ngoại giả, th́ đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người ta như cừu địch cả, thực là hẹp ḥi đáng tiếc. Người quân tử không bao giờ lấy cái h́nh sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng ṇi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với ḿnh, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, ḿnh cũng nên có ḷng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta th́ mới đáng gọi là yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không th́ tâm thuật lợn nái mất rồi!

    24. GIÁP ẤT TRANH LUẬN
    Giáp hỏi Ất: "Đúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông tiếng kêu boong - boong th́ tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng kêu?"
    Ất đáp: "Lấy dùi gơ vào tường vách không kêu, gơ vào chuông kêu, thế th́ tiếng kêu ở như đồng."
    Giáp hỏi: "Lấy dùi gơ vào đồng tiền trinh không kêu, thế th́ có chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không?"
    Ất nói: "Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra."
    Giáp hỏi: "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế th́ có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không?"
    Âu Dương Tu
    GIẢI NGHĨA
    Âu Dương Tu: người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng. (Xin xem thêm Âu Dương Tu ở Phụ Lục C).
    Tiền trinh: tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Trung Quốc đem sang ta đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh nên gọi là tiền trinh. (2)
    LỜI BÀN
    Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, th́ cũng phân vân, không rơ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra. Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh vào, không kêu. Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được. Tiếng kêu là ǵ? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra. Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, th́ h́nh như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một. Thế mới hay, lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không tài nào gỡ rối. Nên biết được thế nào, th́ hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ cho ḿnh là phải, không bết cái phần phải của người, th́ là có tính nhân thiên và lượng hẹp. Nói cho đúng: muốn rơ vật lư, cần phải có khoa học. Không biết khoa học mà bàn luận vật lư th́ không tài nào xác thực được.

    25. MẶT TRỜI XA, GẦN
    Đức Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé căi nhau, hỏi tại làm sao, th́ một đứa nói rằng:
    "Tôi th́ tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn, về buổi trưa, ở xa ta hơn."
    C̣n một đứa nói: "Tôi th́ tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn,"
    Đứa trước căi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe, đến giữa trưa, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là ǵ?"
    Đứa sau căi: "Lúc mặt trời mới mọc, th́ mát mẻ, đến giữa trưa th́ nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là ǵ?"
    Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao.
    Hai đứa bé cười bảo: " Thế th́ cho ông là người học rộng hiểu nhiều thế nào được!"
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Buổi sáng, buổi trưa, mặt trời ở cách trái đất cũng không phải lúc gần, lúc xa ǵ cả. Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa thấy nóng hơn, chẳng qua là tại tia nóng mặt trời chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất, buổi sáng c̣n chếch, buổi trưa mới thẳng. Vả chăng buổi sáng, c̣n những sương móc ban đêm chưa tan hết cho nên mát hơn buổi trưa là lúc khí nóng tụ tích măi vào, cho nên nhiệt độ càng cao. C̣n nếu buổi sáng, trông mặt trời to, buổi trưa trông mặt trời nhỏ, chẳng qua là một cơi hoăn h́nh của con mắt trông như thế mà thôi. Mặt trời đâu vẫn ở đó. Trái đất xoay chung quanh mặt trời. Lúc mặt trời mọc, con mắt trông chếch, đến buổi trưa, con mắt trông thẳng mà lại trông qua từng không khí, cho nên thấy to nhỏ khác nhau. Vậy chỉ tại người trông hóa to, nhỏ, chớ không phải chính mặt trời xa, gần ǵ cả. Ấy đại để bây giờ th́ ta giải nghĩa như thế. Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa có mấy, th́ xem hai đứa bé suy lư với nhau, đứa nào cũng phải, khó ḷng mà quyết định được thật. Vả lại ngừơi ta thông minh, thánh trí đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được.
    V́ rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức th́ mông mênh, không bờ bến nào!

    26. CÁCH PHỤC L̉NG NGƯỜI
    Ḿnh làm người sang trọng giàu có, th́ chớ nên kiêu sa.
    Ḿnh là bậc trông minh tài trí, th́ chớ nên khinh ngạo.
    Ḿnh có sức lực khỏe mạnh, th́ chớ nên đè nén người.
    Ḿnh ăn nói linh lợi, th́ chớ nên dối trá người.
    Ḿnh c̣n kém th́ phải học, chưa biết th́ phải hỏi.
    Đối với làng nước, th́ phải giữ cái trật tự trên dưới.
    Đối với người nhiều tuổi, th́ phải giữ cái nghĩa con em.
    Đối với người bằng vai, th́ phải giữ cái nghĩa bầu bạn.
    Đối với lũ trẻ thơ, th́ phải dạy bảo khoan dung.
    Như vậy th́ ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với ḿnh. Tâm địa rộng răi thênh thang như trời đất, th́ bao bọc được cả muôn loài.
    Hàn Thi Ngoại Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những việc, những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n Ngoại truyện mà thôi.
    LỜI BÀN
    Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo th́ mới được. Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Đoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu, cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắc phải. Đoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xă hội. Nói tóm lại khiêm nhă kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời.

    27. L̉NG CƯƠNG TRỰC
    Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hăi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
    Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước th́ ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức."
    Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng:
    "Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết th́ giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm."
    Thôi Trữ nghe nói, không dám làm ǵ Án Tử.
    Án Tử đứng dậy ung dung bước ra.
    Tả Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự tích về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
    Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
    Thôi Trữ ( ?-546 TCN): là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đă thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối cùng bị diệt cả gia tộc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục C; xem thêm Thôi Trữ trong Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
    Tề Trang công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
    Cương trực: cứng rắn, ngay thẳng. (2)
    Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa. (2)
    : quan nhỏ. (2)
    Phu: quan to. (2)
    Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc ǵ. (2)
    LỜI BÀN
    Cường quyền thường muốn át công lư, tuy vậy công lư vẫn hay uốn được cường quyền. Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm cho phải lùi. Thế mới hay cái ḷng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo. Những người có ḷng trung nghĩa, cá tính cương quyết như Án Tử, cứng như sắt, đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lư để đối phó với cường quyền.

    28. TRÍ, TRUNG, DŨNG.
    Nước Trần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành bên Tây. Sau người Sở bắt dân nước Trần ra tu bổ lại cửa thành ấy.
    Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe. Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi:
    "Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người th́ phải xuống, qua chỗ hai người th́ phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ ḷng kính trọng. Nay quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có ḷng kính trọng, là cớ làm sao?
    Đức Khổng Tử nói:
    "Nước mất, mà không biết, là bất trí ; biết, mà không lo liệu, là bất trung ; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, th́ bảo ta kính làm sao được!
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tử Cống: học tṛ Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Tu bổ: sữa sang chữa lại. (2)
    Bất trí: ngu dại không biết phải trái. (2)
    Bất trung: chểnh mảng không hết ḷng với vua, với nước. (2)
    LỜI BÀN
    Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi. Đức Khổng Tử đáp thế, ư hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, h́nh như không c̣n ai biết đến nước là ǵ. Nếu quả vậy th́ có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, v́ rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân ngu dại th́ tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào.

    29. BIẾT LẼ NGƯỢC, XUÔI
    Việc đời có lắm cái h́nh như ngược, mà thật th́ xuôi, có lắm cái h́nh như xuôi, mà thật ra lại ngược. Ai biết rơ việc thật ngược, xuôi thế nào, người ấy mới là người tinh đời. Phàm cái ǵ đă đến cùng cực th́ tất nhiên phải quay trở lại; dài quá th́ tất phải ngắn dần đi; ngắn quá th́ tất lại dài dần ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế.
    Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang ḍ. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh."
    Trang vương hỏi: “Tại làm sao?
    Người ấy thưa rằng: "Nước Trần thành cao, hào sâu, kho tàng súc tích nhiều."
    Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế th́ nước Trần nên đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều th́ chắc là thuế má nặng. Thuế má nặng th́ tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu th́ phục dịch nhiều. Phục dịch nhiều, th́ tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được Trần.”
    Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần.
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
    Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất phủ Khai Phong (Hà Nam) và Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
    Dài quá th́ ...: câu này ư nói đầy, vơi, tṛn, khuyết, dài, ngắn, thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài nhất trong một năm, th́ những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày mỗi ngắn dần, lại ngày đông chí là ngày ngắn nhất th́ những ngày sau ngày đông chí lại dài dần măi ra. (2)
    Súc tích: chứa chất để dành. (2)
    LỜI BÀN
    Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược, mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tṛn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lư đoán mà biết rơ được cái t́nh h́nh ở bên trong thực là người cao đoán vậy.

    30. TÀI NGHỆ CON LỪA
    Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một ít lừa đến đấy nuôi.
    Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh. Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế, lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại, quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi.
    Liễu Tôn Nguyên
    GIẢI NGHĨA
    Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh lanh tuyệt đời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
    Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
    LỜI BÀN
    Bài này có ư nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, th́ c̣n ưa, c̣n sợ, đến lúc đă biết rơ rồi th́ lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nh́n ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài này lại có ư chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta ḍm được tâm thuật của ḿnh mà làm hại ḿnh, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có ǵ lạ.

  2. #22
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    31. ĐÁNH ĐÀN
    Vua nước Tề thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh, đem đàn đến đứng trước cửa Nhà vua mà đánh. Đánh luôn ba năm, mà vua không hỏi tới. Anh ta giận lắm, gắt mà nói rằng:
    “Ta đánh đàn đến cả quỷ thần cũng phải say mê, thế mà vua không biết cho ta!”
    Có người nghe nói, cười mỉa, bảo rằng: "Vua thích nghe tiếng sáo, mà bác đánh đàn, cho đàn bác hay đến đâu, nhưng vua không thích th́ làm thế nào được? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu danh ở nước Tề này vậy!”

    GIẢI NGHĨA
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Công danh: công là khó nhọc mà được việc, danh là tiếng tăm; công danh là đem sự khó nhọc ra để được danh giá. (2)
    LỜI BÀN
    Đem đàn ra đánh cho người thích nghe sáo, mà cầu cho người ta ưa ḿnh, th́ chẳng là khờ vụng lắm ư! Cho nên ḿnh tuy có tài, muốn thi thố cái tài, th́ phải ḍ trước xem người dùng ḿnh có ưa cái tài ấy không. Bằng không, mà ḿnh cũng cứ phô tài, th́ chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để thiên hạ người ta chê cười cho nữa.

    32. THỔI SÁO
    Vua Tuyên Vương nước Tề thích nghe sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong bọn ba trăm người ấy, có Đông Quách tiên sinh không biết thổi sáo, nhưng cũng lạm dự vào đây để kiếm lương ăn.
    Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách tiên sinh thấy thế, t́m đường trốn trước.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Đông Quách tiên sinh: bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ này để chế nhạo những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bốn chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên phía đông (Đông Quách).
    Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức ḿnh. (2)
    LỜI BÀN
    Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác ǵ Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, th́ c̣n giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một th́ tài nào mà không bị thải.

    33. NGƯỜI NƯỚC LỖ SANG NƯỚC VIỆT
    Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt.
    Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ.
    Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?
    Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của ḿnh, th́ làm thế nạ mà không khốn cùng?”
    Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày th́ cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho ḿnh, mà lại c̣n để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải t́m nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy ta trâu th́ có ích chi.

    34. GIỮ LẤY NGHỀ M̀NH
    Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa ba năm mới thành nghề. Trời đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, th́ trời mưa luôn măi không ai dùng đến gầu. Bây giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí th́ đă già quách rồi.
    Úc Ly Tử thấy anh ta, thương t́nh, nói rằng:
    -Than ôi, ngươi chẳng đă già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không phải là tự người, là tự trời, điều ấy đă cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có ḿnh ở trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại v́ lụt cả . Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng:
    "Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải.
    Lưu Cơ
    GIẢI NGHĨA
    Lưu Cơ: người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
    Nhung phục: y phục nhà binh.
    Úc Ly Tử: tên một bộ sách của Lưu cơ thác danh làm Úc Ly Tử mà nói trong bài này.
    Đại hạn: nắng to và nắng lâu ngày. (2)
    Đại nạn sắm thuyền...: ư nói người ta cứ pḥng xa là hơn, ở đời thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng lâu nghĩ sắm thuyền trước để pḥng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông trước để pḥng khi giá rét. (2)
    LỜI BÀN
    Người ta làm nghề ǵ, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt, thịnh vượng. Song gặp thời, th́ hay, lỡ thời, hoá dở. Như thế th́ cái thời cũng là quan hệ với nghề của ḿnh lắm. Khốn cái thời là tự ở đâu đâu chớ không tự ḿnh gây lấy được, cho nên có lắm người làm nghề, không thành nghề, thường nói rằng: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" nghĩa là người chỉ mưu tính công việc, c̣n công việc nên hay không nên, là do tại trời. Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề, v́ nghề chắc đă thành, th́ tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng th́ chầy, chẳng nhiều th́ ít. Chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như ḥn đá lăn mài không bao giờ mọc rêu, th́ chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua ǵ cả.

    35. CHUYỆN A LƯU
    A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố. Nó thực là ngây ngô, không được việc ǵ cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời.
    Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được một cái buồng con. Ông giận mắng, th́ nó quăng chổi xuống đất, lẩm bẩm nói: "Ông quét giỏi, th́ ông phiền tôi làm ǵ!"
    Khi ông đi đâu vắng, sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi, th́ nó nói: "Người ấy lùn mà béo. Người ấy gầy mà lắm râu. Người ấy xinh đẹp. Người ấy tuổi tác và chống gậy..." Đến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, th́ nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.
    Trong nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, đôn. Khách đến chơi, nó đem bầy ra cho xem. Lúc khách về, nó lén đến gơ các thứ ấy, mà nói: "Những cái này có khi bằng đồng mà sao nó đen x́ lại như thế này!" Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, lấy nước để đánh.
    Nhà có cái ghế găy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để chữa lại th́ nó cầm búa, cầm cưa đi khắp vườn. Hết ngày, về, nó ch́a hai ngón tay làm hiệu mà nói: "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả, không có cành nào mọc chúc xuống đất." Cả nhà ai cũng phải ph́ cười.
    Trước sân có vài cây liễu mới trồng. Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giữ ǵn, đến lúc nó vào ăn cơm, th́ nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ.
    Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả.
    Ông Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm. Một hôm, ông ḥa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó rằng: "Mày có vẽ được không?"
    A Lưu đáp: "Khó ǵ mà không vẽ đươc." Ông bảo vẽ th́ A Lư vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đă biết vẽ. Ông thấy vậy thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được như ư cả.
    Tự bấy giờ, ông dùng dến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa. Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa.

    GIẢI NGHĨA
    Tiểu đồng: thằng nhỏ giúp việc. (2)
    Chữ chân: lối chữ nho viết phân minh từng nét. (2)
    LỜI BÀN
    Quét nhà suốt buổi không sạch được một cái buồng con; trồng cây, lúc ăn cơm nhổ cả cây đem vào, người mà ngốc như thế, th́ bảo c̣n dụng làm được ǵ nữa! Tuy vậy, không nhớ tên người, chỉ nhớ h́nh người, thấy cành mọc lên, không thấy cành chúc xuống, xem đồ vật biết phân biệt đồng hay đất, thế đủ hay A Lưu có cái trí khuynh hướng về nghề vẽ, đă như có một cái khả năng về nghề vẽ vậy. Ôi! gỗ mục vứt đi người kiếm củi vẫn nhặt, đá cuội là xấu, thợ ngọc vẫn dung. Trong trời đất th́ không có vật ǵ là vật bỏ đi, huống chi là người ta tinh khôn hơn vạn vật, lại không được một điều ǵ khả thủ ư? A Lưu ngây dại, tưởng là người bỏ đi, thế mà được nổi tiếng về nghề họa, cũng là nhờ ông Nguyên Tố có lượng bao dung, biết dụng nhân như dụng mộc. Xem bài này th́ cha mẹ dạy con, thầy dạy học tṛ chẳng nên t́m rơ cái sở trường của mỗi đứa mà dẫn dụ, mà luyện tập nó mặt ấy, ngay tự lúc c̣n trẻ tuổi, để cho nó may có cơ thành tài được ru! Đă đành: Thiên địa vô khí vật, thánh nhân vô khí nhân, nhưng cốt phải biết: nhân tài nhi đốc, (tùy theo cái tài mà bồi bổ khải phát cho nẩy nở ra) th́ tài mới thành được.

    36. MẤT BÚA
    Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rơ ra đứa ăn trộm búa, nh́n vẻ mặt nó, rơ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động không một tí ǵ là không rơ ra một đứa ăn trộm búa cả.
    Được một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa. Th́ hôm sau, trông đứa con nhà láng giềng ngôn ngữ cử chỉ không một tí ǵ giống đứa ăn trộm búa nữa.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    LỜi BÀN
    Người ta, khi mất một cái ǵ, th́ một mất mười ngờ. Mà khi trong bụng đă ngờ vực th́ các ngoại vật cũng theo đấy mà biến đổi đi cả. Phàm tâm trí ḿnh đă cảm giác làm sao, th́ tự ḿnh lại tưởng tượng một cái cảnh sắc hợp như thế. Người ḿnh vui, th́ ḿnh thấy sự vật ngoài h́nh như cũng vui; người ḿnh buồn, th́ ḿnh thấy sự vật ngoài cũng buồn. Chẳng qua là tại tự ḿnh in trí như vậy, chớ ngoại vật hồ dễ đă có mối liên lạc mật thiết với ḿnh mà thật thay đổi như thế đâu! Cái tâm chuyển thời hết thảy muôn pháp đều chuyển theo. Cho nên tâm cần phải chính. Tâm có chính th́ tư tưởng hành vi mới thoát khỏi tà khúc được.

    37. TƯỜNG ĐỔ
    Nước Tống có người nhà giàu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.
    Đứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."
    Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."
    Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.
    Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà người láng giềng là gian giảo làm xằng.
    Cùng một câu nói, con nói th́ khen là tinh khôn, láng giềng nói th́ ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao? Tại con th́ t́nh thân, cho nên không có bụng ngờ, láng giềng là t́nh sơ, cho nên sinh ra ngờ vực. Thế cho nên, phận sơ mà câu nói thân, th́ thế nào cũng làm cho người nghe ḿnh đem ḷng nghi ngờ.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    LỜI BÀN
    Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói. Người láng giềng đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là v́ không được thân với người ta, mà nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của ḿnh, coi việc thiết đến người cũng như thiết đến ḿnh vậy. Cho nên: gặp người đáng nói mà không nói là bỏ hoài mất một người, th́ gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi t́nh ra nữa!

    38. NGƯỜI CON CÓ HIẾU
    Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng: -“Đội nặng đi đường xa th́ tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, th́ con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân c̣n, cơm thường đưa dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước, th́ không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không c̣n sống.
    Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân như thế rất là phải. Lúc người c̣n th́ hết ḷng phụng dưỡng, lúc người mất, th́ hết ḷng thương tiếc.”
    Gia Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học tṛ đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Bóng qua cửa sổ: bóng đây là bóng mặt trời, ư nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa. (2)
    LỜI BÀN
    Khi cha mẹ c̣n, hết ḷng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết ḷng thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ vậy. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, “nghĩa là lúc cha mẹ c̣n, th́ thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất th́ nấu một mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu. Cho nên người con có hiếu c̣n cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kíp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. V́ rằng làm con mà được c̣n có cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.

    39. THẦY TĂNG SÂM
    Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, lỡ tay làm đứt mất ít rễ. Cha là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vào lưng. Tâng Sâm đau quá, ngă gục xuống điếng đi một lúc mới hồi lại.
    Khi về nhà, liền đến thưa với cha rằng: “Lúc năy con có tội, để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo”.
    Nói xong, lùi xuống vừa gẩy đàn vừa hát, có ư để cha nghe tiếng, biết cho rằng ḿnh không c̣n đau đớn ǵ nữa.
    Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện, bảo học tṛ cấm cửa không cho Tăng Sâm vào.
    Tăng Sâm tự nghĩ ḿnh vô tội, mượn bạn lại hỏi v́ cớ ǵ mà Ngài giận.
    Đức Khổng Tử nói: “Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến ǵ, th́ ở luôn bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết th́ lánh xa; cha đánh bằng roi vọt th́ cam chịu; đánh bằng gậy gộc th́ chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng là bất từ. Nay Sâm thờ cha liều ḿnh để chiều cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá như cha đánh quá tay mà chết mất, th́ có phải là làm cho cha mắc tội không? Tội bất hiếu c̣n ǵ to hơn nữa.”
    Tăng Sâm nghe lại chuyện, biết là lầm lỗi, đến tạ tội đức Khổng Tử.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Tăng Sâm: tên thật của Tăng Tử (505 TCN - 435 TCN), tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện B́nh Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học tṛ xuất sắc của Khổng Tử; Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Cổ Tẩu: cha vua Thuấn.
    Thuấn: xin xem Thuấn ở Phụ Lục C.
    Bất từ: không có ḷng thương yêu con. (2)
    LỜI BÀN
    Người làm con có hiếu th́ dẫu v́ cha mà phải hy sinh tính mạng cũng không có ǵ là quá tạm. Song, liều ḿnh mà cứu cha mẹ trong khi nguy cấp là chí hiếu, th́ để cha mẹ nhân cơn giận dữ đánh đập, lỡ hại đến tính mạng, th́ chẳng những là bất hiếu mà c̣n mang tiếng là hăm cha mẹ vào tiếng bất từ nữa. Ông Sâm rất hiếu nhưng chưa phải cách, Ông Thuấn cũng hiếu nhưng biết phải trái. Kẻ làm con, khi thấy cha mẹ làm trái c̣n có chức trách phải liệu đường trốn tránh hay ủy khúc can ngăn mà vẫn không mắc tiếng bất hiếu.

    40. ÔNG QUAN THANH BẠCH
    Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm qua đất Xương Ấp, quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạt cho, vào yến kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem vàng đến lễ.
    Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, c̣n đem vàng tới cho tôi ư.”
    Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ đêm khuya không ai biết.”
    Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết.”
    Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra.
    Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho ḿnh, ông thường nói: “Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quư hơn tiền của ruộng nương lại cho chúng ư?”
    Hậu Hán Thư
    GIẢI NGHĨA
    Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
    LỜI BÀN
    Làm quan như ông Dương Chấn, đối với người ḿnh đă đề bạt, không cần ơn, đối với người dân ḿnh cai trị không ăn lễ lúc đêm khuya, tấm ḷng cũng rơ rệt như lúc thanh thiên bạch nhật, chẳng cũng là một ông quan thanh liêm, làm gương cho bọn quan gian tham, lại nhũng muôn đời ư!
    Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính ḿnh có chắc đâu sẽ giữ được, huống chi c̣n mong để lại cho con cháu. Như thế, để lại cho chúng cái tiếng thanh bạch, thơm tho muôn thuở, chả hơn là cái của phi nghĩa, chỉ tổ làm cho chúng kiêu sa, dâm dật, rồi đi đến bại vong ư!

  3. #23
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    41. KHÔNG NHẬN CÁ
    Công Nghi Hưu làm tướng nước Lỗ, tính hay thích ăn cá. Một hôm có người đem cá biếu, ông lại không nhận. Em ông lấy làm lạ hỏi: “Anh sở thích ăn cá, người ta đem cá cho, sao anh lại không nhận?”
    Công Nghi Hưu nói: Người ta đem cá cho chắc có ư cầu ta việc ǵ. Nếu ta nhận, tất ta phải giúp việc người. Giúp việc người, lỡ làm trái phép th́ đến mất quan. Mà mất quan, th́ chẳng nhưng không có cá biếu, mà đến cá mua lấy cũng không có nữa. Cho nên ta không nhận cá, chính là ta muốn được có cá ăn lâu dài măi măi đó.
    Ông Lăo Tử xưa có câu rằng: Để thân ḿnh lại sau, thế mà thân ḿnh đứng trước; gác thân ḿnh ra ngoài, thế mà thân ḿnh vẫn c̣n”. Thế chẳng phải là bởi ḿnh không có ḷng riêng mà được thoả ḷng riêng của ḿnh ư?
    Hàn Thi Ngoại Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n ngoại truyện mà thôi.
    Công Nghi Hưu: làm tướng cho Mục Công nước Lỗ đời Chiến Quốc. Ông là người tính khí điềm đạm, công minh giữ phép, không cùng dân tranh lợi.
    Lăo Tử: xem Lăo Tử trong Phụ Lục C.
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    LỜI BÀN
    Làm quan như Công Nghi Hưu thật là thanh liêm. Dù đến con cá (trong sách không nói rơ cá ǵ), là vật nhỏ mọn mà ông cũng c̣n cân nhắc không chịu nhận. Ông hiểu cái lẽ rằng: Người ta vị ḿnh mà chiều ḿnh, chỉ được có 1 thời, sao cho bằng chính ḿnh trọng lấy ḿnh, mới là kế lâu dài măi măi. Thiên hạ chưa lo đến mà ḿnh đă lo trước cho thiên hạ; thiên hạ đă vui rồi, mà ḿnh mới vui sau thiên hạ, thế là ḿnh gác thân ḿnh ra ngoài để thân ḿnh lại sau, mà không có điều ǵ riêng tư vậy. Khi thân ḿnh lại được trước, lại vẫn c̣n, th́ ḷng riêng ǵ của ḿnh mà không thoả. Nếu làm quan mà chỉ chăm chăm hại người để cầu lợi riêng cho ḿnh, th́ người c̣n, bụng chết tự cho là sướng, mà kỳ thật có ǵ sung sướng đâu?

    42. CỦA BÁU
    Nước Tống có người được ḥn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử Hăn. Tử Hăn không nhận. Người biếu ngọc thưa rằng:
    "Ngọc này tôi đă đem cho thợ ngọc xem, quả là một thứ ngọc rất báu, mới dám đem dâng quan lớn, xin quan lớn nhận cho tôi được vui ḷng."
    Tử Hăn nói: "Người cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận, th́ hai bên cùng mất cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về. Ai giữ lấy của báu của người ấy, như thế của báu của hai người đều c̣n cả th́ chẳng là hơn ư!"
    Người biếu ngọc, cúi đầu thưa: "Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân."
    Tử Hăn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
    Tả Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
    Tư thành: quan coi thành. (2)
    LỜI BÀN
    Đă là người, ai cũng có hiếu thượng, cái hiếu thượng ấy tức là của báu của ḿnh. Nhưng hiếu thượng, không ai giống ai. Người kiến thức thô bỉ, th́ hiếu thượng thô bỉ, người kiến thức cao minh, th́ hiếu thượng cao minh. Kẻ dâng ngọc, chỉ biết ngọc là báu, nhưng người không nhận ngọc, lại cho thanh liêm mới là báu. Làm quan mà ai cũng có tính nhất quyết không nhận lễ vật của dân như Tử Hăn, lại có trí hiểu rơ được nguyện vọng của dân như Tử Hăn, có bụng che chở gây dựng cho dân như Tử Hăn nói trong truyện này, th́ dân nào chẳng kính, chẳng trọng, chẳng yêu quan như cha mẹ, sợ quan như thần minh!

    43. BIẾT RƠ CHỮ "NGHĨA"
    Hoa Hâm chạy loạn, cùng đi với một bọn sáu bảy người. Giữa đường gặp một người lại cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn. Chúng lấy làm ái ngại, thuận cho. Một ḿnh Hoa Hâm nói: "Không nên. Đang bước nguy hiểm; sinh, tử, họa, phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ, vô cớ nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc ǵ, th́ có bỏ được người ta không?"
    Chúng bất nhẫn, cố nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi. Hoa Hâm bằng ḷng.
    Người kia đi được một quăng đường, chẳng may sa chân ngă xuống giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc, để đi cho rảnh thân. Một ḿnh Hoa Hâm nói: "Không nên. Người ta cùng đi với ḿnh là người bọn ḿnh. Người ta gặp sự chẳng may như vậy, mà ḿnh bỏ người ta sao cho đành."
    Nói rồi, bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên. Sau cứu măi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.

    GIẢI NGHĨA
    Hoa Hâm: Người cuối đời nhà Đông Hán, học giỏi, làm quan đến chức Thượng thư lệnh.
    Chúng: Nhiều, đây chỉ bọn người cùng đi với Hoa Hâm. (2)
    Bất nhẫn: Không nỡ, không đành để như thế. (2)
    LỜI BÀN
    Vô cớ cho một người lạ nhập bọn, nghĩa cũng không nên, một là e xẩy ra sự ǵ hại đến thân ḿnh, hai là sợ không được thủy chung với người ta - Đă nhận người ta đi với ḿnh một bọn, giữa đường người ta gặp sự chẳng may mà bỏ mặc người ta, nghĩa lại càng không nên lắm, v́ như thế là bạc ác bất nhân, chỉ biết nhau trong lúc vô sự, đến khi nguy hiểm rồi lại bỏ nhau. Biết được cái đạo không nên nhận và cái đạo đă nhận như Hoa Hâm đây mới thực là người hiểu rơ chữ "Nghĩa" tức là hiểu việc nên làm thế nào mới là phải vậy.

    44. TRI KỶ
    Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo.
    Có người hỏi: "Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng thân thích ǵ, mà sao ông thương khóc quá như vậy?"
    Quản Trọng nói: "Ngươi không rơ, để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lăi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ phải lấy thế. Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt dọa, Bảo Thúc không cho ta là hèn nhát, biết ta có lượng bao dung. Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không may, cho nên công việc thành hay bại. Ta ba lần ra làm quan, bao lần bị băi, Bảo Thúc không cho ta là bất tiếu biết ta chưa gặp thời, chưa t́m được vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta c̣n có mẹ già phải phụng dưỡng.
    Ta nhẫn nhục thờ vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sỉ, biết ta không giữ tiểu tiết, có chí làm ích lợi cho cả thiên hạ... Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết ḿnh, ḿnh đem cả tính mệnh ra hiến c̣n chưa cho là quá, huống chi thương khóc thế này đă thấm vào đâu!"
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Bảo Thúc: Tức Bảo Thúc Nha thường c̣n gọi là Bảo Tứ, người giỏi nước Tề, tiến Quản Trọng cho Hoàn Công dùng.
    Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
    Quản Trọng: Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng. (Xin xem thêm Quản Trọng ở Phụ Lục C).
    Bất tiếu: Người không ra ǵ. (2)
    LỜI BÀN
    Khó thật! Ở đời ḿnh giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng vô số, nhưng hồ dễ đă được mấy người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Tri kỷ là người biết ḿnh, nghĩa là đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với ḿnh, chơi với ḿnh rất thân thiết, bao bọc che chở cho ḿnh, lúc sống cùng hưởng, họa cùng đau, lúc chết, tưởng có chết với nhau cũng không hối. Quí thật! Người tri kỷ! cho nên cổ nhân có câu nói: "Đắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận" nghĩa là ở đời có được một người tri kỷ cũng không c̣n ân hận ǵ nữa; lúc sống, có được một người biết ḿnh, th́ ḿnh chết cũng không lấy làm uổng đời.

    45. CẢM T̀NH
    Có một người nước Yên lúc sinh, th́ sinh ở nước Yên; lúc lớn lên, th́ sang ở nước Sở; lúc già lại trở về cố quốc. Khi đi ngang qua nước Tấn (gần nước Yên), bạn cùng đi đường, chỉ vào cái thành mà nói dối anh ta: "Đây là thành nước Yên". Anh ta buồn rầu, khác hẳn sắc mặt. - Chỉ vào nền xă, nói: "Đây là nền xă làng anh". Anh ta ngậm ngùi than thở. - Chỉ vào cái nhà, nói: "Đây là nhà của ông cha anh". Anh ta rũ rượi rơm rớm nước mắt. - Chỉ vào cái g̣, nói: "Đây là mồ mả ông cha anh". Anh ta ̣a lên khóc.
    Bọn cùng đi, ai nấy ph́ cười, nói: "Chúng tôi nói đùa đấy. Đây mới là nước Tấn, chưa phải là nước Yên". Anh ta nghe nói lấy làm bẽn lẽn.
    Kịp khi về đến nước Yên, anh ta trông thấy thật là thành, là xă nước Yên, thật là nhà cửa mồ mả của ông cha, th́ ḷng cảm thương lại hờ hững không c̣n được như trước nữa.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    LỜI BÀN
    Thường con người ta, ai cũng sẵn mối cảm t́nh, khi gặp thời gặp cảnh xúc động đến th́ mối cảm t́nh ấy tất chứa chan, đầy dẫy hiện ra ngoài. Tuy vậy, mối cảm t́nh đă dùng lầm, th́ sau nầy không c̣n được như trước. Một người đă đem bụng trung thành thờ kẻ vô đạo, một người đă để ḷng ân ái thương gái bất trinh, dù về sau, gặp được bậc anh quân hay người thục nữ, th́ mối cảm t́nh cũng không c̣n được đằm thắm như xưa. Chẳng khác nào như người nước Yên nầy, đă đem hết nước mắt khóc chỗ giả dối mà không biết, đến khi gặp sự thực, th́ lại h́nh như cạn hết nước mắt rồi. Cho nên đối với tính t́nh, người ta có biết, lấy học thuật mà di dưỡng, lấy lễ nghĩa mà tiết chế, th́ tính t́nh dùng mới chính đáng và thuần túy được. Xưa nay thánh hiền hào kiệt đều là người biết lư hội tính t́nh cả.

    46. V̀ NGHĨA CÔNG, QUÊN THÙ RIÊNG
    Đời nhà Đường, Quách Tử Nghi, Lư Quang Bật cùng làm phó tướng của An Tử Thuận. Tính hai người vốn không ưa nhau; nhiều khi, tuy cùng đi với nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà vẫn như cừu địch, không ai đàm đạo với ai cả.
    Sau Tử Nghi được lên làm tướng thay Tử Thuận, Quang Bật sợ Tử Nghi hại ḿnh, quả cảm đến nói rằng:
    "Phần tôi chết cũng cam tâm, nhưng xin rộng lượng đừng hại đến vợ con tôi là kẻ vô tội."
    Tử Nghi thấy nói chạy ngay lại, cầm tay Quang Bật thưa rằng:
    "Tôi đâu dám đem ḷng oán hận riêng mà nỡ hại ông. Hiện nay trong nước loạn lạc, vua tôi lo và nhục, không ông th́ không ai gánh vác nổi việc thiên hạ."
    Nói xong nước mắt ràn rụa, rồi lại lấy những điều trung nghĩa khuyên răn, và lập tức cất Quang Bật lên làm chức Tiết độ sứ.
    Từ đó hai người tuyệt nhiên không chút nào ghen ghét, ngờ vực nhau, chỉ cùng nhau một ḷng đánh giặc, yêu dân, giúp vua trị nước.

    GIẢI NGHĨA
    Đường: Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau CN.
    LỜI BÀN
    Thù riêng cá nhân là việc nhỏ mọn, nghĩa công đối với cả nước là việc rất trọng. Biết quên thù riêng để làm nghĩa công như Quách Tử Nghi, Lư Quang Bật, thực là đáng khen vậy. Nghĩ đến thân, đến nhà trước, đến quốc gia sau cũng là nghĩa, song nghĩa hẹp mà gọi là tư. Nghĩ đến quốc gia trước, đến thân, đến nhà sau cùng là nghĩa song nghĩa rộng mà gọi là công. Quốc gia hay, hay dở, một kẻ b́nh dân cũng có trách nhiệm, huống chi là người gánh vác được việc quốc gia như Tử Nghi và Quang Bật. Ôi! Nước là cái thành để giữ thân, giữ nhà, không biết trọng nước tức là khinh thân, khinh nhà vậy. Tiếc thay cho những kẻ chức trọng, quyền cao, đối với thân, với nhà, th́ việc nhỏ mọn cũng lấy làm lo lắng quan tâm, mà đối quốc gia th́ việc dù to lớn đến đâu cũng xem thường, xem khinh, chỉ thù hằn nhau, khuynh loát nhau, không biết đồng tâm hiệp lực lo liệu việc dân việc nước, thật là lầm to vậy.

    47. DONG NGƯỜI ĐƯỢC BÁO
    Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đă tối, đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa cơ kéo áo cung nữ. Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng:
    "Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, th́ chính là kẻ ghẹo thiếp..."
    Vua gạt đi nói:
    "Thôi! Không làm ǵ! cho người ta uống rượu, để người ta say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào v́ câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người ta!"
    Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân hôm nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui".
    Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy, được vui vầy ổn thỏa.
    Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn. Đánh luôn năm trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan vơ, liều sống, liều chết xông ra trước và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. V́ thế mà quân Sở được. Trang Vương lấy làm lạ cho đ̣i viên quan ấy lại hỏi:
    "Quả nhân đăi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao nhà ngươi lại hết ḷng giúp quả nhân khác người như vậy?"
    Viên quan thưa rằng:
    "Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến nhà vua đă lâu. Măi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội đấy".
    Đào Ngột (Sở Sử)
    GIẢI NGHĨA
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    Dong (dung) người được báo: Rộng lượng tha lỗi cho người, được người t́m cách báo đền. (2)
    Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ư khiêm tốn là người ít đức. (2)
    LỜI BÀN
    Ông vua không làm tội người công thần ghẹo cung nữ thực là có độ lượng, bao dung được lỗi của người. Người ghẹo cung nữ không quên cái ơn đă chịu, t́m cách để báo đáp, thực là có nghĩa, tỏ được cái bụng trung thành với người gia ơn. Có vua ấy tất có tôi ấy, vua tôi như thế th́ nước đời nào mất được.

    48. NÓI THÍ DỤ
    Có người bảo vua nước Lương rằng: "Huệ Tử nói việc ǵ cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, th́ Huệ Tử chắc không nói ǵ được nữa".
    Vua bảo: "Ừ, để rồi ta xem".
    Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng:
    "Xin tiên sinh nói ǵ cứ nói thẳng đừng thí dụ nữa".
    Huệ Tử nói: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái ǵ, mới hỏi t́nh trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: H́nh trạng cái nỏ giống như cái nỏ, th́ người ấy có hiểu được không?"
    Vua nói: "Hiểu làm ǵ được".
    "Thế nếu tôi bảo người ấy: H́nh trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, th́ người ấy có biết được không?"
    Vua nói: "Biết được".
    Huệ Tử nói: "Ôi! Khi nói với ai là đem cái người ta đă biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa th́ tôi không sao nói được."
    Huệ Tử
    GIẢI NGHĨA
    Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
    Lương: một nước chư hầu mạnh đời Chiến Quốc, tức là nước Ngụy ở vào địa phận Hà Nam và Sơn Tây bây giờ.
    Tiên sinh: Bực có tuổi, có tài, đạo đức, đáng dạy được ḿnh. Hay dùng chỉ thầy dạy học hay người đáng quư. (2)
    LỜI BÀN
    Cái cung, cái nỏ khác nhau nhiều, nhưng lấy cái cung nói với người đă biết cung để khiến cho biết được cái nỏ, th́ may người ấy ư hội cũng được ít nhiều. Phàm dạy bảo người ta điều ǵ, là cốt ư làm cho người ta hiểu được điều ấy, mà muốn cho người ta dễ hiểu, không ǵ bằng thí dụ, nghĩa là nhân cái người ta đă biết mà đưa dạy vào cái người ta chưa biết. Cái phương pháp giáo dục tối tân bây giờ "qui nạp" hay "phu diễn" cũng lấy thí dụ làm cốt. Người ta đă nói: "Một quyển sách không có thí dụ chỉ là một bộ xương mà thôi". Câu Huệ Tử nói: "Đem cái người ta đă biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết để khiến người ta biết", thực là ám hợp với cái lối học tối tân đời nay.

    49. CON CÚ MÈO VÀ CON CHIM GÁY
    Con cú mèo gặp con chim gáy.
    Chim gáy hỏi: “Bác sắp đi đâu đấy?”
    Cú mèo nói: “Tôi sắp sang ở bên phương đông”
    “Tại làm sao lại đi như thế”
    “Ở đây người ta nghe tôi kêu người ta ghét, cho nên tôi phải đi chỗ khác”
    Chim gáy nói: “Bác có thế nào đổi tiếng kêu đi mới được. Chứ không đổi tiếng kêu, th́ sang phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác thôi, v́ nhân t́nh đâu mà chả thế. Cứ như ư tôi, th́ không ǵ bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn”.

    GIẢI NGHĨA
    Cú mèo: loài chim dữ, mắt như mắt mèo đêm đi bắt các chim nhỏ và chuột để ăn.
    Chim gáy: chính chữ là cưu, loài chim gáy, đầu nhỏ đuôi ngắn mà cánh dài

  4. #24
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    50. CON C̉ VÀ CON TRAI
    Nước Triệu toan đánh nước Yên, Tô Tần, v́ nước Yên, sang nói với vua nước Triệu là Huệ Vương rằng:
    “Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy, tôi trông thấy con trai đang há miệng phơi ḿnh trên băi, có con c̣ đâu đến, mổ ngay vào thịt trai. Trai liền ngậm miệng, cắp chặt lấy mỏ c̣.
    C̣ nói: “Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai cũng phải chết”.
    Trai nói: “Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ, thế nào c̣ cũng phải chết”.
    Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai. Bỗng đâu có người đánh cá đi qua, trông thấy thộp được cả trai lẫn c̣…
    Nay mà nước Triệu đem quân sang đánh nước Yên, nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn của, chắc là suy yếu cả. Tôi e nước Tần thừa cơ ấy, đem quân chụp cả hai nước như người đánh cá chụp cả trai lẫn c̣, th́ lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Dám xin vua thử nghĩ kỹ lại xem”.
    Huệ Vương cho là nói phải, bèn đ́nh việc đánh Yên.
    Chiến Quốc Sách
    GIẢI NGHĨA
    Chiến Quốc sách: bộ sách này c̣n được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
    Tô Tần: người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần. Mạnh Thường Quân thấy Tô Tần đến, đột ngột đem chuyện quỷ thần hỏi, cố ư làm cho khó khăn Tôn Tần không nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỷ thần làm thí dụ mà nói đến ḿnh. (Xin xem thêm Tô Tần ở Phụ Lục C).
    Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đăi đến vài ngh́n người khách.
    Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, ở vào phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây bây giờ.
    Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
    Dịch Thủy: tên một con sông qua Trực Lệ.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    LỜI BÀN
    Trai, c̣ v́ găng nhau mà cả hai con cùng bị hại trong tay người đánh cá. Cái bài: "Bạng duật tương tŕ, ngư ông đắc lợi” này cũng như nhiều bài trong các sách tây: “Con c̣ và hai người tranh nhau”, “Con khỉ chia phó mát cho hai con mèo”…đều có ư khuyên người ta không nên tranh giành chọi lẫn nhau. Hai nước tranh nhau, th́ hao người, tốn của tai hại đă đành. Hai người tranh nhau th́ tất sinh kiện cáo. Mà “vô phúc đáo tụng đ́nh”, thua được chưa biết thế nào, hăy biết có bao nhiêu thầy kiện, thầy c̣, những phường tham nhũng ở giữa thời cơ ḍm dỏ để cầu lợi, rất thiệt hại cho cả hai bên. Vậy ta chẳng nên găng nhau, chống nhau làm ǵ. Nhỏ th́ tốn tiền. Lớn th́ hại nhà, lớn nữa th́ hại nước. Ta phải lấy câu “Dĩ ḥa vi quư” mà cư xử nhún nhường nhau là hơn.

  5. #25
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    51. HỒ MƯỢN OAI HỔ
    Vua Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi vua Tuyên Vương. Thế mà người phương Bắc ai nghe thấy nói đến Chiêu Hề Tuất cũng phải kinh sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần là v́ cớ làm sao. Không ai trả lời nổi, chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
    “Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con Hồ, Hồ bảo: “Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta là ngươi trái mệnh Trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hăi, t́m đường bỏ trốn cho mau không!” Hổ cho là Hồ nói thật bèn theo Hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ không biết rằng bách thú đều sợ ḿnh mà chạy, cứ tưởng là sợ Hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất mà kỳ thực là sợ vua như bách thú sợ hổ vậy.
    Chiến Quốc Sách
    GIẢI NGHĨA
    Chiến Quốc sách: bộ sách này c̣n được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.

    52. MẠNH THƯỜNG QUÂN VÀO NƯỚC TẦN
    Mạnh Thường Quân là một nhà nghĩa hiệp nước Tề, muốn sang nước Tần để du thuyết. Có hàng ngh́n người can ngăn mà không được. Sau Tô Tần đến can, Mạnh Thường Quân bảo rằng:
    “Việc người th́ ta đây không c̣n sót ǵ nữa, chỉ có việc quỷ thần là ta chưa được rơ mà thôi.”
    Tô Tần nói: Ấy chính tôi lại đây không phải là để nói việc người, tôi cốt định đem việc quỷ thần nói để ông nghe.
    Mạnh Thường Quân nói: Ừ nói để ta nghe.
    Tô Tần nói: Vừa rồi tôi lại đây, đi ngang qua con sông, tôi thấy một pho tượng đất nói chuyện với một pho tượng gỗ. Tượng gỗ bảo tượng đất: Ngươi là đất nặn thành h́nh, đến mùa mưa, nước sông lên ngập lụt cả th́ ngươi bở tan ra mất. Tượng đất nói: Ta có tan ra nữa, ta vốn là đất, th́ đất lại hoàn đất mà thôi. Chớ như ngươi là gỗ tạc thành h́nh, nước tràn lên th́ chưa biết ngươi trôi giạt vào đâu mà rồi ra thế nào…Nay nước Tần là nước hiểm trở, vua Tần là vua bạo ngược, nếu ông vào đấy th́ chửa biết có ra thoát được không.
    Mạnh Thường Quân nghe nói , bèn thôi không sang nước Tần nữa.

    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đăi đến vài ngh́n người khách.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Nghĩa hiệp: người thẳng tính, thích điều phải, hay giúp người hèn yếu, chống lại kẻ cường quyền.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    Du thuyết: nhà ngôn luận giỏi thời Chiến Quốc thường dùng lời biện bác mà làm cho người ta xiêu ḷng phải nghe.
    Tô Tần: người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần. Mạnh Thường Quân thấy Tô Tần đến, đột ngột đem chuyện quỷ thần hỏi, cố ư làm cho khó khăn Tôn Tần không nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỷ thần làm thí dụ mà nói đến ḿnh. (Xin xem thêm Tô Tần ở Phụ Lục C).

    53. THẬP B̀ NÓI CHUYỆN VỚI HUỆ VƯƠNG
    Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập B́ rằng: Ngươi nghe người ta cho quả nhân là người thế nào?
    Thập B́ thưa: Thần nghe người ta cho nhà vua là người nhân từ và hay gia ơn lắm.
    Vua vui mừng hớn hở nói rằng: Như thế th́ cái công đức của quả nhân được đến thế nào?
    Thập B́ nói: Cái công đức ấy rồi đến mất nước.
    Vua ngạc nhiên hỏi: Nhân từ và hay gia ơn là làm việc thiện mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào?
    Thập B́ thưa: Vua mà nhân từ th́ bất nhẫn trừng phạt, vua hay gia ơn th́ chỉ thích ban thưởng. Tính đă bất nhẫn th́ kẻ có tội cũng không trị; tính hay ban ơn th́ kẻ vô công cũng được thưởng. Đến kẻ có tội không phải phạt, kẻ vô công cũng được thưởng, th́ mất nước cũng không có ǵ là lạ.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.

    54. THAM LỢI TRƯỚC MẮT, QUÊN HẠI SAU LƯNG
    Vua nước Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Đă nhiều người ngăn cản, vua nhất định không nghe. Sau lại hạ lệnh rằng: “Ai can ta đánh nước Kinh th́ phải xử tử.”
    Có một viên quan trẻ tuổi muốn can ngăn nhà vua mà không giám nói, luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung, tên đến đứng vườn sau nhà vua, sương xuống ướt đầm cả áo.
    Hôm thứ ba, vua gặp mới hỏi rằng:
    “Ngươi đến đây làm ǵ mà để sương xuống ướt đầm cả áo như thế?”
    Viên quan thưa rằng:
    “Trong vườn có một cây cổ thụ. Chót vót trên ngọn cây có con ve sầu hút gió uống sương, rả rích kêu cả ngày, tưởng đă được yên thân lắm. Biết đâu đằng sau có con bọ ngựa, đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghển cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực bắn. Chính tôi đây muốn bắn con chim sẻ mà không biết sương xuống ướt cả áo…Như thế đều là chỉ v́ cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ngay say lưng vậy”.
    Vua nghe nói tỉnh ngộ bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.
    Thanh Lê Tử
    GIẢI NGHĨA
    Thanh Lê Tử: tức là Lưu Hướng, người nhà Hán làm quan Gián Nghị đại phu, giỏi về văn chương lại kiêm cả kinh thuật và thiên văn.
    Ngô: Tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).


    55. TRƯỚC KHI ĐÁNH NGƯỜI PHẢI BIẾT GIỮ M̀NH
    Vua Công nước Tấn đem quân sang đánh nước Vệ. Giữa đường gặp một ông lăo đang bừa ruộng, cứ ngẩng mặt lên trời cười khanh khách măi. Văn Công cho đ̣i lại, hỏi: “Ngươi cười ǵ thế?”
    Ông lăo trả lời: “Tôi cười người láng giềng nhà tôi. Anh ta đưa vợ đi chơi nhà bà con. Giữa đường gặp người con gái hái dâu, anh ta thích quá lén vợ rẽ xuống ruộng dâu, nói chuyện với người con gái. Một chốc ngoảnh lên xem vợ đi đến đâu, th́ thấy một chàng đang vẫy vợ anh ta đi. Ấy câu chuyện chỉ có thế, tôi nghĩ mà không nhịn cười được”.
    Văn Công nghe nói tự nhiên tỉnh ngộ, kéo quân về. Về chưa đến nơi, th́ đă thấy báo có giặc ở ngoài vào xâm phạm trên mạn bắc trong nước.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    Văn Công: vua giỏi nước chư hầu thời Xuân Thu, đứng vào bậc ngũ bá. (Xin xem thêm Văn Công ở Phụ Lục C).
    Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.

    56. KHÔNG NÊN SÁT PHẠT LẪN NHAU
    Văn Quân đất Lỗ Dương sắp đem quân sang đánh nước Trịnh. Mặc Tử nghe thấy đến can nói rằng:
    Ví như bây giờ trong đất Lỗ Dương này, tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ giết người lấy của lẫn nhau th́ nhà vua nghĩ như thế nào?
    Văn Quân nói:
    Bao nhiêu người ở Lỗ Dương đều là tôi con của ta cả. V́ tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ, để cướp lẫn nhau th́ ta tất đem trị tội thật nặng.
    Mặc Tử nói:
    Bao nhiêu người trong thiên hạ đều là tôi con của trời cũng như bao nhiêu người trong đất Lỗ Dương là tôi con của nhà vua, nay nhà vua đem quân đánh Trịnh th́ há tránh khỏi được vạ trời hay sao!
    Văn Quân nói:
    Sao tiên sinh lại ngăn ta đánh Trịnh. Ta muốn đánh Trịnh là thuận cái chí của trời. Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đă ra tai, làm mất mùa ba năm. Nay ta phải giúp trời mà giết Trịnh.
    Mặc Tử nói:
    Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đă ra tai, làm mất mùa ba năm, trời phạt như thế cũng là đủ. Nay nhà vua lại c̣n đem quân đánh Trịnh mà nói rằng :”Ta đánh Trịnh là thuận ư trời” th́ là nghĩa thế nào ? Ví như ngay đây có một đứa con ngang ngạnh, cha nó đă cầm roi đánh nó, người cha bên láng giềng lại c̣n vác gậy ra đánh hôi, bảo rằng:”Ta đánh nó là thuận cái chí của cha nó”. Nói như thế có nghe được không?
    Mặc Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu ḿnh cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Lỗ Dương: tên một ấp lớn của nước Sở về thời Xuân Thu, tức là huyện Lỗ Sơn tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Can: nói để ngăn ai đừng làm việc ǵ.
    LỜI BÀN
    Khi ḿnh cậy sức, cậy nhiều, cậy khôn, cậy tài mà hà hiếp kẻ kém ḿnh, thường ḿnh cứ hay viện lẽ nọ, cớ kia, để như cho ḿnh là phải mà che mắt thế gian, lấp miệng thiên hạ. Nhưng dù viện lẽ ǵ cớ ǵ cũng vẫn không được chính đáng. Danh bất chính th́ ngôn bất thuận. Ḿnh đă rắp tâm đè nén người ta, tham lấy của người ta, là ḿnh làm điều phi nghĩa rồi, không bao giờ rửa sạch được cái ô danh nữa. Làm việc bậy mà lấy câu nói phải để tế toái đi có khác ǵ lấy vóc gấm phủ ngoài cành khô hay tượng đất mà bảo người ta là thánh thần đấy.

    57. DIỀU GỖ
    Mặc Tử làm cái diều gỗ, ba năm mới xong. Lúc thả cho bay, được một hôm th́ diều hỏng.
    Học tṛ khen rằng: Thầy làm diều gỗ mà bay được thật là khéo!
    Mặc tử nói:
    Ta làm cái diều ba năm mới xong, diều bay mới được một ngày đă hỏng, cho là khéo thế nào được. Sao bằng người làm cái xe gỗ chỉ tốn một ít công không hết một buổi, mà chở được nặng, đi được xa, dùng được lâu năm. Có thế mới gọi là khéo.
    Huệ Tử nghe câu chuyện, bảo:
    Mặc Tử nói thế thật là người khéo.
    Mặc Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu ḿnh cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).
    Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
    LỜI BÀN
    Diều gỗ mà bay được, ai không chịu là khéo? Nhưng công làm mất ba năm, dụng chỉ được một ngày, th́ cái dụng tưởng như không bổ với cái công. Cho nên Mặc Tử, vốn là người tiết kiệm, chỉ vụ sự làm ăn thiết thực, không cần sự văn hoa vô dụng, ư cho một vật ǵ sở dĩ gọi là khéo, không phải chỉ là việc làm tinh xảo hơn người, nhưng cốt phải lợi dụng được việc cho người trước. Huệ Tử khen Mặc Tử là cũng theo một cái lư thuyết ấy. Tuy vậy, xét ra ở đời cái khéo và cái dùng không cần ǵ cứ phải đi đôi với nhau. Thường cái khéo, cái đẹp không cần là hữu dụng hay vô dụng: miếng gỗ, chạm cái tranh vẽ, giọng hát bài đàn chỉ có cho khéo, không thiết dụng mà thực là có ích cho người lắm.

    58. LÁ DÓ
    Nước Tống có người lấy ngọc, tỉa làm một cái lá dó ba năm mới xong. Cái lá làm rất khéo, sống, cuống, cạnh sắc, lông tơ, màu mỡ giống như hệt, đem trộn với lá dó thật, không ai phân biệt được nữa.
    Người ấy đem cái lá dâng vua Tống. Vua khen là khéo, cấp lương bổng cho.
    Liệt Tử nghe thấy chuyện, nói rằng:
    Giá bây giờ những cây cối trong khoảng trời đất ba năm mới mọc được cái lá, thời dễ không có mấy cây có lá nữa.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    LỜI BÀN
    Bài này cũng gần một ư như bài trên, nói sự khéo chỉ làm tṛ chơi được một lúc, không đáng chuộng bằng sự thực dụng làm lợi cho mọi người được lâu dài. Song tay người làm ra mà giống được như tạo hóa th́ thật là khôn khéo. Mỹ thuật xưa nay thường lấy sự bắt chước hệt được như hóa công làm mục đích. Liệt Tử vốn là nhà Lăo học, th́ lại cho cái cảnh đẹp tự nhiên là đẹp hơn cả, chỉ một cái cảnh ấy cũng làm cho con người đủ được hưởng thụ vui sướng.

    59. CHỮ TÍN
    I.Cái đỉnh
    Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quư. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
    Vua Tề bảo:
    Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang nói, th́ ta mới tin.
    Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.
    Nhạc Chính Tử hỏi: Sao không đưa đỉnh thật?
    Vua Lỗ nói: Ta quư cái đỉnh ấy lắm.
    Nhạc Chính Tử thưa: Nhà vua quư cái đỉnh ấy thế nào th́ tôi quư cái đức “Tín” của tôi như thế.
    Sau đó vua Lỗ phải đưa đỉnh thật Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
    II. Thanh gươm
    Quư Trát là con vua nước Ngô đi du lịch các nước. Khi qua nước Từ vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quư Trát có thanh gươm báu, muốn xin, mà chưa dám nói. Quư Trát trong bụng cũng định cho, mà chưa dâng được, v́ cuộc du lịch chưa xong. Khi ở nước Tần về, th́ vua Từ đă mất rồi. Quư Trát không biết làm thế nào, đành phải đem gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi trở về.
    Sử Kư
    GIẢI NGHĨA
    Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Kư trong Phụ Lục D, Tư Mă Thiên trong Phụ Lục C).
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Ngô: Tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Từ: tức quận Đông Hải ngày nay.
    Nhạc Chính Tử: người nước Lỗ thời Xuân Thu học tṛ giỏi thầy Tăng Tử.
    Quư Trát: con út vua Ngô, một bậc danh nhân thời Xuân Thu.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    LỜI BÀN
    Nhạc Chính Tử không chịu đem cái đỉnh giả. Quư Trát không chịu về không cho gươm, đều là những người biết trọng chữ “Tín” cả. Giá không nói là thật đă quư, mới hứa trong bụng mà cố làm cho được lại quư hơn nữa. Ôi! Xưa nay chữ tín có giá biết ngần nào! Chữ tín liệt rơ trong ngũ thường, người ở đời giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Cho nên cổ nhân có những câu như: “Nhân vô tín bất lập”(Khổng Tử) nghĩa là không có tín th́ không đứng được ở đời.
    “Tín vi quốc chi bảo”(Tấn Văn Công) nghĩa là tín là cái báu của cả nước.

    60. TỰ LẤY LÀM KHOAN KHOÁI
    Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ giao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu thắt lưng dây, tay gảy đàn cầm, vừa đi vừa hát.
    Đức Khổng Tử hỏi:
    “Tiên sinh” làm thế nào mà thường vui vẻ thế?
    Ông Vinh Khải Kỳ nói:
    Trời sinh muôn vật, loài người quư nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui – Trong loài người, đàn ông quư hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều đáng vui – Người ta sinh ra có người đui què, có người non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh nay đă chín mươi tuổi; thế là ba điều đáng vui...C̣n cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự chết của đời người. Ta nay xử cảnh thường, đợi lúc hết, th́ có ǵ là lo buồn?
    Đức Khổng Tử nói:
    Phải lắm! Tiên sinh thế là biết cách tự làm cho khoan khoái mà hưởng sự vui thú ở đời.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Thái Sơn: tên một dải núi cao ở tỉnh Sơn Đông.

  6. #26
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    61. NGƯỜI KHÔN SỐNG LÂU
    Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Đức Khổng Tử:
    Người khôn có sống lâu không?
    Đức Khổng Tử đáp:
    Có. Khôn th́ sống lâu, chớ dại th́ sống lâu sao được! Người ta có ba thứ chết, tự ḿnh làm cho ḿnh chết, chớ không phải số mệnh đáng chết mà chết.
    -Ăn uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế phải chết về bệnh tật.
    -Phận làm ngưới dưới mà can phạm người trên, ḷng tham muốn không chứng, tính yêu không chán, người như thế th́ chết về h́nh pháp.
    -Ḿnh ngu, mà ḱnh địch khôn, ḿnh yếu, mà khinh bỉ người mạnh, không biết tự lượng sức ḿnh mà cứ giận dữ làm liều, người như thế chêt v́ binh đao
    Ba thứ chết ấy, thực không phải là số mệnh, chỉ tự ḿnh giết ḿnh mà thôi.
    Hàn thi ngoại truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n ngoại truyện mà thôi.
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Xưa nay ta vẫn cho khôn ngoan th́ chóng già, ngu xuẩn th́ sống lâu, là lấy lư rằng: người khôn dùng trí, dùng sức nhiều, th́ chóng suy; người ngu chỉ ăn no ngủ kỹ, không lo lắng ǵ, th́ sống lâu. Nhưng xét một mặt khác th́ trái hẳn lại. Khôn th́ sống, dại th́ chết, khôn ăn người, dại người ăn. Như Đức Khổng Tử đáp vua Ai Công đây chính là ngụ cái ư đó. Ôi! Sống chết tùy tại mệnh trời, nhưng thường khi người cũng có phần vào đấy, lắm người chỉ ngu xuẩn, không biết giữ vệ sinh, không hiểu pháp luật, không biết tự lượng mà thành không đáng chết cũng phải chết. Chết như thế cũng là chết uổng nên thương, thương v́ ngu dại.

    62. VỢ RĂN CHỒNG
    Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu.
    Vợ tên đánh xe ḍm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
    Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: Tại làm sao? Nàng nói:
    “Án Tử, người gầy thấp bé nhỏ làm đến Tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp thấy ông ấy vẫn có ư trầm trọng, khiêm nhường, như chửa bằng ai. Chớ như chàng, cao lớn đẫy đà chỉ mới làm được một tên đánh xe tầm thường hèn hạ thế mà thiếp xem chàng đă ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng nữa, nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi”.
    Từ hôm ấy, tến đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái tính nông nổi. Án Tử thấy thế làm lạ, hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại. Án Tử bèn cất cho làm đại phu.
    Án Tử Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là B́nh Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Tên đánh xe của Án Tử thực là sang v́ vợ, nhờ được người vợ giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ, mà sửa được cái tâm tính chồng và thành được thân danh cho chồng. Tiếc thay ở đời bây giờ, có biết bao nhiêu kẻ chỉ làm môn hạ người ta, đă vênh váo lên mặt, ngênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại không có được những người vợ, như vợ tên đánh xe để khuyên răn lấy chồng, làm cho chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh cho ra người.

    63. BÀ HUYỆN CAN ĐẢM
    Đời nhà Đường, giặc Lư Hy Liệt đă đánh được Châu Biện, kéo đến đánh huyện Hạng Thành. Quan huyện Hạng Thành là Lư Khản muốn chạy trốn. Bà Huyện người họ Dương nói:
    “Giặc đến cướp thành th́ phải hết sức giữ thành, giữ mà không được th́ phải liều chết với thành, nay ông lại chực trốn, nghĩa là làm sao? Bây giờ cứ mộ quân cho nhiều, khao thưởng cho to, thiếp tưởng c̣n giữ được thành.”
    Nói rồi, chính Bà huyện hội họp cả nha lệ, sĩ dân lại hiểu dụ rằng:
    “Quan huyện là chủ các ngươi thật, song chẳng qua chỉ ở đây độ năm, ba năm rồi cũng thiên đi nơi khác, không liên can lắm bằng các ngươi sinh trưởng ở đất này, gây dựng cơ nghiệp ở đất này, mồ mả ông cha cũng ở đất này. Vậy sống, chết, các người cũng phải hết sức mà giữ lấy thành th́ mới được.”
    Ai nấy nghe đều cảm động, rơm rớm nước mắt và đoạn xin liều chết để cố giữ thành. Bà huyện hạ lệnh rằng:
    “Ai lấy gạch đá đánh được giặc, thưởng tiền một ngh́n, ai lấy gươm giáo giữ được giặc thưởng liền một muôn.”
    Tất cả được hơn một trăm người kéo nhau ra giữ thành, chống lại với giặc. Bà huyện thân đi trông nom lương thực cho quân lính. Khi giao chiến, quan huyện phải một mũi tên, lùi về, ư không muốn đánh nữa. Bà huyện giận nói:
    “Ông không ở đấy th́ ai chịu liều chết? Cho ông giữ thành mà có chết nữa lại chẳng hơn chết ở xó giường ư?”
    Ông huyện nghe cảm kích, hăng hái hơn trước, lại chạy lên thành, liều đánh một trận nữa, quân giặc túng thế phải kéo đi. Huyện Hạng Thành nhờ thế được an toàn.
    Đường Thư Liệt Nữ Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Đường thư: nay gọi là Cựu Đường thư, là tác phẩm viết về lịch sử Trung Quốc thời kỳ nhà Đường. Đường thư bao gồm 200 quyển, trong đó bản kỉ 20 quyển, chí 30 quyển và liệt truyện 150 quyển, bao quát một số sự kiện chính từ năm Vũ Đức thứ nhất (năm 618) đời Đường Cao Tổ tới năm Thiên Hữu thứ tư (năm 907) đời Đường Ai Đế. Đường thư do tể tướng Lưu Hu giám sát việc tu sửa, xuất bản nên người ta coi sách này là do Lưu Hu chủ biên. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Đường thư trong Phụ Lục D).
    LỜI BÀN
    Làm quan không che chở cho dân lúc giặc đến, lại sợ chết, muốn trốn tránh, th́ chẳng là nhút nhát không hiểu cái nghĩa tận tâm với chức vụ là ǵ ư! Một ông huyện như thế đáng khinh bao nhiêu, th́ một bà huyện như vợ ông huyện ấy lại đáng trọng bấy nhiêu. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Chỉ nhờ cái ḷng can đảm của bà mà dân phải quả quyết, chồng phải cảm kích, mà huyện được an toàn. Quư nhất câu bà nói: “Giữ thành mà chết c̣n hơn chết ở xó giường” th́ cái chí khí có kém ǵ những bậc tu mi vừa anh hùng vừa khí phách.

    64. THẾ NÀO LÀ TRUNG THẦN
    Vua Quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử: “Có kẻ nói với ta rằng: Trung thần là người bắt cúi, th́ cúi, bắt ngửng th́ ngửng, để th́ im, gọi th́ thưa, như thế có cho là trung thần được không?”
    Mặc Tử nói: “Bắt cúi th́ cúi, bắt ngửng th́ ngửng, như thế khác ǵ cái bóng? Để th́ im, gọi th́ thưa, như thế khác nào tiếng vang? Quan liêu mà dùng đến những kẻ như bóng, như vang, th́ c̣n được ích ǵ? Cứ như tôi đây, mà gọi là trung thần, th́ khi vua có lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện; khi ḿnh có điều hay, phải t́m đường bày tỏ, mà không lộ ra ngoài; trên th́ thành thực một ḷng, một dạ với vua; dưới th́ không a dua vào bè, kết đảng với ai; những sự tốt lành yên vui th́ để phần vua hưởng, những điều oán thù lo lắng th́ ḿnh hứng đựng. Có được như thế, th́ tôi mới cho là trung thần.”
    Mặc Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu ḿnh cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca. (Xin xem thêm Mặc Tử ở Phụ Lục C).

    65. BÁO THÙ
    Nước Ngô, nước Việt đánh nhau.
    Vua Ngô là Hạp Lư thua trận, phải quân Việt đâm chết. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua, thề thế nào cũng phục thù được cho cha mới nghe. Phù Sai bèn cho người đứng ở sân, mỗi khi ḿnh ra vào, người ấy phải nói to lên rằng:
    “Phù Sai kia! Nước Việt nó giết chết cha mày mà mày quên ư?”
    Phù Sai thưa rằng: “Dạ không dám quên.”
    Ba năm sau, quả nhiên Phù Sai đánh được nước Việt, báo thù cho cha.
    Lúc nước Việt thua, vua Việt là Câu Tiễn sang cầu ḥa. Tuy rằng được ḥa; nhưng đêm ngày âu sầu, lo nghĩ nát gan, tan ruột. Chất củi làm giường nằm, treo cái mật trước chỗ ngồi. Khi nằm th́ trông cái mật, khi ăn th́ nếm cái mật. Chính thân th́ cày cuốc, vợ th́ dệt vải, làm ăn lao khổ như thường dân. Ai là bậc hiền tài th́ trọng dụng, ai là kẻ khốn khó th́ cứu giúp. Hơn hai mươi năm trời, lúc nào cũng như vậy. Sau Câu tiễn xem chừng ḷng dân đă khiến được, bấy giờ mới đem quân sang đánh Ngô, quả nhiên Ngô lại thua mà Việt được.
    Chu Thư
    GIẢI NGHĨA
    Chu Thư: hay c̣n gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) th́ hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Một bên v́ cha mà báo thù, một bên v́ nước mà báo thù, hai cái thù không đội trời chung, mà dụng tâm theo đuổi đến báo ḱ được mới nghe thực là chính đáng, khiến ai nghe thấy cũng phải kính phục. Nếu Phù Sai, Câu Tiến gặp cái cảnh đau đớn như thế, mà cứ mặt dày mày dạn điềm nhiên như không, th́ chẳng là đất đá, không biết nhục là cái ǵ ư! Có biết nhục, th́ sau mới rửa được nhục. Khi đă rửa được nhục lại cần phải tu tỉnh luôn luôn và quí nhất là cảm hóa, nâng đỡ kẻ thù đă chịu lui bước hay đầu hàng để cho họ đỡ đau khổ, có địa vị, th́ mới được yên lâu. Nếu rửa nhục xong mà kiêu căng đại nọa, quên cả pḥng bị th́ lại chuốc lấy nhục mà oan oan tương báo, chỉ những tàn hại nhau hoài mà thôi.

    66. CÁCH DÙNG PHÁP LUẬT
    Qúi Cao làm quan sĩ sư nước Vệ có làm án chặt chân một người.
    Sau nước Vệ loạn, Quí Cao chạy trốn, ra đến cửa thành, gặp người giữ cửa thành, lại chính là người ḿnh chặt chân ngày trước.
    Người ấy bảo: “Kia có chỗ tường đổ”.
    Quí Cao nói: “Người quân tử không trèo tường”.
    Lại bảo: “Ở đây có lỗ hổng”.
    Quí Cao nói: “Người quân tử không chui lỗ hổng”.
    Lại bảo: “Ở đây có cái nhà”.
    Quí Cao mới chạy vào nhà ẩn. Bởi vậy mà quân đuổi theo không thể bắt được.
    Lúc Quí Cao sắp đi, bảo người giữ thành rằng:
    “Trước ta theo phép nước mà chặt chân người, nay ta gặp nạn chính là cái dịp để người báo thù mà người ba lần chỉ lối cho ta trốn, thương ta như thế nghĩa là làm sao?”
    Người giữ thành nói:
    “Tội tôi đáng chặt chân, tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ư muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đă định, đem ra hành h́nh, nét mặt ông buồn rầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng ǵ tôi, đó là tâm địa quân tử tự nhiên như vậy…Thế cho nên tôi muốn cứu ông”.
    Đức Khổng Tử nghe chuyện này, nói rằng: “Cũng là một cách dùng pháp luật, mà có ḷng nhân từ th́ gây nên ơn, dùng mà ra dáng tàn bạo th́ gây nên oán. Như Quí Cao là người làm quan biết dùng pháp luật vậy.”
    Gia Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Sĩ sư: tên một chức quan đời nhà Chu; coi xét việc hành ngục.
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.

    67. THẬT GIẢ KHÓ PHÂN
    Ở g̣ Lê Khưu có giống quỉ lạ. Nó bắt chước làm con cháu, anh em nhà người ta thật là giống.
    Có một ông trưởng giả gần vùng đấy, một hôm ở chợ về chén say khướt. Lúc đi qua g̣ Lê Khưu, con quỉ hiện h́nh lên làm con ông ta, tay ôm đỡ d́u dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc, kêu say sưa là xấu.
    Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu gọi con ra mắng: “Tao là cha mầy, tao có điều ǵ là ác nghiệt mà lúc tao say, mầy lại nỡ mỉa mai tao như vậy!”
    Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: “Oan quá! Thật con không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở g̣ Lê Khưu có giống quỷ khéo bắt chước hiện lên làm người, có lẽ là đây chăng”.
    Trưởng giả hỏi ḍ, th́ quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật, ông mới định bụng hễ gặp giống quỷ ấy là đâm chết.
    Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con sợ cha lại gặp quỷ nó quấy nhiễu ǵ, bèn săm săm đi đón. Trưởng giả trông rơ con ḿnh, nhưng cho là quỷ, liền rút gươm đâm chết.
    Lă Tử
    GIẢI NGHĨA
    Lê Khưu: tên một cái g̣ cao, ở về địa phân huyện Ngu Thành, tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Trưởng giả: người đứng tuổi, thường chỉ những bậc có trí, có tài, có oai, có chức hay có của.
    LỜI BÀN
    Khó thật! Làm thế nào cho rơ giả thực mà phân biệt được. Cái tṛ đời, đă gian th́ lại ngoan, kẻ gian phi đă rắp tâm lừa ai, th́ dùng thiên phương bách kế, làm cho phải mắc lừa mà vẫn có bụng tin. Cho nên khi ta ngờ điều ǵ, ta phải để cái trí sáng suốt mà ḍ xét cho đến nơi. Chớ có vội hành động, lấy giả làm thực, cho thực là giả, nhận quỷ làm con, giết con tưởng quỷ như trưởng giả nói trong chuyện này, sau có hối lại cũng không kịp. Đời này biết bao nhiêu chuyện vợ chồng, chuyện phe cánh, ngờ nhau tàn hại nhau, một khi sự thực hiện rơ ra chỉ c̣n có ôm hận suốt đời, lúc nào cũng băn khoăn thương đến người đă khuất.

    68. TRUYỆN ĐƯỜI ƯƠI
    Ở núi Phong Khê đất Thục có giống Đười Ươi, mặt như mặt người, biết cười, biết nói. Máu nó dùng để nhuộm mùi, không bao giờ phai, nên người ta lừa bắt nó.
    Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế, đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quăng đồng không, rồi đi nấp một chỗ. Đười Ươi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu, thấy guốc, biết rằng dử ḿnh bèn chửi rủa người lập đánh bẫy, và nói thậm tệ đến cả ông cha người ấy. Đoạn bảo nhau đi, lẩm nhẩm nói chớ có mắc mưu cái loài khốn nạn chực hại ḿnh... Song đă đi mà vẫn ngoảnh lại, rồi bảo nhau:
    "Ta thử nếm xem tưởng không hại ǵ"
    Tay chấm miệng mút, bén mùi làm măi, thành say sưa mờ mịt, quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu giữ ǵn, chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói, cười cười, chân đưa vào guốc thất thểu đi...
    Người nấp bấy giờ đổ ra th́ Đười Ươi lảo đảo chạy, con ngả nghiêng, con ngă ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.
    Than ôi! Biết rơ người ta lừa gạt ḿnh mà cứ tham lam mê muội để đến nỗi mắc lừa người ta mà mất mạng. Ngu lắm thay! Thật là ngu lắm thay!
    Diêu Dung
    GIẢI NGHĨA
    Thục: tức là Thục Quân ở về đất Tứ Xuyên bây giờ.
    LỜI BÀN
    Rượu chè, thuốc phiện, cờ bạc, trai gái... ở đời có bao nhiêu sự đam mê, tuy vẫn biết là tai hại mà khốn cái tính ngây, cái máu mê, nó như có ma lực vẫn xui giục run rủi ta rủ nhau đua nhau mà t́m đến, mà say đắm, có khi tai hại cũng không chừa.Than ôi! C̣n ở trên bờ vực sâu, mà không biết giữ, th́ đến lúc lăn xuống, ăn năn sao cho kịp! Cổ nhân đă có câu: “Nhất thất túc, thành thiên cổ hận: tái hồi đầu, thị bách niên thân” nghĩa là : Lỡ bước một phen ngh́n đời ôm hận; quay đầu nh́n lại chín suối ngậm ngùi. Thật đáng ghê thay, cho nên người ta phải cẩn thận giữ ḿnh, khi đă biết sự đam mê có thể tai hại ḿnh được th́ cố tự chủ, tự trị, mà hăm ḿnh lại ngay, chớ để cho nhân dục thắng được thiên lư th́ phí cả đời người

    69. THUẬT XEM TƯỚNG
    Nước Kinh có người giỏi xem tướng, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng.
    Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi:
    "Nhà ngươi dùng thuật ǵ mà xem tướng giỏi như thế?"
    Người xem tướng thưa rằng:
    "Thần không có thuật ǵ lạ cả. Thần chỉ xem bạn người ta mà biết được người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với những người bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép người, th́ thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng. Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải th́ thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một thăng cao, giúp vua mỗi ngày một ích lợi. Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi, nhiều người can ngăn, th́ thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một tŕ yên, thiên hạ tất mỗi ngày một quy phục... Thần quả không có thuật ǵ lạ, chỉ xem người mà biết được người hay, hay dở."
    Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất thời Chiến quốc.
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Chiến quốc: thời đại về cuối đời nhà Chu 475-249 TCN, các nước hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).

    70. THEO AI PHẢI CẨN THẬN
    Đức Khổng Tử thấy kẻ đánh lưới chim sẻ chỉ đánh được thuần sẻ non vàng mép. Ngài bèn hỏi rằng:
    "Không đánh được sẻ già là tại làm sao!"
    Kẻ đánh lưới nói:
    "Sẻ già biết sợ, cho nên khó được, sẻ non tham ăn, cho nên dễ bắt. Nếu sẻ non mà theo sẻ già th́ bắt sẻ non cũng khó nhưng nếu sẻ già theo sẻ non th́ bắt sẻ già cũng dễ."
    Đức Khổng Tử nghe đoạn quay lại bảo học tṛ rằng:
    "Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong, đó đều là tính tự nhiên vậy. Song phúc hay họa lại do ở cái theo khôn hay theo dại. Cho nên người quân tử trước khi theo ai phải cẩn thận. Theo ai mà biết pḥng xa như người lăo luyện, th́ được toàn thân, theo ai mà hay nông nổi như kẻ trẻ dại th́ bại hoại."

    GIẢI NGHĨA
    Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Last edited by Truc Vo; 10-08-2011 at 08:59 PM.

  7. #27
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    71. SAY, TỈNH, ĐỤC, TRONG
    Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, h́nh dung khô héo, Khuất Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.
    Có ông lăo đánh cá trông thấy hỏi rằng:
    Ông có phải là Tam Lưu đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?
    Khuất Nguyên nói
    Cả đời đục cả, một ḿnh ta trong, mọi người say cả một ḿnh ta tỉnh. Bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.
    Ông lăo đánh cá nói:
    Thánh nhân không câu nệ việc ǵ, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bă cho say một thể? Việc ǵ mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí?
    Khuất Nguyên nói:
    Tôi nghe mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra phải thay áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào ḿnh được? Chẳng thà ta nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để dây phải bụi dơ.
    Ông lăo đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi, rồi hát rằng:
    Sông Thương nước chảy trong veo
    Th́ ta đem giặt cái lèo mũ ta
    Sông Thương nước đục phù sa
    Th́ ta lội xuống để mà rửa chân.
    Hát xong, đi thẳng không nói ǵ nữa.
    Khuất Nguyên
    GIẢI NGHĨA
    Khuất Nguyên: xin xem Khuất Nguyên ở Phụ Lục C.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Đại phu: chức quan đời cổ dưới quan Khanh, trên quan Sĩ.
    Tam Lư đại phu: quan đại phu Tam Lư, Tam Lư họ của Khuất Nguyên.
    Câu nệ: bo bo chỉ giữ một bề.
    Tương: tức sông Tương Giang, một sông lớn chảy qua tỉnh Hồ Nam rồi nhập vào Động Đ́nh hồ.
    Lèo: dải mũ, mũ thường có hai dải để buộc cho chặt (mũ thời cổ).
    LỜI BÀN
    Bài này tác giả chính là Khuất Nguyên, mượn lời lăo đánh cá mà đặt lối vấn đáp. Mấy câu hát của lăo đánh cá th́ có ư khuyên Khuất Nguyên ḥa quang đồng trần với đời, mấy câu Khuất Nguyên nói th́ lại phản đối lại, chết thời thôi chứ không chịu theo thời, không chịu dày dạn, sống đục, không bằng thác trong. Ôi! Không nỡ bỏ nước nhà mà lẩn lút đi ở nơi khác lại cũng không chịu cùng tiểu nhân mà cẩu thả sống, cho qua đời, sau này quả nhiên vùi xác vào bụng cá trong sông Mịch La, lấy nước sông Mịch mà tẩy uế sự nhơ, bẩn, thật là ngh́n thu trung nghĩa, ḍng nước trong xanh, khiến cho ai xem truyện Khuất Nguyên cũng ngậm ngùi thương nhớ và sinh ḷng phấn khởi.

    72. NHAN SÚC NÓI CHUYỆN VỚI TỀ VƯƠNG
    Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc, bảo :
    “Súc lại đây.”
    Nhan Súc cũng bảo :
    “Vua lại đây.”
    Các quan thấy vậy, nói:
    “Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ. Vua bảo : “Súc lại đây”; Súc cũng bảo: “vua lại đây”; như thế nghe có được hay không?”
    Nhan Súc nói:
    “ Vua gọi Súc mà Súc lại, th́ Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua mà vua lại, th́ vua là người quư trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế, th́ sao bằng để nhà vua được tiếng quư trọng hiền tài.
    Vua nghe nói giận lắm, gắt lên rằng:
    “ Vua quư hay kẻ sĩ quư?”
    Nhan Súc đáp:
    Sĩ quư, vua không quư.
    Vua hỏi :
    Có sách nào nói thế không?
    Nhan Súc thưa:
    Có. Ngày trước, nước Tần sang đánh nước Tề. Có hạ lệnh: “Ai dám đến gần mộ ông Liễu Hạ Quí mà kiếm củi, th́ phải xử tử”. Lại có lệnh: “Ai lấy được đầu vua Tề th́ được phong hầu và thưởng ngh́n lạng vàng”. Xem thế đủ biết cái đầu ông vua sống thực không bằng cái mả kẻ sĩ chết.
    Vua Tuyên Vương nói:
    Than ôi! Ngưởi quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi! Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho. Tiên sinh mà về ở với quả nhân, th́ được ăn sung, mặc sướng, lên xe, xuống ngựa, vợ con được quần áo xênh xang tha hồ đẹp.
    Nhan Súc từ chối, nói:
    Ngọc vốn ở núi, lấy ra mà giũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quư báu nhưng cũng là hỏng, v́ vóc ngọc không c̣n. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dă, bỏ ra làm quan tuy vinh hiển thật, song h́nh thần không c̣n được toàn. Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn, th́ cũng ngon miệng như ăn cơm thịt, lúc đi, cứ bước khoan thai th́ cũng nhẹ nhàng như lên xe xuống ngựa, suốt đời không tội lỗi cùng ai, th́ cũng sung sướng như quan cao chức trọng. H́nh thần lúc nào cũng được trong sạch chính đính, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi.
    Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.

    GIẢI NGHĨA
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    LỜI BÀN
    Xem lời Nhan Súc đối đáp với vua Tuyên Vương th́ đủ biết phẩm giá con người ta thực quư hơn vua chúa. Thế mà ở đời, nhiều kể ham mê phú quư, đến nỗi mất cả nhân cách, chôn cả lương tâm, th́ thật là khờ dại, đem một sự quư mà đổi lấy những sự hảo quyền ở bề ngoài rất đáng khinh. Người ta có vô cầu mà giữ được thiên chức, không mất bản tính th́ suốt đời mới không nhục và nhân phẩm mới cao.

    73. KHẤU CHUẨN THƯƠNG NHỚ MẸ
    Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ, tính hay du đăng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khắc, thấy con thế quở phạt luôn, mà vẫn không chừa.
    Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đ́a... Ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Tự bấy giớ ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về sau, thi đỗ, làm quan đến Tể tướng. Lúc ông quy hiển th́ mẹ ông đă tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân, th́ ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng:
    “ Chính cái vết thương này làm cho ta nên người đây”.
    Nhân Phả
    GIẢI NGHĨA
    Khấu Chuẩn: người đời Tống đỗ Tiến sĩ làm quan đời vua Chân Tôn đến chức Tể tướng, có công đánh giặc Khiết Đan.

    74. T̀NH MẸ CON, CON VƯỢN
    Ở đất Vũ B́nh, có giống vượn lông đỏ như vang, nơn như tơ, trông xa lấp lánh rất ngoạn mục. Có hai mẹ con con vượn, mẹ th́ khôn ngoan, tai quái, con th́ ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên vượn mẹ. Người đi săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy được, mới lấy thuốc độc xác mũi tên, ŕnh lúc vượn mẹ vô ư th́ bắn. Vượn mẹ biết ḿnh không thể sống được, vắt sữa ra dùng cho con uống, xong rồi lăn ra chết. Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy, kêu gào thương xót, chạy ngay lại gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ, th́ mới yên; một đôi khi lại ôm lấy kêu gào, vật vă rất thảm thiết. Không được mấy hôm vượn con cũng chết.
    Than ôi! Vượn là giống vật c̣n biết thương mẹ, liều chết với mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ ḷng mẹ ư!
    Tống Liêm
    GIẢI NGHĨA
    Vũ B́nh: tên đất ở vào địa phận phủ Định Châu tỉnh Phúc Kiến bây giờ.
    Tống Liêm: người đời nhà Minh học giỏi, nhờ người từ lúc trẻ đến lúc già không có hôm nào rời quyển sách, văn chương dồi dào làm Sử nhà Nguyên 210 quyển. (Xin xem thêm Tống Liêm ở Phụ Lục C).

    75. HỌC TR̉ BIẾT HỌC
    Công Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đă ba năm mà không mấy khi đọc sách.
    Thầy Tăng Tử hỏi:
    “Ngươi đến đây học đă ba năm nay, ta xem ư người không mấy khi học tập sách vở như các anh em, là tại làm sao?”
    Công Minh Tuyên nói:
    “Thưa thầy, con vẫn học. C̣n thầy: thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiều thuận, ḥa nhă, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ. Thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều thiếp phục. Thầy ở triều đ́nh, đối với kẻ dưới bề ngoài rất là nghiêm trọng mà trong bụng rất là nhân từ, không có ư hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui ḷng mà măi làm chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy.”
    Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ Công Minh Tuyên và nói rằng:
    “Ta nay không bằng nhà ngươi.”
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Công Minh Tuyên: người nước Lỗ về đời Xuân Thu, học tṛ thầy Tăng Tử.
    Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Học tṛ như Công Minh Tuyên, thầy dạy như Tăng Tử, mới thực là học tṛ biết học, ông thầy biết dạy, xứng đáng thầy tṛ vậy. Làm ông thầy, không những lấy tri thức mà truyền thụ, lại cần lấy đức tính mà làm gương giáo hóa cho kẻ đi học nữa. Sách có câu: “Dĩ ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo”, cũng là lấy nghĩa ấy. Làm học tṛ nhưng không những bo bo ở việc học tập văn bài, lại phải học cả động, tĩnh, ngữ, mặc, thái độ h́nh dung của thầy để bắt chước cho được được thầy nữa. Học như thế mới là học được cái tinh hoa. Công Minh Tuyên chỉ học trong ba điều kể trong bài này, mà tức là học được đủ bồn phận của người đối với gia tộc và xă hội vậy. Đây là học ở trường học thường mà biết học c̣n hay như thế, huống chi học trường tự nhiên là trường thế giới mà biết học th́ hay c̣n biết chừng nào.

    76. PHÚC ĐẤY, HOẠ ĐẤY
    Một người nhà quê rải cỏ phơi ở chân giậu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe thấy tiếng kêu “tích tích” lật lên xem, th́ bắt ngay được một con trĩ.
    Anh ta thấy thế, lại cứ để cỏ đấy, có ư mong ngày mai lại được con trĩ nữa. Mai ra, lắng tai nghe lại thấy tiếng kêu “tích tích” như hôm trước, trong bụng mừng thầm. Nhưng vừa bới cỏ lên, th́ ra một con rắn, nó cắn ngay vào tay, anh ta bị thương rồi chết. Úc Ly Tử nói rằng:
    “Một việc nhỏ ấy đủ làm gương cho ta. Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế, mà may được thế cũng có cái họa không ngờ đến thế, mà xảy ra thế!”
    Úc Ly Tử
    LỜI BÀN
    Sự may, sự rủi người ta không thể lường trước được. Trong cái may, biết đâu mà chẳng có cái không may, trong cái chẳng may, biết đâu rằng không có cái may? Cũng một việc, bận trước là chẳng may, bận sau lại may, như người trước gặp trĩ có lợi, sau gặp rắn bị chết, nói trong chuyện này! Chúng ta nên nhớ rằng: tham th́ thâm, đă đắc ư một lần, không nên lại đến lần nữa. Đến không những không được như lần trước, mà lại c̣n bị khinh bỉ khổ nhục nữa.

    77. HOẠ PHÚC KHÔNG LƯỜNG
    Một ông lăo ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lăo nói:
    “Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.”
    Cách mấy tháng con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ. Ông lăo nói:
    “Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu.”
    Từ khi được ngựa hay, con ông lăo thích cưỡi, chẳng may ngă què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lăo nói:
    “Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.”
    Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lăo, v́ què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau.
    Hoài Nam Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hồ: tức là Hung nô ở phía bắc nước Tàu hay vào nhiễu loạn nước Tàu.
    Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức. (Xin xem thêm Hoài Nam Tử ở Phụ Lục D).
    LỜI BÀN
    Họa phúc xoay vần, khó ḷng biết được. Trong cái phúc thường có cái họa nấp sẵn ở đấy, trong cái họa, thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở đây. Cho nên, đối với sự họa phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà quyết định cho là hay măi, hay dở măi được. Ta chỉ nên, khi gặp phúc, th́ thao thủ cẩn thận, đừng có kiêu xa phóng túng, may mà giữ được phúc lâu dài; khi gặp họa, th́ tu tỉnh lấy thân, đừng có ngă ḷng, đừng có oán trách, may mà qua được họa lại gặp phúc chăng.

    78. VẼ G̀ KHÓ
    Có người thợ vẽ, vẽ cho vua nước Tề mấy bức tranh.
    Vua hỏi:
    -Vẽ cái ǵ khó ?
    Thưa : Vẽ chó, vẽ ngựa khó.
    -Vẽ ǵ dễ?
    -Vẽ ma vẽ quỷ dễ.
    -Sao lại thế?
    -Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống, th́ người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỷ là giống vô h́nh, không ai trông thấy, tùy ư muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ.
    Người nào bỏ những công việc nhật dụng thường hành, chỉ chăm làm những việc ḱ dị quái gở để ḷe thiên hạ, th́ cũng chẳng khác nào như người thợ chỉ vẽ ma, vẽ quỷ, nghĩa là tránh cái khó mà làm cái dễ vậy.

    GIẢI NGHĨA
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.

    79. CÁCH ĐÂM HỔ
    Hai con hổ đang ăn thịt một con trâu. Biện Trang muốn ra đâm hổ. Có thằng trẻ con bảo rằng:
    “Hăy lượm đă, ông ạ. Hổ là giống tàn bạo, trâu là mồi ngon ngọt. Bây giờ hai con hổ đang cùng ăn một con trâu, thấy thịt trâu ngon, tất tranh nhau, đánh nhau. Đánh nhau, th́ hổ nhỏ chết mất mà hổ lớn cũng bị thương. Ông đợi đến bấy giờ hăy ra, th́ không phải chỉ đâm được một con, mà rồi được cả hai con không? Như thế, th́ chẳng phải là công dùng ít mà lợi được nhiều ư?”
    Biện Trang cho lời nói ấy là phải, làm theo y như thế, quả nhiên bắt được cả hai con hổ.

    GIẢI NGHĨA
    Biện Trang: Người nước Lỗ, thời Xuân Thu, làm quan Đại phu ở ấp Biện, là người khỏe có tiếng, thường hay đâm được hổ.
    LỜI BÀN
    Bài này cốt ư dạy ta làm việc ǵ biết thừa cơ mà làm, th́ ít khó nhọc, mà lại dễ thành công. Như Biện Trang đây, bắt hai con hổ ngay, công phu nhiều mà chưa chắc đă được. Đợi nó đánh nhau, một con chết một con bị thương, th́ ra chỉ mất công bắt một con hổ yếu (v́ mới bị thương) mà rồi được cả hai con hổ vậy. Ư bài này cũng giống câu nói của Mạnh Tử: “Tuy hữu trí tuệ, bất thừa thời thế; tuy hữu ti cơ, bất như đăi thời”. Nghĩa là tuy có khôn ngoan sáng suốt, chẳng bằng thừa được cái thế, lại dễ làm hơn, tuy có điền khí sẵn sàng, chẳng bằng đợi đến thời đáng làm mới làm th́ lại được việc.

    80. ÂM NHẠC
    Âm là tự ḷng người ta mà sinh ra. Ḷng người có cảm giác, mới phát động ra âm. Âm tuy thành ở ngoài miệng, mà thực phát ra tự trong ḷng.
    Cho nên nghe âm thanh mà biết được phong tục, xét phong tục mà biết được chí hướng, xem chí hướng mà biết được đạo đức, thịnh, suy, khôn, dại, hay dở đều hện ra âm nhạc không giấu được ai. Bởi vậy, cứ lấy âm nhạc mà nghiệm được một nước ra thế nào.
    Đất xấu, th́ cây cối khẳng khiu, nước đục th́ tôm cá gầy c̣m. Đời suy th́ lễ nghĩa phiền mà âm nhạc dâm. Những âm dâm đăng, tà khúc, những âm trên bộc trong dâu mà dưới dân gian lấy làm thích là nước loạn, mà trên vua chúa lấy làm vui, là đức suy.
    Âm nhạc đă không có tiết tấu, không được trang nghiêm, thuần một màu dâm đăng đă xuất ra thời chỉ cảm được cái ḷng dâm đăng tà khúc mà rồi sinh ra bao nhiêu việc tà khúc gian nguy vậy.
    Cho nên người quân tử để tâm vào đạo mà sửa lấy đức, chỉnh lại đức để làm âm nhạc, ḥa nhạc để cho thành thuận, mà nhạc có ḥa, th́ mới chỉnh đốn được mọi việc.
    Tuân tử
    GIẢI NGHĨA
    Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu, sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn măi và phong hóa suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ư để chỉnh đức và hành đạo. (Xin xem thêm Tuân Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Nếu xem âm nhạc một nước, mà biết được nước ấy là thế nào, th́ đủ biết âm nhạc có một cái quan hệ mật thiết với sự tồn vong, thịnh suy của một nước. Ôi! Âm nhạc của nước ta hiện nay thế nào! Có nhiều người, nếu không chê rằng là ai oán chi âm, Trịnh Vệ chi thanh, th́ cũng không cho được rằng có vẻ hùng dũng, cái khí cao xa ở trong ấy. Tiếc rằng người đánh đàn, kẻ kéo nhị th́ nhiều, nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có lưu thủy với nam ai, c̣n người thực am hiểu âm luật, có thể cải lương được âm nhạc chưa có mấy. Ước ǵ những bậc có tài nghệ âm nhạc hằng lưu tâm đến, làm cho cái âm nhạc sầu năo, ẻo lả kia được chỉnh đốn mà phấn chấn lên, th́ thực là bậc “cứu quốc” có công to với cả nước vậy.

  8. #28
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    81. TRÍ VÀ NHÂN
    Thầy Tử Lộ yết kiến đức Khổng Tử.
    Đức Khổng Tử hỏi: Thế nào là người trí? Thế nào là người nhân?
    Thầy Tử Lộ thưa: Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết ḿnh; người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu ḿnh.
    Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người có học vấn.
    Thầy Tử Lộ ra, thầy Tử Cống vào, đức Khổng Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào?
    Thầy Tử Cống thưa: Người trí là người biết người; người nhân là người yêu người.
    Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói vậy cũng khá gọi là người có học vấn
    Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào, đức Khổng Tử lại đem trí, nhân ra hỏi.
    Thầy Nhan Hồi thưa: Người trí là người tự biết ḿnh; người nhân là người tự yêu ḿnh.
    Đức Khổng Tử bảo: Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử.
    Gia Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học tṛ đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Tử Cống: học tṛ giỏi của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa ngôn ngữ.
    Nhan Hồi: học tṛ giỏi nhất của đức Khổng Tử, có tiếng về khoa đức hạnh. (Xin xem thêm Nhan Uyên ở Phụ Lục C).
    Sĩ quân tử: bậc người thượng lưu trong xă hội, có đức hạnh, có học vấn, có kiến thức.
    LỜI BÀN
    Cũng một chữ Trí, một chữ Nhân mà ba người đáp mỗi người một khác. Không phải là trí với nhân có lắm nghĩa, thay đổi khác nhau, đó là tùy theo cái tŕnh độ học vấn, kiến thức của mỗi người, mà tư tưởng thuyết minh có phần hơn kém nhau. Thầy Tử Lộ đáp như thế là người vụ ngoại, chỉ cần cho người ta biết ḿnh, yêu ḿnh mà thôi. Thầy Tử Cống đáp như thế là người quên ḿnh, chỉ biết người, yêu người mà thôi. So với thầy Tử Lộ th́ cao hơn một bậc. Song chưa bằng thầy Nhan Hồi, học như thế mới là học vị kỷ; nghĩa là học để tự biết ḿnh, yêu ḿnh trước, rồi suy rộng ra đến biết người, yêu người. Biết ḿnh, yêu ḿnh không phải là có ḷng tự kỷ hẹp ḥi. Có biết ḿnh, th́ mới tu tỉnh được tâm thân, cải quá thiên thiện mà nên người hay, người khá, cũng như câu: “Connais toi toi même” của người Tô Lạp Thị. Có yêu ḿnh, th́ mới biết trọng tư cách của ḿnh, quí phẩm giá của ḿnh rồi mới ra đến thân nhân dân, ái vật, tức cũng như câu tục ngữ Pháp: “Charité bien ordonée commence par soimême”.

    82. HẾT L̉NG V̀ NƯỚC
    Vua B́nh Vương nước Sở nghe lời gièm pha, giết chết đại tướng là Ngũ Xa. Ngũ Thượng là con cả Ngũ Xa cũng bị hại. Người con thứ ba là Ngũ Viên bèn bỏ nước Sở, sang làm tướng nước Ngô. Trước khi đi, có đến từ giă một người bạn đang làm quan đại phu tên là Thân Bao Tư mà bảo rằng:
    “Ba năm nữa nước Sở không mất, thời tôi không trông thấy bác nữa.”
    Thân Bao Tư nói: “Bác làm mất nước Sở, th́ tôi tất phải giữ cho nước Sở c̣n.”
    Ba năm sau, Ngũ Viên đem quân Ngô về đánh Sở, vua Chiêu Vương nối ngôi cho B́nh Vương thua chạy, phải trốn vào trong núi.
    Thân Bao Tư đang ở trong núi, nghe nói Ngũ Viên cường bạo bèn sang cầu cứu nước Tần, tâu cùng vua rằng:
    “Nước Ngô vô đạo, quân khỏe người nhiều, sắp đánh cả thiên hạ, bây giờ mới đánh một nước Sở tôi trước. Vua nước tôi phải chạy trốn, hiện đang ở Vân Mộng, sai tôi đến cấp báo với thượng quốc.”
    Vua nước Tần là Ai Công bảo: Ừ! Để rồi ta liệu. Nhà ngươi hăy ra nghỉ ngoài sứ quán.
    Thân Bao Tư nói: “Vua nước tôi bây giờ đang khốn đốn, phận làm bầy tôi đâu dám ăn nằm yên một chỗ”.
    Nói đoạn cứ đứng giữa sân khóc lóc thảm thiết suốt bảy ngày đêm.
    Ai Công thấy vậy, nói rằng: “Một nước có người bầy tôi như thế, ta không cứu cũng không đành”. Rồi đem quân sang cứu nước Sở.
    Quân Ngô nghe thấy tin, vội phải rút quân về.
    Nước Sở nhờ thế mà không mất, vua Chiêu Vương lại lên ngôi, t́m Thân Bao Tư để thưởng công th́ không thấy đâu cả. Thân Bao Tư đă lánh lâu rồi.
    Trước khi đi lánh, Thân Bao Tư có nói rằng:
    “Mượn quân, yêu nước không phải là vị thân, cứu cấp, trừ hại không phải là vị danh. Bây giờ nước đă định rồi, th́ ta c̣n cầu ǵ nữa?”
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    Đại tướng: một chức quan to nhất.
    Ngũ Xa: người nước Sở thời Xuân Thu, thờ vua B́nh Vương v́ can vua mà phải giết.
    Ngũ Thượng: con cả Ngũ Xa, cha bị nạn, đi theo cha rồi cũng bị hại.
    Ngũ Viên: tức là Ngũ Tử Tư, có thứ Ngũ Xa, trốn sang Ngô để mưu phục thù cho cha.
    Thân Bao Tư: người thời Xuân Thu làm quan đại phu thờ vua B́nh Vương nước Sở và chơi thân với Ngũ Viên.
    LỜI BÀN
    Ngũ Viên v́ cha bị giết oan mà quyết chí muốn haị vua, làm cho vua mất nước là trọng chữ Hiếu hơn chữ Trung, có phần đáng khen, cũng có phần nên chê. Thân Bao Tư muốn cứu nước chỉ lấy nước mắt, tiếng khóc mà nên công, thực là người quá nhẫn nhục trong lúc kế cùng lực kiệt, để chuyển được người không có ư giúp cũng phải giúp, thế là có bụng rất trung, yêu vua, cứu nước vậy. Lại đáng khen hơn nữa là công to mà không lấy thưởng. Việc nghĩa làm là làm cho cả nước, làm được là hả, là sướng, chớ có cầu cạnh ǵ riêng cho thân ḿnh?

    83. BỌ NGỰA CHỐNG XE
    Một hôm Trang Công nước Tề xa giá đi săn. Xe ra khỏi thành, đi trên đường cái, có con bọ ngựa cứ đứng giữ đường, giương càng chực chống lại cái xe. Tả hữu thấy thế, kêu lên rằng: “Chết! Chết!”. Trang Công nghe tiếng tưởng sự ǵ nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi. Tả hữu thưa:
    “Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giơ càng lên muốn chống lại. Giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên chứ không lùi, không chịu lượng sức ḿnh khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch th́ xem thường xem khinh, cứ lập tức xông vào đánh. Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào”.
    Trang Công nói: “Hăy khoan. Giống bọ ngựa thế mà đáng kính. Giả sử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp không ngại gian nan, không sợ nguy hiểm, nhất quyết chỉ tiến lên chọi với cường địch, chết cũng không thoát tị th́ chẳng nên đáng tôn kính lắm ư!”
    Nói đoạn, Trang Công bảo tránh xe đi sang một bên.
    Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang Công nghe thấy câu chuyện, khi phải đi đánh giặc đâu là liều chết tiến lên, chớ không chịu không bằng con bọ ngựa.
    Hàn Thi Ngoại Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n ngoại truyện mà thôi.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Tề Trang Công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi đá, nồi đất chọi với nồi đồng, th́ cũng là khờ dại đáng tiếc. Tuy vậy, có kẻ hà hiếp ḿnh thậm tệ. mà ḿnh c̣n đủ chí khí chống lại, thế là ḿnh hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục. Nhất là ḿnh lại quả quyết, phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen. Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ c̣n biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang Công thật là khéo biết dạy, mà tướng sĩ Trang Công thực là biết nghe vậy.

    84. ỨNG ĐỐI LINH LỢI
    Thiệu là con vua Nguyên Đế nhà Tấn, lúc nhỏ đă cực kỳ thông tuệ.
    Một hôm có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên Đế hỏi thử rằng: “Trường An gần hay mặt trời gần hơn?”
    Thiệu đáp: Trường An gần hơn.
    - Tại làm sao?
    - Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại, chứ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ.
    Vua nghe câu nói lấy làm lạ.
    Cách mấy hôm, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe. Nhân Thiệu đứng hầu bên lại hỏi đùa rằng:
    - Trường An gần hay mặt trời gần hơn?
    Thiệu đáp: Mặt trời gần hơn.
    Vua ngạc nhiên hỏi: Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế?
    - Tôi ngửng đầu lên, tôi trông thấy ngay mặt trời, chớ không trông thấy Trường An đâu cả.
    Vua nghe lại càng lấy làm lạ.
    Tấn Sử
    GIẢI NGHĨA
    Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    Thiệu: sau nối ngôi Nguyên Đế, gọi là vua Minh Đế.
    Trường An: tên một thành cũ bên Tàu, tức là bắc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây bây giờ.

    85. THỬA GIÀY
    Nước Trịnh có kẻ định thửa giày, đo chân làm no, rồi để cái no bên chỗ ngồi. Lúc đi chợ, quên không cầm no đi. Đến hàng giày mới sực nhớ ra nói rằng: “Thôi quên! Không cầm no đi rồi!”. Rồi, măi vội chạy về nhà lấy no. Khi trở lại th́ chợ đă tan, không thửa được giày nữa. Có người thấy thế bảo rằng:
    “Sao không đưa chân ra người ta đo có được không?”
    Anh ta căi: “Tôi chỉ tin cái no thôi, chớ tôi không tin chân tôi được.”
    Ôi! Thửa giày cốt chỉ đi vừa chân là được mà không tin chân, chỉ tin cái no đo chân, chẳng là câu nệ quá lắm ư! Ở đời kẻ làm công việc cứ bo bo giữ lề lối cổ hủ, không biết thế nào là hợp thời thích nghi th́ có khác ǵ người đi thử giày chỉ tin no đo chân, mà không tin chính chân ḿnh hay chăng?
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    No: các mẫu đo cá, chiều dài, ngắn của đồ vật ǵ.

    86. CỨU NGƯỜI LÚC NGUY CẤP
    Trang Chu nghèo túng sang hỏi vay thóc Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn Hầu nói:
    “Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho ông vay ba trăm lạng, ông có bằng ḷng không?”
    Trang Chu giận nói: “Khi Chu đến đây, đi giữa đường nghe có tiếng gọi, ngoảnh lại thấy một con cá đang ngắc ngải trong cái vết bánh xe. Chu này hỏi: Cá ở đây làm ǵ thế? -Cá đáp: Tôi là thủy thần ở bên bể Đông mắc nạn tại đây, ông có thể cho tôi bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không? -Chu này bảo: Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt rồi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi, ngươi có bằng ḷng không? Cá giận nói: Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế; đợi đến lúc ông về, th́ có khi ông đến chỗ hàng cá khô đă thấy tôi đấy rồi.”
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
    Ngụy Văn Hầu: Văn Hầu nước Ngụy, cứ theo sách Trang Tử tuyết thi là Giám Hà Hầu.

    87. NGHÈO MÀ KHÔNG OÁN
    Tử Dư làm bạn với Tử Tang. Tử Tang rất nghèo. Gặp khi trời mưa luôn mười hôm, Tử Dư nhớ đến bạn, nghĩ bụng rằng: “Tử Tang đến khốn mất!”. Mới bọc gạo đem lại cho.
    Lúc đến trước cửa, thấy Tử Tang đang đánh đàn, nửa như khóc, nửa như hát, tiếng không ra hơi, giọng th́ líu nhíu, lắng tai nghe như có câu rằng: “Cha ư! Mẹ ư! Người ư!”
    Tử Dư bước vào hỏi: “Bác đàn hát như thế là làm sao vậy?”
    Tử Tang nói: “Tôi nghĩ măi mà không biết tự đâu đến nông nỗi cùng cực như thế này? Nào có phải cha mẹ tôi muốn cho tôi nghèo khổ đâu! Nào có phải trời đất để cho tôi nghèo riêng một ḿnh đâu? Trời không riêng che, đất không riêng chở một ai…Thực tôi muốn t́m cho biết tự đâu tôi phải chịu cùng cực như thế này, mà không ra. Vậy th́ chẳng phải là cái mệnh nó xui khiến ra như thế ư!”
    Trang Tử Tuyết
    GIẢI NGHĨA
    Tử Dư, Tử Tang: hai người đời Xuân Thu tính khoáng đạt, chơi thân với nhau.
    LỜI BÀN
    Tử Tang nghèo mà cho là số mệnh th́ ư giống câu ngạn ngữ của ta: “Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo”. Phàm yên phận nghèo, hay không lo nghèo, hay quên cả cảnh nghèo, đó là nết cao quư của hiền triết, không để cho cảnh làm lụy được tâm, làm tổn được chí. Nhưng chúng ta chớ quên rằng những bậc hiền triết thường cần lao, hoặc cầy ruộng hay câu cá, hoặc kiếm củi hay chăn nuôi cho có đủ sống, rồi các ngài mới sống cho ra sống. Cần lao để mưu sinh, đó là sự thường, nhưng cần, chúng ta phải có trước đă, để cho thoát khỏi nhục kư sinh, cái hại cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ. Khi chúng ta tự lập được, đă biết trọng liêm sỉ, th́ chúng ta mới có thể trở nên người không lo nghèo được.

    88. THÂN TRỌNG HƠN LÀM VUA
    Người nước Việt giết ba đời vua. Con vua đời thứ ba tên là Sưu lo sợ, phải trốn vào ở trong hang.
    Nước Việt thành ra không có vua. Người Việt đi t́m con vua măi không thấy. Đến lúc t́m thấy ở trong hang th́ con vua không chịu ra. Người Việt một mặt lấy lá ngải hun vào hang, một mặt đem xe đón. Con vua bất đắc dĩ phải ra. Lúc lên xe, ngửa mặt lên trời kêu to rằng:
    “Ôi làm vua! Ôi làm vua! Ta không muốn làm vua, cũng không được hay sao!”
    Con vua lo như thế không phải là ghét làm vua, ghét là ghét cái họa làm vua. Không muốn làm vua, tức là không chịu lấy cả một nước mà phiền lụy đến thân ḿnh. Thân ḿnh không muốn phiền lụy, th́ khi làm vua, tất không nỡ làm phiền lụy khổ hại ai. Mà chỉ bởi cái lẽ ấy, người Việt mới cố tôn lên làm vua cho được.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Làm vua thường t́nh ai chả muốn. Thế mà có người đến làm vua cũng không muốn! Không phải là ghét ǵ làm vua, nhưng ghét rằng làm vua, thường có khi không giữ được toàn tính mệnh. Bài này cốt ư cảnh tỉnh những kẻ ham danh, ham lợi để hại đến thân. Cứ theo ư tác giả, th́ chỉ những người nào không có chút ǵ phiền lụy đến tấm thân, mới là không “thương sinh” nghĩa là hại đến đời ḿnh, mà giữ được “toàn sinh” nghĩa là giữ được đời ḿnh cho trọn vẹn. C̣n như đây không muốn làm vua mà cứ bị tôn lên làm vua, là v́ rằng ông thông minh nhân hậu, lại có đức độ cùng biết người và thương dân th́ dân chúng nào chả muốn tôn lên làm quân trưởng.

    89. THÂN TRỌNG HƠN THIÊN HẠ
    Nước Hàn, nước Ngụy muốn lấn đất của nhau, Tử Hoa Tử đến ra mắt vua Chiêu Nghi nước Ngụy, thấy vua có dáng lo buồn, mới hỏi rằng:
    “Giá bây giờ cả bao nhiêu nước họp nhau, đính ước một câu và khắc câu ấy trước mặt vua rằng: “Tay trái lấy được thiên hạ th́ hỏng mất tay phải; tay phải lấy được thiên hạ th́ hỏng mất tay trái”. Hỏng mất một tay mới lấy được thiên hạ, thế th́ nhà vua có bằng ḷng lấy thiên hạ không?”
    Vua Chiêu Hi nói: “Như thế ta chẳng lấy thiên hạ làm ǵ”.
    Tử Hoa Tử thưa: “Nhà vua nói phải lắm. Cứ xem như thế th́ hai cánh tay trọng hơn cả thiên hạ, th́ cái thân ta trọng hơn hai cánh tay ta lại đáng trọng hơn biết là bao! Nước Hàn so với cả thiên hạ bé nhỏ thấm vào đâu! Miếng đất tranh nhau so với cả nước Hàn bé nhỏ thấm vào đâu! Thế mà sao chỉ v́ lo không tranh được miếng đất nhỏ ấy, mà nhà vua đến nỗi ủ dột, buồn rầu, mất ăn, mất ngủ, thương sinh quá như vậy?”
    Vua Chiêu Hi nói: “Phải lắm. Người dạy bảo quả nhân cũng nhiều, nhưng chưa từng thấy ai dạy bảo quả nhân được những lời như thế.”
    Tử Hoa Tử bàn như thế mới thực là người biết điều khinh, điều trọng ở đời vậy.

    GIẢI NGHĨA
    Hàn: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc ở vào trung bộ Hà Nam bây giờ.
    Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
    Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hi.
    LỜI BÀN
    Mất một cánh tay mà được cả thiên hạ c̣n không muốn, huống chi hại cả cái thân mà được một miếng đất cỏn con lại c̣n muốn hay sao! Thế mới hay, tất cả mọi người, trên tự vua chúa dưới đến thường dân ai ai cũng biết trọng cái thân ḿnh, quí thân ḿnh hơn cả ngoại vật, nhưng tiếc thay những kẻ có quyền thế trong tay thường chỉ biết mến một cái thân ḿnh, c̣n cái thân của người, của bao nhiêu người lại nỡ đem ra sát hại để thỏa chút ḷng tham muốn, cầu lợi rất đáng khinh bỉ. Nếu ai cũng biết thương sinh là hại, sát sinh là bất nghĩa, th́ c̣n đâu là những sự chiến tranh hại kể có đến muôn, triệu tính mệnh sinh linh!

    90. CHÚC MỪNG
    Vua Nghiêu đến chơi đất Hoa. Viên quan giữ cơi đất Hoa chúc rằng:
    - Xin chúc nhà vua sống lâu.
    Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
    Viên quan lại chúc: Xin chúc nhà vua giàu có.
    Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
    Viên quan lại chúc: Xin chúc nhà vua lắm con trai.
    Vua Nghiêu nói: Đừng chúc thế.
    Viên quan lấy làm lạ, hỏi: Sống lâu, giàu có, lắm con trai, người ta ai cũng muốn, một ḿnh nhà vua không muốn là cớ làm sao?
    Vua Nghiêu nói: Lắm con trai th́ sợ nhiều; giàu có th́ công việc nhiều; sống lâu th́ nhục nhă nhiều. Ba điều ấy không phải là những điều gây nên đức hay cho ḿnh nên ta từ chối.
    Viên quan nói: Nhà vua như thế thực là một bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra người, mỗi đứa cho làm một việc th́ có lo sợ ǵ. Giàu có mà biết đem của chia với người ta, th́ c̣n công việc ǵ? Ăn uống có chừng, thức ngủ có độ, trong bụng lúc nào cũng thư thái tự nhiên, thiên hạ hay ra, th́ cũng hay với thiên hạ, thiên hạ mà dở th́ làm cho thiên hạ hay, trăm tuổi th́ nhắm mắt về cơi rất vui, một đời không có tai họa ǵ, th́ c̣n nhục nhă làm sao được.
    Viên quan nói xong lùi ngay. Vua Nghiêu c̣n muốn nói nữa th́ cho theo không kịp.

    GIẢI NGHĨA
    Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu (2337 TCN–2258 TCN). (Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C).
    Hoa: chỗ vua Nghiêu đóng kinh đô.

  9. #29
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    91. NGƯỜI BÁN THỊT DÊ
    Vua Chiêu Vương nước Sở mất nước, phải bỏ chạy. Có người hàng thịt dê tên là Duyệt, cũng chạy theo vua.
    Sau vua Chiêu Vương lại trở về, lấy lại được nước. Vua bèn thưởng những người chạy theo khi trước, có cả anh hàng thịt dê nữa. Ai ai cũng nhận thưởng, chỉ có anh hàng thịt dê từ chối, nói rằng:
    - Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê, nay nhà vua c̣n nước, tôi c̣n nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, c̣n đâu dám mong thưởng ǵ nữa.
    Vua cố ép. Người hàng thịt dê thưa rằng:
    - Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết; nhà vua lấy lại được nước không phải công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
    Vua bảo để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
    Người hàng thịt dê nói: Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng th́ vua mới đến nhà. Nay tôi xét ḿnh tôi trí mưu không đủ giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ư theo nhà vua đâu! Nay nhà vua lại muốn bỏ phép nước mà đến chơi nhà tôi, tôi e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
    Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mă Tử Kỳ rằng: Người hàng thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giăi bày nghĩa lư rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mời được người ấy ra giữ chức tam công cho ta.
    Người hàng thịt dê nói: Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc ngh́n vạn, giàu hơn tiền lăi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bán thịt dê.
    Nói đoạn, lui ra ngay.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tam công: ba chức quan to, đời nhà Chu th́ là Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo, đời nhà Tây Hán th́ là Đại Tư Mă, Đại Tư Đồ, Đại Tư Không, đời nhà Đông Hán th́ là Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không.
    LỜI BÀN
    Vua Chiêu Vương muốn thưởng là lấy cái ư khi ḿnh gặp bước lưu vong mà người ta đi theo ḿnh, là người ta có ḷng trung thành với ḿnh. Người hàng thịt dê không nhận thưởng, là lấy cái nghĩa không đáng nhận v́ không có công cán ǵ. Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, th́ c̣n ai là kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắm ư! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có ǵ, mà cũng cố cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vị để ḷe đời vậy.

    92. THÀNH THỰC
    Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc đ̣i đi theo. Mẹ bảo: “Con ở nhà rồi mẹ về mẹ làm thịt con lợn cho ăn.”
    Lúc vợ về, thầy Tăng Tử bắt lợn đi làm thịt.
    Vợ nói: Tôi nói đùa nó đấy mà.
    Thầy Tăng Tử bảo: Nói đùa là thế nào? Đứng khinh trẻ thơ là không biết ǵ. Cha mẹ làm ǵ, nó thường hay bắt trước. Nay ḿnh nói dối nó, chẳng là ḿnh dạy nó nói dối ư!
    Tăng Tử nói xong, làm thịt lợn cho con ăn thực.

    GIẢI NGHĨA
    Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    “Ấu tử thường thi vô cuồng”; câu kinh Lễ đă dạy, ta không nên nói dối trẻ. Thầy Tăng Tử nhà nghèo, phải giết lợn, mẹ thầy Mạnh Tử cũng có mua miếng thịt lợn nhà láng giềng cho con ăn, đều là đă trót nói đùa với trẻ cho ăn thịt lợn, th́ không muốn dối trá nó, để giữ lấy ḷng thực của nó. Phàm cha mẹ, ai là không muốn cho con thành thực. Nhưng muốn như vậy, tất phải giữ ǵn, chớ có nói dối nó bao giờ. Lục Chí có câu nói rằng: “ Nều ḿnh không hết ḷng thành mà mong người ta hết ḷng thành, chắc người ta chán ḿnh mà không theo ḿnh nữa. Lần này ḿnh không có ḷng thành mà bảo lần sau rồi có ḷng thành, chắc người ta ngờ vực mà không tin nữa”. Cũng một ư với thầy Tăng Tử dạy con vậy.

    93. MẸ HIỀN DẠY CON
    Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào, chôn, lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chon, lăn khóc. Bà mẹ thấy thế nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở được”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
    Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước nô nghịch một cách buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế lại nói: “Chỗ này cũng không phải là chỗ con ta ở được”. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
    Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui ḷng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở được đây”.
    Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm ǵ thế”?
    Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, th́ chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao”? Rồi bà đi mua thịt lợn về cho con ăn thật.
    Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đi học mà bỏ học th́ cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy”.
    Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần rồi về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quư báu của bà mẹ hay sao?
    Liệt Nữ Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Liệt nữ truyện: 1 trong 120 quyển trong Hậu Hán Thư. Hậu Hán Thư là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. Liệt nữ truyện là sách thuật truyện các nhân vật nữ tài giỏi hay ghi chép tiểu sử các nữ nhân vật lịch sử. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Liệt Nữ Truyện trong Phụ Lục D).
    Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Mẹ thầy Mạnh Từ thực là biết dạy con. Mấy lần dọn nhà, thế là hiểu cái lẽ: gần mực th́ đen gần đèn th́ rạng. Nói lỡ lời phải mua thịt cho con ăn, thế là hiểu cái lẽ: chớ nên nói dối trẻ. Thấy con bỏ học mà cầm dao cắt đứt tấm vải làm thí dụ, thế là hiểu cái lẽ: học hành cốt phải chuyên cần. Người ta đă nói: người mẹ là thầy giáo thứ nhất của trẻ, nên người mẹ phải biết cách dạy trẻ mới được. Dạy con từ thuở c̣n thơ, cái buổi đầu là cái buổi khó, mà cái buổi ấy là ở trong tay người mẹ, người mẹ tức là người có cái trách nhiệm gia đ́nh giáo dục rất to, không kém ǵ người cha, mà có lẽ hơn.

    94. NGỌC BÍCH HỌ HOÀ
    Nước Sở có người họ Ḥa, được một ḥn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lê Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá không phải ngọc”. Vua cho người họ Ḥa là nói dối, sai chặt chân trái.
    Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Ḥa lại đem ngọc đên dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói: “Đá không phải ngọc”. Vua lại cho người họ Ḥa là nói dối, sai chặt chân phải.
    Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Ḥa ôm ḥn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Ḥa thưa: “ Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối”. Vua bèn sai người xem lại cho rơ kỹ, th́ quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là “Ngọc bích họ Ḥa”.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Lê Vương, Vũ Vương, Văn Vương: ba vua kế tiếp nước Sở.
    Ngọc bích: thứ ngọc rất đẹp, rất quư hiếm.
    LỜI BÀN
    Người ta ở đời thường mờ mịt của thật cho là của giả, sự phải ngờ là sự trái. Hoặc có ai biết lẽ phải, muốn đem ra bày tỏ, mà thiên hạ không biết cho, lại c̣n mỉa mai, th́ thực là khổ tâm. Người họ Ḥa không đau v́ nỗi hai chân bị chặt, chỉ đau v́ nỗi ngọc mà cho là đá, nói thực mà cho là nói dối, quả là một người v́ yêu cái thực, cái phải, cố làm cho sự thực, sự phải phá đổ được sự u mê của người đời.

    95. NUÔI GÀ CHỌI
    Vua Tuyên Vương sai Kỷ Sảnh nuôi một con gà chọi.
    Được mười hôm, vua hỏi: “Gà đă đem chọi được chưa”?
    Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà hăng lắm, chưa thấy gà khác đă muốn chọi rồi”.
    Cách mười hôm, vua hỏi: “Gà đă đem chọi được chưa”?
    Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà c̣n hăng, mới thấy bóng gà khác đă muốn chọi rồi”.
    Cách mười hôm, vua lại hỏi: “Gà đă chọi được chưa”?
    Kỷ Sảnh thưa: “Chưa được, gà c̣n hơi hăng, trông thấy gà khác đă muốn chọi rồi”.
    Mười hôm sau, vua lại hỏi: “Gà đă đem chọi được chưa”?
    Kỷ Sảnh thưa: “Được rồi. Gà bây giờ cho nghe thấy tiếng gà khác cũng không cho vào đâu. Trông th́ tựa như gà gỗ, mà thực th́ đủ các ngón hay. Gà khác coi thấy cũng đủ sợ, phải lùi chạy”.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Tuyên Vương: đây là Tuyên Vương nước Tề.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Gà gỗ: chữ là Mộc Kê. Các nhà làm văn hay dùng hai chữ ấy để khen những bậc học tập, tu dưỡng được hoàn toàn, không có ǵ bộc lộ ra ngoài.
    LỜI BÀN
    1. Chưa trông thấy gà khác, đă muốn chọi, thế là tức khí hăo, chớ vị tất chọi mà đă được.
    2. Trông thấy bóng gà khác, đă muốn chọi, thế là cậy khỏe, chớ vị tất chọi mà đă được.
    3. Trông thực thấy gà khác đă muốn chọi, thế là c̣n hiều thắng, chớ vị tất chọi mà đă được.
    Chỉ đến lúc mất hết tất cả tức khí, cậy khỏe, hiếu thắng, luyện đă được h́nh toàn thần toàn đủ hết cả ngón hay, mà trông bề ngoài trơ ra như gỗ, là lúc ấy mới chọi được, có khi không phải đợi chọi, gà khác ngó thấy cũng đủ sợ mà trốn chạy rồi. Thế mới hay những bậc thánh hiền chỉ thu cái tài vào khuôn phép, nén cái khí vào tâm thần, chỉ cốt trong ḿnh cho đầy đủ, không có ư ǵ tranh cạnh với ai, mà thiên hạ hồ dễ đă ai cạnh tranh nổi. Chớ những kẻ chỉ vụ bề ngoài, chăm chăm danh lợi, có tranh giành mới lấy làm vui ḷng, có tham lam mới lấy làm măn nguyện, c̣n là những hạng tầm thường, có khi hại đến thân mà vẫn tự đắc cho là phải.

    96. DÙNG CHÓ BẮT CHUỘT
    Nước Tề có người xem tướng chó giỏi. Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay bắt chuột. Một năm trời anh ta mới mua được, bảo nhà láng giếng: “Con chó này tốt đấy”
    Nhà láng giềng nuôi chó mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, mới nói chuyện với anh ta. Anh ta bảo: “Con chó tốt lắm đấy. Nhưng cái chí nó chăm bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ không muốn bắt chuột. Bây giờ muốn nó bắt chuột th́ phải cùm chân sau nó lại.”
    Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột.
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: Sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Con chó trước không bắt chuột, là v́ nó có tài bắt những hươu nai, không thèm bắt chuột. Sau nó bắt chuột, là v́ người ta đă cùm chân, hăm cái tài nó lại, không cho chạy nhanh quá. – Cốt ư bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại tài mà đem dùng vào việc nhỏ th́ không được việc. Muốn cho được việc, th́ người dùng tất phải biết chế hạn cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc hay không làm được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi. Nhưng muốn cho người có cái tài to làm việc nhỏ th́ phải làm cho mất cái tài to đi đă, th́ chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ lắm ru !

    97. LỜI NÓI NGƯỜI BÁN CAM
    Ở Hàng Châu có người bán các thứ quả, khéo để dành cam, lâu mà không úng, vỏ vẫn đỏ hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá đắt, mà người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về, bóc ra, hơi xông lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ, hỏi người bán cam:
    “Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đăi tân khách hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta? Tệ thật! Anh giả dối lắm”!
    Người bán cam cười nói:
    Tôi làm nghề này đă lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói ǵ, chỉ có ông là kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải ǵ một ḿnh tôi? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi.. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan vơ lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, đóng đai dải, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi như Y Doăn, Cao Dao không? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của quư, oai vệ, hách dịch vô cùng!.. Đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc, mà bên trong chẳng như bông nát là ǵ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả cam của tôi!
    Ta nghe nói thế, nín lặng, không trả lời được ra làm sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác ra chuyện bán cam để dạy người đời chăng?
    Lưu Cơ
    GIẢI NGHĨA
    Lưu Cơ: Người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
    Hàng Châu: tên một phủ tức tỉnh lỵ Chiết Giang bây giờ.
    Tôn Tẩn, Ngô Khởi: hai người làm tướng vơ giỏi thời Chiến quốc.
    Y Doăn: tướng giỏi đời vua Thang nhà Thương.
    Cao Dao: tướng giỏi thời vua Nghiêu vua Thuấn.
    LỜI BÀN
    Người bán cam đây chẳng qua chính là tác giả. Mà cốt ư của tác giả là muốn lấy quả cam đẹp vỏ, thúi ruột mà bóc cả cái hách dịch oai vệ bề ngoài của những bậc quan lớn một đời suy đốn, để phơi bày cái thực t́nh bất tài, bất trí, bất dũng ở bên trong. Nói rộng ra, bài này có ư dạy ta không nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói: cái thùng không, bông lúa lép hay những câu ca dao:
    Trông em, anh ngỡ sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không.
    Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nh́n ra mời biết chẫu chàng ngày mưa.
    Thật là có ư vị.

    98. VỢ CHỒNG NGƯỜI NƯỚC TỀ
    Người nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày ngày, chồng cứ sáng ra đi, tối đến mới về, mà hôm nào về cũng no say phè phỡn. Hai vợ thường hỏi:
    “Đi ăn với ai mà đi luôn thế?”
    Anh ta nói: “Ta đi ăn với toàn những bậc giàu có, sang trọng cả”.
    Một hôm, vợ cả bảo vợ bé: “Chồng ta chơi bời toàn những bậc giàu sang , mà sao không thấy một người nào giàu sang đến chơi nhà nhỉ? Ta thử ḍ xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai”.
    Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người nào dừng lại nói chuyện với chồng ḿnh cả. Khi đi đến phía đông ngoại thành, thấy có đám cất mả, người ta đang tế lễ, ăn uống, đă thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn xong, lại ngong ngóng đi chỗ khác.
    Bấy giờ chị ta mỡi rơ cái cách chồng ngày ngày ăn uống no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về; kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng: “Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em ta lại gặp phải một người chồng đê mạt quá đến như thế!”. Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau giữa sân sụt sùi khóc. Ngay lúc đấy anh chồng ngất ngưởng ở đâu về, vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ như những hôm trước.
    Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, th́ ngày nay những kẻ cầu công danh phú quí hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn không tủi, không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ người nước Tề này!
    Mạnh Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Lấy đức, lấy tài, lấy học thức đường đường chính chính mà được công danh phú quí th́ c̣n ǵ bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những việc đê hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen chúc vào đám công danh để cầu lấy chút phú quí, th́ tưởng không c̣n ǵ đáng khinh hơn nữa! Thế mà đến lúc được công danh phú quí, lại c̣n vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ người ta biết ta, th́ c̣n ai cho vào đâu nữa! Tưởng rằng khuất một người để đè muôn ngh́n người, nhưng dù người ta có e lệ bề ngoài, trong bụng người ta cũng không sao trọng được. Thầy Mạnh Tử đặt ra câu chuyện người nước Tề này thật là phơi bày được cái xấu xa của những kẻ quen thói cầu công danh phú quí “hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch nhật” (đêm khuya van lạy, ban ngày vênh váo khinh người) vào những thời buổi mạc tục vậy.

    99. ĐẦY TH̀ ĐỔ
    Đức Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, có một cái lọ dựng nghiêng. Ngài hỏi người coi miếu. Người này nói rằng:
    “Đó là một vật quí của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để làm gương.”
    Đức Khổng Tử nói: “Ta nghe nói nhà vua có vật quí để làm gương, vật đó bỏ không th́ đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn th́ đứng ngay, mà đầy quá th́ lại đổ, có lẽ vật này chăng.”
    Ngài bèn sai học tṛ đổ nước vào. Quả nhiên nước đổ vừa, th́ lọ đứng ngay; nước đổ đầy, th́ lọ đổ; bỏ không th́ lọ lại đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng: Hỡi ôi! Ở đời chẳng có cái ǵ đầy mà không đổ!
    Thầy Tăng Tử nói: Dám hỏi có cách ǵ giữ cho đầy mà không đổ không?
    Ngài nói: Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to lớn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung; sức khỏe hơn đời nên giữ bằng tính nhút nhát; giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ.
    Tuân Tử
    GIẢI NGHĨA
    Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu, sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn măi và phong hóa suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ư để chỉnh đức và hành đạo. (Xin xem thêm Tuân Tử ở Phụ Lục C).
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Mặt trời đứng bóng rồi xế, mặt trăng tṛn rồi lại khuyết; nhân sự cũng vậy, thăng rồi trầm, thịnh rồi suy, đó là luật tự nhiên khó mà tránh khỏi. Tuy vậy cứ theo lời dạy của Khổng Tử đây th́ cũng có cách giữ được lâu dài mà không suy đổ. Cách ấy là “Hữu nhược vô, thực nhược hư” nghĩa là có mà như không, đầy đặc mà như trống rỗng.

  10. #30
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    100. ÔNG LĂO BÁN DẦU
    Ông Trần Nghiêu Tư làm quan đời nhà Tống, bắn cung giỏi có tiếng ở đời bấy giờ không ai bằng. Ông cũng lấy thế là kiêu căng.
    Ông thường bắn trong vườn nhà. Một hôm có ông lăo bán dầu đi qua, thấy ông đang bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé xem măi. Ông lăo thấy ông Nghiêu Tư bắn mười phát trúng được tám chín th́ hơi gật gù mỉm cười. Nghiêu Tư gọi vào hỏi:
    “Nhà ngươi cũng biết bắn à? Ta bắn chưa được giỏi hay sao?”
    Ông lăo nói: Chẳng phải giỏi ǵ cả. Chẳng qua là quen tay thôi.
    Nghiên Tư giận lắm, bảo: À nhà ngươi giám khinh ta bắn không giỏi à?
    Ông lăo nói: Cứ xem tôi rót dầu th́ đủ biết.
    Nói đoạn bèn lấy một cái bầu đặt xuống đất, để đồng tiền lên miệng, lấy cái môi từ từ rót dầu qua lỗ đồng tiền, mà không dây một tí dầu nào ra đồng tiền cả.
    Rồi nói: Tôi cũng chẳng phải giỏi ǵ, chỉ quen tay mà thôi.
    Nghiêu Tư cười, chịu là phải.
    Âu Dương Tu
    GIẢI NGHĨA
    Âu Dương Tu: Người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng. (Xin xem Âu Dương Tu ở Phụ Lục C).
    Trần Nghiêu Tư: người đời nhà Tống, làm quan Tiết độ sứ là người có chí khí, viết tốt và bắn giỏi.
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 14-06-2011, 11:48 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 09-06-2011, 12:08 PM
  3. Replies: 9
    Last Post: 06-06-2011, 03:12 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 05-06-2011, 07:03 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-03-2011, 01:12 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •