Page 4 of 5 FirstFirst 12345 LastLast
Results 31 to 40 of 49

Thread: Cổ Học Tinh Hoa

  1. #31
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    101. GẶP QUỈ
    Hoàn Công nước Tề đi săn ngoài đầm có Quản Trọng theo hầu. Hoàn Công trông thấy quỉ, nắm tay Quản Trọng hỏi rằng:
    -Trọng phụ có thấy ǵ không?
    Quản Trọng thưa: Thần không thấy ǵ cả.
    Hoàn Công về nghe trong người khó chịu, như là mất vía, rồi sinh ốm, mấy hôm không ra chầu.
    Có người học tṛ tên Cáo Ngao vào ra mắt nói rằng:
    - Nhà vua đau, là tự ḿnh làm ra cả, chớ ma quỉ nào làm được! Phàm chưng khí tán mà không thu lại được, th́ tinh thần suy yếu; cái khí ấy bốc lên trên không xuống được, th́ làm cho người ta hay giận dữ, cái khí ấy tụ ở dưới không vận lên được th́ làm cho người ta hay mê lú, chóng quên, cái khí ấy không lên không xuống, kết ở giữa bụng, th́ sinh ra hoảng hốt.
    Hoàn Công hỏi: Thế nhưng có quỷ thực không?
    Cáo Ngao thưa: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, núi có Sơn Thần, bể có Long Vương, đầm có thứ quỷ gọi là Uy Di.
    Hoàn Công hỏi h́nh dạng Uy Di thế nào?
    Cáo Ngao thưa: Quỷ Uy Di to như cái cối xe, dài như cái càng xe, mặc áo tía, đội mũ đỏ, tính hay sợ tiếng sấm, tiếng xe, hễ nghe thấy th́ đứng sững, hai tay ôm lấy đầu. Ai trông thấy, th́…rồi làm nên đến nghiệp Bá.
    Hoàn Công vẫn có chí muốn làm Bá, nghe nói hớn hở cười rằng: “Ấy ta trông thấy cũng như thế đấy”.
    Nói đoạn, sửa mũ, mặc áo, ngồi dậy chưa hết một ngày, bệnh đă khỏi tự bao giờ không biết.
    Trần Tử Tuyết
    GIẢI NGHĨA
    Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Quản Trọng: tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng.
    Trọng phụ: trọng tôn Quản Trọng; phụ: cha, gọi như thế có ư tôn Quản Trọng như cha.
    LỜI BÀN
    Hoàn Công thấy quỷ, sinh lo ngờ mà sinh bệnh, sau có người nói thấy quỉ mà làm được nghiệp bá th́ khỏi bệnh ngay. Thế mới biết có quỷ hay không có quỷ, quỷ hại ḿnh hay lợi cho ḿnh, cũng là tự tâm ḿnh tưởng tượng ra cả, rồi yên trí như thế mà thôi. “Đau là tại ḿnh chớ quỷ nào làm?” Câu Cáo Ngao nói thật là xác lư, Cáo Ngao lại khéo biết trước, lấy lẽ thuốc thang làm như ông lang rơ bệnh của người ốm, khiến người ốm để tai nghe, sau lấy chuyện vu vơ đâu đâu mà xử được chuyện mơ hoảng khiến người mới phá được cái ḷng lo ngờ mà hóa nên vui vẻ. Tiếc thay đời bây giờ người mê như Hoàn Công thật lắm, mà người biết giải mê được như Cáo Ngao lại không được mấy người.

    102. MUA NGHĨA
    Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đ̣i nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền nợ thu được có định mua ǵ về không? – Mạnh Thường Quân nói: Ngươi xem trong nhà ta c̣n thiếu thứ ǵ, th́ mua”.
    Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu Thường Quân đều cho cả”. Nói rồi đem văn tự ra đốt sạch.
    Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: Nhà Tướng Công châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không c̣n thiếu ǵ nữa. Chỉ có thiếu một cái “nghĩa” tôi trộm phép v́ tướng công đă mua về.
    Mạnh Thường Quân nghe thấy nói thế, cũng không hỏi ǵ đến tiền nữa.
    Sau Mạnh Thường Quân phải băi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường, Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh v́ tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy”.
    Quốc Sách
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đăi đến vài ngh́n người khách.
    Phùng Huyên: người khách lúc ở nhà Mạnh Thường Quân, muốn ǵ được nấy, nên giúp Thường Quân được nhiều việc, khi Thường Quân bị băi về, cũng nhờ có Phùng Huyên mà được phục chức.
    Tiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất, nay là huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông.

    103. ỨNG ĐỐI GIỎI
    Án Tử sắp sang nước Sở, vua Sở nghe thấy bảo cận thần rằng:
    - Án Tử là một tay ăn nói giỏi nước Tề, nay sắp sang đây, ta muốn làm nhục, có cách ǵ không?
    Cận thần thưa: Đợi bao giờ Án Tử sang, chúng tôi xin trói một người , dẫn đến trước mặt nhà vua.
    - Để làm ǵ?
    - Để giả làm người nước Tề.
    - Cho là phạm tội ǵ?
    - Tội ăn trộm
    Lúc Án Tử đến nơi, vua Sở làm tiệc thiết đăi tử tế. Rượu uống ngà ngà, bỗng thấy hai tên lính điệu một người bị trói vào.
    Vua hỏi: Tên kia tội ǵ mà phải trói thế?
    Lính thưa: Tên ấy là người nước Tề phải tội ăn trộm.
    Vua đưa mắt nh́n Án Tử hỏi rằng:
    - Người nước Tề hay trộm cắp lắm nhỉ?
    Án Tử đứng dậy thưa rằng: Chúng tôi trộm nghe cây quất mọc ở đất Hoài Nam, th́ là quất ngọt, đem sang trồng ở đất Hoài Bắc, th́ hóa quất chua. Cành lá giống nhau mà quả chua, quả ngọt khác nhau là tại làm sao? Tại thủy thổ khác nhau vậy. Nay dân sinh trưởng ở nước Tề th́ không ăn trộm, sang ở nước Sở th́ sinh trộm cắp. Có lẽ cũng tại v́ cái thủy thổ khác nhau nó khiến ra như thế chăng!
    Vua Sở cười nói: Ta muốn nói đùa thành phải chịu nhục. Thế mới hay kẻ cả không nên nói đùa bao giờ.
    Án Tử Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử. Án Tử tức Án Anh, tên tự là B́nh Trọng, người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Hoài Nam, Hoài Bắc: hai đất ở về phía Nam, phía bắc sông Hoài ở vùng Giang Tô, An Huy bây giờ.

    104. HÀ CHÍNH MĂNH Ư HỔ
    Đức Khổng Tử khi sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn, thấy một ngưới đàn bà khóc ở ngoài đồng, nghe thê thảm lắm. Ngài nói rằng:
    “Người đàn bà này xem như trong nhà có trùng tang”.
    Rồi sai thầy Tử Cống đến hỏi. Người đàn bà thưa rằng:
    “Ở đây lắm hổ, bố chồng tôi đă chết v́ hổ, chồng tôi đă chết v́ hổ, bây giờ con tôi lại chết v́ hổ nữa. Thảm lắm ông ạ”!
    Thầy Tử Cống bảo:
    “Thế sao không bỏ chỗ này đi ở chỗ khác”?
    Người đàn bà nói:
    “Tuy vậy nhưng ở đây chính sách quan trên không đến nỗi hà khắc tàn bạo như các nơi khác”.
    Thầy Tử Cống đem câu chuyện thưa lại với Đức Khổng Tử.
    Đức Khổng Tử nói:
    Các ngươi nhớ đấy: Chính sách hà khắc khốc hại hơn là hổ.
    Lễ kư
    GIẢI NGHĨA
    Lễ kư: hay c̣n gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Lễ kư trong Phụ Lục D).
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Tử Cống: học tṛ Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
    LỜI BÀN
    Người đàn bà ở một nơi lắm hổ, hổ ăn thịt mất bố chồng, mất chồng lại mất con, đáng lẽ phải bỏ nơi ấy mà đi nơi khác. Nhưng không là tại làm sao? Tại người đàn bà cho chính sách các nơi khác là hà khắc dữ hơn là hổ. Ôi! Hổ có hại chỉ một số ít người, chớ hà chính hại cả muôn dân; hổ có hại chỉ hại một phương, chớ hà chính hại cả toàn quốc. Hổ hại c̣n có cạm bẫy, cạm trừ bỏ được, chớ hà chính hại, trừ bỏ rất khó ḷng. Thật vậy, kẻ dùng hà chính hại dân đă dữ quá hổ, lại c̣n bao nhiêu thần tử bè cánh, họ a dua phụ họa, phần làm cho hổ có thêm cánh, phần mượn oai hổ đi ăn thịt người. Hà chính một khi trừ bỏ được th́ dân cũng đă điêu tàn và nước cũng đă bao kiệt. Vậy ai là người có chút quyền chính trong tay, mà chẳng nên lấy câu “Hà chính mănh ư hổ” để làm câu cảnh giới thống thiết cho dân được nhờ ư.

    105. HANG NGU CÔNG
    Vua Hoàn Công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một cái hang, thấy có một ông lăo, bèn hỏi rằng:
    -Hang này tên gọi là hang ǵ?
    Ông lăo thưa :
    -Tên là hang Ngu Công
    -Tại làm sao mà đặt tên như thế?
    -Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy.
    -Coi h́nh dáng lăo, không phải người ngu cớ ǵ lại đặt cái tên như thế?
    Để hạ thần xin nói:
    - Nguyên hạ thần có con ḅ cái đẻ được một con. Khi ḅ con đă lớn, hạ thần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với ḅ cái. Một hôm, có một chàng thiếu niên đến lấy lư “ḅ không đẻ được ra ngựa” bèn bắt con ngựa con đem đi. Tôi chịu mất, không căi được. V́ thế xa gần đâu cũng cho tôi là ngu, mới gọi hang tôi ở đây là hang Ngu Công.
    Hoàn Công nói:
    - Lăo thế th́ ngu thật!
    Buổi chiều hôm sau, Hoàn Công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọng nghe.
    Quản Trọng nói:
    -Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, th́ khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy không ngựa của người ta như vậy. Ngu Công mà đành để mất ngựa, chắc biết rơ h́nh pháp ngày nay không ra ǵ. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại.
    Đức Khổng Tử nghe thấy nói:
    -Đệ tử đâu, ghi lấy việc ấy! Hoàn Công là bá quân, Quản Trọng là hiền thần. Tuy đă vào bậc khôn ngoan, mà c̣n tự cho là ngu dại.
    Khổng Tử tập ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học tṛ được ba ngh́n người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Hoàn Công: vua nước Tề, đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Cao Dao: tướng giỏi thời vua Nghiêu vua Thuấn.
    Ngu Công: ông ngu dại.
    Di Ngô: tên của Quản Trọng.
    Quản Trọng: Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng.
    LỜI BÀN
    Ông lăo cam tâm mất ngựa lại chịu cả tiếng “ngu” là ư lăo nghĩ gặp phải thời buổi người trên tham nhũng, kẻ dưới hung nghịch, đành chịu để êm chuyện đi, c̣n hơn dở khôn đi kiện, chẳng những mất ngựa, mà có khi lại mất cả ḅ và bao tiền của, thời giờ vào đấy nữa. Hoàn Công thấy chuyện mà lưu tâm đến, thế là ông vua có bụng với dân. Quản Trọng nghe chuyện mà biết nhận ngay cái lỗi ấy tại mính, thế là cũng là hai bậc minh quân, lương tướng hiểu rơ cái trách nhiệm chăm dân của ḿnh, nên Đức Khổng Tử có lời khen thực là đáng lắm. V́ rằng giữ vận mệnh một dân tộc mà không hiểu thấu ẩn t́nh của dân, th́ tuy có ḷng thương dân, dân vẫn khổ và nước vẫn không yên được.

    106. TRUNG HIẾU LƯỠNG TOÀN
    Đời vua Chiêu Vương nước Kinh, có người Thạch Chử làm quan rất công b́nh chính trực.
    Một hôm, đang đi tuần trong hạt, thấy ở ngoài đường có kẻ giết người. Thạch Chử đuổi bắt, th́ ra chính cha ḿnh, bèn quay xe trở lại. Rồi chạy đến trước sân rồng, nói rằng:
    Kẻ giết người là cha tôi. Bắt cha mà làm tội th́ t́nh không nỡ, v́ cha mà bỏ phép nước th́ lư không xuôi. Làm quan đă không giữ phép th́ phải chịu tội. Vừa nói vừa kề gươm vào cổ, xin vua cho hành h́nh.
    Vua nói:
    Nhà ngươi đuổi mà không bắt được đă là biết giữ phép, c̣n có tội ǵ. Cứ yên tâm làm chức vụ.
    Thạch Chử thưa:
    Làm con không biết ủy khúc thờ cha, không gọi là người con có hiếu, làm tôi không công bằng giữ phép nước, không gọi là bầy tôi trung. Bao dung mà xá tội là ơn của quân thượng; trái phép mà chịu tội là phận của tôi con.
    Nói đoạn cầm gươm tự sát.
    Không giữ phép nước th́ chết, cha phạm tội không nỡ bắt, vua tha tội không chịu nhận. Người Thạch Chử làm quan như thế, thật là người trung hiếu lưỡng toàn.
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: Sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở).
    Thạch Chử: tức Thạch Xa, tướng giỏi của vua Chiêu Vương, người thanh liêm chính trực.
    LỜI BÀN
    Đồng thời bấy giờ có kẻ, v́ thù cha mà quật mả vua lên mà đánh vào xác, thật là người có hiếu nhưng không có trung. Lại có kẻ, v́ phép nước mà làm chứng nói thẳng cha ăn trộm dê thật là người có trung nhưng không có hiếu. Sao bằng Thạch Chử đây, giết cha đă không nỡ, dối vua lại không đành, cam chịu trái phép để cứu cha, thí thân để giữ phép. Thực mới là trọn được cả đôi niềm trung hiếu vậy. Ta cũng nên biết khổ tâm của Thạch Chử có khi là: được vua tha cho mà cứ cẩu thả sống, sống chỉ càng làm to cái hung ác của cha, giết người không tội vạ, kết cục liệu cha có thoát án tử h́nh không. Sống chỉ tăng cái tư t́nh của vua để cho vua khinh nhờn phép nước, biết đâu sau này không gây ra cuộc rối loạn trị an, th́ thà một chết c̣n hơn đối với gia đ́nh đủ làm cho cha hối hận mà tuyệt được mầm ác; đối với tổ quốc đủ làm cho vua tỉnh ngộ mà tự ḿnh giữ phép để trọng tính mệnh dân. Thạch Chử không những trung hiếu mà c̣n là nhân nữa.

    107. MONG LÀM ĐIỀU PHẢI
    Nước Lỗ có người ở một ḿnh một nhà. Bên láng giềng có người đàn bà góa cũng ở một ḿnh một nhà.
    Một đêm, mưa to, gió lớn, nhà người đàn bà đổ, người đàn bà sang xin ngủ nhờ nhà người láng giềng. Người láng giềng đóng cửa không cho vào. Người đàn bà đứng trước cửa sổ nói rằng: “Ngươi sao bất nhân thế! Không cho ta vào ư”?
    Người láng giềng đáp: “Ta nghe đàn ông, đàn bà sáu mươi tuổi trở lên, mới ở chung được, nay người c̣n trẻ mà ta cũng c̣n trẻ cho nên ta không cho người vào ngủ nhờ được”.
    Người đàn bà nói: “Ngươi sao không làm như ông Liễu Hạ Huệ ủ người con gái ngồi vào ḷng mà không tai tiếng ǵ”?
    - “Ông Liễu Hạ Huệ th́ thế được, ta đây thật chưa thể được. Ví ta cho ngươi vào, mà ta không được như ông Liễu Hạ Huệ, th́ thà rằng, ta không cho ngươi vào mà ta cũng giữ không tai tiếng ǵ được như ông Liễu Hạ Huệ. Thế chẳng là ta không làm theo như Liễu Hạ Huệ mà cũng được như Liễu Hạ Huệ ư”?
    Đức Khổng Tử nghe chuyện, nói: “Phải lắm! Kẻ muốn học ông Liễu Hạ Huệ, chưa ai giống được như người nước Lỗ này: mong làm điều rất phải, không bắt chước cách làm, rồi mà làm được, thế mới thật khôn”.
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: Sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Liễu Hạ Huệ (720 TCN- 621 TCN): tên thật là Triển Cầm, tự là Quư, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục C; xem thêm Liễu Hạ Huệ trong Phụ Lục C).

    108. KẺ BẤT CHÍNH
    Nước Sở có người có hai vợ. Vợ cả và vợ lẽ cùng đẹp, cùng xinh.
    Anh láng giềng ghẹo người vợ cả. Người vợ cả giận và mắng thậm tệ. Anh láng giềng lại ghẹo người vợ lẽ, người vợ lẽ bằng ḷng đi lại.
    Không bao lâu, người hai vợ ấy chết. Anh láng giềng muốn tính cuộc vuông tṛn lại dạm hỏi người vợ cả.
    Có kẻ hỏi rằng: “Người vợ cả trước đă mắng anh, người vợ lẽ vẫn có t́nh với anh, sao bây giờ anh lại định lấy người vợ cả?”
    Anh ta đáp: “Lúc người ta c̣n là vợ người, th́ thích kẻ tư t́nh với ḿnh, lúc người ta đă là vợ ḿnh th́ thích kẻ không tư tính với ai. Kẻ trước đă tư t́nh với tôi, th́ rồi ai nó cũng tư t́nh được, thiên hạ ai cũng là chồng nó được. Cho nên bây giờ tôi không lấy nó”.
    Thế mới hay con người bất chính đi làm tôi tớ người ta, dù làm cho người ta bằng ḷng đến đâu, người ta vẫn rẻ rúng khinh bỉ.

    GIẢI NGHĨA
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    LỜI BÀN
    Ở đời những kẻ dễ đổi ḷng như người vợ lẽ nói trong chuyện này là những kẻ bất chính. Đă bất chính thường hay phản trắc, rất nên khinh bỉ. C̣n những kẻ chính trực như người vợ cả nói trong chuyện này, th́ lúc nào cũng thuần thục thẳng băng dù chẳng may gặp sự khó khăn, thiên hạ như có phần không ưa, mà thực trong bụng vẫn kính phục vô cùng. Ta có hiểu rơ cái tâm lư ấy như người lấy vợ đây th́ mới gần được người quân tử mà xa được kẻ tiểu nhân.

    109. NHÂN TRUNG DÀI SỐNG LÂU
    Một hôm vua Vũ Đế nhà Hán nói với các quan rằng:
    Ta xem trong sách tướng có nói : người ta nhân trung dài một tấc th́ sống lâu đến một trăm tuổi.
    Đông Phương Sóc đứng bên, ph́ cười. Các quan hặc là vô phép.
    Đông Phương Sóc cất mũ, tạ rằng:
    “Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hạ thần không dám cười bệ hạ, chỉ cười ông Bành Tổ mặt dài thôi”.
    Vua hỏi: “Sao lại cười ông Bành Tổ?”
    Đông Phương Sóc nói: “Tục truyền ông Bành Tổ sống tám trăm tuổi, nếu quả thực như câu trong sách tướng Bệ hạ vừa nói, th́ nhân trung ông dài tám tấc, mà nhân trung ông dài tám tấc th́ mặt ông dễ dài đến một trượng”.
    Vua Vũ Đế nghe nói, bật cười, tha tội cho.
    Sử Kư
    GIẢI NGHĨA
    Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Kư trong Phụ Lục D, Tư Mă Thiên trong Phụ Lục C).
    Vũ Đế: vua nhà Hán trị v́ bên Tàu (140 TCN - 88 TCN)
    Đông Phương Sóc: bầy tôi vua Vũ Đế nhà Hán là người ăn nói giỏi, tính hay khôi hài. (Xin xem thêm Đông Phương Sóc ở Phụ Lục C).
    Bành tổ: Tên ông lăo đới cổ cho là sống lâu lắm.
    LỜI BÀN
    Vua Vũ Đế nhắc câu trong sách tướng là có ḷng mê tín tướng thuật. Đông Phương Sóc cười, rồi nói như thế, tuy là khôi hài, nhưng thực có ư làm cho phá được sự quá tin của vua. Nhân trung cho có phải là thước đo sự thọ, yểu của người ta, người ta cũng trước hết phải ăn ở cho nhân từ, làm việc cho chăm chỉ, ăn uống có tiết độ và biết quả dục, th́ mới có cơ sống lâu được.

    110. THUỐC BẤT TỬ
    Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng:
    “Vị thuốc này có ăn được không?”
    Người đáp: “Ăn được”.
    Tức th́, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.
    Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.
    Viên quan kêu rằng:
    “Thần đă hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “Ăn được”, nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là “bất tử”, nghĩa là ăn vào th́ không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đă sắp phải chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”
    Vua nghe nói có lư, bèn tha cho viên quan ấy không giết nữa.

    GIẢI NGHĨA
    Chiến quốc: thời đại về cuối đời nhà Chu 475-249 TCN, các nước hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    LỜI BÀN
    Có sinh th́ phải có tử. Không vật nào có sinh mà lại ra ngoài ṿng tử. Kẻ dâng thuốc bất tử, vua Sở có ḷng mê tín, không hiểu thấu cái lẽ đó. Viên quan canh cửa làm ra thế, là có ư lấp cái lối lừa đảo của kẻ nịnh, phá cái bụng mê hoặc của vua, khiến cho vua phải tỉnh ngộ. Lời nói tựa giọng khôi hài, nhưng thật là có lư thú.

  2. #32
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    111. CÁI LẼ SỐNG CHẾT
    Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử: Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho không chết có nên không?
    Dương Tử nói: Có sống th́ phải có chết, lẽ nào mà không chết được?
    - Thế cầu sống lâu có nên không?
    - Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống măi được, yêu thân mà thân c̣n măi được. Vả chăng sống lâu để làm ǵ? Thế t́nh hay dở, xưa cũng như nay; thân thể an nguy xưa cũng như nay; việc đời vui khổ, xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay; cái ǵ cũng đă nghe thấy, đă trông thấy, đă từng trải cả rồi, th́ sống trong khoảng trăm năm cũng đủ lấy làm chán, huống c̣n cầu lấy sống lâu để cho khổ làm ǵ?
    Mạnh Tôn Dương nói: Nếu như thế th́ chóng chết c̣n hơn là sống lâu. Ta nên xông vào gươm giáo, nhẩy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa không?
    Dương Tử nói: Không phải thế. Đă sinh ra đời, th́ lúc sống cứ tự nhiên mặc, muốn làm ǵ th́ làm, cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự nhiên mặc, muốn hóa ra ǵ th́ hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chêt, lúc nào cũng tự nhiên như không, hà tất phải quan tâm sống lâu hay chóng chết làm ǵ?
    Dương Tử
    GIẢI NGHĨA
    Dương Tử: người thời Chiến quốc, tên tự là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự một ḿnh cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi th́ thiên hạ tự nhiên thái b́nh”. Học thuyết ấy rất thịnh hành thời Chiến quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngă”.
    LỜI BÀN
    Người ta ở đời, kẻ th́ mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ chán đời không muốn sống. Như thế đều lầm cả. Sự sống chết không phải tự ḿnh có chủ quyền được, th́ ḿnh đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống chết mà có ích ǵ! Thà rằng: tự lúc sống đến lúc chết, việc ḿnh ḿnh làm, ngoại giả phó mặc ở sự tự nhiên cho gọi là Số, là Mệnh, là Tạo hóa cũng không cần. Thói đời, thường t́nh vẫn tham sống, sợ chết. Nhưng chết, vị tất đă là khổ hẳn. Mà sống, cũng không ai bảo là toàn sướng được! Như xưa có kẻ sống hơn trăm tuổi, ai chẳng cho sống lâu là quí. Thế mà người ấy vẫn thường ca thán rằng: “Sống làm chi cho nhục!”. Sống lâu vô ích cho đời mà chỉ trông nhiều cảnh tang thương th́ có hay ǵ.

    112. NÓI VỀ SỐNG CHẾT
    Người th́ cho sống là sướng, chết là khổ, như thế là phái mến đời. Người lại cho rằng chết là sướng, sống là khổ, như thế là phái chán đời.
    Cứ theo ư ta, th́ ta tưởng ai tuy c̣n sống, thân thể khỏe mạnh, mà ư chí suy đồi, th́ sống cũng như chết; ai thân thể tuy chết, mà chí khí vẫn c̣n ở tâm năo tai mắt người ta, th́ chết cũng như sống. Cho nên bậc quân tử đối với sự sống chết, không bằng ở phần xác có hay không, bằng ở phần hồn c̣n hay mất. Kẻ tiểu nhân th́ không thế: đương lúc c̣n sống, mê muội về tài lợi, nhọc nhằn về bôn tẩu, đến lúc người ta thóa mạ, th́ lại nói rằng:
    “Đă sinh ra làm người, chẳng để được tiếng hay trăm đời, th́ cũng để lại tiếng dở muôn năm”. Than ôi! Kẻ nói như thế th́ biết làm sao được cái lẽ sống chết!
    Khuyết Danh
    LỜI BÀN
    Người ta tuy chia hai phần: xác thịt và linh hồn, nhưng hai phần thật có liên lạc với nhau là một, xác có khỏe hồn mới c̣n; hồn c̣n mạnh xác mới có giá. Vậy ta không bảo khinh hẳn một bên nào, mà chỉ trọng một bên nào được. Nhưng bài này không chủ ư nói về tâm lư hay vệ sinh. Bài này chỉ cốt nói rơ thế nào là sống, thế nào là chết mà thôi. Những kẻ sống không ai biết, chết chẳng ai hay th́ tuy sống cũng là vô ích. C̣n những bậc ích Quốc lợi Dân th́ dẫu chết đi nữa nhưng thiên hạ vẫn c̣n nhớ đến, vẫn c̣n sùng bái th́ cũng kể như là c̣n sống. Ngoài ra c̣n hạng người đê mạt di xú, th́ nói mà làm chi! Nếu ở đởi chẳng để tiếng hay lại được, thà không để tiếng ǵ nữa, c̣n hơn là để tiếng xấu, chỉ làm cái bia cho thế gian chê cười mà thôi.

    113. BIẾT DỞ SỬA NGAY
    Đái Doanh Chi làm quan đại phu nước Tống, nói chuyện với thầy Mạnh Tử rằng:
    “Cứ như cổ chế, th́ ruộng đánh thuế theo phép tỉnh điền, chợ và cửa ải, chỉ xét hỏi không mà thôi. Như thế thực là hay, song ta chưa làm ngay được. Bây giờ ta hăy đánh nhẹ bớt thuế đi, đợi đến sang năm mới băi hẳn, th́ nhà thầy nghĩ thế nào?”
    Thầy Mạnh Tử nói: Nay có người mỗi ngày ăn trộm một con gà của hàng xóm. Có kẻ bảo anh ta:
    “Làm thế không phải là cách của con người lương thiện. -Anh ta đáp: Ông nói phải lắm, nhưng tôi chưa thể chừa ngay được. Xin để chừa dần, từ nay mỗi tháng, tôi ăn trộm một con thôi, đợi đến sang năm tôi sẽ chừa hẳn”. Phỏng nói như thế th́ có nghe được không?
    Phàm làm việc ǵ cũng vậy, chưa biết là phi nghĩa th́ thôi, chớ đă biết là phi nghĩa th́ phải bỏ cho mau cho chóng, sao lại c̣n đợi đến sang năm?
    Mạnh Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    LỜI BÀN
    Phàm nghĩa với lợi không cùng đi được với nhau. Nếu làm nghĩa mà c̣n tính lợi, cứ t́m cách tŕ hoăn măi lại, th́ biết đến bao giờ mới nên? Cho nên việc đă trót làm, biết là dở, có thể sửa lại được, th́ phải sửa ngay. Đừng có nấn ná do dự, mà có khi cái dở chẳng những không sửa được, lại c̣n e mỗi ngày một to thêm măi ra, nhỏ th́ hại việc tu thân, tề gia, lớn th́ hại đến việc trị quốc, b́nh thiên hạ. Câu nói: “Cái ǵ làm được hôm nay, chớ để đến ngày mai”, ta nên ghi nhớ lấy.

    114. TÀI VÀ BẤT TÀI
    Một hôm Trang Tử cùng với học tṛ đi chơi ở trong núi. Thấy một cây to, cành lá rườm rà, có người đốn gỗ chống búa đứng bên, mà không chặt.
    Trang Tử hỏi: “Sao không chặt cây này thế?”
    Người đốn gỗ đáp: “Cây này tuy thế mà gỗ xấu không dùng được việc”.
    Trang Tử nói: “Cây này chỉ v́ không ra ǵ mà sống lâu được măi”.
    Ra khỏi núi, Trang Tử vào chơi nhà một người quen. Chủ nhà vui mừng, bảo người nhà đem chim nhạn làm thịt.
    Người nhà hỏi: “Một con gáy được, một con không gáy được, th́ làm thịt con nào?”
    Chủ bảo: “Làm con không gáy”.
    Hôm sau, học tṛ hỏi Trang Tử rằng:
    “Cái cây ở núi v́ bất tài mà được sống lâu, con nhạn ở nhà chủ v́ bất tài mà phải giết chết. Giá như tiên sinh th́ xử vào địa vị tài hay bất tài?”
    Trang Tử cười, rồi nói: “Ta xử vào trong cái khoảng giữa tài và bất tài. Như vậy, th́ tránh khỏi được tai nạn song chưa phải là kế vẹn toàn. Chỉ những bậc đạo đức cao siêu, không quản khen chê, lúc như rồng, lúc như rắn, không hẳn rơ ra tài hay bất tài, lúc lên, lúc xuống, chỉ cốt lấy đức ḥa làm mực, siêu việt cả muôn vật, tuy là người mà lại khác người… Những bậc như thế, th́ c̣n ǵ lụy đến thân được! C̣n thói đời thường t́nh nào có thế? Hợp với người, th́ có lúc ĺa tan; làm nên việc, th́ có người nghị luận; ngay thẳng th́ bị đè nén; tôn trọng th́ bị chê bai; làm th́ có kẻ phá; giỏi th́ có người ghen; không ra ǵ, th́ thiên hạ lại khinh bỉ… Nhân t́nh như thế th́ làm thế nào được? Thương ôi! Các người nên ghi lấy: chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi”.
    Trang Tử Tuyết
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Tài cũng khổ: quân tử đa nạn, tài liền với tai. Bất tài cũng khổ: khôn sống dại mái, dại để người ăn. Vậy con người ta phải làm thế nào cho ở vào cái khoảng giữa tài và bất tài th́ mới gọi là khôn khéo nghĩa là thông minh thánh trí mà như ngu th́ mới sinh tồn được. Tuy vậy, vẫn chưa bằng người có đạo đức, nghĩa là người chỉ lấy một cái bụng ăn ở theo thiên lương mà ra ngoài ṿng được cái tài, bao bọc được hết cả thiên hạ mà không ǵ lụy đến thân. Thế mới hay: chữ “tâm” kia mới thực là thu liễm được cái tài mà bổ cứu được cái bất tài vậy.

    115. QUÊN CẢ CÁI THÂN
    Vua Ai Công hỏi Đức Khổng Tử:
    - Quả nhân nghe nói có người tính hay quên, lúc dọn nhà, quên mất vợ có thật không?
    Đức Khổng Tử thưa rằng:
    - Có người quên như thế cũng chưa lấy ǵ làm tệ. Có người c̣n tệ hơn nữa, quên cả đến cái thân của ḿnh.
    Vua Ai Công hỏi:
    - Thế nào mà lại đến quên cả cái thân của ḿnh nữa?
    Đức Khổng Tử nói:
    - Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ giàu có cả bốn bể, song làm đến thiên tử, chỉ v́ sao nhăng cơ đồ của tổ tiên, hủy điểm phát của nước nhà, tin dùng kẻ xiểm nịnh, ghét bỏ kẻ trung lương, ngày ngày say đắm sắc dục, săn bắn rượu chè, hoang du vô độ, sau đến nỗi bị ông Thang giết chết mà mất… Thế chẳng phải là có thân mà quên cả thân là ǵ?
    Khổng Tử Tập Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khâu, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học tṛ được ba ngh́n người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Ai Công: vua nước Lỗ.
    Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Kiệt: vua cuối đời nhà Hạ, tàn dân, hại vật đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt ở Phụ Lục C).
    Hạ: một nhà làm vua bên Tàu đến hơn bốn trăm năm (2205-1818 TCN).
    Thang: vua đầu nhà Thương giết vua Kiệt nhà Hạ. (Xin xem thêm Thành Thang ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Dọn nhà không ai dọn vợ. Nhưng thí dụ có kẻ dọn nhà, hoặc quên mất vợ, th́ thiên hạ tất lấy làm lạ lùng và buồn cười lắm. Thế mà những kẻ quên than, rất nhiều và đáng sỉ tiếu, th́ lại không mấy người nghĩ đến. Phàm chưng ai đă có một sự ham mê ǵ, rượu chè, thuốc phiện, trai gái, cờ bạc đến quên cả tính mạng, cửa nhà, xă hội đều là quên thân rất đáng tiếc. Nhất là những bậc thông minh tài trí có quyền thế trong tay, mà quên than, th́ lại đáng tiếc hơn nữa. Nên Đức Khổng Tử kể chuyện vua Kiệt mà có ư cảm hóa Ai Công vậy.

    116. ĐẠI ĐỒNG
    Đường lối chính trị rất cao cả mà thực hành th́ thiên hạ phải là của chung của cả thiên hạ, không một người nào hay một nước nào được nhận thiên hạ làm của riêng ḿnh. Kén chọn người có đức vọng để làm lănh đạo, tuyển cử người có tài năng để ra gánh vác. Giao thiệp đi lại với nhau cho có chữ “tín” lỡ có hiểu lầm nhau phải phân trần ngay... Ăn ở đối đăi với nhau cần phải “ḥa” lỡ có chênh lệch phải sửa đổi ngay. Có thế, tự khắc ai ai cũng đều tôn quư cha mẹ người như cha mẹ ḿnh, ai ai cũng thân yêu con cái người như con cái ḿnh...
    Của ở trên mặt đất hay ở dưới mặt đất, đáng ghét nhất là ngu dại bỏ phí bỏ hoài, không biết tăng gia, không biết khai thác, không biết lợi dụng. Có biết mà làm được, cần phải cùng hưởng, cùng dùng, chớ có vơ cả làm của riêng.
    Đă là người thời chẳng nhiều th́ ít, ai cũng có sức lực và năng lực, đáng ghét nhất là lười biếng, chỉ thích ỷ lại hay thích đài đệ, không chịu dùng sức ḿnh để cung cấp, không chịu đem năng lực để đảm nhiệm công việc chung. Như việc dùng sức lực hay năng lực, cần phải cống hiến cho quần chúng, chớ có làm hay riêng cho bản thân là cá nhân...
    Có thế thời cơ mưu gian trá mới không nẩy ra và trộm cướp tự nhiên tiêu diệt
    Đại khái như thế mới gọi là “ đại đồng”.
    Lễ kư
    GIẢI NGHĨA
    Lễ kư: hay c̣n gọi là Kinh Lễ là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Lễ kư trong Phụ Lục D).
    LỜI BÀN
    Thuyết đại đồng nêu ra tự đời Xuân Thu mấy ngh́n năm về trước nghe cũng đă lấy làm vui sướng, huống chi đến đời chúng ta ngày nay, cái đời tranh sống chết kịch liệt, ta được nghe th́ lấy làm vui sướng và ao ước biết chừng nào! Lư tưởng đại đồng sống chung với nhau đấy tín nghĩa thân ái, người với ta như một, sung sướng hưởng chung, chỉ những ḥa thuận và ḥa b́nh bồng lai và nát bàn thật. Lư tưởng quư báu cao cả ấy có thực hiện được không? Ai ai cũng có chân tâm mà làm thực sự, sao lại không thực hiện được. Khốn nỗi, người sẵn chân tâm mà làm thực sự, có, nhưng rất hiếm; kẻ giả danh giả nghĩa, khéo lợi dụng th́ lại quá nhiều. Vả lại, nhân loại truy nguyên ra th́ trong đầu óc vẫn rớt lại những thú tính, thâm dâm hung tàn. Đa số chỉ có nghĩ lành, nói lành, ước ao lành, cầu người lành, bắt người làm lành, mà chính thân th́ ác. Thậm chí người ta phải nói: “Người là giống rất tàn ác hơn các loài mănh thú”. Người lúc nào cũng làm khổ người, th́ đại đồng bao giờ mới thực hiện được. Than ôi!

    117. CẦU Ở M̀NH HƠN CẦU Ở NGƯỜI
    Ngụy Văn Hầu hỏi Hồ Quyển Tử:
    - Cha hiền có đủ nhờ cậy không?
    Hồ Quyển Tử thưa:
    - Không đủ.
    - Con hiền có đủ nhờ cậy không?
    - Không đủ.
    - Anh hiền có đủ nhờ cậy không?
    - Không đủ.
    - Em hiền có đủ nhờ cậy không?
    - Không đủ.
    - Bầy tôi hiền có đủ nhờ cậy không?
    - Không đủ.
    Văn Hầu đổi sắc mặt, gắt rằng:
    - Quả nhân hỏi nhà ngươi năm điều mà điều nào ngươi cũng cho là không đủ tại cớ làm sao?
    Hồ Quyển Tử nói :
    - Cha hiền không ai hơn vua Nghiêu, mà con là Đan Chu phải bị đuổi. Con hiền không ai hơn vua Thuấn, mà cha là Cổ Tẩu thực ngang ngạnh. Anh hiền không ai hơn vua Thuấn, mà em là Tượng rất ngạo mạn. Em hiền không ai hơn là ông Chu Công mà Quản Thúc bị giết. Bầy tôi hiền không ai hơn ông Thang, ông Vũ mà vua Kiệt, vua Trụ mất nước... Mong người không được như ư, cậy người không được bền lâu. Nhà vua muốn cho nước được b́nh trị, th́ phải cậy ở ḿnh trước, hơn là mong nhờ người.
    Hàn thi ngoại truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n ngoại truyện mà thôi.
    Ngụy Văn Hầu: vua nước Ngụy.
    Hồ Quyển Tử: người nước Ngụy.
    Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    Hiền: người có phẩm hạnh có học thức tài năng.
    Đan Chu: con vua Nghiêu tên là Chu, phong cho ở đất Đan nên gọi là Đan Chu. Vua Nghiêu phải phóng (bỏ) Đan Chu v́ Đan Chu là đứa con bất hiếu.
    Thuấn: tên Đào họ Diệu, nối vua Nghiêu mà trị thiên hạ (nhà Ngu). (Xem thêm Thuấn trong Phụ Lục C).
    Cổ Tẩu: cha vua Thuấn.
    Tượng: em vua Thuấn nhưng khác mẹ, là người ngạo mạn vô lễ.
    Chu Công: tên Đán em của Vũ Vương, phong ở nước Lỗ lúc vua Vũ Vương mất, vua Thành Vương c̣n bé lên ngôi giúp việc nên thiên hạ đại trị.
    Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Quản Thúc: tên là Tiên, anh Chu Công được phong ở đất Quản, về bè dư đảng nhà Ân, phản nhà Chu nên bị Chu Công giết.
    Thang: họ Tự tên Lư, trước là chư hầu vua Kiệt nhà Hạ, nhưng v́ vua Kiệt vô đạo nên mới nổi dậy đánh lấy nước mà lập ra nhà Thương. (Xin xem thêm Thành Thang ở Phụ Lục C).
    : tên là Phát, con vua Văn Vương bầy tôi vua Trụ nhà Thương, nhưng v́ vua Trụ bạo ngược, Vũ Vương đánh lấy nước lên ngôi Thiên tử đặt ra nhà Chu. (Xin xem thêm Chu Vũ Vương ở Phụ Lục C).
    Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt, Trụ ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Cốt ư Văn Hầu nước Ngụy là chỉ muốn hỏi có thể nhờ cậy được bầy tôi không, nhưng lúc đầu có mượn mấy câu hỏi đến cha con, anh em rồi mới dẫn đến vua tôi. Hồ Quyển Tử đáp như thế là rất phải. Cha tuy từ với con, con tuy hiếu với cha, anh tuy yêu em, em tuy kính anh, bầy tôi tuy trung với vua, nhưng mỗi người vị tất đă là hay được đủ mọi vẻ. Nếu ḿnh không cần chịu ở ḿnh, chỉ biết cầu những bậc ấy để đến nỗi thất đức, th́ chẳng những không lợi ǵ mà c̣n hại đến thân ḿnh nữa. Ta mong người, nhưng người ai cũng có thân, không ai bỏ cái thân ḿnh để giúp cho ta; ta cậy người, nhưng người cũng có lúc cùng, không thể suốt đời mà đỡ đần ta được. Vậy ta ở đời, chẳng nên chỉ biết mong cậy vào người. Ta phải biết tự chủ tự lập, chớ có bỏ ḿnh mà cầu người. Câu “Quân tử cầu chư kỷ” trong Luận ngữ và câu “ Aide toi, le Ciel t’aidera” của Âu học, thực đáng làm phương châm cho cách lập chí ở đời vậy.

    118. HOÀ THUẬN VỚI MỌI NGƯỜI
    Lưu Ngưng Chi đang đi giày, có người đến nhận, ông đưa ngay. Sau người ấy t́m thấy giày, đem giày ông trả lại. Ông nhất định không nhận nữa.
    Thẩm Lân Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Ông cười hỏi: “ Giày của bác à?”. Rồi ông đưa ngay. Sau, người láng giềng t́m thấy giày đem giày ông trả lại. Ông nói: “ Không phải của bác à?” Ông cười rồi nhận.
    Việc này tuy nhỏ mọn. Song ở đời, ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi.
    Tô Thức
    GIẢI NGHĨA
    Tô Thức: tức Tô Đông Pha là một nhà đại thi sĩ nước Tàu làm quan đời nhà Tống, văn hay chữ tốt, sách làm kể có hàng vài trăm quyển lưu truyền ở đời. (Xin xem thêm Tô Thức ở Phụ Lục C).
    Lưu Ngưng Chi: người đời Tống (Nam triều) tính khẳng khái, phần gia tài của ḿnh nhường cả cho anh em mà tự thực kỳ lực. Vua triệu ra làm quan không chiu ra chỉ thích ngao du sơn thủy.
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Thẩm Lân Sĩ: người đời Nam Tề, học thức rộng, không chịu ra làm quan, chỉ thích dạy học và trước thuật.
    LỜI BÀN
    Giày của ḿnh, ḿnh đang đi, có người đến nhận mà ḿnh cũng đưa, không thèm căi “của tao của mày” như Ngưng Chi và Lân Sĩ thực ở đời cũng là hiếm có vậy. Kịp khi người ta t́m thấy giày của người ta, đem giày ḿnh lại trả là người ta đă biết lỗi lầm. Nếu ḿnh khăng khăng không chịu nhận, là ḿnh quá ư nghiêm khắc mà làm ngăn trở cái ḷng hối quá của người ta. Sao bằng nhận mới tỏ rơ tấm ḷng bao dung được người, cả lúc người lầm, cả lúc người biết lầm. Như thế mới thực là người đầy ḥa khí để cư xử với quần chúng vậy.

    119. MẤT CUNG
    Vua Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các quan theo hầu cố xin t́m cho được. Vua Cung Vương nói:
    Thôi t́m làm ǵ nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở bắt được cung, đi đâu mà thiệt.
    Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện bảo:
    Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa! Hà tất phải nói : “ Người nước Sở? ” Giá nói: “ người đánh mất cung, lại người nhặt được cung, th́ chẳng hơn ư?”
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    LỜI BÀN
    Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt t́m cung, thế là có ḷng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói một người nước Sở mất cung chịu thiệt, th́ có một người nước Sở được cung có lợi, thế là đă có ḷng muốn lợi cho dân cả một nước. Tuy vậy, Đức Khổng Tử chê là hẹp, là v́ vua Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cơi nước Sở mà làm giới hạn cho cái ḷng nhân ái của ḿnh. Cứ như ngài nói, mời thực rơ cái nghĩa bác ái, tức là cái ḷng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân dị chủng hay ngoại quốc ǵ nữa. Cũng một ư với câu thầy Hạ Tử nhắc lời ngài mà đáp Tư Mă Ngưu lo không có anh em rằng: “Người bốn bể đều là anh em cả”. Nói rộng ra: chỉ có lư vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật ngă nhất thể th́ mới hết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!

    120. MUÔN VẬT MỘT LOÀI
    Người họ Điền nước Tề sắp phải đi xa, làm tiệc để cáo biệt anh em. Khách mời kể có cả ngh́n người. Cỗ bàn đủ thứ sơn hào, hải vị. Lúc ăn đến món chim, món cá, ngưới họ Điền trông thấy, nói rằng: “Trời đăi người hậu thật! Sinh ra thóc lúa, sinh ra chim cá, không thiếu thứ ǵ để con người dùng”. Bao nhiêu khách ăn đồng thanh khen câu nói ấy là phải. Duy có đứa con họ Băo, tuổi mới mười hai, đứng dậy nói rằng:
    Cứ như ư tôi th́ câu nói ấy là không phải. Muôn vật trong trời đất là cùng sinh ra với ta, cùng một loài như ta, không có ǵ là sang hay hèn cả. Sang hèn mà phân biệt chẳng qua là các loại chế lẫn nhau, lớn nuốt nhỏ, khôn đè dại, khỏe lấn yếu mà thôi. Chớ nào có phải trời v́ loài này mà sinh ra loài khác đâu. Người ta có cái ǵ ăn được th́ lấy mà ăn, chớ trời nào lại vị người mà sinh ra thứ nọ thứ kia? Cứ theo cái lư ấy, ruồi muỗi hút máu người, hổ lang ăn thịt người, th́ có nói được trời v́ những giống ấy mà sinh ra người không?”
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Người ta ở trong khoảng trời đất thường hay tự phụ ḿnh làm chủ trương cho cả muôn vật: v́ ḿnh mà muôn vật phải sinh, v́ ḿnh mà cây thóc mọc, mà con lợn béo, mà con tằm nhả tơ, con ong gây mật, cho đến cả mặt trời sáng ban ngày, ngôi sao lóng lành ban đêm. Nhưng xét lại, th́ loài người chẳng qua cũng chỉ là một loài cùng sinh, cùng sống như muôn loài trong trời đất. Loài người sở dĩ hơn vật là chỉ hơn có chút trí khôn mà thôi. Nên như câu nói như đứa bé họ Băo mới thực là cao, rộng, hiểu được cái vạn vật, tịnh sinh ở đời vậy.

  3. #33
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    121. LÚC NÀO ĐƯỢC NGHỈ
    Thầy Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử:
    -Tử nay mệt về học, khốn về đạo, bây giờ muốn nghỉ để thờ vua có nên không?
    Đức Khổng Tử nói:
    -Phàm làm tôi thờ vua, sớm tối kính cẩn, mà cho trọn được chức trách cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
    -Vậy xin nghỉ để thờ song than.
    -Ḷng con hiếu thờ cha mẹ thật vô cùng lại có thể lấy sự hiếu thảo của ḿnh cảm hóa được ḷng người cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
    -Vậy xin nghỉ để vui chơi với vợ con.
    -Đạo làm chồng phải làm gương cho vợ, lại để cho anh em và thiên hạ trông vào mà bắt chước cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
    -Vậy xin nghỉ để chơi với bầu bạn.
    -Nghĩa bầu bạn phải giúp đỡ nhau, hết ḷng hết sức với nhau, cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
    -Vậy xin nghỉ để làm ruộng.
    -Công việc nhà nông phải cấy cày gặt hái hai sương một nắng, chân lấm tay bùn, cũng là việc khó, nghỉ thế nào được!
    -Như thế th́ Tử này không lúc nào được nghỉ ư?
    -Có chứ. Lúc nào ngắm thấy cái huyệt đào nhẵn nhụi, trông thấy cái mồ đắp chắc chắn, ngó thấy người đi đưa cách biệt hẳn ḿnh, ấy lúc bấy giờ mới là lúc nghỉ được đó.
    Thầy Tử Cống nói:
    -Như thế cái chết chẳng là cái hay à! Người quân tử đến bấy giờ được nghỉ; kẻ tiểu nhân đến bấy giờ mới chịu thôi; cái chết thật là hay vậy!
    Gia ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Tử Cống: học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Tử: tên thầy Tử Cống. Theo lễ tục, khi hầu chuyện những người bề trên như cha, như vua, như thầy, th́ phải xưng tên.
    LỜI BÀN
    Học tập một môn học, nghiên cứu một đạo, lư, càng đi càng thấy dài, càng lên càng thấy cao. Lập chí không bền thấy khó mà thôi (nghỉ) th́ chẳng bán đồ nhi phế ngay lập tức.
    Thần hạ đối với quân trưởng, con cái đối với cha mẹ, vợ chồng bầu bạn ăn ở với nhau đều có bổn phận phải làm sao cho đầy đủ không tận tâm tận lực (nghỉ) th́ thiếu bổn phận và rối loạn ngay lập tức.
    Canh nông hay thương mại, thuyền thợ hay quân nhân... ai nấy có một chức nghiệp, chểnh mảng không chu đáo (nghỉ) th́ thiếu lương tâm nhà nghề ngay lập tức.
    Làm cho đầy đủ, phần ấm cho thân, phần ích cho người, tất cả phải lao tâm lao lực. Thế th́ muốn nghỉ sao được. V́ nghỉ là đứng lại th́ muôn sự đ́nh trệ ngay. Người ta hay ở tiến lên cố tiến lên, tiến lên măi măi, tiến lên đến hơi thở cuối cùng, rồi ta trở về cái nhà đại tạo mà nghỉ ngơi yên tĩnh, lại chả hoan hỉ lắm ru!

    122. CÓ CHỊU LO, CHỊU LÀM MỚI SỐNG ĐƯỢC
    Ở đời, chết v́ thuốc độc, muôn người họa mới phải một người, chớ chết v́ ăn không ngồi rồi, th́ thật nhiều. Cái độc "ăn không ngồi rồi” rất thảm rất hại. Nay ta hăy xem một vài sự đáng sợ để thí dụ mà nghe.
    Xe đi trên mặt đất, đi chỗ gập ghềnh, thường được chắc chắn hơn chỗ phẳng phiu.
    Thuyền đi trên mặt nước, đi chỗ ghềnh thác, thường được vững vàng hơn đi giữa ḍng sông. Tại sao vậy? Tại v́, biết là khó khăn mà giữ ǵn th́ được yên, cho là dễ dàng, mà khinh thường th́ phải hỏng (bại vong).
    Người đời thường sống về những khi lo lắng, cần khổ, mà chết về những lúc sung sướng yên nhàn. Lẽ ấy rất rơ, mà người đời không biết sợ, là bởi không chịu xét đến nơi.
    Những lúc thư nhàn, thử nghĩ mà coi. V́ đâu mà chí khí ta phải suy kém? V́ đâu mà công việc ta phải hư hỏng? V́ đâu mà uổng mất một đời rồi cùng nát với cỏ cây? V́ đâu mà hóa ra hôn mê, không biết quay đầu lại, rồi lại đeo thêm cái tiếng xấu về sau? V́ đâu thành chểnh mảng không biết lo xa rồi đến nỗi mắc vào tội vạ? Ấy rút lại mấy điều là chỉ bởi ăn không ngồi rồi mà ra cả. Sự ăn không ngồi rồi quả là cái cửa những điều ác. Cửa ấy người giỏi vào, đến lúc ra th́ dở, người tỉnh vào, đến lúc ra th́ mê, người cương trực vào, đến lúc ra th́ liệt nhược, người thanh khiết vào, đến lúc ra th́ ô uế, sự ăn không ngồi rồi hại thân, hại nhà, hại nước nghĩ chẳng đáng sợ lắm ru!
    Lă Đông Lai
    GIẢI NGHĨA
    Lă Đông Lai: tức Lă Tổ Khiêm, làm quan đời nhà Tống, học rộng biện bác giỏi, cùng với Chu Hạ và Trương Thúc gọi là Tam Hiển, học tṛ xưng là Đông Lai tiên sinh về làm bộ sách tên là Đông Lai tập.
    LỜI BÀN
    Không lo, không làm thực làm hại người ta hơn là thuốc độc. Chẳng nói ǵ, không lo không làm th́ không có cơm ăn áo mặc, tiền tiêu, không giữ được phẩm giá, không làm hết bổn phận. Không lo, không làm, thân thể yếu đi, tâm chí cùn lại, và thường hay sinh ra làm càn, làm bậy, hại đến thân, đến nhà, đến nước. Quả vậy, câu trong bài: “Ăn không ngồi rồi là cái cửa của những điều ác” và bao nhiêu câu như: “Sự ăn nhưng ở rỗi là mẹ đẻ ra các nết xấu. –Cái ch́a khóa không dùng thành gỉ hoen. –Nhàn cư vi bất thiện” cũng cùng có một nghĩa nói đến cái tai họa của sự không lo, không làm cả. Cho nên người ta bất cứ nghèo hèn hay giàu sang, ai cũng phải có lo, có làm mới đáng sống và mới sống được. “Sinh ư ưu cần, tử ư dật lạc”, nghĩa là sống là do ở ưu hoạn cần lao, chết là do ở yên nhàn dật lạc. Câu cổ nhân nói thật không sai chút nào.

    123. CHÍNH DANH
    Vua Cảnh Công nước Tề hỏi Đức Khổng Tử về việc chính sự.
    Đức Khổng Tử thưa rằng: Cội rễ việc chính sự là cốt nhất phải làm cho sáng rơ luân thường đạo lư. Ở chốn triều đ́nh, vua hết đạo làm vua, tôi hết đạo làm tôi; ở trong gia đ́nh, cha hết đạo làm cha, con hết đạo làm con. Vua tôi, cha con ai nấy đều hết đạo của ḿnh, th́ chính sự mới có thể làm hay được.
    Vua Cảnh Công nói: Phải lắm! Câu nói ấy thật là thiết yếu. Mà quả thế thật, nếu vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, th́ cương kỷ rối loạn mà nước phải diệt vong. Thóc gạo tuy có nhiều, liệu có ở yên mà ăn được chăng.
    Luận Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Luận Ngữ: là một sách mà do Khổng Tử và những đệ tử của ḿnh biên soạn. Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Luận Ngữ là một quyển sách trong bốn sách gọi là Tứ Thư. Ngoài Luận Ngữ, Tứ Thư cũng gồm có Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung. Luận Ngữ được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán, và là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi triều đ́nh Trung Hoa Khoa bảng (hay là "Khoa Cử"). (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Luận Ngữ trong Phụ Lục D, Tăng Tử trong Phụ Lục C).
    Tề Cảnh Công: xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Vua Cảnh Công hỏi về chính sự mà Đức Khổng Tử đáp là chính danh là ngài nói đúng ngay vào cái bệnh của vua đối với quốc gia làm mất chủ quyền, đối với gia đ́nh dung túng con cái, mà lại giảng được cái học thuyết chính danh của ngài. Tiếc thay vua Cảnh Công biết là phải mà không liệu cách mau mau thực hành để đến nỗi về sau nước Tề quả có tai vạ, vua th́ bị giết, đất th́ mất về tay người.
    Như nói đến chính sự thời nay, th́ chắc c̣n bao nhiêu sự khó khăn, phiền phức có phải là dễ đâu. Song sự cốt yếu cũng không ra được ngoài câu nói rất giản dị của Đức Khổng phu tử. Ta thử ngẫm mà xem, suốt xưa nay, khắp đông tây có nước nào vua (hoặc người cầm quyền, hay lănh đạo mà gọi tên khác) kém sáng suốt, thần hạ gian nịnh mà nước không nguy vong, có nhà nào cha mẹ bạc ác bất nhân, con cái ngỗ nghịch bất hiếu mà nhà không suy bại không?

    124. NÊN XỬ THẾ NÀO
    Thầy Mạnh Tử hỏi vua Tuyên Vương nước Tề rằng:
    - Giả thử có người bầy tôi nhà vua, đem y thực của vợ con kư thác cho người bạn thân, nhờ trông nom giúp để sang chơi nước Sở có việc; kịp đến lúc về, mới biết bạn để cho vợ con đói rét th́ người ấy nên xử với bạn thế nào?
    Vua nói: Nên tuyệt giao.
    Thầy Mạnh Tử lại hỏi:
    - Giả sử có người làm quan sĩ sư không trông nom nổi được thuộc viên, để cho h́nh ngục sai lầm, công việc phế khoáng, th́ nhà vua nên xử thế nào với viên quan ấy?
    Vua nói: Nên băi đi.
    Thầy Mạnh Tử nhân đấy hỏi luôn câu nữa:
    - Thế thời làm vua một nước mà không sửa sang việc chính sự, việc giáo dục để đến nỗi trong nước không được b́nh trị, th́ trách nhiệm tại ai và nên xử trí thế nào?
    Vua nghe nói ngoảnh ngay sang bên tả, bên hữu, nói lảng sang chuyện khác, có ư vừa chữa thẹn, vừa tránh không trả lời.
    Mạnh Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Tử: người nước Châu, đời Chiến Quốc, tên là Kha, học thuyết của ông cốt ở điều “Nhân nghĩa”, “Tính thiện”, đời sau tôn ông là Á thánh. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    Châu: hay Chu là một nước chư hầu cổ thời Xuân Thu, lănh thổ nằm trong địa giới của nhà Chu.
    Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. (Xin xem thêm Xuân Thu ở Phụ Lục A).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    LỜI BÀN
    Thầy Mạnh Tử đây chỉ v́ việc nước mà khuyên can vua Tuyên Vương nước Tề. Hai đoạn trên câu hỏi của thầy hữu tâm mà câu trả lời của vua vô tâm. Đoạn thứ nhất nói về “t́nh bạn”, kể nghĩa cũ cũng đáng tiếc, song đă nhận lời kư thác của anh em mà ra ḷng phụ bạc, th́ thật là người bạn đáng tuyệt giao. Đoạn thứ nh́ nói về “phép nước”, kể thực buộc vào tội chưa có ǵ là nặng, song làm quan mà đến nổi không trông nom được kẻ dưới để phế khoáng việc công, th́ thật là viên quan không nên dụng.
    C̣n đoạn thứ ba, tuy ông nói qua, mà đă ngụ sẵn cái ư thuế má quá nặng để dân đói rét, h́nh phạt sai lầm để dân oan khổ; làm vua mà đối với dân, với nước như vậy, th́ cái tội to biết chừng nào. Thế mới tiếc thay vua Tề Tuyên Vương gặp được người chính trực cảm ngôn như thế mà lại không chịu rộng hỏi để sửa lỗi của ḿnh, thật là mất một dịp tốt.

    125. CHIẾC THUYỀN ĐỤNG CHIẾC Đ̉
    Một chiếc đ̣ sang sông. Có chiếc thuyền không có người, đâu trôi đến, đâm phải. Người lái đ̣ tuy hẹp bụng đến đâu cũng không lấy làm giận. Giả sử trên chiếc thuyền có người ngồi, th́ người lái đ̣ tất phải phùng mang trợn mắt, tru tréo một lần không nghe tiếng, tất tru tréo đến hai lần, hai lần không nghe tiếng, tất tru tréo đến ba bốn lần, rồi đến buông lời chửi rủa thậm tệ nữa,
    Một việc xảy ra cũng giống nhau, mà như lúc trước không giận, như lúc sau lại giận là tại làm sao?
    - Tại lúc trước chiếc thuyền không có người mà lúc sau chiếc thuyền có người.
    Người ta mà cứ thản nhiên không có chút tư ư ǵ th́ ở đời c̣n có ai hại ḿnh nữa.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).

    126. RẮN DỜI CHỖ Ở
    Trời nắng, ao cạn, hai con rắn muốn rời đi ở chỗ khác.
    Rắn con bảo rắn lớn:
    “Anh đi trước, tôi theo sau, người ta biết là rắn kéo nhau đi t́m chỗ, th́ thế nào cũng t́m cách giết chết. Sao bằng anh để tôi ngậm vào ḿnh anh, c̣n anh th́ cơng tôi mà đi, người ta tất nhiên cho là Rắn Thần, không dám đụng đến”.
    Nói xong, hai con rắng làm y như thế mà đi qua đường cái. Quả nhiên người ta trông thấy ai cũng tránh sợ, bảo nhau là “Rắn Thần”.
    Những kẻ nương tựa nhau, thông đồng với nhau để làm điều gian giảo, lừa dối đời, mê hoặc người, th́ có khác ǵ hai con rắn cơng nhau đây mà giả làm Rắn Thần không?

    LỜI BÀN
    Những quân gian giảo định đánh lừa thiên hạ, khi chỉ có một ḿnh, thiên hạ cũng mắc lừa chán, huống chi là chúng kết bè, kết đảng, đồng tâm bày mưu mà lừa gạt thiên hạ, th́ ai dù khôn ngoan đến đâu dễ đă tránh cho được. Đoàn kết với nhau để làm điều lành, hay cho thiên hạ bao nhiêu, th́ bè đảng với nhau để làm điều ác, nguy cho thiên hạ bấy nhiêu. Vậy ta thấy những điều ǵ lạ tai, lạ mắt, trái hẳn nhân t́nh th́ một là đánh lừa, hai là lợi dụng, ta trước nên suy xét kỹ đă, rồi sau hăy tin theo.

    127. NHƯỜNG THIÊN HẠ
    Vua Nghiêu nhường thiên hạ cho Hứa Do, có nói rằng:
    - Khi mặt trời mặt trăng đă mọc mà cứ cầm đóm đuốc, soi sáng như thế, chẳng cũng khó lắm ru! Khi đang mong mưa, trời đă mưa mà cứ c̣n dội nước tắm tưới như thế, chẳng cũng nhọc lắm ru! Nay có ngài ra đời, đức thịnh tài cao, thiên hạ tự khắc cảm hóa b́nh trị, thế mà tôi c̣n cứ giữ lấy thiên hạ, th́ tôi tự nghĩ lấy làm kém lắm. Xin nhường thiên hạ cho ngài.
    Hứa Do nói:
    - Nhà ngươi trị thiên hạ đă được b́nh trị, mà ta c̣n thay nhà ngươi, như thế chẳng là ta không có cái “thực” làm cho thiên hạ b́nh trị mà ta lại nhận lấy cái “danh” b́nh trị thiên hạ ư? Vả cái “danh” là người khách của cái “thực”, nếu không có thực mà lại đương lấy danh, th́ hóa ra ta làm người khách không có chủ ư? Con chim làm tổ ở rừng chẳng qua chỉ một cành cây, con chuột uống nước ở sông chẳng qua chỉ đến no bụng. Thôi, xin nhà ngươi cứ về mà trị lấy thiên hạ, ta có dùng thiên hạ làm ǵ! Người nhà bếp mà chẳng trông nom việc bếp, th́ người giữ việc tế tự cũng chẳng có thể bỏ đèn hương mà làm thay cho được.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Nghiêu: tên một bậc thánh đế đời nhà Đào Đường. (Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C)
    Hứa Do: một bậc cao sĩ đời thượng cổ, ẩn ở núi Cơ Sơn. (Xin xem thêm Hứa Do ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Ư vua Nghiêu nghĩ thiên hạ là của chung của cả thiên hạ, cho nên vua mới t́m người hiền tài để truyền ngôi, miễn là thiên hạ được b́nh trị là ḿnh được sung sướng.
    Ư Hứa Do nghĩ ḿnh không có tài mà nhận lấy cái tài của người làm của ḿnh th́ không ǵ xấu bằng. Vả ông lại có cái thú vô danh hơn là hữu danh, nên ông lấy việc có thiên hạ làm phiền, chứ không phải là sướng.
    Một bên quên lợi, một bên quên danh đáng quí thay.
    Thời buổi ngày nay giá được những bậc tài giỏi không có ḷng tư, không cậy công, cậy của, không hiếu lợi hiếu danh, th́ lo ǵ thiên hạ chẳng b́nh trị.

    128. RỬA TAI
    Đời thượng cổ có ông Hứa Do là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái Trạch.
    Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
    Sau, vua Ngiêu lại t́m đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chín châu, Hứa Do thấy vậy không muốn nghe chuyện nữa, ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ đang dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do hỏi:
    V́ việc ǵ mà bác phải rửa tai như vậy?
    Hứa Do thuật lại chuyện. Sào Phủ liền g̣ cổ trâu lại mà nói rằng:
    Ta toan cho trâu uống nước ở đây, lại e bẩn cả miệng trâu.
    Nói đoạn, dắt trâu lên quăng sông trên cho trâu uống nước.
    Cao Sĩ Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Cao Sĩ Truyện: sách của Hoàng Phủ Mật đời nhà Tấn soạn kể chuyện những bậc cao sĩ ẩn dật thời xưa bên Tàu.
    Hứa Do: một bậc cao sĩ đời thượng cổ, ẩn ở núi Cơ Sơn. (Xin xem thêm Hứa Do ở Phụ Lục C).
    Chín châu: thời thượng cổ nước Tàu chia ra làm chín châu để cai trị (Duyên, Kư, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương).
    Sào Phủ: bậc cao sĩ đời thượng cổ không ưa thế lợi, ẩn ở trong núi, lấy cây làm tổ nằm ở trên cây cho nên mới gọi là Sào Phủ (Sào nghĩa là tổ).
    Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    LỜI BÀN
    Có cả thiên hạ mà cố nhường cho người là lạ. Người nhường thiên hạ cho, mà không nhận cũng là lạ. Nghe thấy câu chuyện nhường thiên hạ cho làm chuyện bẩn, phải đi rửa tai lại lạ hơn. Không để cho trâu uống cái nước đă rửa tai ấy, sợ bẩn miệng trâu càng lạ quá nữa.
    Ôi! Đọc bài này, tưởng như Hứa Do với Sào Phủ là hai người, nếu chẳng ngông cuồng th́ cũng gàn dở. Nhưng v́ Hứa Do và Sào Phủ hiểu thấu danh lợi nó hăm hại người ta để làm cho mất hết cả liêm sỉ, cho nên hai ông không muốn để cái danh lợi bận đến cái thân, chỉ ưa chuộng sự sống thiên nhiên làm vui sướng, th́ cũng là những bậc cao sĩ thờ một cái chủ nghĩa cao quư vậy. Chả bù cho những phường tham danh, trục lợi thường say mê danh lợi, thậm chí đến chết vẫn chưa tỉnh cho!

    129. CHẾT ĐÓI ĐẦU NÚI
    Khi Vũ Vương đem quân đi đánh vua Trụ, Bá Di, Thúc Tề nghe thấy, ra nắm dây cương ngựa, cản lại và nói rằng:
    -Cha chết chưa chôn mà đă chăm việc chinh chiến, thế có gọi là “hiếu” được không? Bầy tôi giết vua để cướp nước, thế có gọi là “nhân” được không?
    Những người thân cận của Vũ Vương tức giận toan giết Bá Di và Thúc Tề. Thái Công can, nói rằng:
    -Không nên, hai ông là “người nghĩa”. Rồi bảo quân lính ôm hai ông mà đẩy ra.
    Đến khi Vũ Vương đă lấy được thiên hạ của vua Trụ, thiên hạ ai cũng tôn nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề lấy việc mất nước làm xấu hổ, đến nỗi coi thóc gạo cũng là tài sản của nhà Chu, buồn bực không ăn nữa.
    Hai ông lên ẩn ở núi Thú Dương làm bài ca Thái Vi rằng:
    Ta lên núi Tây Sơn,
    Ta hái khóm rau vi.
    Kẻ bạo thay kẻ bạo,
    C̣n biết phải trái ǵ!
    Đời cổ thoáng qua rồi,
    Biết đâu mà quy y.
    Than ôi! Đành chết vậy.
    Thật vận mệnh ta suy.
    (Chính chữ Hán là:
    Đăng bỉ Tây Sơn hề, thái kỳ vi hĩ,
    Dĩ bạo dịch bạo hề, bất tri kỳ phi hĩ.
    Thần nông, Ngu, Hạ, hốt yên một bề, ngă an thích quy hĩ.
    Vua ta tồ hề, mệnh chi suy hĩ)
    Rồi hai ông nhịn ăn, đành chết đói ở trên núi.
    Chu Sử
    GIẢI NGHĨA
    Vũ Vương: xin xem Chu Vũ Vương ở Phụ Lục C.
    Bá Di, Thúc Tề: hai con vua Cô Trúc đời nhà Thương. (Xin xem thêm Bá Di, Thúc Tề ở Phụ Lục C).
    Thái Công: tức Lă Vọng, một hiền thần nhà Chu, trước câu cá ở sông Vỵ, sau gặp vua Văn Vương đón về, vua Vũ Vương dùng làm tướng. (Xin xem thêm Tề Thái Công ở Phụ Lục C).
    Thú Dương: tức cũng là Tây Sơn, tên núi ở về huyện Vĩnh Thanh tỉnh Sơn Tây bây giờ.
    Kẻ bạo thay kẻ bạo: đây nói vua Trụ bạo ngược, vua Vũ thay vua Trụ cũng là bạo ngược.
    Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nỗi mất nước. (Xin xem thêm Kiệt, Trụ ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Xem bài này, hoặc có nói “Bá Di, Thúc Tề nắm ngựa mà can Vũ Vương là phải. Song can, mà người ta không nghe sao không thí thân chết theo với nước, lại đi lên núi Thú Dương hái rau vi. Than ôi! Sau ngày Giáp tư (là ngày vua Trụ mất thiên hạ), Vũ Vương đă đánh được nhà Thương, núi Thú Dương có c̣n là đất của nhà Thương, rau vi ở núi Thú Dương có c̣n là đồ ăn của nhà Thương nữa hay không? Bá Di, Thúc Tề lầm rồi!”. Nói như thế nghe kể cũng có lư, nhưng có phần quá về nghiêm khắc. Ta chỉ biết Bá Di, Thúc Tề thân cô mà dám ngăn cả thiên binh vạn mă, thế là trong ḷng rất can đảm, biết vua Trụ là người không tốt mà cũng giữ một niềm thủy chung, thế là nghĩa, bất sự nhị quân, đáng tôn trọng quư báu biết chừng nào. Vả chăng hăng hái mà liều chết, việc ấy c̣n dễ; chớ chung thủy mà làm điều nghĩa, việc ấy mới là khó. Bá Di, Thúc Tề lên ẩn trên núi mà c̣n để lại bài ca Thái Vi c̣n lưu lại hai tiếng “Hiếu, Nhân” lúc ra can Vũ Vương, thật là những bậc có thể phù thực được cương thường muôn đời khiến cho người đời sau ai xem chuyện, ngu ngoan cũng thành có tri thức, liệt nhược cũng hóa ra cương cường mà có chí tự lập vậy.

    130. ĐỜI NGƯỜI
    Sống bảy mươi năm đă mấy người!
    Trước th́ tuổi trẻ, sau già lăo.
    Th́ giờ quăng giữa được bao lâu?
    Lại c̣n viêm lương cùng phiền năo.
    Hoa quá mùa xuân, hoa kém tươi,
    Trăng quá mùa thu, trăng kém sang.
    Hoa tươi trăng sáng, ta ngâm nga.
    Rượu năm, ba chén say chuếnh choáng.
    Tiền của càng nhiều, càng oán to.
    Quan chức càng cao, càng nhọc xác.
    Quan to tiền nhiều, ḷng những lo,
    Chỉ tổ làm cho đầu chóng bạc.
    Xuân đi, hạ lại, thu sang đông,
    Chóng như thoi đưa, như nước chảy.
    Vừa tiễn buổi chiều, chuông chùa kêu,
    Đă báo rạng đông, gà sáng gáy.
    Ta thử tính xem người nhăn tiền,
    Một năm đă thấy khuất vô số.
    Lô nhô nắm đất cánh đồng hoang,
    Quá nửa không ai người tảo mộ.
    Đường Bá Hổ
    GIẢI NGHĨA
    Đường Bá Hổ: người thời Tống tên là Trường Nhụ ở Đan Lang, chuyên học kinh Dịch, kinh Xuân Thu, trị gia rất có phép, ông có bài ca nhân sinh mà đây dịch ra. (Xin xem thêm Đường Bá Hổ ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Đời người trăm năm sống được sáu bảy mươi năm đă hiếm. Trong khoảng sảu, bảy mươi năm ấy, trừ lúc tuổi chưa khôn, tuổi già hết khỏe, quăng giữa c̣n được vài ba mươi năm có là bao, mà lại c̣n gặp biết bao nhiêu những sự đau đớn phiền năo! Ôi đời người rút lại như thế có mấy lúc là sống cho ra sống.
    Nên chi, hằng năm, hễ gặp được thắng cảnh, lương thời, th́ ra kíp nên vui chơi cho sung sướng thỏa thích, hơi đâu mà cứ mài miệt theo đuổi lấy cái sang giàu giả dối chốc lát để là lụy đến tấm thân.
    Lúc sống th́ người chóng già, khó giữ lâu được cái thân, lúc chết th́ thiên hạ chóng quên khó giữ lâu được mồ mả. Thời giờ mau chóng, thói đời viêm lương, vậy người ta lúc sống, mà tự khổ thân quá, tưởng cũng là khờ vậy! Đối với cái thời gian, không gian vô cùng vô hạn th́ một người và một đời người kể có thấm vào đâu?

  4. #34
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    131. BA ĐIỀU KHÓ HỌC
    Thầy Tăng Tử nói với Đức Khổng Tử:
    Tôi biết thầy có ba điều, tôi học măi mà chưa làm được. Thầy:
    -Thấy người ta có một điều phải mà quên cả trăm điều trái của người ta, thế là thầy dễ tính.
    -Thấy người có điều ǵ phải, th́ vui vẻ như là ḿnh có, thế là thầy không ghen tị.
    -Nghe thấy điều ǵ phải, nhất quyết làm rồi sau mới nói, thế là thầy chịu khó thực hành.
    Thầy là người dễ tính, là người không ghen tị, là người chịu khó, tôi học măi ba điều ấy của thầy mà chưa thể làm được.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Tăng Tử: tức là Tăng Sâm, người thành thực và rất có hiếu, học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử truyền được đạo đức Khổng Tử có thuật sách Hiếu Kinh và sách Đại Học. (Xin xem thêm Tăng Tử ở Phụ Lục C).
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Lấy một điều phải mà quên trăm điều trái, thế là có bụng khoan dung người ta, lại có ư gây cho người làm nên điều phải. Thấy người làm phải cũng vui như chính ḿnh làm điều phải, thế là có ḷng vô ngă muốn giục cho người phải ưa làm điều phải. Thấy điều phải làm ngay rồi mới nói, thế là vụ cái thực làm chớ không chỉ có một cái nói giỏi mà thôi. Ba điều này mới nghe tưởng dễ, mà làm thực khó!. Thói thường, người đời chỉ hay bới xấu nhau, ghen tị nhau, nói giỏi mà làm càn, cho nên mới ghét bỏ nhau, lừa dối nhau, hăm hại nhau, đưa nhau đến tử vong mà không gỡ ra được.

    132. BA ĐIỀU VUI
    Người quân tử có ba điều vui, tuy cho làm vua cả thiên hạ là sướng mà cũng không kể vào trong ba điều vui ấy được.
    Cha mẹ c̣n sống, anh em b́nh yên là một điều vui.
    Ngửa lên không tủi thẹn với trời, cúi xuống không xấu hổ với người là hai điều vui.
    Được những bậc anh tài trong thiên hạ mà dạy dỗ, gây dựng cho ra người là ba điều vui.
    Mạnh Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).

    133. THƯƠNG MẸ GIÀ YẾU
    Hàn Bá Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu. Những khi có lỗi, mẹ thường đánh đ̣n. Một hôm Bá Du phải đ̣n, khóc măi. Mẹ thấy vậy hỏi:
    Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai thế?
    Bá Du thưa:
    Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ c̣n mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đă yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.
    Ôi! Con ăn ở với cha mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở, cũng không dám oán như Bá Du trong chuyện này, không những không oán mẹ, lại c̣n thương mẹ già yếu, t́nh con yêu mẹ thế mới thật là thâm thiết.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Hàn Bá Du: người đất Lương đời nhà Hán.
    Hiếu: đạo ăn ở hết ḷng với cha mẹ.

    134. ÁO ĐƠN MÙA RÉT
    Mẫn Tử Khiêm mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Mẹ kế sinh được hai con trai, chỉ yêu con đẻ mà ghét Tử Khiêm.
    Mùa đông tháng giá, mẹ kế không cho Tử Khiêm mặc áo mền bông, chỉ cho mặc áo mền hoa lau. Một hôm Tử Khiêm đánh xe hầu cha, cha thấy co ro run rẩy liền quở mắng. Tử Khiêm nín không dám nói. Cha giận đánh, ngờ đâu áo rách, bật hoa lau ra.
    Cha thấy thế căm giận người vợ kế bạc đăi con ḿnh liền muốn đuổi đi.
    Tử Khiêm khóc mà van rằng:
    - D́ con mà ở lại th́ chỉ ḿnh con rét; d́ con mà phải đuổi đi, th́ ai may vá cho chúng con, có lẽ ba anh em con đều không có áo, phải chịu rét cả.
    Cha nghe nói cảm động, bèn thôi không đuổi vợ kế nữa. Và từ đó người vợ kế cũng có ḷng thương yêu Tử Khiêm như con đẻ vậy.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.

    135. DÂNG THƯ CỨU CHA
    Thuần Vu Ư làm quan ở Tề Trung phải tội sắp đem hành h́nh, giải đến Trường An.
    Ông không có con trai, chỉ sinh được năm con gái. Lúc bị bắt đi, ông mắng con rằng:
    - Đẻ con chẳng đẻ con trai, những khi nguy cấp thật không có ai đỡ đần công việc.
    Người con gái út tên là Đề Oanh thương khóc theo cha đến Trường An, dâng tờ thư, đại ư nói:
    -…Cha tôi làm quan, cả miền Tề Trung ai cũng ca tụng là thanh liêm công b́nh, nay bất hạnh phải tội, thật là oan quá. Vả chăng tôi trộm nghĩ người đă chết th́ không sống lại được, đă chém th́ không liền lại được. Nên dù có muốn đổi lỗi, theo điều phải trở nên hay, nên tốt, cũng không có cách nào nữa. Tôi xin bán ḿnh làm đứa ở chỗ quan phủ, chuộc tội cho cha để cho cha tôi được tự tân.
    Thư tâu lên vua. Vua xem, tha cho Thuần Vu Ư. Rồi xuống chiếu, trừ các nhục h́nh.
    Sử Kư Hán Vân Đế
    LỜI BÀN
    Bên Phương Đông ta, thường t́nh cha mẹ vẫn quư con trai hơn con gái, v́ kể cứ trong nhà, con trai bao giờ vẫn được việc hơn con gái, nhất là những khi nguy cấp. Nên Thuần Vu ư đây tức ḿnh mà gắt như thế cũng là phải. Nhưng Thuần Vu ư biết đâu là được người con gái như Đề Oanh thực là hết ḷng với cha, cứu cha được ra ngoài ṿng tội h́nh, lại có phần giúp đỡ được cho cả nhân dân trong nước, v́ vua bỏ các nhục h́nh.
    Thế mới hay con gái hay con trai cũng vậy mà thôi, quí hồ là ăn ở hết đạo với cha mẹ, giúp đỡ có ích cho xă hội, th́ cũng là quư giá không bên nào khinh, bên nào trọng. Cổ ngữ có câu:
    “Gái mà chi, trai mà chi,
    Con nào có nghĩa, có ngh́ là hơn”.
    Thực là phải lắm.

    136. NUÔI MẸ BẰNG ĐIỀU PHẢI
    Roăn Thuần lúc nhỏ học ông Tŕnh Di, thường chỉ cốt theo nghề khoa cử.
    Có một khoa thi Tiến sĩ, ông đă vào đến kỳ văn sách, đầu bài ra có câu: “Chu Nguyên Hựu chư thần” nghĩa là giết các bầy tôi đời Nguyên Hựu. Ông bỏ bài không làm, đi ra.
    Khi về, ông thưa với thầy là ông Tŕnh Di rằng: Từ nay con không đi thi Tiến sĩ nữa.
    Ông Tŕnh Di nói: Ngươi c̣n có mẹ già kia mà.
    Roăn Thuần về thưa chuyện thi cử với mẹ và nhắc lại cả câu thầy học bảo.
    Bà mẹ nói:
    - Ta muốn con lấy “điều phải” mà nuôi ta hơn là lấy “bổng lộc không ra ǵ” mà nuôi ta.
    Ông Tŕnh Di nghe thấy câu ấy, khen rằng: “Giỏi thay một người mẹ như thế!”
    Tống Sử Roăn Thuần Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Roăn Thuần: người đời Tống, học giỏi nết tốt, mấy lần vua triệu, từ chối không ra làm quan.
    Tŕnh Di: tức là Tŕnh Y Xuyên một bậc danh nho đời Tống.
    LỜI BÀN
    Như Roăn Thuần đây sở dĩ mà không muốn đi thi, là v́ đầu bài ra trái ngược hẳn với lẽ phải. Bầy tôi đời Nguyên Hựu vốn là người giỏi mà lại bảo đem giết, đầu bài mà ra như thế là có ư muốn cho bọn đi thi đỗ, mà sau này là bọn quan trường, phải bác đời Tống Triết Tôn đi để nâng cái đời bấy giờ là đời Tĩnh Khang lên.
    C̣n như Tŕnh Di ở đây sở dĩ như có ư khuyên bảo nên đi thi, là v́ bụng nghĩ Roăn Thuần c̣n mẹ già phải phụng dưỡng. Thói thường cha mẹ cho con ăn học, ai là người không muốn cho con đi thi lấy đỗ, đă kiếm được chút lương bổng nuôi nấng ḿnh, lại c̣n làm nên chút công danh vẻ vang cho cả nhà cả họ.
    Kịp đến bà mẹ, sở dĩ bảo Roăn Thuần như thế, là bà biết trọng việc nghĩa hơn là danh lợi. Một câu bà dạy con khiến một nhà hiền triết như Tŕnh Di c̣n phải phục, phải khen, th́ há chẳng đáng làm cho những cha mẹ có con thi đỗ, chỉ mong cho con được chút danh phận, bất phân danh phận ấy thật hay giả, hay hay dở, phải suy xét cân nhắc rồi hăy đặt để cho con ru!

    137. SAY BẮN CHẾT TRÂU
    Ngưu Hoằng, Ngưu Bật, hai anh em ở chung với nhau.
    Bật có tính hay chén, mà hễ chén vào th́ thường khi nát rượu.
    Một hôm, anh đi vắng, Bật ở nhà uống say túy lúy, bắn chết mất con trâu của anh.
    Kịp lúc anh về, người vợ đón cửa, xăm xăm bảo rằng:
    - Này này! Chú nó ở nhà bắn chết trâu rồi!
    Hoằng nói: Trâu chết th́ phải cho đem làm thịt.
    Hoằng vào nhà, vừa ngồi yên, vợ lại chạy đến hăm hở nói:
    - Chú nó bắn chết trâu là việc to lắm, có phải việc thường đâu.
    Hoằng nét mặt vẫn ḥa nhă tự nhiên nói:
    - Phải, tôi đă biết rồi mà. – Rồi lấy sách giở xem như không có chuyện ǵ cả.
    Vợ thấy thế nguôi cơn giận, không giám nói ǵ nữa.
    Tùy Kỷ
    GIẢI NGHĨA
    Tùy kỷ: sách chép việc đời nhà Tùy.
    Ngưu Hoằng: người đời nhà Tùy làm quan đến Lại bộ thượng thư, đời bấy giờ xưng là “Đại nhă quân tử”.
    LỜI BÀN
    Anh em một nhà mà ghét bỏ xa lánh nhau phần nhiều chỉ là tại chị em dâu. Không phải chị em dâu có bạc ác ǵ đâu; tại thường t́nh đàn bà, phần th́ suy hơn tính thiệt, tí chút cũng so kè, làm cho chữ “Lợi” đè mất chữ “Nghĩa”, phần th́ đêm ngày tṛ chuyện, bao nhiêu cái hay như muốn vơ cả vào ḿnh, thành ra anh em hóa dở, làm cho chữ “T́nh” lấn được chữ “Thân”. Đám nam nhi ta muốn ăn ở cho trọn vẹn nghĩa anh em, t́nh vợ chồng, tưởng cũng khi khó.
    Ngưu Hoằng đây lấy thái độ ôn ḥa, trầm tĩnh đối với vợ khi vợ đang bực tức căm giận, thật là biết đường lửa cháy cất dầu, cơm sôi bớt lửa mà biết đâu Hoằng lại chả nghiêm trách em mà không ai biết. V́ thế mà vợ mất giận, em được toàn, thế chẳng phải là biết cách ăn ở rất khéo trong chốn gia đ́nh ư!

    138. TÊN TÙ NƯỚC SỞ
    Chung Nghi là người nước Sở bị nước Trịnh bắt nộp sang nước Tấn. Nước Tấn đem bỏ vào tù. Một hôm vua Cảnh Công đ̣i ra, cho cởi trói, gọi đến tận nơi ủy lạo, rồi hỏi:
    - Ông cha nhà ngươi xưa nay làm nghề ǵ?
    Chung Nghi thưa: Ông tôi xưa nay làm nhạc quan.
    - Thế ngươi có biết nhạc không?
    - Cha tôi xưa làm chức ấy, tôi nay vẫn giữ nghiệp nhà, đâu dám sao lăng.
    Cảnh Công đưa cho đàn cầm, bảo gảy một khúc. Chung Nghi gảy thuần tiếng Nam, tức là tiếng nước Sở. Nghe xong Cảnh Công hỏi:
    - Vua Sở là người thế nào?
    Chung Nghi thưa: Tôi trí khôn hèn kém không đủ biết được thịnh đức của quân vương nước tôi.
    Cảnh Công hỏi đi, hỏi lại hai ba lần.
    Sau Chung Nghi phải thưa:
    - Quân vương nước tôi khi làm thái tử, nghe lời quan Sư, quan Bảo dạy dỗ, buổi sáng đến chơi với Anh Tề, buổi chiều đến chơi với Tử Phản. Tôi biết có thế, c̣n việc khác tôi không được rơ.
    Cảnh Công đem chuyện ấy nói cho Phạm Văn Tử nghe. Văn Tử thưa:
    - Tên tù nước Sở như thế thật là một bậc quân tử. Chức nghiệp vẫn giữ nước nhà, là người không quên gốc âm nhạc vẫn giữ tiếng Nam, là người không quên nước; khen vua Sở mà khen tính tự nhiên là vô tư; nói với nhà vua đây, mà gọi hẳn tên hai quan khanh là tôn quân. Không quên gốc là “nhân”, không quên nước là “tín”, vô tư là “trung”, tôn quân là “mẫn”. Nhân th́ xử được việc; tín th́ giữ được việc; trung th́ nên được việc; mẫn th́ xong được việc. Có bốn đức ấy, việc to đến đâu cũng phải xuôi, sao nhà vua không giao trả tên tù cho nước Sở, để hắn về yêu kết việc ḥa hiếu cho nước Tấn, nước Sở với nhau?
    Cảnh Công theo lời Văn Tử, hậu đăi Chung Nghi, đưa về Sở đề cầu việc ḥa hiếu.
    Tả truyện
    GIẢI NGHĨA
    Tả Truyện: sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tả Truyện ở Phụ Lục D).
    Tả Khưu Minh: Quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    LỜI BÀN
    Tên tù này không phải v́ phạm tội thường mà bị tù, nhưng v́ việc nước mà bị nước khác bắt tù. Khi đă bị bắt, người ta tra hỏi mà không rối trí, cứ ung dung đối đáp rất thông hoạt, và có ư vị khiến cho vua tôi nước ngoài nghe thấy phải khen, phải phục, như thế chẳng là v́ một cái trí lự khí khái của ḿnh, mà ḿnh được thoát nạn, nước ḿnh cũng được nhân đấy mà tôn lên ru! Ôi! Một nước được một tên tù giỏi mà kiến trọng, huống chi là có bao nhiêu hiền tào th́ nước được mong cậy biết là bao. “Quốc hữu nhân tắc thực” nghĩa là nước có người giỏi th́ nước mới đầy đủ vững chắc, câu trong sách dạy quả là đúng lắm.

    139. BỆNH QUÊN
    Nước Tống có anh đứng tuổi, tự nhiên mắc phải bệnh quên; buổi sáng lấy ǵ của ai, buổi chiều đă quên; ngày nay cho ai cái ǵ, ngày mai đă quên; ra đường quên cả đi, ở nhà quên cả ngồi, trước có làm những ǵ, bây giờ quên hết, bây giờ đang làm ǵ th́ sau này cũng quên hết.
    Cả nhà anh lấy làm lo. Xem bói không tốt, đi cúng không đỡ, đón thầy thuốc chữa cũng không khỏi.
    Sau có ông đồ người nước Lỗ đến xin đám, nói rằng chữa được.
    Vợ người có bệnh hứa với ông đồ hễ chữa khỏi th́ chia cho nửa cơ nghiệp.
    Ông đồ nói:
    - Bệnh này bói không ra được, cúng không khỏi được, thuốc không chữa được. Nay tôi thử hóa cái tâm tính, biến cái trí lự của anh ta, may mà khỏi chăng.
    Nói đoạn ông đồ liền sai lột áo để cho rét, th́ thấy anh ta xin áo, sai cấm ăn, để cho đói, th́ thấy anh ta xin ăn, sai đem vào chỗ tối, th́ thấy anh ta xin ra chỗ sáng.
    Ông đồ hớn hở bảo con anh ta rằng:
    - Bệnh chữa được, song môn thuốc của tôi bí truyền không thể nói cho ai biết.
    Rồi ông đuổi cả người chung quanh đi, chỉ một ḿnh ông với người có bệnh trong bảy ngày. Chẳng ai biết ông đồ chữa chạy thế nào, mà cái bệnh lâu năm thế nhất đán khỏi phăng.
    Khi anh có bệnh đă tỉnh như thường, anh liền nổi cơn giận, chửi vợ đánh con, cầm giáo đuổi ông đồ.
    Người ta bắt anh hỏi, v́ cớ ǵ mà anh giận như vậy, th́ anh ta nói:
    - Lúc trước ta có bệnh quên, th́ trong ḷng ta thản nhiên khoan khoái, trời đất có hay không, ta cũng chẳng biết. Nay ta hết bệnh, ta nhớ lại cả những việc vài mươi năm về trước, việc c̣n, việc mất, việc được, việc hỏng, việc thương, việc vui, việc yêu, việc ghét, trong ḷng lại muôn mối ngổn ngang bời bời nổi lên vậy. Ta e sau này, những việc c̣n mất, được hỏng, thương, vui, yêu, ghét ấy cứ vướng vít trong ḷng ta măi măi, th́ bấy giờ dù muốn quên cả đi một phút, một lát liệu c̣n có được nữa chăng.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Ông đồ người nước Lỗ: đây ám chỉ Khổng phu tử.
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    LỜI BÀN
    Ḷng người đen trắng, việc đời đảo điên, lắm nỗi ngang tai, trái mắt, làm cho người ta không muốn trông, muốn nghe, thậm chí đến không muốn biết đến, chỉ muốn quên sạch. Bởi thế, Liệt Tử thành ra chán đời, mới đặt ra câu chuyện này để tỏ hết cái nỗi bực tức đau thương trong ḷng. Ôi! Chẳng ǵ cái đời cổ tự Liệt Tử cũng c̣n chất phác, mà đă khắt khe đáng chán như thế, huống chi cái đời bây giờ là cái đời mỗi ngày gian trá quái ác thêm sinh, th́ phỏng c̣n có ǵ làm cho người biết nghĩ đáng yêu, đáng quí nữa:
    Nghĩ thân phù thế mà đau,
    Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!

    140. BỆNH MÊ
    Nước Tần có con nhà học Bàng, lúc nhỏ thông minh khôn ngoan sớm, đến lúc lớn tự nhiên mắc phải bệnh mê; nghe hát cho là khóc, trông trắng hóa ra đen, ngửi thơm cho là thối, ăn ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh dở mà cứ cho là phải, bao nhiêu những cái anh ta nghĩ đến, trời, đất, bốn phương, nước, lửa, nực, rét, không cái ǵ là không đảo ngược sai lầm cả.
    Có người bảo cha anh rằng:
    Bậc quân tử nước Lỗ có lắm thuật, nhiều nghề họa may chữa được chăng, sao không đưa đi mà hỏi.
    Người cha sang nước Lỗ. Khi qua nước Tần gặp ông Lăo Đam, nhân nói chuyện chứng bệnh của con.
    Lăo Đam nói:
    Nhà ngươi há biết được cái bệnh mê của con nhà ngươi đâu. Nay thiên hạ ai ai cũng ù ờ phải trái, mờ mịt, về lợi hại, kẻ mắc phải bệnh mê như con nhà ngươi rất nhiều, chẳng có ai tỉnh cả.
    Vả lại, một ḿnh mê không đủ làm lụy một nhà, một nhà mê không đủ làm lụy một nước, một nước mê không đủ làm lụy cả thiên hạ. Thiên hạ ai ai cũng mê cả, th́ c̣n ai làm lụy ai được nữa.
    Giả sử thiên hạ ai cũng mê như con nhà ngươi mà chỉ nhà ngươi muốn chữa bệnh mê, thế th́ chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất.
    Ở đời những sự thương, vui, lẽ phải trái, những cái mắt trông, tai nghe, mồm nếm, mũi ngửi, ai nấy là người chắc cứ cho như thế mới là phải. Này ngay như lời nói ta đây, vị tất đă khỏi mê, huống chí người quân tử nước Lỗ lại là người quá ư mê , th́ chữa sao được bệnh mê của người.
    Nhà ngươi đem bao nhiêu tiền đi t́m thầy chữa chạy, chẳng bằng nghe ta trở về ngay c̣n hơn.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    Quân tử nước Lỗ: tức là ám chỉ Đức Khổng Tử.
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Lắm thuật nhiều nghề: lắm cách nhiều lối.
    Lăo Đam: tức Lăo Tử, họ Lư tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lăo. (Xin xem thêm Lăo Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Bài ngày cũng như bài trên có ư chê Đức Khổng Tử, bác hẳn cái nếp đă thành ở đời, xưa nay ai nấy, tự lúc biết đời cũng cứ cho như thế mới là phải. Nhưng xét đến nơi, cái nếp ấy chẳng qua cũng chỉ là ước định mà thôi. Ấy là không nói ở đời lắm kẻ lợi dụng cái nếp ấy làm điều giả dối để ngu hoặc người ta, lắm khi đến nỗi chỉ c̣n có danh mà không có thực. Giả sử bây giờ ta thử đổi cái trắng là đen, cái đen là trắng, cái ngọt là đắng, cái đắng là ngọt, nếu lâu ngày quen nếp đi, th́ tất thiên hạ lại cho thế mới là thuận mà chính như bây giờ là nghịch vậy. Ôi! Cái thanh, sắc, khứu, vị rơ rệt như thế, người đời cho ngược hẳn lại được, th́ cái nhân tâm, thế đạo là cái vô h́nh, vô trạng người đời há lại không dám ngược lại hay sao! Này những đời loạn, càn dỡ th́ cho là ṭng quyền, hà hiếp th́ gọi là bênh vực, cái phận trên dưới không phân minh, đến cả cha con cũng b́nh đẳng, cái mối luân thường đă rối loạn, đến cả vợ chồng cũng tự do, mà cứ càng ngày càng đắm đuối măi vào, th́ có gọi đời là tỉnh được hay không! Hay chính là mê, mê quá không biết nữa vậy. Bệnh mê thực làm hại người ta, hầu hết cả một nước, cả loại người như điên, như cuồng, ai chữa cho khỏi, mà ai là kẻ có cách chữa được khỏi. Than ôi biết làm thế nào?

  5. #35
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    141. VỢ LẼ PHẢI Đ̉N
    Xưa có người đi làm quan xa. Vợ ở nhà có ngoại t́nh ít lâu, có tin người chồng sắp về, đứa gian phụ lấy làm lo. Đứa gian phụ bảo rằng:
    Không việc ǵ mà sợ. Tôi đă làm sẵn thứ rượu thuốc để đăi nó đây rồi.
    Hai hôm sau chồng về tới nhà, đang khi chuyện tṛ vui vẻ, người vợ sai người thiếp rót chén rượu dân chồng, bảo cố mời uống. Người thiếp biết rơ chén rượu ấy có thuốc độc, nghĩ trong bụng rằng:
    Ta mà dâng chén rượu này th́ ta là người giết chồng, ta mà nói ra, th́ ta lại làm cho vợ cả ghét ta.
    Bèn giả cách ngă, làm cho chén rượu đổ xuống đất.
    Chống thấy vậy giận lắm, đánh cho người thiếp mấy chục roi.
    Than ôi! Người thiếp này đánh đổ chén rượu, phần th́ làm cho chồng được c̣n sống, phần th́ làm cho vợ cả được khỏi tội. Trung tín đến như thế mà chẳng khỏi đ̣n, mà phải chịu tội.
    Chiến Quốc Sách
    GIẢI NGHĨ
    Chiến Quốc sách: bộ sách này c̣n được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
    Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
    LỜI BÀN
    Thân danh được là bà quan mà có ngoại t́nh là rất xấu xa đă nên tội. Đă ngoại t́nh lại c̣n những toan giết chồng, cái tội càng nặng biết để vào đâu cho hết. Ngoan thay! Thế mà vẫn chẳng ai biết, vẫn ra ngoài ṿng pháp luật.
    Phận hèn tiểu thiếp mà biết giữ cho chồng khỏi chết, vợ cả khỏi tội, hết ḷng ủy khúc, chỉ cốt giữ cho gia đ́nh được êm thấm, khỏi ô uế, không quản ǵ đến thân, cái chí cao như thế, cái đức dày như thế mà lại đến nỗi vừa phải đ̣n, vừa bị người ghét. Than ôi! T́nh cảnh khắt khe, nỗi oan ai tỏ.
    Trong gia đ́nh nhà ông quan này, có một câu chuyện như thế, nhưng trong cả nước, cả thiên hạ, c̣n có bao nhiêu câu chuyện cũng như thế. Xưa nay đă có biết bao nhiêu chí sĩ nhân nhân, trung thần liệt nữ chỉ v́ chân lư, chỉ v́ cứu người mà phải ngục tù oan ức đau khổ đến thân. Khổ nhục, oan ức, những bậc ấy có coi vào đâu, miễn là đạt được mục đích, dù không ai biết, cũng lấy làm vui, có sá kể chi thế thái nhân t́nh của thế tục. Tấm ḷng trung nghĩa tinh thành của những bậc ấy đáng quư, đáng trọng biết là nhường nào.

    142. KHOÉT MẮT
    Lư phu nhân, vợ ông Pḥng Huyền Linh là người tuyệt đẹp và có đức hạnh.
    Ông lúc trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh nặng tưởng đă sắp chết, ông gọi Lư thị đến bảo rằng:
    -Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi c̣n trẻ không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.
    Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ư tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng không chí lấy ai nữa.
    Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh.
    Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy người t́ thiếp nào nữa.
    Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.
    Chính vua Đường Thái Tôn, muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho Hoàng Hậu gọi vào bảo:
    -Theo phép thường các quan to vẫn có t́ thiếp. Quan nhà ta tuổi đă cao, vua muốn ban cho một người mỹ nhân.
    Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng rằng:
    -Nhà ngươi không ghen th́ sống, mà ghen th́ chết. Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén rượu độc, phán rằng : “ Đă vậy th́ phải uống chén thuốc độc này”.
    Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén uống hết ngay.
    Vua thấy thế nói :
    -Ta cũng phải sợ nữa là Huyền Linh
    Lư Phu Nhân Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Pḥng Huyền Linh: danh tướng thời nhà Đường.
    LỜI BÀN
    Tưởng ḿnh sắp chết, thấy vợ trẻ trung, không muốn để cho vợ ở vậy, thế là quá thương yêu vợ, thể tất cho vợ lắm. Sợ chồng tiếc đẹp, chết đi không dứt, mà khoét mắt để tỏ ra thành tật cho yên ḷng chồng, thế là chí t́nh và nhất tâm với chồng lắm.
    May khỏi bệnh, sau lại làm đến Tể tướng, ông chỉ biết có bà mắt khoét, không biết ǵ đến t́ thiếp xinh đẹp, thế là ông muốn giữ cho được trọn vẹn cái t́nh đối với bà. C̣n bà không muốn để cho ông có t́ thiếp, tuy gọi là thói quen thường t́nh, nhưng cũng là v́ chung t́nh với ông, không muốn cùng ai san sẻ mối t́nh nữa. Quư thay! Đôi vợ chồng này, chân t́nh và chí t́nh, suốt đời kính yêu nhau, vợ chỉ biết có chồng, chồng cũng chỉ biết có vợ, chồng một vợ một, không những thoát khỏi cái nạn đa nhân duyên nhiều đường phiền năo mà c̣n gây được cái phúc lâu dài cho thân, cho gia đ́nh, cho con cháu sau nữa.

    143. VỢ XẤU
    Vợ Hứa Doăn là Nguyễn Thị nhan sắc kém lắm. Khi Hứa Doăn mới lấy về, làm lễ cưới xong, trông thấy vợ xấu muốn lập tức bỏ đi thẳng, bèn hỏi Nguyễn Thị rằng:
    -Đàn bà có “ tứ đức”, nàng được mấy đức?
    Nguyễn Thị thưa: “Thiếp đây chỉ kém có “dung” mà thôi”. Rồi liền hỏi:
    -Kẻ sĩ có “bách hạnh”, dám hỏi chàng được mấy hạnh?
    Hứa Doăn đáp: “Ta đây đủ cả bách hạnh”.
    Nguyễn Thị nói:
    Bách hạnh th́ “ đức” là đầu, chàng là người hiếu sắc, không hiếu đức, sao lại bảo là có đủ bách hạnh được?
    Hứa Doăn nghe nói, có sắc thẹn. Tự bây giờ hai vợ chồng bèn yêu mến, kính trọng nhau suốt đời.
    Thế Thuyết
    GIẢI NGHĨA
    Thế Thuyết: pho sách của Lưu Nghĩa Thánh đời nhà Tống soạn nói những chuyện vụn vặt từ đời Hậu Hán đến Đổng Tấn.
    Hứa Doăn: người đời Tống có tài văn chương thi đỗ Tiến sĩ, làm quan chính sách rất hay, ḷng dân cảm phục.
    LỜI BÀN
    Thường t́nh người ta tự xưa đến nay, ai cũng thích đẹp, chuộng đẹp. Xem như câu Đức Khổng Tử nói: “Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dă” th́ đủ rơ. Tuy vậy, cái đẹp có hạn, cái nết vô cùng. Thế gian, những kẻ đem cái đẹp mà thờ người, mua chuộc ḷng người, đến khi cái đẹp kém xuân, thường phải người ta cư xử ra t́nh phụ bạc. Đến như cái nết th́ êm đềm thấm thía, cảm hóa được người, khả dĩ làm cho người ta càng biết, càng thân yêu, càng thân yêu càng kính phục, v́ thế mà thường được trọn vẹn suốt đời.
    Vợ Hứa Doăn đây lanh trí khôn lắm thật. Chỉ một câu nói mà làm cho tan hết được nỗi bất b́nh của chồng và khiến cho chồng suốt đời phải yêu v́ cái duyên lặn vào trong. Thế chẳng phải là “ cái nết đánh chết được cái đẹp” là ǵ.
    Nhưng được những người như vợ Hứa Doăn rất là hiếm vậy. Ở đời kể đă được mấy tay có thể lấy đức mà thay sắc hay thường khi đă xấu người lại thêm xấu cả nết nữa.

    144. GHEN CŨNG PHẢI YÊU
    Hoàn Ôn trước đă có vợ là Nam Khang công chúa, con gái vua Minh Đế nhà Hán. Sau Hoàn Ôn sang đánh dẹp được nước Thục lại lấy con gái của Lư Thế là một nhà quyền quư nước Thục mang về làm thiếp.
    Lúc về nhà, công chúa biết chuyện nổi cơn ghen, liền cầm gươm và đem theo mấy người nàng hầu, xăm xăm đến, chực chém chết Lư Thị. Lúc đến nơi, công chúa thấy Lư Thị ngồi trước cửa sổ chải đầu, tóc rũ chấm đất, dung nhan tư mạo đoan trang tươi đẹp. Lư Thị thong thả vấn tóc, lượm tay, đến trước công chúa thưa rằng:
    -Nước tôi mất, nhà tôi tan, tôi quả vô tâm mà hóa ra đến đây. Được bà chém cho, thật cũng thỏa ḷng tôi mong mỏi.
    Lư Thị, khi nói, mặt trông nghiêm chính ung dung, tiếng nghe êm đềm thấm thía.
    Công chúa thấy vậy, ném gươm xuống đất, ôm lấy nàng mà nói rằng:
    -Này em ơi! Chị đây thấy em c̣n phải yêu, phải thương, huống chi là lăo già nhà ta.
    Rồi tự đây, công chúa rất trọng đăi Lư Thị.
    Thế Thuyết
    GIẢI NGHĨA
    Thế Thuyết: pho sách của Lưu Nghĩa Thánh đời nhà Tống soạn nói những chuyện vụn vặt từ đời Hậu Hán đến Đổng Tấn.
    Hoàn Ôn: người đời nhà Tấn, làm quan đến chức Đại tư mă, uy quyền lừng lẫy thường hay nói câu: “ Tài trai chẳng có thể để tiếng thơm trăm đời cũng nên để tiếng xấu muôn năm” – “Nam tử bất năng lưu phương bách thế, diệc đương di khứu vạn niên”. (Xin xem thêm Hoàn Ôn ở Phụ Lục C).
    Thục: nước ở vào vùng Thành Đô, thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay.
    LỜI BÀN
    Phận hồng nhan số bạc mệnh, đă phải cảnh nước phá, nhà tan, quân cừu địch bắt hiếp về làm tỳ thiếp, mà nào đă yên, lại c̣n nỗi gặp tay vợ cả phũ phàng, xăm xăm đến những chực mổ mề, móc gan, róc xương, lột xác. Đau đớn thay phận đàn bà thật! Thương thay! Lư Thị nào phần thù riêng, nào phần nghĩa công lo phiền uất ức, trăm mối bên ḷng, sống cũng là thừa người yêu ta xấu, th́ thà rằng chết trẻ c̣n hơn. Cho nên câu Lư Thị nói với công chúa khí khái ràn ra ngoài lời nói, tưởng một liều, ba bảy cũng liều cho xong. Nào ngờ, v́ chính câu nói khí khái mà mềm dẻo ấy lại thêm được cái vẻ nghiêm nghị mà khiến cho người đang giận dữ phải dẹp ngay nỗi bất b́nh, đang ghét lại hóa ngay ra chiều thân ái.
    Ta chắc xem câu chuyện này, chẳng những các bà có tính ghen với cây, hờn cùng bóng, thành ra có lượng bao dung rộng răi, mà nam nhi ta, những phường giá áo túi cơm, bội gốc, quên nguồn, cũng phải sinh ḷng khảng khái vậy.

    145. LỜI CON CAN CHA
    Điền Văn là con Điền Anh, ít tuổi mà cực khôn ngoan, thấy cha làm quan hay vụ lợi riêng, một hôm thừa nhàn, hỏi cha:
    -Con đứa con gọi là ǵ?
    Cha nói:
    -Gọi là cháu.
    -Cháu đứa cháu gọi là ǵ?
    -Gọi là chút.
    -Chút đứa chút gọi là ǵ?
    -Ai biết gọi là ǵ được ...
    -Cha làm tướng một nước Tề này đến nay đă trải ba đời vua, giàu có hàng ức vạn mà môn hạ không có một người nào là hiền tài cả. Con nghe nhà quan tướng vơ, tất có quan tướng vơ giỏi, cửa quan tướng văn, tất cả quan tướng văn giỏi. Nay cha áo mặc gấm vóc mà người giỏi trong nước vẫn rách rưới, tôi tớ thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát. Cha quên hết cả việc công ích hiện thời của dân, của nước, chỉ chăm chăm súc tích của cải muốn để dành cho những kẻ sau này không biết gọi nó là ǵ! Con trộm nghĩ như thế th́ thật là quái lạ lắm...
    Sử Kư Mạnh Thường Quân Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Sử Kư trong Phụ Lục D, Tư Mă Thiên trong Phụ Lục C).
    Mạnh Thường Quân: con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Điền tên Văn làm Tướng Quốc nước Tề có tiếng là người hào hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đăi đến vài ngh́n người khách.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Người ta ai là chẳng v́ con v́ cháu mà cố sức làm ăn, mà súc tích tiền của. Cái sự lo cho ḿnh xong đến lo cho con cái cháu chắt họ hàng là cái tôi đi rất có thứ tự tự nhiên. Tuy vậy, ai cũng nên biết có nhà, có họ, nhưng lại c̣n có nước, có xă hội nữa. Cho nên cái sự mưu cho nhà, cho họ cũng có chế hạn để c̣n có tâm, có sức mưu cho người cùng giống, cùng ṇi, cùng ở chung một nước, cùng sống trong một thời với ḿnh. “ Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào” ta lo quá xa mà cứ đem thân làm trâu ngựa giúp cho đến mấy đứa cháu mấy mươi đời về sau này, sao cho bằng ta lo ngay cho bao nhiêu sinh linh mắt ta trông thấy khốn khổ hàng ngày. Để của lại sau này, sâu xuống không biết đến đâu là đáy, mà của ấy thường một hai đời đă hết, so với làm ơn rộng ra ngay hiện thời, ơn ấy đến đâu thấm đến đấy, th́ đằng nào hơn. Câu Điền Văn vặn hỏi cha rồi giảng giải như bài này thực là một bài học hay cho những người có tính cách cá nhân chỉ biết có người máu mủ trong một nhà mà không có độ lượng biết đến những người trong cả làng, cả nước, cả xă hội, nhân loại vậy.

    146. MỘT CÁCH ĐỂ LẠI CHO CON CHÁU
    Bàng Công tính điềm đạm, không mấy khi bước chân tới chốn tỉnh thành. Hai vợ chồng ở nhà làm ăn và thường kính nhau như khách vậy.
    Một hôm Lưu Biểu t́m đến chơi. Bàng Công đang cày dưới ruộng, bỏ cày lên bờ nói chuyện, c̣n vợ con vẫn cứ ở dưới đồng.
    Lưu Biểu thấy thế, hỏi rằng:
    - Sao tiên sinh khổ thân cày cuốc, chẳng chịu ra kiếm chút quan lộc, sau này lấy ǵ để lại cho con cháu?
    Bàng Công nói:
    - Người đời ai cũng lấy “nguy” để lại cho con cháu, duy chỉ tôi là lấy “an” để cho con cháu mà thôi. Cách ấy để lại cho con cháu, tuy khác nhau, nhưng thực th́ đàng nào cũng gọi là để cả.
    Lưu Biểu nghe nói, than thở rồi đi.
    Hậu Hán Thư
    GIẢI NGHĨA
    Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
    Bàng Công: tức là Bàng Đức Công, người hiền ở đất Tương Dương, đời Đông Hán không chịu ra làm quan vào ẩn núi Lộc Môn, hái thuốc và làm ruộng kiếm ăn với vợ con.
    Lưu Biểu: người đất Cao B́nh đời Đông Hán, làm thứ sử ở Kinh Châu có bụng yêu dân, trọng người tài giỏi.

    147. MỘT CÁCH LO XA CHO CON CHÁU
    Sơ Quảng đời nhà Hán, làm quan tri sĩ về, được vua ban cho nhiều vàng lụa.
    Con cháu cụ thấy thế, bèn nhờ cậy những người già cả trong họ đến nói với cụ lập nhiều cơ nghiệp và mua ruộng đất.
    Một hôm, nhân lúc thư nhàn, những người già cả đem câu chuyện làm giàu cho con cháu thưa lại để cụ nghe, th́ cụ nói rằng:
    “Ta tuy già lăo, há lại không nghĩ đến con cháu hay sao. Hiện ta cũng đă có ít ruộng nương, cửa nhà cũ của tiền nhân để lại. Con cháu ta mà chăm chỉ vào đấy th́ cũng đủ ăn đủ mặc bằng người được rồi. Nếu bây giờ, ta lại làm giàu thêm cho chúng để cho thừa thăi dồi dào, th́ là ta chỉ làm cho chúng lười biếng thêm ra thôi. Người giỏi mà sẵn có nhiều của, th́ kém mất chí hay; người ngu mà sẵn có nhiều của th́ càng thêm tội lỗi. Vả chăng của cải mà chứa nhiều th́ chỉ tổ làm cho người ta oán. Ta đă không có ǵ giáo hóa được con cháu ta th́ ta cũng không nên làm cho chúng có nhiều tội lỗi và để thiên hạ ai oán chúng cho thêm phiền.
    Những của cải ta đang có đây là ơn của vua trên hậu đăi người bầy tôi già lăo, ta chỉ muốn cùng cả anh em, bà con, họ hàng, làng nước cùng hưởng chung cái ơn ấy để trọn tuổi trời, chẳng cũng là phải ư?”
    Người trong họ nghe nói thế, ai nấy đều cảm phục.
    Hán Thư Sơ Quảng Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hán thư trong Phụ Lục D).
    Sơ Quảng: Quyển 41 trong Hán thư; xin xem Hán thư trong Phụ Lục D.

    148. THẦY TR̉ DẠY NHAU
    Thường Tung yếu.
    Lăo Tử đến thăm, hỏi rằng:
    - Tôi xem ra tiên sinh mệt nặng. Dám hỏi tiên sinh c̣n có câu ǵ để dạy đệ tử chúng con nữa không?
    Thường Tung nói: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, ngươi đă biết điều ấy chưa?
    Lăo Tử thưa: Qua chỗ cố hương mà xuống xe, có phải nghĩa là không quên nơi quê cha đất tổ không?
    - Ừ, phải đấy. Thế qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, ngươi đă biết điều ấy chưa?
    - Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, có phải là kính những bậc già cả không?
    - Ừ, phải đấy.
    Thường Tung há miệng ra cho Lăo Tử coi và hỏi rằng:
    - Lưỡi ta c̣n không?
    Lăo Tử thưa: C̣n.
    Thường Tung lại há miệng cho Lăo Tử coi nữa và hỏi rằng:
    - Răng ta c̣n không?
    Lăo Tử thưa: Rụng hết cả.
    - Thế ngươi có rơ cái lí do ấy không?
    - Ôi! Lưỡi mà c̣n lại, có phải tại lưỡi mềm không? Răng mà rụng hết, có phải tại răng cứng không?
    - Ừ, phải đấy. Việc đời đại để như thế cả. Ta không c̣n ǵ để nói cùng các ngươi nữa.
    Thuyết Uyển

    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Lăo Tử: tức Lăo Đam, họ Lư tên Nhi, người Xuân Thu có làm sách Đạo đức kinh, tổ đạo Lăo. (Xin xem thêm Lăo Tử ở Phụ Lục C).

    149. LƯỠI VẪN C̉N
    Trương Nghi lúc hàn vi, thường hay hầu rượu tướng nước Sở.
    Một hôm, tướng nước Sở mất ngọc bích, môn hạ ai nấy đều ngờ cho Trương Nghi, và đánh đập Trương Nghi tàn nhẫn. Trương Nghi không phục t́nh. Lúc được tha trở về, vợ thấy thế bảo rằng:
    - Than ôi! Giá chàng học hành biết du thuyết, th́ không đến nỗi nhục nhằn như thế này!
    Trương Nghi há mồm to, hỏi vợ rằng:
    - Nàng thử xem cái lưỡi của ta có c̣n không?
    Vợ cười, nói: Lưỡi vẫn c̣n.
    Trương Nghi bảo: Thế th́ được.
    Rồi sau Trương Nghi quả nhiên thành ra một nhà du thuyết giỏi có tiếng thời bấy giờ.
    Trương Nghi Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Trương Nghi: người nước Ngụy là một nhà du thuyết giỏi thời Chiến Quốc.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    LỜI BÀN
    Phàm người ta thường có bị sỉ nhục, th́ mới phẫn chí. Khi đang phẫn chí mà có ai khích cho một câu, th́ tất phải cố công, gắng sức làm cho rửa được cái nhục và nên công, nên việc mới nghe.
    Trương Nghi đây sở dĩ mà thành được một nhà du thuyết giỏi, tuy là tự tài ḿnh làm nên, nhưng cũng v́ có kẻ làm nhục, lại nhờ có vợ khuyến khích thêm cho nữa. Vậy nên ở đời những kẻ thù nghịch sỉ nhục ḿnh thường có khi lại chính là kẻ giúp cho ḿnh làm nên vậy.

    150. KHÔNG CHỊU NHỤC
    Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ đêm nằm thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới, đeo thanh gươm tự dưng vào tận nhà mắng, rồi nhổ vào mặt.
    Chàng ta giật ḿnh, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, chàng ta vẫn tức, ngồi suốt đêm, lấy làm bực dọc khó chịu lắm.
    Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng:
    - Bác ơi! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đă sáu mươi tuổi, chưa hề phải đứa nào tỏa nhục bao giờ. Thế mà đêm qua phải một đứa nó làm nhục. Tôi định t́m kỳ được đứa ấy để báo thù mới nghe. Nếu tôi t́m thấy nó th́ hay, nếu không t́m thấy, th́ tôi chết mất.
    Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để ŕnh. Ŕnh đă ba ngày mà không thấy đâu, chàng ta về nhà uất lên mà chết.
    Như câu chuyện này mà ta cho là phải th́ chưa chắc đă là phải. Tuy vậy, cứ xem một cái tâm không chịu nhục ở trong chuyện, th́ đă có cái ǵ hơn được thế chưa!
    Lă Thị Xuân Thu
    GIẢI NGHĨA
    Lă Thị Xuân Thu: sách của Lă Bất Vi làm. Lă Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lă Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, th́ thưởng cho ngàn vàng". (Xin xem thêm Lă Bất Vi ở Phụ Lục C).
    Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. (Xin xem thêm Xuân Thu ở Phụ Lục A).
    Chiến Quốc: là tên gọi một giai đoạn lịch sử kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. (Xin xem thêm Chiến quốc ở Phụ Lục A).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Tề Trang công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Tác giả kể chuyện rồi bàn một câu ở dưới như thế cũng là đủ.
    Quả vậy, xem chuyện này, không cho là phải được, là v́ tức ai, chớ tức một người gặp trong lúc chiêm bao mơ ngủ th́ là tức hăo huyền, tức cái không đáng tức.
    Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một điều thật đáng phục là chính thâm ư câu chuyện muốn nâng cao cái ḷng biết nhục, biết lấy liêm sỉ làm trọng. Ôi! Trong khi giấc ngủ mơ màng, bị người ta làm nhục, c̣n không chịu được, th́ trong khi thật tỉnh táo rơ ràng mà bị người ta làm nhục, th́ đáng như thế nào?... Thế mà lạ thay ở đời có lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi, hoặc quen thói tôi đ̣i, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết mọi nỗi nhục nhằn đè nén, không bút nào tả cho xiết được mà vẫn giữ hớn hở như không. Đối với những hạng không biết nhục, Tân Ti Tụ đây thực đáng là một cái gương soi sáng sâu vào đến tâm năo họ vậy.

  6. #36
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    151. CÂU NÓI CỦA NGƯỜI ĐÁNH CÁ
    Vua Văn Công nước Tấn đi săn ham đuổi một con thú mải theo quá chân, thành lạc vào trong cái chầm lớn không biết lối ra.
    Vua gặp một người đánh cá, bèn bảo rằng:
    - Ta là vua đây. Ta lạc đường, nhà nươi chỉ lối cho ta ra rồi ta hậu thưởng.
    Người đánh cá nói: Bầy tôi muốn dâng nhà vua một câu.
    Vua bảo: Cứ đưa ra khỏi chầm đă, rồi muốn nói ǵ th́ hăy nói.
    Khi người đánh cá đưa vua ra khỏi chầm, vua phán rằng:
    - Nào câu ǵ nhà ngươi muốn nói với quả nhân lúc năy th́ nói nghe đi.
    Người đánh cá thưa: Chim hồng chim hộc ở bờ sông bờ biển, chán sông biển mà vào đầm tất mắc phải ḍ bẫy. Thuồng luồng ba ba ở đáy vực sâu, chán vực sâu mà ra chỗ băi nông, thời tất bị phải chài lưới. Nay nhà vua đi săn, sao quá chân vào đến tận đây như thế?
    Vua Văn Công bảo: Người nói phải lắm.
    Đoạn, ngoảnh lại truyền quan hầu ghi tên người đánh cá để sau ban thưởng.
    Người đánh cá nói:
    - Nhà vua bảo ghi tên bầy tôi làm ǵ. Xin nhà vua cứ tôn kính thiên địa, xă tắc, pḥng giữ biên thùy, thương yêu muôn dân, đánh nhẹ thuế má, tự khắc là bầy tôi được hưởng ân huệ của nhà vua rồi. Nếu nhà vua chẳng tôn kính thiên địa, xă tắc chẳng pḥng giữ biên thùy, chẳng chăm công việc, bên ngoài không khéo xử với các nước, bên trong mất cả ḷng muôn dân, để đến nước mất dân khổ, th́ dù bầy tôi có được hậu thưởng, cũng không thể sao giữ mà hưởng một ḿnh được.
    Người đánh cá cố từ, xong rồi lại nói:
    - Xin vua mau mau về nước, tôi đây cũng về chỗ kiếm cá của tôi thôi.
    Tân Tự
    GIẢI NGHĨA
    Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán soạn.
    Văn Công: vua giỏi nước Tấn về đời Xuân Thu.
    Tấn: nước to thời Xuân Thu ở vào tỉnh Sơn Tây ngày nay.
    LỜI BÀN
    Người đánh cá đây là người hiền muốn khuyên vua Văn Công hai điều là: không nên say mê chơi bời săn bắn quá độ mà có khi hại đến tính mạng, hết đạo làm vua cho dân được nhờ và nước khỏi mất.
    C̣n người đánh cá từ chối không nhận thưởng nói cái lẽ như thế cũng là lo xa nghĩ sâu và phải lắm vậy. Quả thế khi tổ chim đă đổ th́ trong c̣n có cái trứng nào lành; nước đă bị phá tan hay xâm chiếm th́ nhà toàn vẹn sao được để ḿnh c̣n ḥng riêng hưởng cuộc yên vui; đời được thái b́nh th́ quư bằng bao nhiên ân thưởng, tâm không phiền lụy th́ sung sường bằng bao nhiêu công danh.

    152. VUA TÔI BÀN VIỆC
    Vũ Hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc, việc ǵ vua bàn cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng.
    Lúc lui chầu, Ngụy Hầu ra dáng hớn hở lắm.
    Ngô Khởi bèn tiến lên nói:
    -Cận thần đă ai đem câu chuyện Sở Trang Vương nói cho nhà vua nghe chưa?
    Vũ Hầu hỏi:
    -Câu chuyện Sở Trang Vương thế nào?
    Ngô khởi thưa:
    -Khi Sở Trang Vương mà bàn việc phải hơn quần thần, th́ lúc lui chầu lo lắm. Có người hỏi: Sao vua lại lo? – Sở Trang Vương nói: Ta làm việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lo. Cổ nhân có câu: “ Các vua chư hầu, ai có thầy giỏi, th́ làm được vương, ai có bạn giỏi th́ làm được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực, th́ c̣n nước, ai bàn việc không c̣n ai bằng ḿnh, th́ mất nước”. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần không ai bằng th́ nước ta có lẽ mất. Bởi thế ta lo...
    Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang Vương th́ lo mà nhà vua th́ mừng.
    Vũ Hầu nghe nói áy náy vái tạ và nói rằng:
    -Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.
    Tử Tuân
    GIẢI NGHĨA
    Ngô Khởi: người nước Vệ thời Chiến quốc trước làm tướng vua nước Ngụy, sau làm tướng vua nước Sở, là một nhà dùng binh giỏi có tiếng.
    Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
    Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
    LỜI BÀN
    Người làm chúa tể một nước tất là người tài giỏi hơn người, sáng công việc hơn người. Tuy vậy, khi đă dùng quần thần, là mong muốn cậy quần thần, c̣n có nhiều khi giúp được ḿnh như người ngoài giúp nước cờ vậy. Nếu mà quần thần không có ai hơn ḿnh cả, th́ là bọn a dua ăn hại c̣n mong cậy ǵ được mà chẳng đáng lo. Nên lời Ngô Khởi nói đây rất là phải. Đă hay rằng người ta ở đời phải cầu ở ḿnh hơn nhờ ở người, nhưng lắm lúc cũng phải có tả phụ hữu bậc mới lo toan được công việc lớn. Những bậc vua chúa cần phải có thầy giỏi, tôi hay là v́ cái lẽ ấy.
    Truyện này cũng giống câu trong “ Quốc Sách” có nói: “Đế giả cùng ở với thầy, vương giả cùng ở với bạn, bá giả cùng ở với bầy tôi, vua vong quốc chỉ cùng ở với hạng đầy tớ”.

    153. KHÓ ĐƯỢC YẾT KIẾN
    Tô Tần sang nước Sở, chầu chực suốt ba ngày mới được yết kiến vua Sở.
    Đến khi được yết kiến, nói xong câu chuyện là xin cáo biệt ngay.
    Vua bảo:
    Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quư như nghe tiếng một bậc cổ nhân. Nay tiên sinh đă không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
    Tô Tần thưa:
    Tôi xem ra bên nước Sở ta đồ ăn đắt hơn ngọc, củi thổi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nhà vua muốn bắt tôi ở lại ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma để thấy trời sao?
    Vua nói:
    Xin mời tiên sinh cứ ở lại. Quả nhân nghe đă hiểu ra rồi.
    Chiến Quốc sách
    GIẢI NGHĨA
    Chiến Quốc sách: bộ sách này c̣n được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
    Tô Tần: Một nhà du thuyết giỏi thới Chiến Quốc đi nói sáu nước đồng minh để kháng cự nước Tần.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    LỜI BÀN
    Lắm người có được chút quyền chức khiến cho người khác phải cầu đến ḿnh th́ tự làm ra khó khăn h́nh như không muốn cùng ai xúc tiếp nữa. Họ làm như thế, tưởng là nâng giá trị ḿnh cho cao lên, có biết đâu lại là làm cho quyền chức ḿnh kém v́ vậy. V́ khi đă làm khó, ít cho người đến gần, tức là lấp đường không cho chân lư, không cho điều khuyết điểm của chức vụ ḿnh đạt được đến ḿnh nữa. Ôi! Như Tô Tần là bậc tài giỏi mà vua Sở làm cho khó yết kiến th́ chỉ có phần thiệt cho vua, chớ hại ǵ cho Tô Tần. Thế mới hay người chúa tể một quốc gia, lănh đạo một dân tộc, cần phải tôn hiền hạ sĩ, trọng dụng nhân tài để đồng tâm hợp tác th́ mới mong thành công được, nếu thông minh tự dụng th́ chỉ hại cho dân cho nước mà thôi.

    154. KHÔNG PHỤC NƯỚC TẦN
    Nước Tần đánh nước Ngụy.
    Vua Ngụy sợ, sai Tân Viên Diễn sang nói với vua Triệu, ư muốn cùng tôn nước Tần lên làm đế để đỡ việc chiến tranh.
    Lỗ Trọng Liên được tin ấy, đến bảo Diễn rằng:
    Nước Tần là nước bỏ hết cả lễ nghĩa, chỉ chăm dùng vơ lực chinh chiến, như thế mà tôn làm đế, th́ thực là không c̣n ra sao nữa. Tần sau này mà thắng thế, có làm được đế, th́ Liên đây đành bước ra biển đông mà chết chứ không chịu làm dân nước Tần.
    Diễn đứng dậy nói rằng:
    Tôi nay mới biết tiên sinh là bậc thiên hạ sĩ. Từ nay tôi không dám nói tôn nước Tần làm đế nữa.
    Chu Thư
    GIẢI NGHĨA
    Chu Thư: hay c̣n gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) th́ hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
    Tần: tên nước mạnh nhất thời Xuân Thu-Chiến Quốc (ở vào tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    Triệu: một nước thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Trực Lệ và Sơn Tây bây giờ.
    Tân Viên Diễn: tướng quân nước Ngụy về thời Chiến Quốc.
    Lỗ Trọng Liên: người nước Tề về thời Chiến Quốc, tính khẳng khái, cao thượng, thích v́ người bài phân, giải nạn, vua Tề phong tước ông không nhận, khi Tần nhất thống, ông ra ẩn ở biển Đông.
    LỜI BÀN
    Khi thấy một nước mạnh hơn nước ḿnh mà ḿnh cần giao hiếu, th́ cũng là thường t́nh, v́ như thế tức là vừa giữ cho ḿnh c̣n lại, vừa được thêm vây cánh nữa. Nhưng ḿnh phải biết khi giao hiếu với nước tàn bạo mà chiều họ tức là như ḿnh muốn xúi giục cho họ càng tàn bạo thêm lên. Điều ấy rất không nên, v́ như thế chẳng những không lợi ǵ cho ḿnh mà lại thường nguy cho ḿnh nữa. Họ đă tàn bạo, tất họ không để ḿnh yên, mà dù cho họ có để ḿnh yên nữa, th́ cái tṛ tàn bạo không bền được lâu, chẳng bao lâu họ đổ th́ ḿnh tất cũng phải đổ theo.
    Lỗ Trọng Liên nói trong bài đây, dù sau có phải tự đem thân ra ẩn biển Đông, thế nhà Tần quả cũng như lời Trọng Liên đă nói, không được bền lâu, chỉ qua hai đời trong ṿng bốn mươi năm là mất.

    155. CẬY NGƯỜI KHÔNG BẰNG CHẮC Ở M̀NH
    Văn Công nước Đằng hỏi thầy Mạnh Tử rằng:
    Nước Đằng ta là một nước nhỏ ở vào khoảng giữa nước Tề và nước Sở là hai nước lớn. Kể phận th́ phải chiểu cả hai nước, nhưng kể sức th́ không thể chiều được cả. Chiều nước Tề chăng? Chiều nước Sở chăng? Ta thực không biết nên nương tựa vào nước nào để cho nước ta được yên ổn, thầy mưu tính hộ cho ta.
    Thầy Mạnh Tử thưa:
    -Phàm việc mà cứ trông cậy vào người th́ không thể chắc được. Chiều Tề th́ Sở giận, chiều Sở th́ Tề giận; mưu ấy chúng tôi không thể nghĩ kịp. Xin nói chỉ có một cách là tự giữ lấy nước, đào hào cho sâu, đắp thành cho cao, cai trị một cách cố kết ḷng dân, cùng dân giữ nước. Hoặc như có biến cố ǵ xảy ra, vua đă liều chết để giữ nước, th́ chắc dân cũng liều chết để giữ nước, không thể bỏ vua. Thế là ta dùng cái ḷng dân để giữ lấy đất nước, tự cường mà lo toan lấy việc nước. C̣n chiều Tề hay chiều Sở th́ tôi không thể quyết được.
    Mạnh Tử
    GIẢI NGHĨA
    Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Đằng: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc tức là huyện Đằng tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.

    156. PHẨM TRẬT ÔNG QUAN, PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
    Phẩm trật ông quan là phẩm trật có một đời, phận có, khắc có. Phẩm giá con người là phẩm giá lưu truyền trăm đời, tự ḿnh không cố gây dựng cho ḿnh, th́ không bao giờ có.
    Sĩ quân tử ta trông thấy cái trời ở ngoài trời, biết rơ cái người ở trong người, hiểu thấu đến cái vật ngoài vật ở đời, nghĩ xa đến cái thân sau thân hiện tại, th́ biết đằng nào ngắn, đằng nào dài, đằng nào c̣n, đằng nào mất, chắc không ham mê cái này mà quên bỏ cái kia.
    Chúc Tử

    157. BÀI TRÂM CỦA NGƯỜI LÀM QUAN
    1. Sĩ, đại phu nên v́ đời ḿnh mà tiếc danh, không nên v́ đời ḿnh mà mua danh.
    Có học thức, chuộng khí tiết, thủ dữ (lấy hay cho) phải cẩn thận, uy nghi phải trang trọng, ấy thế là tiếc danh.
    Tâng bốc lẫn nhau, a dua những kẻ quyền quư, làm ra kiểu cách khác thường, lờ mờ hai mặt, ấy thế là mua danh.
    Người tiếc danh th́ yên lặng mà hay, kẻ mua danh th́ rực rỡ mà dở.
    2. Sĩ, đại phu nên v́ con cháu gây phúc, không nên v́ con cháu cầu phúc.
    Nghiêm giữ phép nhà, chuộng sự tiết kiệm, chất phác, dạy cho chúng biết chữ, cho chúng có nghề, chứa nhiều âm đức, ấy thế là gây phúc.
    Mua nhiều cửa nhà, ruộng đất, giao kết với những người quyền thế, tranh lợi nhỏ mọn với dân, mua công danh cho con cháu, ấy thế là cầu phúc.
    Người gây phúc th́ thanh đạm mà lâu dài, kẻ cầu phúc th́ nồng nàn mà ngắn ngủi.
    3. Sĩ, đại phu nên v́ một nhà mà dùng của, không nên v́ một nhà mà hại của.
    Giúp cho họ hàng, làng nước, tiêu rộng răi về việc học, cứu kẻ khốn cùng, chăm làm việc nghĩa, ấy thế là dùng của.
    Ăn mặc hoang, xướng hát nhiều, yến hội luôn, tụ tập lắm đồ châu báu, ấy thế là hại của.
    Người biết dùng của tuy thiệt mà vẫn có thừa, kẻ không biết dùng của th́ tuy thừa mà vẫn thiếu.
    4. Sĩ, đại phu nên v́ thiên hạ nuôi thân, không nên v́ thiên hạ tiếc thân.
    Bớt thị dục, giảm lo phiền, ít phẫn nộ, tiếc ẩm thực, ấy thế là nuôi thân.
    So kè lợi hại, xa tránh khó nhọc, tham quyền cố vị chỉ chăm chăm việc vợ con, nhà cửa, ấy thế là tiếc thân.
    Người nuôi thân th́ im lặng mà to, kẻ tiếc thân th́ thỏa thê mà nhỏ.
    Trương Động Sơ
    GIẢI NGHĨA
    Trâm: lời nói hay thể văn dùng để khuyên răn người ta.
    LỜI BÀN
    Bồn đoạn bài này dạy người làm quan muốn v́ thân ḿnh, v́ con ḿnh, v́ nhà ḿnh, v́ thiên hạ nên làm thế nào là phải. Mỗi đoạn cân nhắc tách bạch lợi hại, rồi lại bày tỏ tinh tường sự kết quả của cả đôi đường hay dở, thực là xác đáng lắm. Ta tưởng bài trâm này chẳng những riêng cho người làm quan mà ai nấy đă có chút công danh của cải, muốn cho được yên vui sung sướng cũng nên ngầm đọc, hay viết ra mà treo luôn bên ḿnh, mà soi ngắm hắng ngày để cố mà thực hành, tưởng cũng nên lắm.

    158. CƯỜI NGƯỜI TA KHÓC
    Cảnh Công nước Tề đi chơi núi Ngưu Sơn, trèo lên mặt thành, đứng ngắm trông rồi tràn nước mắt vừa khóc vừa nói:
    - Đẹp quá chừng là nước ta! Thật là sầm uất, thịnh vượng! Thế mà nỡ nào một tuổi một già bỏ nước này mà chết đi. Giả sử xưa nay, người ta cứ sống măi, quả nhân quyết không bỏ nước Tề mà đi nơi khác.
    Lă Sử Không, Lương Khưu Cứ thấy vua khóc cũng khóc và nói rằng:
    - Chúng tôi đội ơn vua có cơm rau mà ăn, có ngựa hèn, xe xấu mà cưỡi, cũng c̣n chẳng muốn chết, huống chi là nhà vua.
    Một ḿnh Án Tử đứng bên cạnh cười.
    Cảnh Công gạt nước mắt, ngoảnh lại hỏi Án Tử rằng:
    - Quả nhân hôm nay đi chơi thấy cảnh mà buồn. Không và Cứ đều theo quả nhân mà khóc, một ḿnh nhà ngươi cười là cớ làm sao?
    Án Tử thưa:
    - Nếu người giỏi mà giữ măi được nước này th́ Thái Công, Hoàn Công đă giữ măi. Nếu người mạnh mà giữ được nước này, th́ Linh Công, Trang Công đă giữ măi. Mấy vua ấy mà giữ măi th́ vua nay chắc cũng mặc áo tơi, đội nón lá đứng giữa cánh đống lo việc làm ruộng, có được đâu chỗ này đứng, c̣n rỗi đâu mà lo đến cái chết. Chỉ v́ hết đời này đến đời kia, thay đổi măi mới đến lượt nhà vua mà nhà vua lại than khóc th́ thật là bất nhân. Nay tôi thấy vua bất nhân, lại thấy bầy tôi siểm nịnh nên tôi cười.
    Cảnh Công nghe nói lấy làm thẹn, rót chén rượu tự phạt rồi phạt Không, Cứ mỗi người một chén.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Ngưu Sơn: tên núi ở huyện Lâm Chí, tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    Lă Sử Không, Lương Khưu Cứ: cận thần của Cảnh Công.
    Án Tử: người nước Tề thời Xuân Thu, làm tướng vua Cảnh Công, ông là người kiệm phác, trung thành, giỏi việc chính sự có tiếng thời bấy giờ.
    Thái Công, Hoàn Công, Linh Công, Trang Công: các bậc tiền quân của Cảnh Công.
    Tề Thái Công: xin xem Tề Thái Công ở Phụ Lục C.
    Tề Hoàn Công: xin xem Hoàn Công ở Phụ Lục C.
    Tề Linh Công: xin xem Tề Linh Công ở Phụ Lục C.
    Tề Cảnh Công: xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C.
    Tề Trang Công: xin xem Tề Trang Công ở Phụ Lục C.
    LỜI BÀN
    Tham sinh là cái thói thường người đời. Nhưng cứ mong sống ở đời măi, tiếc đời đến nỗi than thở khóc lóc như Cảnh Công đây cũng là tham quá. Trong vũ trụ, cái ǵ là cái có sinh mà không có diệt. Vậy đời người cũng phải chịu luật chung ấy, bé rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, thấm thoắt có là bao. Lẽ đó mà không hiểu, lại phải chả ngu lắm ư! Nên Án Tử cười Cảnh Công rất là phải lắm. Án Tử bác cả Sử Không và Lương Khưu Cứ lại là phải lắm nữa.
    Thảm thương thay! Xưa nay những nước gặp phải vua ngu và bầy tôi a dua siểm nịnh!

    159. HIẾU TỬ, TRUNG THẦN
    Vương Tôn được bổ làm Thứ sử châu Ích.
    Quan Thứ sử trước ở đây là Vương Dương, lúc đi kinh lược trong hàng châu, qua một con đường núi rất cheo leo, than rằng:
    - Thân ta là thân của cha mẹ ta. Ta nỡ nào xông pha vào những nơi nguy hiểm này. Bèn quay lại, không đi, rồi cáo bệnh về nhà.
    Lúc Vương Tôn đến thay Vương Dương, đi tuần pḥng, cũng phải qua con đường ấy, hỏi nha lại rằng:
    - Có phải con đường này là con đường quan Thứ sử trước sợ không dám đi không?
    Nha lại thưa: Phải.
    Vương Tôn bảo xe cứ đi và nói rằng:
    - Vương Dương trước là người hiếu tử, Vương Tôn đây là người trung thần.
    Hán Thư Vương Tôn Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hán thư: là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hán thư trong Phụ Lục D).
    Vương Tôn: Quyển 46 trong Hán thư; xin xem Hán thư trong Phụ Lục D.
    Thứ sử: chức quan cai trị một châu một quận đời cổ.
    Ích: tên một châu, tức là Tứ Xuyên đời nay.
    Kinh lược: đi xét qua việc trị an trong hạt ḿnh cai trị.
    Nguy hiểm: cheo leo, không được yên ổn vững vàng.
    Cáo bệnh: có bệnh không làm được việc quan xin về nghỉ để chữa.
    Tuần pḥng: đi tuần để pḥng bị sự xảy ra.
    Nha lại: những người theo làm việc tại dinh các quan.
    Hiếu tử: người con ăn ở hết ḷng với cha mẹ.
    Trung thần: bầy tôi hết ḷng đem thân giúp vua, giúp nước.
    LỜI BÀN
    Đối với gia tộc, Hiếu là trọng; đối với quốc gia, Trung là quư. Người ta ở đời, đáng lẽ ai cũng phải cố giữ cho trọn cả Trung lẫn Hiếu. Nhưng khốn nỗi, có lắm cảnh ngộ khiến người ta khó mà giữ cho cả Trung lẫn Hiếu được lưỡng toàn; được Hiếu th́ mất Trung, được Trung th́ mất Hiếu.
    Kể như bài này, Vương Dương v́ gia tộc mà giữ thân cũng là phải, nhưng so với Vương Tôn, th́ Vương Tôn phải hơn. V́ cứ theo cái chủ nghĩa “ở đời thân ta không phải của riêng ta, lúc nhỏ là thân của cha mẹ, lúc lớn là thân của quốc gia, lúc già là thân của thiên hạ, hậu thế trông mong vào đấy” th́ lúc ta đă ra làm việc nước, chính là lúc thân ta thuộc về quốc gia, ta há lại c̣n tiếc mà không làm cho trọn vẹn nghĩa vụ của ta đối với quốc gia hay sao! Đă đem thân phụng sự tổ quốc, th́ tổ quốc phải để trên hết, chính thế cũng là hiếu lắm, v́ cha mẹ ta cũng kỳ vọng cho ta phải thế kia mà.

    160. ĐỌC SÁCH CỔ
    Vua Hoàn Công đọc sách ở nhà trên. Có người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng đọc, bỏ chàng, đục chạy lên thưa vua rằng:
    - Cả dám hỏi nhà vua đọc những câu ǵ thế?
    Hoàn Công nói: Những câu của Thánh nhân.
    - Thánh nhân hiện nay c̣n sống không?
    - Đă chết rồi.
    - Thế th́ những câu nhà vua học chỉ là những tao phách của cổ nhân đấy thôi.
    - À anh thợ! Ta đang đọc sách, sao dám được nghị luận? Hễ nói có lư th́ ta tha, không có lư th́ ta bắt tội.
    Người thợ mộc nói:
    - Tôi đây cứ lấy việc tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng th́ mộng cho vào dễ, nhưng không chặt; để hẹp, th́ mộng cho vào khó, và không ăn. C̣n làm không rộng, không hẹp, vừa vặn đúng mực th́ thật tự tâm tôi liệu mà nẩy ra tay tôi làm, như đă có cái phép nhất định, chớ miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy tôi không có thể dạy được cho con tôi, con tôi cũng không thể học được tôi. Bởi thế tôi năm nay đă bảy mươi tuổi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe.
    Người đời cổ đă chết, th́ cái hay của người đời cổ khó truyền lại được, tưởng cũng đă chết cả rồi. Thế th́ những câu nhà vua học thật chỉ là những tao phách của cổ nhân mà thôi.
    Vua cho người thợ mộc nói là phải.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Hoàn Công: vua giỏi nước Tề thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tề Hoàn Công ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    LỜI BÀN
    Đọc sách cũng như xem người, xem người mà cứ câu nệ h́nh, sắc, danh, thanh th́ không bao giờ biết rơ được “t́nh” người, mà có khi lại phải người ta làm cho ngu nữa. Ta học mà cứ bo bo ở ngôn ngữ, văn tự th́ bao giờ biết hết được ư sách, v́ cái hay nhiều khi miệng không thể nói ra được, bút không thể tả hết được. Ta đọc sách mà tâm ta không lĩnh hội được cái ư ở ngoài câu nói của cổ nhân, th́ ta không thể tu kỷ, không thể tŕ nhân được, chẳng qua chỉ làm cho loạn cái tính của ta mà thôi. Những kẻ hay mượn bă giả của cổ nhân để buông ra những học thuyết dông dài làm ra sách vở để dạy đời, ta tưởng cũng lầm lắm.
    Trong bài này, ư Trang Tử cũng như ư Tuân Tử, muốn phản kháng lại cái lối học của đời bấy giờ, chỉ biết lấy “cổ” làm cốt mà bỏ quên mất cái “kim” chỉ biết cho những thánh nhân như Nghiêu, Thuấn…tự đời nào là phải, chứ không cho người chính thời nay c̣n được địa vị nào nữa. Như thế không khỏi gọi là thiên vậy. Câu nói của người lao công này chính xác và thực tế lắm. Người đi học chỉ chuộng hư văn, không có thực học tưởng cũng thẹn lắm thay!

  7. #37
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    161. MẤT DÊ
    Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con dê, đă sai hết cả người nhà đi t́m, lại sang nói với Dương Chu mượn người nhà cho đi t́m hộ.
    Dương Chu nói: Ôi! Sao có mất một con dê mà cho những bao nhiêu người đi t́m?
    Người láng giềng đáp: V́ đường có lắm “ngă ba”.
    Khi các người đi t́m dê đă về, Dương Chu hỏi:
    - Có t́m thấy dê không?
    Người láng giềng đáp:
    - Không.
    - Sao lại không t́m thấy?
    - Tại đường đă lắm ngă ba, theo các ngă ba đi một chốc lại có nhiều ngă ba khác. Thành không biết đi vào đường nào để t́m thấy dê, phải chịu về không cả.
    Ấy đường cái, chỉ v́ lắm ngă ba mà dê mất không t́m thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ v́ dễ mê muội mà mất cả lương tâm.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị ngă” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Người đi học mà không suy xét cho tinh, cứ cái ǵ cũng tham muốn cả, th́ không bao giờ học cho thực đến nơi đến chốn được! V́ cái tâm con người có một, cái sức hoạt động của người cũng có hạn nên phân tán ra nhiều nơi, dùng sự hoạt động vào nhiều loại, tuy rằng học nhiều biết nhiều thật, nhưng chẳng qua chỉ hời hợt trên mặt, gọi là biết qua loa chút ít thôi. Sao cho bằng chỉ chuyên tâm học về một mặt nào, mà học cho đến cùng kỳ sự học, sự biết mới là chắc chắn sâu xa và có giá trị vậy. Sự học cũng như nhiều sự khác quí hồ tinh bất quí hồ đa.

    162. THỰC HỌC
    Hết thảy mọi việc, việc ǵ cũng có t́nh h́nh thực sự. Làm th́ làm thực sự, chớ vụ hư danh.
    Hết thảy câu nói, câu ǵ cũng có điểm mầu nhiệm. Nói th́ nói cho ra nói, chớ có vọng ngôn.
    Hết thảy mọi vật, mỗi vật có một lư rất phải. Nếu không hiểu rơ lư ấy, th́ nhận xét dễ sai lầm mà thành mê muội.
    Hết thảy mọi người, mỗi người, ta có một cách để cư xử đối phó, nếu không biết xử th́ dễ sinh ra bất ḥa, rồi chán ghét nhau.
    Người ta đi học cần cái ǵ, chỉ cần học làm cho có sự thật, học nói cho khỏi vọng ngôn, học biết mọi vật cho tinh, học xử với mọi người cho phải…Học chỉ học thế thôi. Không chỗ nào không phải là chỗ học, không lúc nào không phải là lúc học, không tâm niệm nào không phải là tâm niệm để học. Cố học cho được hiểu trọn vẹn, chớ hiểu dở dang, cố học cho kỳ được, học cho đến nơi đến chốn, chớ có tự măn tự túc. Thế mới đáng gọi là người học giả.
    Khuyết Danh
    LỜI BÀN
    Thực học là lối học thực tế, học cho mở mang trí thức, học cho dầy dặn năng lực, để thành tài để ra người, để làm người hữu dụng: Nhỏ th́ hữu dụng cho xă hội, to th́ hữu dụng cho quốc gia, cho thiên hạ.
    Thực học trái người với lối học hư văn là lối tục học, phù hoa khinh bạc, ḷe đời, nịnh đời, chỉ tổ tự hại và hại tha, tuyệt không có ǵ là hữu dụng cả. Thế cho nên người đi học th́ nhiều, người hữu dụng th́ ít; đời mới than phiền: “hiếm nhân tài!”.

    163. ĐÂY MỚI THẬT LÀ THẦY
    Từ Tuân Minh, người ở Hoa Âm, thân thể to lớn, mồ côi từ thuở nhỏ, tính hiếu học, mười bảy tuổi theo Mao Linh Ḥa sang học Vương Thông ở Sơn Đông. Học một năm th́ từ biệt. Rồi sang Yên, Triệu lại học ông Trương Ngô Quư. Học tṛ ông Ngô Quư rất đông. Tuân Minh dụng tâm học vài tháng sau nói chuyện riêng với bạn học rằng:
    - Thầy ta đây danh tiếng tuy lẫy lừng, song nghĩa lư không được quán triệt. Phàm những câu ngài giảng thuyết, phần nhiều nghe chẳng được thỏa tâm ta. Ta muốn t́m thầy khác.
    Rồi bèn cùng Điền Mănh Lược sang Phạm Dương thụ nghiệp ông Tôn Măi Đức. Nhưng học vừa được một năm, lại muốn bỏ đi, Mănh Lược bảo Tuân Minh rằng:
    - Anh tuổi c̣n trẻ, theo thầy học hành, chẳng chịu chuyên học một thầy, cứ nay thầy này, mai thầy khác, nay đến t́m, mai bỏ đi, ngh́n dặm xa xôi, sách vở mang cắp, học hành như vậy, sợ không thành được.
    Tuân Minh nói: Ta nay mới biết chỗ ở của ông thầy đích thật là ông thầy.
    Mănh Lược hỏi: Ở đâu?
    Tuân Minh chỉ vào “tâm” nói: Đây, chính ở chỗ này.
    Rồi tự bấy giờ Tuân Minh học lấy một ḿnh, hết sức suy nghĩ, sáu năm không ra khỏi nhà. Khi mỏi mệt thường đàn địch để di dưỡng tính t́nh. Sau thành một bậc đại nho.
    Ngụy Thư Từ Tuân Minh Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Từ Tuân Minh: một bậc đại nho đời Hậu Ngụy.
    Mao Linh Ḥa, Vương Thông, Trương Ngô Quư, Điền Mănh Lược, Tôn Măi Đức: cũng là mấy bực đại nho thời bấy giờ.
    Yên: một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
    Triệu: tên một nước lớn thời Chiến Quốc, ở vào phía nam tỉnh Trực Lệ, phía bắc Tỉnh Sơn Tây bây giờ.
    LỜI BÀN
    Học cần phải có thầy, cần phải có sách, đó là lẽ thường, ai đi học cũng khó vượt được hai điểm ấy. Song khi học đă cao, nhất là về mặt tâm học, bảo muốn t́m cho thực có thấy giỏi để thụ nghiệp, không phải là dễ. Bấy giờ tất nhiên phải như Từ Tuân Minh đây, lấy “tâm” làm thầy là hơn cả. V́ cội rễ muôn ngh́n điều phải, điều lành đều do ở tâm. Đem tâm chính trực trị tâm gian tà, đem tâm trung hậu trị tâm bạc ác, đem tâm ôn hoà trị tâm táo bạo, đem tâm cần lao trị tâm lười biếng...v.v.
    Học thế nào cho tâm được thư thái, tâm được yên thỏa, tâm được quang minh như gương sáng trong, như nước im lặng, ngoại vật lại chẳng loạn được tâm, ngoại vật đi chẳng lưu lại ở tâm thế mới gọi là có tâm học vậy.

    164. BỎ QUÊN CON SINH
    Họ Công Sách sắp tế. Trong các lễ vật bỏ quên không đặt con sinh. Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện nói rằng:
    Trong hai năm nữa, họ Công Sách thế nào cũng mất quan.
    Năm sau, họ Công Sách quả nhiên mất quan thật.
    Môn nhân hỏi rằng:
    Trước họ Công Sách sắp tế bỏ quên con sinh mà thầy nói trong hai năm nữa th́ mất quan, nay sự quả nhiên. Dám hỏi v́ lẽ ǵ mà thầy biết trước như vậy?
    Đức Khổng Tử nói:
    Việc tế là việc người con có hiếu tỏ hết ḷng thương nhớ cha mẹ mà lúc sắp tế, bỏ quên con sinh th́ các công việc khác bỏ quên, bỏ sót chắc nhiều lắm. Như thế mà không mất quan th́ không có lư.
    Gia Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Công Sách: học tṛ một ông quan đời Xuân Thu.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Việc tế lễ là việc rất thận trọng, tức là việc giao tế thần minh. Chỉ có người tận tâm và tận thành th́ mới cảm cách được, con sinh là lễ vất rất thiết yếu, mà đến lúc tế, lại bỏ quên cả con sinh th́ sự sơ suất không phải là nhỏ vậy. Người như thế không thành tâm, công việc như thế là công việc không chu đáo. Xét một sự mà suy ra muôn sự. Đức Khổng Tử suy xét mà biết, há có phải là tiên tri đâu. Nhưng suy xét chắc chắn mà phán đoán trúng việc th́ có khác ǵ tiên tri.

    165. CHỌN NGƯỜI RỒI SAU HĂY GÂY DỰNG
    Dương Hổ làm tướng nước Vệ, phải tội, chạy trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Triệu Giản Tử nói rằng:
    -Tự nay trở đi, ta nhất quyết không gây dựng cho ai nữa.
    Triệu Giản Tử hỏi:
    V́ cớ ǵ mà ông lại nói thế?
    Dương Hổ nói:
    -Khi tôi ở nước tôi, các quan hầu cận nhà vua, tôi gây dựng cho quá nửa, các quan ở triều đ́nh, tôi cũng gây dựng cho quá nửa, đến cả các quan ở biên thùy tôi cũng gây dựng cho nữa. Thế mà bây giờ các quan hầu cận nhà vua th́ gièm pha tôi, các quan triều đ́nh th́ đem pháp luật trị tôi, các quan biên thùy th́ dùng binh khí hiếp tôi. Thế cho nên từ nay trở đi, tôi nhất quyết không gây dựng cho ai nữa.
    Triệu Giản Tử bảo:
    -Ông nói câu ấy th́ lầm. Ai trồng cây đào, cây mận th́ mùa hè được bóng mát nghỉ, mùa thu được quả ngon ăn. Ai trồng cây tật lê, th́ mùa hè bóng mát không có, mùa thu chỉ được những chông gai. Cứ như vậy, th́ có phải là tại do cây ḿnh trồng lúc trước không? Nay ông sở dĩ đến nỗi thế, là v́ ông gây dựng toàn cho những kẻ không ra ǵ cả. Cho nên người quân tử phải chọn người trước, rồi sau mới gây dựng.
    Hàn Thi Ngoại Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Đế lấy những ư trong thơ của người ta mà làm Nội, Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ c̣n ngoại truyện mà thôi.
    Dương Hổ: tức là Dương Hóa, người nước Lỗ thời Xuân Thu, làm quan nước Lỗ là người quyền thần chuyên chính.
    Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Vệ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
    Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    Triệu Giản Tử: một danh thần nước 6*9Triệu đời Xuân Thu.
    LỜI BÀN
    Dương Hổ gây dựng cho người ta, mà về sau lại bị người ta quay lại hại ḿnh, thật chẳng khác nào nuôi ong tay áo, nuôi hổ để chịu vạ lây, đáng tức giận lắm thay. Cho nên Hổ phàn nàn với Triệu Giản Tử và có ư như thề rằng, thôi từ nay không làm ơn cho ai nữa, v́ loài người đă bội bạc lại c̣n thêm độc ác. Triệu Giản Tử bác đi mà giảng giải thế, là có ư quy cái tội cho Dương Hổ, tức là tội làm đại thần mà tham lam, mà ưa nịnh, chỉ thích gây dựng cho tiểu nhân để lo bè đảng th́ khi thất thế, phải chịu lấy cái vạ của tiểu nhân.
    Có người nói: làm ân mà phải chọn người trước, kể cũng hẹp ḥi lắm. Nhưng làm ơn là một việc, v́ tổ quốc mà chọn người, gây dựng cho người để giúp nước giúp dân là một việc. Như kéo bè kéo đảng, gây dựng cho cả kẻ gian ác có địa vị, có quyền thế để chúng làm mưa làm gió gieo tai gieo vạ cho nhân dân th́ không những không được báo ơn mà c̣n hại đến thân đắc tội với tổ quốc nữa.

    166. CƠ TÂM
    Thầy Tử Cống đi qua đất Hán Âm thấy một ông lăo làm vườn đang xuống giếng gánh từng thùng nước, đem lên tưới rau.
    Thầy Tử Cống nói:
    Kia có cái máy một ngày tưới được hàng trăm khu đất, sức dùng ít mà công hiệu nhiều. Cái máy ấy đằng sau nặng, đằng trước nhẹ, đem nước lên rất dễ và tên gọi là “ máy lấy nước”.
    Ông lăo làm vườn nói:
    Máy tức là cơ giới, kẻ có cơ giới tất có cơ sự, kẻ có cơ sự tất có cơ tâm. Ta đây có phải không biết cái máy ấy đâu, chỉ nghĩ xấu hổ mà không muốn dùng vậy.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Tử Cống: học tṛ Đức Khổng Tử giỏi về khoa ngôn ngữ.
    Hán Âm: tên đất hiện ở vào phủ Hưng An tỉnh Thiểm Tây bây giờ.

    167. KHÔNG ĐỢI TRÔNG CŨNG BIẾT
    Hứa Kính Tôn có tính kiêu ngạo khinh người, tiếp ai xong, nhiều khi quên ngay, sau người ta có đến, lại không rơ là ai nữa.
    Hoặc có kẻ chê Kinh Tôn là người không được thông minh.
    Kính Tôn nói:
    -Cái đó là tự người ta làm cho ta khó nhớ đấy thôi. Ví bằng ta gặp được những bậc tài giỏi như Hà, Lưu, Thẩm, Tạ, th́ dù sờ trong xó tối, ta cũng có thể biết mà nhớ ra được.
    Tùy Đường Nhai Thoại
    GIẢI NGHĨA
    Hứa Kính Tôn: người đời nhà Đường, đỗ tú tài, văn chương giỏi, làm quan đến Tể tướng.
    LỜI BÀN
    Kiêu ngạo là thói xấu, đến nỗi người ta có câu: “Ai mà kiêu ngạo là kẻ sắp đi đến bước cuối cùng”.Vậy người ta dù có thông minh tài giỏi cao quư đến đâu cũng không nên kiêu ngạo. Hứa Kính Tôn đây văn chương đă giỏi, quan chức lại to, giao tiếp nhiều người, nhớ sao cho xiết, mà chẳng quên. Nên ta cũng chưa thể cho cái quên ấy là thực khinh người. Xem ngay như câu nói của Hứa Kính Tôn, th́ ta lại có thể cho là người biết người và có bụng trọng những người tài giỏi.
    Vả chăng ở đời, cái thói khinh người tuy không nên có, nhưng cái cách biết phân biệt người đáng trọng, kẻ nên khinh, không nên rằng không có. Câu cổ: “ Tố nhân bất khả hữu ngạo thái, nhiên bất khả vô ngạo cốt” (Làm người không nên có cái dáng khinh ngạo, nhưng cũng không nên không có cái cốt khinh ngạo) cũng ám hợp với câu của người Pháp:
    “ Il ne faut pas mépsriser, mais il faut savoir dédaigner”.

    168. KHINH NGƯỜI
    Tử Kích là một bậc quyền quư, gặp Điền Tử Phương, là một hàn sĩ ở giữa đường, liền xuống xe chào. Tử Phương làm lơ không đáp lại.
    Tử Kích giận, hỏi Tử Phương rằng:
    -Kẻ phú quư hay khinh người đă đành, kẻ bần tiện có khinh người được không?
    Tử Phương nói:
    -Kẻ bần tiện mới có thể khinh người, kẻ phú quư sao dám khinh người. Vua nếu mà khinh người th́ mất nước, quan nếu mà khinh người th́ mất chức. C̣n kẻ có học thức, xử cảnh bần tiện, đi đến đâu mà lời nói vua quan không dùng, việc làm vua quan không theo, th́ xỏ chân vào giày, đi ngay lập tức, đến chỗ nào chẳng được bần tiện, c̣n có lo sợ ǵ, mà không dám khinh người?
    Tử Kích nghe ra, bèn xin lỗi Tử Phương.
    Chu Thư
    GIẢI NGHĨA
    Chu Thư: hay c̣n gọi là Bắc Chu thư hoặc Hậu Chu thư là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Lệnh Hồ Đức Phân đời Đường làm chủ biên, cùng Sầm Văn Bản và Thôi Nhân Sư tham gia viết và biên soạn chung vào năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629), đến năm Trinh Quán thứ 10 (năm 636) th́ hoàn thành. Lệnh Hồ Đức Phân (583–666) người huyện Hoa Nguyên Nghi Châu (nay thuộc huyện Diệu tỉnh Thiểm Tây), là nhà sử học thời Đường của Trung Quốc. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Chu thư trong Phụ Lục D).
    Tử Kích: một nhà quyền thế đời Chiến Quốc.
    Bậc quyền quư: người có uy quyền thế lực thiên hạ phải kinh sợ.
    Điền Tử Phương: người nước Ngụy về đời Chiến Quốc có tiếng là bậc hiền nhân.
    Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    LỜI BÀN
    Tử Kích muốn lấy quyền thế, mà khinh người; Tử Phương muốn lấy học thức mà khinh người. Đến cùng, th́ học thức khinh nổi được quyền thế. Mời hay ở đời nào cũng vậy, phú quư không bao giờ bằng được học thức. Có lẽ Tử Phương đây muốn chữa cái bệnh cho người quyền thế quá kiêu căng đời bấy giờ, cho nên nói những câu quá khích như thế. Ta cũng không nên quên cái cách phục thiện của Tử Kích đáng trọng và đáng yêu. Nay ta cứ b́nh tĩnh mà nói: Khinh người tức là “kiêu” mà chữ kiêu là cái nguồn gốc làm bại hoại cả đức tính. Phú quư chẳng nên kiêu, th́ bần tiện dẫu có kiêu được, cũng không lấy ǵ làm phải. Kẻ sử sĩ đời Chiến Quốc phải coi phong khí nó chuyển đi, cho nên thường hay mắc phải cái thế kiêu như Tử Kích đây, không thoát khỏi tục, cũng là đáng tiếc. Người có học thức mà kiêu, là hạng người khinh thế ngạo vật, coi đời như không quan thiết ǵ đến ḿnh. Ôi! Đă gọi là học thức mà có tính kiêu, th́ vô bổ cho đời; đời có ngưới ấy cũng như không vậy.

    169. HAI CÔ VỢ LẼ NGƯỜI CHỦ TRỌ
    Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một nhà kia.
    Người chủ nhà trọ, có hai người thiếp, một người đẹp, một người xấu. Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quư người thiếp xấu mà khinh người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn hỏi ḍ thằng trẻ con trong nhà trọ, th́ nó trả lời rằng:
    -Người thiếp đẹp tự lên là đẹp mà mất đẹp, tôi chẳng biết cái đẹp của họ nữa; người thiếp xấu tự biết là xấu mà quên xấu, tôi chẳng biết cái xấu của họ nữa.
    Dương Chu gọi học tṛ ra bảo:
    -Các con nhớ lấy câu ấy. Người ta giỏi mà bỏ được cái nết “tự cho ḿnh là giỏi: th́ đi đến đâu ai cũng chẳng tôn trọng, chẳng thân yêu.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Dương Chu: người thời Chiến quốc, xướng lên học thuyết “Vị ngă” trái lại với học thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử. (Xin xem thêm Dương Chu ở Phụ Lục C).
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Thiếp: vợ lẽ, cô hầu.
    LỜI BÀN
    Đàn bà đẹp mà tự cậy ḿnh lên đẹp, th́ người ngoài chỉ thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét chớ không thấy c̣n ǵ là vẻ đẹp dáng yêu nữa. Đàn bà xấu, tự thẹn ḿnh là xấu, th́ chỉ thấy cái nết dịu dàng đáng thương, không c̣n thấy cái ǵ xấu xí đáng ghét nữa. Đấy người đẹp mà bị khinh, người xấu mà được quư là tại thế.
    Ôi! Đẹp chỉ v́ lên đẹp mà mất đẹp, xấu chỉ v́ biết xấu mà quên xấu, thế th́ những người giỏi mà tính tự lên là giỏi, th́ sinh thời nào, đi đến đâu cũng không mong thiên hạ yêu kính được. V́ như thế tức là kiêu, mà kiêu th́ không ai chịu được, sự khiêm nhă bao giờ vẫn là hơn v́ thiên đạo, ích khiêm lưu khiêm, quỷ thân phúc khiêm, nhân đạo hiếu khiêm. Khiêm hay biết là dường nào! Dương Chu lấy câu chuyện ấy ra dạy học tṛ rất là phải lắm.

    170. BA ĐIỀU PHẢI NGHĨ
    Đức Khổng Tử nói:
    - Người quân tử có ba điều phải nghĩ, ta chẳng nên chẳng xét đến:
    1) Lúc nhỏ nếu mà chẳng học, th́ đến lúc lớn ngu dốt không làm được việc ǵ.
    2) Lúc già yếu mà không đem những điều ḿnh biết để dạy người, th́ sau đến lúc chết chẳng ai thương tiếc.
    3) Lúc giàu có nếu mà chẳng bố thí, th́ đến lúc khốn cùng chẳng ai cứu giúp.
    Cho nên người quân tử lúc nhỏ nghĩ đến lúc lớn th́ chăm học, lúc già nghĩ đến lúc chết th́ chăm dạy, lúc có nghĩ đến lúc không th́ chăm cứu giúp người nghèo khổ.
    Gia Ngữ
    GIẢI NGHĨA
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Lúc nhỏ mà nghĩ đến lúc lớn, lúc già mà nghĩ đến lúc chết, đang giàu mà nghĩ đến nỗi nghèo khổ, ba điều lo xa. Phàm người ta có chịu trông xa như thế mà là biết pḥng bị những cái ưu hoạn trước khi nó xảy ra vậy. Đức Khổng Tử c̣n có nói:
    “Người ta không nghĩ xa, tất có sự ưu hoạn gần”, (Câu chữ Hán là: Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu), cũng là có cái nghĩa dự pḥng như lời nói trong bài này vậy.

  8. #38
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    171. LO, VUI
    Thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử rằng:
    - Người quân tử cũng lo sợ ư?
    Đức Khổng Tử nói:
    - Người quân tử chỉ cốt suy nghĩ định liệu công việc của ḿnh, lúc chưa làm được th́ vui rằng ḿnh có ư định làm, lúc làm được th́ lại vui rằng ḿnh có trí làm được việc. Thế cho nên người quân tử có cái vui thú suốt đời, không có cái lo sợ một ngày nào cả.
    Kẻ tiểu nhân th́ không thế, lúc chưa làm được việc th́ lo sợ rằng không được, lúc đă làm được việc th́ lo sợ lỡ hỏng mất. Thế cho nên kẻ tiểu nhân có cái lo sợ suốt đời, không có cái vui thú nào cả.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Tử Lộ: người thời Xuân Thu, học tṛ đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).

    172. THẤY LỢI NGHĨ ĐẾN HẠI
    Liệt Tử nghèo khổ, có khi đói khát không có ǵ mà ăn uống.
    Có người nói với vua Tử Dương nước Trịnh rằng:
    - Liệt Tử là một người cao thượng, nay ở nước nhà vua mà phải bần cùng, th́ hóa ra nhà vua không biết quí trọng người giỏi ư?
    Tử Dương nghe nói, sai sứ giả đưa cho Liệt Tử vài mươi xe thóc.
    Liệt Tử ra yết kiến sứ giả, vái hai vái, xin từ không nhận.
    Sứ giả đi, Liệt Tử vào nhà trong. Vợ ngóng trông bực tức, tự đập vào ngực mà nói rằng:
    - Thiếp nghe vợ con những bậc đạo đức cao thượng đều được an nhàn vui vẻ, nay vợ con tiên sinh túng đói, vua đưa cho tiên sinh thóc gạo, tiên sinh lại từ. Thế chẳng phải là số mệnh xui ra vậy hay sao?
    Liệt Tử cười, bảo vợ rằng: Vua mà biết ta, không phải là tự chính vua biết ta, tại nghe có người nói mới biết ta. Vua nghe người nói mới biết ta mà cho ta thóc, th́ lúc bắt tội ta, tất vua cũng lại nghe người nói mà thôi. V́ thế mà ta không nhận thóc. Vả chăng chịu bổng lộc của người hoặc khi người mắc hoạn nạn, không liều chết giúp người là bất nghĩa. Mà nếu liều chết giúp kẻ vô đạo th́ lại c̣n gọi là nghĩa thế nào được.
    Tử Dương sau quả bị nạn chết.
    Liệt Tử
    GIẢI NGHĨA
    Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Sứ giả: người thay mặt và nhận lời người trên để đi nói hay làm một việc ǵ đó với ai.
    Yết kiến: đi chào người trên.
    Số mệnh: những sự hay dở, được, hỏng của đời người h́nh như định sẵn tự trời, không phải sức người làm nổi.
    Vô đạo: ăn ở không theo lẽ phải.
    LỜI BÀN
    Đương lúc túng đói, gặp được vua chúa quư trọng, lại cho vài mươi xe thóc, người ta được thế chắc lấy làm vinh hạnh sung sướng, mà c̣n lên mặt với đời là khác. Liệt Tử đây khác hẳn, vái sứ giả hai vái, nói xin từ. Thái độ khiêm nhă thật đáng trọng! Xin từ mà không lộ vẻ tự ái, tự cao, không có một lời nghị luận đến thời sự, thậm chí phải vợ con giày ṿ mà Liệt Tử vẫn thản nhiên, chỉ ôn tồn nói qua mấy câu “ăn ở phải biết lui biết tới, biết ân biết nghĩa”. Người sao sáng suốt khôn ngoan mà như ngu dại, thật đáng phục lắm thay! V́ không thế không sống c̣n được ở đời loạn. Liệt Tử đây phần biết người hay dở, phần hiểu việc sâu xa. Thật là bực “minh triết bảo thân” vậy. (Câu chữ Hán là: Đă không ngoan lại sáng suốt để bảo toàn tấm thân.)
    Ở đời, sẵn có máu tham, thấy của tối mắt, đỏ đâu bâu đấy, sống chết mặc bay, đó là bệnh thông thường. Anh em chúng ta như muốn tránh bệnh ấy, tưởng nên học Liệt Tử biết rơ nghĩa lợi, hiểu đường lui tới mới là hơn.

    173. THỦY CHUNG VỚI VỢ
    Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua đến ăn tiệc nhà Án Tử, thấy vợ Án Tử hỏi:
    - Phu nhân đấy phải không?
    Án Tử thưa: Vâng, phải đấy.
    Vua nói: Ôi! Người trông vừa già vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu, khanh nghĩ sao?
    Án Tử đứng dậy thưa rằng: Nội tử tôi nay thật già và xấu; nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đă lâu, kể từ lúc c̣n trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy, cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đă nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đă nhờ cậy tôi bấy lâu nay.
    Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.
    Án Tử
    GIẢI NGHĨA
    Án Tử: tức là Án Anh, làm tướng đời vua Cảnh Công, ông là người trung thành, tiết kiệm có tiếng thời bấy giờ.
    Cảnh Công: vua hiền nước Tề đời Xuân Thu. (Xin xem Tề Cảnh Công ở Phụ Lục C).
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Nội tử: tiếng để gọi vợ cả ḿnh. Tiếng đời cổ dùng để gọi vợ các quan to.
    Khanh: tiếng vua gọi một bậc quan to hay một vị đại thần.
    LỜI BÀN
    Vợ chồng là bạn trăm năm đă phải duyên phải lứa lấy nhau từ lúc c̣n trẻ, kính yêu nhau th́ đến lúc già ai lại có nỡ phụ nhau. Ngán thay thói đời giàu hay quên bạn, sang hay phụ vợ. Lắm kẻ lúc c̣n hàn vi vợ nuôi cho ăn học, một mai được chút tiền của, chức tước đă phụ ngay vợ cũ mà kiếm vợ mới, hoặc kiếm vào chỗ giàu, hoặc kiếm vào chỗ sang, hoặc kiếm người trẻ tuổi xinh đẹp hơn. Những kẻ như thế dù viện lẽ ǵ, tổng chi cũng là phụ bạc cả. Nào đă mấy người được như Án Tử đây: gặp cảnh giàu sang như nhà vua, trẻ đẹp như công chúa, lại như muốn lấy uy quyền bức bách ḿnh, mà ḿnh nhất định cố từ. Ông là người ăn ở thủy chung với vợ tấm cám thật!
    Bạn quần thoa đọc truyện này cũng nên ngẫm nghĩ, chớ nên tham tài tham danh mà lấy những kẻ đă đem ḷng phụ vợ tào khang. V́ rằng người vợ xưa, nuốt được nghèo khổ, chịu được đắng cay, ở với họ đă đă bao lâu mà họ c̣n phụ, th́ họ có lấy ta hoặc v́ lợi chăng, hoặc v́ thế chăng, hoặc v́ sắc chăng, một khi lợi kém, thế hết, sắc suy, th́ cái t́nh vợ chồng lúc bấy giờ lại hóa ngay ra cảnh người dưng nước lă.

    174. ĐÁNG SỢ G̀ HƠN CẢ
    Tại lầu sách nhà kia, có con hồ tinh không hiện h́nh ra bao giờ, nhưng vẫn thường hay tṛ chuyện. Chuyện nói rất lí thú, ai nghe cũng phải phục.
    Một hôm tân khách họp đông, có con hát mời rượu ước với nhau rằng:
    “Ai sợ ǵ th́ phải nói, mà nói vô lư th́ phải phạt rượu”.
    Bấy giờ, cử tọa lần lượt nói, nào sợ người học rộng, nào sợ người nhà giàu, nào sợ người quan to, nào sợ người nịnh giỏi, nào sợ người khiêm tốn quá, sợ người lễ phép câu nệ quá, nào sợ người thận trọng ít nói, sợ người hay nói nửa chừng…
    Sau cùng hỏi đến hồ tinh, th́ hồ tinh đáp: Ta chỉ sợ hồ tinh.
    Ai nấy đều cười, bảo rằng: Người ta sợ hồ tinh mới phải, anh là đồng loại can ǵ mà sợ? Phạt anh một chén rượu.
    Hồ tinh cười nói: Thiên hạ duy có đồng loại là sợ nhau. Con cùng cha mới tranh gia sản; gái cùng chồng mới hay ghen tuông; kẻ tranh quyền nhau, tất là quan lại đồng triều; kẻ tranh lợi nhau tất là lái buôn một chỗ. Bức nhau th́ trở ngại nhau, trở ngại nhau th́ khuynh loát nhau. Nay lại c̣n người bắn con trĩ th́ dùng con trĩ làm mồi, không dùng con gà, con ngỗng; người săn hươu th́ dùng con hươu làm mồi, không dùng con dê, con lợn. Phàm những việc phản gián đều là phải dùng đồng loại cả. Cứ thế mà suy th́ tài nào mà hồ chẳng sợ hồ?
    Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng.
    Duyệt Vi
    LỜI BÀN
    Loài yếu sợ loài khỏe, kẻ dại sợ kẻ khôn như chó sợ hùm, mường mọi sợ người văn minh hoặc vẫn có. Những cái sợ ấy là cái sợ họa hoằn. Chớ cái sợ kẻ đồng loại, kẻ đồng nghiệp mới là cái sợ thường luôn có, cái sợ thực đáng sợ luôn vậy. Người phải sợ người hơn sợ hùm beo, sư tử, người đồng loại, kẻ đồng nghiệp sợ lẫn nhau hơn là sợ người ngoài? Tại sao? – Tại chỉ có cùng nhau một loài, cùng nhau một nghề mới cạnh tranh, đá chọi lẫn nhau. Mà đă cạnh tranh, tất hay ḍm dỏ nhau, t́m cách hại lẫn nhau để cầu lợi cho ḿnh, thậm chí tàn sát nhau đến chôn sống hàng vạn quân, giết chết hàng triệu người, mà vẫn không chán. Thảm thương thay! Người lại hại người!

    175. CHỈ BIẾT CÓ M̀NH
    Người ta sở dĩ đến nỗi phạm phải muôn ngh́n tội lỗi là chỉ v́ cái bệnh “chỉ biết có ḿnh”. V́ cớ ḿnh chỉ biết có ḿnh, ḿnh mới suy tính thiên phương bách kế, chỉ muốn cho ḿnh giàu, chỉ muốn cho ḿnh sang, chỉ muốn cho ḿnh sống, chỉ muốn cho ḿnh vui, chỉ muốn cho ḿnh yên, chỉ muốn cho ḿnh thọ, c̣n người ta nghèo hèn, nguy khổ, lụn bại, chết chóc, nhất thiết là chẳng nghĩ ǵ đến cả. Bởi thế mà sinh ư chẳng liên can, thiên lư đến tuyệt duyệt, tuy có h́nh người, kỳ thực không khác ǵ cầm thú.
    Ví bằng trừ bỏ cái bệnh “chỉ biết có ḿnh” tâm địa rộng răi công minh, giàu, sang, nghèo, hèn, vui khổ, sống chết đều cùng chung với cả loài người, th́ sinh ư quán triệt, ai nấy được hả ḷng mà thiên lư giữ được trọn vẹn. Thế là thân ta cùng với muôn vật là nhất thể vậy.
    Tiết Huyên

    176. THỞ DÀI
    Ông Hải Tiều Tử lúc thư công việc, thường hay thở dài.
    Môn nhân hỏi:
    Tiên sinh hay thở dài như vậy là cớ làm sao?
    Ông nói:
    Ta ước ǵ các nước trên mặt đất thân yêu nhau để cho bao nhiêu binh cách phải xếp bỏ cả một chỗ.
    Ta ước ǵ người quân tử lại tiến dẫn quân tử để cho bao nhiêu quân tiểu nhân phải lui về hết sạch.
    Ta ước ǵ những trai có vợ, gái có chồng ai nấy đều yên phận để cho giáo hóa được rơ ràng.
    Ta ước ǵ nhân dân biết giữ ǵn tính mệnh mà chăm làm ăn để cho hàng năm được mùa sung sướng.
    Ta ước ǵ ai ai cũng biết con đường phải mà noi theo để không phụ cái chí Thánh hiền thời cổ.
    Ta ước măi mà chưa được, nên ta mới thở dài.
    Hải Tiều Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hải Tiều Tử: tức Vương Sùng Khánh người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Lại bộ thượng thư là một nhà trước thuật có tiếng đời bấy giờ.
    LỜI BÀN
    Các nước mà tàn bạo sát phạt lẫn nhau để tranh giành, cướp đất của nhau. Những quân gian ác mà cầm quyền giữ chính để cho những bậc hiền tài phải vùi dập. Nam nữ mà dâm ô mất hết liêm sỉ, làm cho phong hóa suy đồi. Nhân dân mà ngu dốt, lười biếng để đến nỗi phải đói rách. Học thuật mà sai lầm để đến nỗi đi vào con đường không hay. Cuộc ḥa b́nh, sự kén nhân tài, nền phong hóa, việc dân sinh, sự giáo dục của loài người mà đồi bại đến nỗi như thế th́ c̣n ǵ mà không khiến cho người ta phải chán ngán, phiền bực cho đời nữa! Ôi! Năm câu ước của Hải Tiều Tử đây bao giờ mới thành, để cho ông cùng cả bao nhiêu người có chút quan niệm đến quốc kế dân sinh, giáo hóa phong tục, không đến nỗi phải cất tiếng lên mà thở dài nữa?

    177. THẰNG ĐIÊN
    Các anh có trông thấy người phải bệnh điên bao giờ không?
    Đương lúc hôn mê rồ dại, người điên lăn xuống nước, giẫm lên lửa, đâm vào chông gai, mặt hớn hở, miệng nghêu ngao, vẫn tự tin cho ḿnh là phải.
    Đến khi gặp thầy thuốc hay, hết cách chạy chữa, người điên khỏi dần và tỉnh lại. Bà con kể lại chuyện người ấy lắm lúc đang có bệnh điên, th́ người ấy rùng ḿnh lấy làm khổ. Bà con kể lại chuyện người ấy lúc uống thuốc tỉnh dần, th́ người ấy vui vẻ lấy làm mừng và ân hận gặp thầy, gặp thuốc muộn quá.
    Ấy người phải bệnh điên vừa c̣n chữa được th́ như thế. Chớ nếu là người phải bệnh điên nặng không thể chữa được, th́ người ấy không những không chịu phục thuốc lại c̣n mắng thầy thuốc làm cho mất tính thường của ḿnh nữa.
    Dương Minh Tử
    LỜI BÀN
    Bệnh điên nói trong bài đây tức là ḷng tư dục nó làm cho con người mê lú như điên cuồng không c̣n biết phải trái là ǵ nữa. Nếu người mắc bệnh tư dục c̣n nhẹ, may nhờ có người dạy bảo cho, th́ c̣n có thể hối ngộ sửa nết lại mà sửa dần tính xấu đi được. Nhưng nếu là người mắc bệnh tư dục nặng quá hoặc có ai muốn giáo hóa cho, th́ người ấy chẳng những không hối ngộ sửa nết lại được mà lại c̣n trách oán cả người giáo hóa, bảo người ấy là làm ḿnh mất cả tính thường đi. Ôi! Đáng sợ lắm thay! Lương tâm mất đi một vài phần, th́ c̣n có thể cứu được, chớ lương tâm mà đă táng tận, th́ c̣n ǵ là người mong hóa đi được nữa. Cho nên ta phải cố giữ lấy lương tâm. Chớ bảo một cái lỗi nhỏ có phạm vào cũng không can chi. Cái nết đă quen đi rồi, th́ khác nào như xuống dốc, chỉ có phần lăn xuống, thụt sa lầy, chỉ có phần thụt xuống, chớ không tài nào lăn trở lại hay ngoi lên được nữa.

    178. NGƯỜI XUẤT TỤC
    Tiếng sấm, tiếng sét không làm thế nào làm cho nhỏ được tiếng để ḥa với tiếng chuông, tiếng khánh. Mặt trời, mặt trăng không làm thế nào cho cong được ánh sáng để thấu đến ngơ hẻm, hang cùng. Sông to không làm thế nào mà thu bờ hẹp lại để vừa ư kẻ muốn lội qua. Núi cao không làm thế nào mà rút được ngọn thấp xuống để chiều ḷng kẻ muốn trèo chơi.
    Cho nên, cũng như cái xe to không thể thu nhỏ bánh để tạm đi qua đường hẹp, người cao sĩ không chịu khuất khúc để ḥa đồng với thế tục.
    Băo Phác Tử
    GIẢI NGHĨA
    Băo Phác Tử: tức ông Cát Hồng, người đời nhà Tấn, có làm pho sách nhan là Băo Phác Tử, vừa nói về thần tiên, vừa nói về chính trị.
    Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    LỜI BÀN
    Chính ư bài này cốt tỏ rơ thế nào là một người cao sĩ xuất tục. Nhưng tác giả không định nghĩa người xuất tục là ǵ, tác giả t́m mấy sự ở ngoài mà ví vào người, khiến cho ta đọc hiểu rơ ngay, tục với xuất tục đại để khác nhau như thế nào. Tiếng sấm vời tiếng chuông, ánh sáng mặt trời với ngơ hẻm, sông to với người muốn lội, núi cao với người muốn trèo, xe bánh rộng với đường hẹp, khác nhau xa làm sao, không dong được nhau thế nào, th́ người xuất tục khác người tục và không ḥa đồng với người tục cũng như thế.

    179. VỢ THẦY KIỆN
    Có một người thầy kiện rất giỏi. Mỗi khi thảo đơn kiện cho ai, định buộc tội gạt lỗi cho nhiều người mà ư nghĩ chưa được sâu sắc, lời nói chưa được chặt chẽ, th́ cứ ngồi yên một chỗ để cấu tứ. Những lúc ấy, thường dặn người nhà, có khách hỏi, không được cho vào, cả đến vợ cũng phải lánh xa ở một buồng khác.
    Vợ người thầy kiện trước kia vẫn đă cùng người láng giềng đầu mày cuối mắt chỉ v́ không dịp, không chỗ cho nên ḍm dỏ đă hơn một năm, mà chưa được thân cận với nhau. Bây giờ biết thế, mỗi khi gặp người thầy kiện cấu tứ th́ người vợ bèn lại chuyện tṛ quấy rối để đến phải mắng, phải đuổi tránh đi chỗ khác.
    Thành v́ thế mà người vợ với người láng giềng được bao nhiêu cơ hội đi lại với nhau luôn, kể hàng bao nhiêu năm mà không ai biết.
    Sau người thầy kiện v́ cấu tứ măi mà chết. Người vợ chửa hoang phải nhà chồng kiện.
    Quan tra xét căn do việc đi lại với ai. Người vợ thầy kiện phải thú thực.
    Quan vỗ bàn, thở dài nói:
    Ng̣i bút của người thầy kiện đă khéo, ai ngờ cơ trời c̣n khéo hơn!
    Duyệt Vi
    LỜI BÀN
    Thầy kiện tức là luật sư. Luật sư là người hơn ai hết, hiểu thấu các tinh túy của luật pháp, biết rơ nỗi u ẩn của nhân dân. Chính phủ nhờ có luật sư mà thêm sáng việc, quần chúng nhờ có luật sư mà đỡ hàm oan. Vậy làm thầy kiện mà gỡ tội cho kẻ oan, đáng trọng biết bao nhiêu, th́ buộc tội cho người ngay hay bênh vực kẻ gian ác, đáng khinh bấy nhiêu. Người thầy kiện nói trong bài này là một tay giảo hoạt chắc đă nhiều lần, lấy lư mà thắt người ngay vào tội ghê gớm lắm. Bởi vậy tác giả mới thuật lại chuyện này, nói người thầy kiện vừa tự hại ḿnh, lại để cho vợ phản ḿnh, có ư dạy người tuy khôn khéo đến đâu, cũng không lọt được vành Tạo vật. Tạo vật thường vẫn ghét người xảo, bao giờ cũng bắt sẵn cái cân để cân lại cho công bằng. Nhiều khi muốn hại người, người chẳng thấy đâu, lại chỉ thấy cái hại nó quay ngay vào chính ḿnh trước.

    180. ÁC NGẦM
    Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích và yêu lắm.
    Phu nhân là Trịnh Tụ biết thế, chính ḿnh cũng yêu mến người con gái, có khi lại yêu mến hơn vua. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời ǵ, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.
    Vua khen: Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, mà đem ḷng yêu mến tân nhân quá ta thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy.
    Phu nhân đă chắc bụng vua không ngờ ḿnh là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng:
    -Vua yêu mến nhà ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, th́ vua yêu mến được măi đấy.
    Tân nhân theo lời, từ đó mỗi khi trông thấy vua, là che ngay mũi lại.
    Vua thấy thế, bảo phu nhân rằng:
    -Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ư làm sao?
    Phu nhân trước thưa: Tôi không được rơ.
    Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa rằng:
    -Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí nặng, lấy làm khó chịu.
    Vua phát giận bảo: À nếu thế th́ xẻo mũi nó đi.
    Vua vừa nói đoạn, th́ một viên quân hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân. V́ phu nhân đă dặn một viên quan hầu đứng chực sẳn đấy trước, hễ thầy vua phán ǵ, là làm ngay lập tức.
    Hàn Phi Tử
    GIẢI NGHĨA
    Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học tṛ Tuân Tử chuyên về b́nh danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. (Xin xem thêm Hàn Phi Tử ở Phụ Lục C).
    Ngụy: tên một nước về thời Chiến Quốc ở về phía bắc tỉnh Hà Nam và phía tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay.
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. (Xin xem thêm nước Sở ở Phụ Lục A).
    LỜI BÀN
    Phàm người đời cái ǵ đáng ghét mà lại yêu, cái ǵ muốn tranh mà lại nhường, làm trái hẳn thường t́nh, đều là những người dụng tâm một cách nham hiểm cả. Sự yêu ấy chính là cái giết ngầm, sự nhường ấy chính là cái cướp sạch. Đáng thương cho những kẻ ngu mê nông nổi dạ thật tin người để đến nỗi mắc vào lưới cạm mà không biết.
    Trong chuyện này người con gái th́ khờ dại, vua Kinh th́ quá tin. Hai người có hai cái tật như thế, th́ tránh sao cho khỏi sự dụng tâm độc ác của phu nhân. Than ôi! Người đang xinh đẹp mà bị cắt mất mũi, bụng đang yêu mến mà để hỏng mất của yêu, ghê gớm thay cho cái ḷng nham hiểm, cái mưu thâm độc của Trịnh Tụ.

  9. #39
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    181. BẢY CÔ VỢ LẼ
    Ông Phật Ấn là bạn thân của ông Tô Đông Pha, khi tṛ chuyện hai ông thường đùa bỡn cợt nhả.
    Đông Pha có bảy người thiếp.
    Một hôm, Phật Ấn đùa bảo Đông Pha rằng:
    -Sao mà bác lấy nhiều thiếp thế? Bác có chịu bằng ḷng tặng tôi được cô thiếp thứ bảy không?
    Đông Pha cười nói:
    -Sao lại không được?
    Rồi Đông Pha về nhà đem chuyện nói vời người thiếp.
    Người thiếp thưa:
    -Đó là chuyện nói đùa nhau chứ ǵ.
    Đông Pha nói:
    -Ta đă hứa rằng cho, th́ không nên sai lời. Bây giờ nàng cứ xem ra thế nào.
    Chập tối. Tô Đông Pha cho xe người thiếp đến.
    Phật Ấn đón người thiếp cho vào nằm trong buồng, rổi bỏ màn xuống. Trước buồng đă đặt sẵn bảy cái hỏa ḷ cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, bước qua hết một lượt, rồi lại bước lại cứ thế suốt đêm. Đến sáng ông cho xe người thiếp về trả.
    Người thiếp về kể lại đầu đuôi câu chuyện. Đông Pha chợi nghĩ ra, nói rằng:
    -Bảy cái hỏa ḷ là chỉ vào bảy người thiếp của ta, giống như bảy cái hang lửa. Ông làm ra như thế, là ông có ư bảo ông đă vượt ra được ngoài sắc dục c̣n ta th́ lại sa ngă đắm đuối vào đấy. Ông này ư muốn làm cho ta tỉnh ngộ chăng.
    Dục Hải Từ Hàng
    GIẢI NGHĨA
    Phật Ấn: tên một vị cao tăng có tài hùng biện đời nhà Tống.
    Tô Đông Pha: tức là Tô Thức là một nhà đại thi sĩ nước Tàu làm quan đời nhà Tống, văn hay chữ tốt, sách làm kể có hàng vài trăm quyển lưu truyền ở đời. (Xin xem thêm Tô Thức ở Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Đông Pha là một bậc tài học phong lưu, Phật Ấn là một nhà tu hành đắc đạo. Người phong lưu th́ chỉ cốt đời người cho sung sướng là thỏa ḷng, nhà tu hành th́ chỉ cốt trí tuệ cho cao minh là măn nguyện. Cứ b́nh tĩnh mà nói, th́ ai là người chẳng thích phong lưu. Nhưng có biết đâu, “ Phong lưu là cạm trên đời, hồng nhan đánh bả con người tài hoa”. Bao nhiêu thị dục thường hại cho người ta hết cả. Xưa nay kể sao cho xiết được những kẻ v́ thị dục, mà mất hết cả tính thiêng liêng mầu nhiệm, mà hỏng hết cả phẩm giá, thanh danh. Trong các món thị dục, th́ sắc dục có phần tệ nhất. Dâm là cái tội ở đầu muôn tội. Muốn tránh tội ác, cần phải giới dâm.
    Phật Ấn đây thật có ư thương, có ḷng yêu Đông Pha lắm. Chơi với anh em mà bày tṛ ra như thế để khuyên anh em. Cũng là một cách thuyết pháp thực tế mà cảm hóa được người ta sâu xa vậy.

    182. GƠ NHỊP MÀ HÁT
    Vợ Trang Tử chết.
    Huệ Tử đến viếng, thấy Trang Tử đang ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gơ nhịp vào bồn nước mà hát.
    Huệ Tử bảo: Ḿnh đă ăn ở với người ta, có con với người ta. Bây giờ người ta già, người ta chết, ḿnh đă không khóc th́ cũng là đủ, lại c̣n ngồi gơ bồn mà hát, chẳng là quá lắm ư!
    Trang Tử nói: Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng, th́ vốn là không có ǵ cả, chẳng những không có ǵ mà vốn lại không có h́nh, chẳng những không có h́nh mà vốn lại không có khí, cái người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hóa ra có khí, khí biến mà hóa ra có h́nh, h́nh biến mà hóa ra có sinh, có sinh lại biến ra có tử, có khác nào như xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại người ta chết là trở về với tạo hóa, cũng như người ra ngoài mà về nhà, thế mà ta cứ c̣n theo đuổi nghêu ngao khóc lóc, th́ chính ta chẳng hóa ra không biết mệnh trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại c̣n hát nữa.
    Trang Tử
    GIẢI NGHĨA
    Trang Tử: sách của Trang Chu soạn đến đời Đường gọi là Nam Hoa Chân kinh. Trang Tử, học đạo Lăo Tử, sau người ta vẫn xưng Lăo Tử với Trang Tử là tổ của Đạo gia. (Xin xem thêm Trang Tử ở Phụ Lục C).
    Huệ Tử: tức là Huệ Thi người thời Chiến Quốc, có tài khéo nói, là bạn thân của Trang Tử. Huệ Tử cũng là tên một thiên sách của Huệ Thi.
    Bồn: chậu nước rửa xác cho người chết.
    LỜI BÀN
    Vợ chết đáng là một nỗi đau đớn to, chồng nào mà cầm ḷng không thương, không xót, không tiếc, không sụt sùi giọt ngắn giọt dài cho đậu. Thường t́nh như thế. Nên Huệ Tử trách Trang Tử là chỉ v́ lẽ thường t́nh.
    C̣n Trang Tử đáp thế, là lại lấy một cái lẽ cao xa, siêu việt hẳn ra ngoài cái thường t́nh. Ta không rơ cái thuyết của Trang Tử cho người ta vốn từ chỗ không, do khí do h́nh mà sinh ra để đợi lại trở về chỗ không, có đúng với khoa học hay không. Nhưng rất giống thuyết nhà Phật. Ta chỉ lấy thường t́nh mà suy nghĩ th́ có lẽ Trang Tử quá thương tiếc vợ nên đem cái đạt quan nói với Huệ Tử để vừa tự giải, vừa tự an ủi cho đỡ đau khổ chăng?

    183. LIÊM, SỈ
    Liêm, sỉ là tính rất hay của loài người, v́ người mà không liêm th́ cái ǵ cũng lấy, không sỉ th́ việc ǵ cũng làm. Người mà đến thế là người bỏ đi, không khác ǵ giống vật. Nhất là những bậc đứng chủ trương việc nhà, việc nước mà vô liêm, vô sỉ th́ nhà phải suy bại, nước phải suy vong.
    Nghĩ cho kĩ, th́ sỉ cần hơn liêm; người không liêm làm những việc bất nghĩa, căn nguyên cũng ở vô sỉ mà ra.
    Đức Khổng nói: “Hành kỷ hữu sĩ” nghĩa là giữ ḿnh biết làm xằng là xấu hổ. Thầy Mạnh nói: “Nhân bất khả vô sỉ” nghĩa là người ta không biết xấu hổ th́ không được.
    Than ôi! Thế mà ngày nay, nhân t́nh phản trắc, phong tục suy đồi, người ta quên cả liêm, sỉ, không kể chi người thường, thậm chí đến bọn sĩ phu cũng chan chan như thế cả. Ôi! Nếu cho là sự xấu hổ chung cho cả nước cũng không phải là nói ngoa.
    Tuy vậy, mùa đông rét mướt, tùng, bách vẫn xanh; mưa gió tối tăm, gà trống vẫn gáy. Đời tuy hôn mê, vẫn có người tỉnh.
    Ông Nhan Chi Thôi làm sách “gia huấn” có thuật câu chuyện rằng:
    “Một viên quan nói với ông: Tôi có đứa con 17 tuổi học đă thông. Tôi cho nó học tiếng nước Tiên Ti, học gảy đàn tỳ bà, lớn lên theo hầu đám công khanh, th́ thế nào rồi cũng được sung sướng.
    Nhan Chi Thôi nghe nói, nín lặng không trả lời. Sau về nhà bảo con cháu rằng:
    - Người này dạy con lạ thay. Như ta, nếu học cách ấy, th́ dù cho được phú quư đến đâu, ta cũng không mong cho các con vậy”.
    Những kẻ mất hết liêm, sĩ, chỉ biết chăm chăm xu thời hay nịnh đời, xem câu chuyện này, nghĩ chẳng đáng thẹn lắm ru!
    Vô Danh
    GIẢI NGHĨA
    Nhan Chi Thôi: nhà văn tự giỏi có tiếng thời Nam Bắc triều. (Xin xem thêm Nhan Chi Thôi trong Phụ Lục C).
    Đức Khổng tức Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Thầy Mạnh tức Mạnh Tử: tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ hiền dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học hành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau biết đạo thông hành, cùng làm sách với học tṛ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học tṛ và vua các nước Chư hầu làm quyển Mạnh Tử, bảy thiên. (Xin xem thêm Mạnh Tử trong Phụ Lục C).
    Tiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận Nội Mông Cổ bây giờ, Tiên Ti vào chiếm nước Tàu, đặt tên nước Ngụy, tức là Bắc triều.
    LỜI BÀN
    Bài này thực đă là một tiếng than cho đời mà ngán cho người. Than ôi! Người đời bấy giờ có phải đa số là người “vô liêm sỉ”, “bất trí sĩ” không? Nếu quả vậy th́ người ta ngậm ngùi than thở rất là phải. V́ “liêm”, “sỉ” là nền tảng của đạo làm người. Ở đời c̣n có sỉ th́ hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm c̣n được, chớ liêm sỉ đă mất, nhất là sỉ, th́ c̣n ǵ là luân thường đạo lư, và mong trông cậy vào đâu nữa. Con người mà đă đến vô sỉ th́ tuy mặc áo, đội mũ mà như con chim, con muông, c̣n cái ǵ là kiêng nể mà không dám làm!

    184. TIỄN NGƯỜI ĐI LÀM QUAN
    Tiết Tôn Nghĩa, người Hà Đông sắp đi làm quan.
    Ông Liễu Tôn Nguyên làm tiệc tiễn hành ở bờ sông, rót chén rượu mời Tôn Nghĩa mà nói rằng:
    - Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của ḿnh là người làm việc cho dân, chớ không phải sai dân làm việc cho ḿnh. Dân ở trong hạt đă chịu nộp thuế để lấy tiền thuê quan giữ sự công b́nh cho dân, mà nay, ngán thay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân th́ biết lấy cả, c̣n công việc của dân th́ trễ biếng, thường khi lại dụng tâm ăn cắp của dân nữa.
    Giả sử ta đây thuê một người làm việc trong nhà, nó đă lấy tiền thuê mà lười không làm việc, lại c̣n ăn cắp đồ thập vật trong nhà, th́ tất ta phải giận mà trách phạt và đuổi nó đi. Bây giờ làm quan như thế nhiều, mà dân không dám nổi giận trách phạt và đuổi đi là tại làm sao? Chỉ tại thế lực khác không làm được mà thôi. Nhưng thế lực dù khác mà lư vẫn là một. Nên người làm quan nếu c̣n biết công lư, th́ ai mà không chịu giữ ǵn, cố làm thế nào cho đáng đồng tiền thuê của dân.
    Này Tôn Nghĩa, ngươi trước đă làm quan huyện ở Linh Lăng hai năm, ngày ngày dậy sớm, đêm đêm thức khuya, chính sự siêng năng, xử kiện công bằng, thu thuế phải chăng, già trẻ không ai đem ḷng thù ghét, ngươi thật là biết lo và giữ ǵn lắm, cho nên ngươi lấy tiền thuê của dân rất là đáng vậy.
    Ta đây chức nhỏ không được dự vào việc bàn bạc xét công cho ngươi đi làm quan, để thăng thưởng hay trách giáng. Ta chỉ biết ngươi đi làm quan, nên thưởng tiệc rượu này lấy lời trân trọng để tiễn hành.
    Liễu Tôn Nguyên
    GIẢI NGHĨA
    Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh anh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng ở nước Tàu, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
    Hà Đông: khu đất ở về phía đông sông Hoàng Hà trong tỉnh Sơn Tây bên Tàu.
    Linh Lăng: tức là phủ Vĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam ngày nay.
    Trách giáng: quở phạt và hạ chức xuống.
    LỜI BÀN
    Bài của Liễu Tôn Nguyên đây thực là hợp với cái ư tưởng tối tân ngày nay. Quan nay không phải là cha mẹ dân, chỉ là kẻ làm công, lấy tiền thuê của dân mà thôi! Ôi! Từ cái bực làm cha mẹ người ta đến cái bực làm kẻ thuê mướn của người ta xa cách nhau đến chừng nào! Tuy vậy, b́nh tĩnh mà nói, bỏ giọng quá khích, tôi tưởng người cầm vận mệnh dân chúng một địa phương mà thiếu tư cách, chỉ biết làm thuê, không nhận chân coi việc nước như việc nhà, coi dân chúng như con em. Hỏi việc làm có chu đáo và dân có được nhờ không? Cả quyết không. Nhất định người làm quan phải làm thế nào cho dân coi như phụ mẫu mới đáng là làm quan. V́ buổi mạt tục này, người làm quan phần nhiều quên cả thiên chức, tham ô tàn ác, cho nên người ta mới dùng hai chữ “công bộc” để cảnh tỉnh họ và cố đưa họ đến chỗ hiểu chức vụ. Vậy chính người làm quan nên vui ḷng tự nhận là công bộc mà cố gắng sao cho dân chúng coi như cha mẹ, nha lại sợ như thần minh th́ mới thật là làm quan v́ dân v́ nước vậy.

    185. VIẾNG NGƯỜI ĐI LÀM QUAN
    Tôn Thúc Ngao được làm lệnh roăn nước Sở.
    Cả nước quan, dân đều lại mừng.
    Sau cùng có một ông lăo già mặc áo vải, đội mũ trắng, đến viếng.
    Tôn Thúc Ngao thấy thế ăn mặc chỉnh tề ra tiếp kiến, thưa với ông lăo rằng:
    - Vua chúng tôi không biết tôi là người bất tài, quá tin mà cho làm quan để tôi làm lụy cho lại, cho dân. Ai ai cũng đến mừng, một ḿnh lăo đến viếng chắc là có ư kiến ǵ đây chăng.
    Ông lăo nói:
    - Có. Thân đă sang mà khinh người th́ dân không chuộng; chức đă cao mà chuyên quyền th́ vua sinh ghét; lộc đă hậu mà không tri túc th́ gặp phải tai vạ.
    Tôn Thúc Ngao vừa vái, vừa nói: Xin kính vâng lời. Và nài ông lăo dạy thêm cho mấy câu nữa.
    Ông lăo bảo:
    - Chức đă cao, ư càng phải nghiêm cung; quan đă to, tâm càng phải tế nhị; lộc đă hậu, việc càng phải cẩn thận, chớ có lấy càn, làm bậy. Ông giữ được ba điều ấy là đủ trị dân.
    Thuyết Uyển
    GIẢI NGHĨA
    Thuyết Uyển: Bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
    Tôn Thúc Ngao: quan tướng giỏi nước Sở thời Xuân Thu, ông là nhà cai trị, rất có giá, nước Sở nhờ ông mà được b́nh trị.
    Sở: một nước mạnh đời Xuân Thu và Chiến quốc ở vào Hồ Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, và phía nam tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Lệnh roăn: chức quan cầm quyền chính trong nước.
    LỜI BÀN
    Đầy mà không để ràn rụa, bố thí luôn măi là cách giữ được giàu bền. Cao mà không dám ngông cuồng, tự nhiên như không giữ được sang măi.
    Ở đời nhiều người bần tiện biết tri đức mà được giàu sang; ít người giàu sang biết tri đức để được lâu dài hưởng thụ. Sao vậy? V́ xử cảnh giàu sang dễ sinh ra kiêu sa, phóng đăng mà đă kiêu sa phóng đăng là cái hoạn nạn tai vạ nằm sẵn ở đấy rồi. Cho nên lời ông lăo dặn Tôn Thúc Ngao đây thực là có giá lắm. Chả những người làm quan nên tuân theo, ai may mà được xử vào cảnh thịnh vượng cũng nên nhớ câu khuyên răn này mà phục thiện như Tôn Thúc Ngao đây, th́ mới mong trường cửu được.

    186. ĐỨC UỐNG RƯỢU
    Có một tiên sinh đại nhân lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời mặt trăng làm cửa làm ngơ, lấy cả thiên hạ làm sân, làm đường, đi không thấy vết xe, ở không có nhà cửa, trời tức là màn, đất tức là chiếu, ư muốn thế nào th́ thế. Lúc ở th́ nâng chén, cầm bầu, lúc đi th́ vác chai, xách nậm, lúc nào cũng chỉ có việc rượu chè, không c̣n biết đến việc ǵ nữa.
    Có một vị công tử và một vị quan sang nghe tiếng tiên sinh như thế, bèn đến tận nơi, xắn tay vén áo, người th́ trừng phạt nghiến răng, người th́ trần lễ, thuyết pháp, những giọng thị phi đâu bấy giờ ầm ĩ xôn xao như đàn ong dậy.
    Lúc đó tiên sinh mới ôm ṿ rượu, ghé vào thùng rượu, tợp cả chén rượu, phùng mồm những rượu, vểnh bộ râu lên, ngồi dạng hai chân, gối đầu vào men, lăn lưng vào bă, không nghĩ, không lo, hớn hở vui thú, ngất ngưởng say sưa, thoáng rồi lại tỉnh. Lắng tai cũng không nghe thấy tiếng sấm sét; nh́n kỹ cũng không trông thấy h́nh Thái Sơn; nực, rét thiết đến than, cũng không biết; lợi dục cảm đến t́nh, cũng không hay; cuối xuống trông vạn vật rối rít ở trước mắt khác nào như bèo nổi bồng bềnh trên sông Giang, sông Hán.
    Hai vị kia đứng cạnh, tiên sinh bấy giờ xem cũng như con ṭ ṿ, con sâu róm mà thôi.
    Lưu Linh
    GIẢI NGHĨA
    Lưu Linh: tên tự là Bá Luân, là người phóng đạt làm quan đời nhà Tần đến chức Kiến uy tướng quân. (Xin xem thêm Lưu Linh trong Phụ Lục C).
    Tiên sinh đại nhân: nghĩa thẳng là ông thầy bực kẻ cả. Đây Lưu Linh dùng bốn chữ ấy để chỉ chính ḿnh.
    Thái Sơn: núi to và cao nhất ở tỉnh Sơn Đông bên Tàu.
    Thiết: thấu đến.
    Lợi dục: tiền của và ḷng ham muốn.
    Vạn vật: muôn vật ở trong trời đất.
    Sông Giang: con sông rất to ở bên Tàu, hạ lưu tức là con sông Dương Tử Giang.
    Sông Hán: tức là sông Hán Thủy, phát nguyên ở Thiểm Tây và chảy vào sông Giang.
    LỜI BÀN
    Nói đến say rượu, th́ ai cũng phải nhắc Lưu Linh mà Lưu Linh sở dĩ c̣n lưu danh lại cho ta biết là nhờ bài “Tửu đức tụng” ta dịch trên này.
    Uống rượu say được như tiên sinh thực là hiếm có. Say mà đến lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu, trút sạch được hết lợi, dục, quên bỏ được hết việc đời, kẻ sang giàu, người quyền thế trông chỉ c̣n như con sâu róm, con ṭ ṿ, th́ quả là một cái say thú vị, làng say vị tất đă mấy ai hưởng được. Nên tưởng những kẻ chưa tới được cảnh say, chưa biết cái thú say như thế là ǵ, cũng chẳng nên nghị luận cái say, cười người say chưa thấy đâu, lại phải người say cười lại. C̣n những hạng người say mà nói nhảm, làm càn, phạm vào những điều thương luân, bại lư mà vin Lưu Linh th́ lại là tội nhân của Lưu Linh, chớ không phải đồ đệ của Lưu Linh. Nói rộng ra: Giới tửu mà không uống rượu theo đúng như Phật dạy cố nhiên là đáng trọng, nhưng uống rượu mà vui tươi tao nhă như thần tiên, th́ cũng không có thể khinh được.

    187. LÀNG SAY
    Ngày trước, ta thường đến một làng kia, vừa bước chân vào th́ chuếnh choáng, nghiêng ngả, mờ mịt, lu bù, trông trời như thấp, trông đất như cao, mặt trời mặt trăng như không có ánh sáng. Mắt ta mờ, tai ta ù, tâm thần ta mê hoặc, thân thể ta mệt nhọc. Ta mới hỏi người rằng: Đây là làng ǵ? Người nói: Đây là nơi vui say, sẵn của ngon bùi, tha hồ ăn uống, phóng phiếm. Tục truyền là “Làng say”.
    Than ôi! Đây gọi là làng say? Cổ nhân nói dối ta thật. Ta thường than cho lũ Lưu Linh, Nguyễn Tịch, đương lúc trong nước lục trầm, bốn phương rối loạn, mà những tay giỏi giang, sinh ra chán đời, dông dài liều lĩnh, thất thểu rủ nhau vào làng say. Cứ như ư riêng ta, th́ trong làng say, không có ǵ là vui cả…
    Hoặc có kẻ nói: Đến đây cho nguôi những sự lo nghĩ. Ôi! Cái lo nghĩ mà c̣n có cách nguôi được, th́ không phải là lo nghĩ. Nếu quả nhiên có điều ǵ đáng lo, th́ bất tất phải t́m cách giải. Huống chi làng say này không thể giải được lo. Vậy th́ người vào làng say đều là người vô lo, vô lự cả.
    Than ôi! Tự đời Lưu Linh, Nguyễn Tịch đến bây giờ, khắp cả thiên hạ đâu cũng có làng say. Làng say càng đông, th́ thiên hạ càng vắng. Mờ mịt, say sưa, ẻo lả, yếu đuối, ai đă vào làng say, không biết lối mà ra. Gián hoặc có người vào làng say mà không mê, th́ lại phải những kẻ đă mê hoặc bại loạn, chê bai, nói cười, mai mỉa, thế mới thật là lũ say ở làng say.
    Đái Danh Thế
    GIẢI NGHĨA
    Đái Danh Thế: người đời Khang Hi nhà Thanh đỗ Tiến sĩ, tài danh nổi tiếng, chuyên riêng về sử học, về sau bị nhà Thanh làm tội, v́ ông làm sử có ư tôn nhà Minh.
    Lưu Linh, Nguyễn Tịch: hai người đời nhà Tấn, tính phóng đạt hay rượu mà không thiết ǵ đến việc đời. (Xin xem thêm Lưu Linh trong Phụ Lục C).
    LỜI BÀN
    Làng say tức là chỉ tụi người say rượu. Mà phàm ai đă bước chân vào làng say cũng cho là gặp nơi vui thú cả. Thường lại viện những lẽ này lẽ khác, tưởng như là chính đáng nhất là cái lẽ đỡ lo, đỡ nghĩ. Ôi! Những đă gọi là việc đáng lo, đáng nghĩ, th́ tưởng càng phải nên tỉnh để mà lo nghĩ cho phân minh sáng suốt, chớ say th́ lo nghĩ sao cho được. Cái say chính là cái làm cho bại hoại hết công việc. Việc to tày trời đến lúc say cũng c̣n bỏ, huống c̣n mong sao cho làm nên việc thường hàng ngày nữa.

    188. TREO KIẾM TRÊN MỘ
    Duyên Lăng Quư Tử sang sứ nước Tấn có đeo thanh bảo kiếm qua chơi với vua nước Từ.
    Vua nước Từ ngắm thanh kiếm ra dáng thích muốn xin mà không nói ra.
    Duyên Lăng Quư Tử, v́ c̣n phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa dâng vua Từ được thanh kiếm ấy, nhưng trong tâm đă định cho.
    Khi sang sứ Tấn xong, về qua Từ, th́ vua Từ không may đă mất, đành tháo thanh kiếm đưa cho Tự quân. Các người theo hầu ngăn lại, nói:
    -Thanh kiếm ấy là của báu của nước Ngô, không phải là thứ để tặng được.
    Duyên Lăng Quư Tử nói:
    -Không phải là ta tặng. Độ trước ta lại đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chẳng nói ra, mà như dáng muốn lấy. Ta v́ c̣n phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy đă định cho. Nay vua Từ chết mà ta chẳng hiến thanh kiếm, th́ ta tự dối tâm ta. Tiếc kiếm mà dối tâm, người liêm không chịu làm.
    Nói xong bèn tháo kiếm đưa cho Tự quân.
    Tự quân nói: Tiên quân tôi không có dặn lại việc ấy, tôi không dám nhận kiếm.
    Quư Tử bèn treo thanh kiếm vào cái cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
    Người nước Từ ai cũng khen Duyên Lăng Quư Tử không quên người thân cố, đem thanh gươm báu treo vào cây bên mộ.
    Tân Tự
    GIẢI NGHĨA
    Tân Tự: sách của Lưu Hướng, người đời nhà Hán soạn.
    Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
    Từ: tức quận Đông Hải ngày nay.
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Thượng quốc: tiếng gọi tên một nước to mạnh hơn mà ḿnh phụ thuộc vào.
    Tự quân: vua mới lên ngôi.
    Tiên quân: tiếng để gọi vua cha đă mất.
    Thân cố: thân bằng cố cựu.
    LỜI BÀN
    Lúc vua Từ có ư lấy thanh kiếm, th́ Quư Tử không tự ư đưa được, v́ công việc phải làm c̣n chưa xong. Đến lúc Quư Tử có thể tặng thanh kiếm được, th́ vua Từ không sao nhận được nữa, v́ đă thác mất rồi. Giá phải người tầm thường, xử vào cái địa vị Quư Tử th́ tuy trong bụng có điều hối hận, nhưng cũng tiếc thanh kiếm mà đem về nước. Nhưng Quư Tử vốn là người trong tâm đă nghĩ làm sao th́ phải làm cho ḱ được như thế mới nghe, cứ đem thanh kiếm treo tại mộ vua Từ. Người ta tuy khuất, nhưng tâm ḿnh vẫn c̣n, mà ḿnh không muốn dối tâm ḿnh thực là liêm lắm vậy. Chẳng bù với những kẻ đă tự dối ḿnh lại đi dối cả thiên hạ, nhất là đối với người đă khuất tuy có hẳn lời hứa đinh ninh mà rồi nuốt ngay lời đi được.

    189. CHẾT V̀ LỄ NGHĨA HAY V̀ T̀NH
    Ngũ Tử Tư gặp phải nạn vua Sở giết cha, giết anh chạy trốn sang nước Ngô, định t́m cách báo thù. Giữa đường bị ốm và hết lương, phải ăn mày mà ăn. T́nh cờ gặp một cô con gái đang đập sợi ở bờ sông Lại Thủy, bên cạnh có giỏ cơm.
    Tử Tư đến gần nói: Thưa cô, cô sẵn cơm đây, cô có làm phúc cho tôi được một bữa không?
    Cô con gái đáp: Tôi ở một ḿnh với mẹ, năm nay ba muơi tuổi, chưa có chồng. Ông đứng lui ra, cơm tôi, tôi ăn không thể cho được.
    Tử Tư nói: Thưa cô, cô nhủ ḷng thương cho kẻ cùng đồ này ít cơm, th́ có ngại ǵ tai tiếng.
    Cô con gái biết Tử Tư không phải người thường, bèn mở giỏ cơm cho với cả tương, dưa nữa. Tử Tư ăn no, cô con gái bảo:
    -Quân tử đi xa, sao không ăn thêm cho rơ no nữa?
    Tử Tư ăn xong lúc đứng lên đi, bảo cô con gái rằng:
    -Cô che đậy giỏ cơm, bầu nước này đi, chớ để cho lộ chuyện.
    Cô con gái thở dài, nói rằng:
    Than ôi! Thiếp một ḿnh ở với mẹ năm nay ba mươi tuổi, một ḷng trinh bạch, không có tai tiếng ǵ. Nay đưa cơm cho trượng phu ăn, qua vượt cả lễ nghĩa, thiếp lấy làm khổ tâm lắm.
    Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh lại trông th́ cô con gái đă đâm đầu xuống sông rồi.
    T́nh Sử
    GIẢI NGHĨA
    Ngũ Tử Tư: tên là Viên, người nước Sở thời Xuân Thu v́ cha, anh báo thù mà giết được vua Sở. (Xin xem thêm Ngũ Tử Tư trong Phụ Lục C).
    Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu bây giờ vào địa phận phía Nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Triết Giang bây giờ.
    Lại Thủy: tên sông ở vào huyện Lật Dương, tỉnh Giang Tô ngày nay.
    LỜI BÀN
    Một người cùng đồ đang đói mà gặp một người có cơm cho ăn mà người ấy lại là một cô con gái nhan sắc, một cô con gái đă đứng tuổi, chưa chồng, mà cứu được một người dạng bộ trông rơ ra một đấng trượng phu không phải kẻ tầm thường, cái cảnh ngộ của đôi bên tuy là t́nh cờ gặp gỡ, nhưng biết đâu mà trai anh hung, gái thuyền quyên lại không bỗng dưng sinh ra ḷng quyến luyến, yêu thương nhau. Mối t́nh nó thường khiến ra như thế. Nhưng chàng ăn xong chàng đi, thiếp ở lại c̣n một ḿnh, chàng lại dặn thiếp đừng để lộ chuyện, chắc chàng đang tính đại sự, thiếp đâu lại dám để hại chàng. Vả chăng thiếp là con gái mà đă tṛ chuyện với trai, lại cho trai ăn cơm của ḿnh, vượt qua cả lễ nghĩa quá nghiêm đời bấy giờ, đường kia nỗi nọ thật là khó tính. Chi cho bằng thiếp liều ḿnh thiếp, vừa được trọn t́nh với chàng, bền chí cho chàng lại vừa giữ được nghĩa với đời chẳng là đôi đường vẹn đôi ư! Ôi! T́nh như thế cũng là t́nh, một cái t́nh để thơm muôn thưở ai mà chẳng phải kính phục.

    190. V̀ NGHĨA NÊN T̀NH
    Một người thiếu nữ họ Trương ở nhà chồng tại Tô Thành về thăm cha mẹ đẻ. Có tên thị tỳ, mang hộp đồ nữ trang theo hầu, chẳng may giữa đường đánh rơi, lâu lâu mới biết, trở lại t́m, th́ thấy có người ăn mày đang ngồi giữ hộp ấy. Tên thị tỳ hoảng hốt nói, th́ người ăn mày liền trao trả và nói rằng:
    -Ta đă cùng khổ đến thế này mà lại c̣n cuỗm thêm những của vô cớ, th́ mong khá sao được.
    Tên thị tỳ mừng lắm, lấy một chiếc thoa ra tạ. Người ăn mày cười nói:
    -Bao nhiêu của chẳng lấy, lại lấy một chiếc thoa ư!
    Tên thị tỳ nói:
    -Tôi mà đánh mất cái hộp đồ nữ trang này, th́ đến chết mất. May mà người được, người trả lại cho, thế là người cho tôi của, lại cứu cho tôi sống vậy. Dù người không màng báo, tôi cũng không dám quên ơn. Nhà tôi ở ngơ... từ nay về sau, sớm trưa tôi xin đợi người đến cửa, xẻ phần cơm của tôi để người ăn.
    -Nhưng cô ở trong nhà, tôi làm thế nào mà thấy được?
    -Trước của nhà tôi, có cây trúc cao, người cứ rung cây, là tôi khắc biết.
    Người ăn mày sau cứ làm như lời.
    Tên thị tỳ cũng cứ cho ăn măi.
    Lâu người nhà biết, mách chủ. Chủ ngờ có ngoại t́nh đem ra tra hỏi, tên thị tỳ phải thú thật.
    Người chủ nhà thấy vậy, bèn gọi người ăn mày đến nhà nuôi, rồi gả tên thị tỳ cho.
    Sau hai người thành một đôi vợ chồng khá.
    T́nh Sử
    LỜI BÀN
    Của không đáng lấy th́ một mảy cũng không lấy, anh ăn mày này liêm thật, cái số không giàu th́ con mắt tráo trưng cũng vô ích, anh ăn mày này đạt thật. Hoài! Hạng ăn này mà có duyên may, mà gặp dịp tốt, th́ thật là con người có ích cho xă hội lắm.
    Giả sử anh ăn mày này mà lại có cái bụng "ăn mày" như những hạng người đời nay quá xu hướng về vật chất, th́ biết đâu vợ chồng nhà kia, không v́ hộp nữ trang mà đến bỏ nhau, tớ thầy nhà kia, không v́ hộp nữ trang mà đế có mạng, cả chính anh ăn mày kia không v́ được hộp nữ trang mà đeo thêm muôn ngh́n tội ác vào thân.
    Cùng khổ mà thích làm lành, tôi tớ mà biết trả nghĩa, sau thành vợ chồng, tuy là t́nh duyên, nhưng cũng là tự ḿnh tạo nên vận mệnh cho ḿnh vậy, đáng khen đáng quư lắm thay!

  10. #40
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa

    191. NGHĨA CÔNG NẶNG HƠN T̀NH RIÊNG
    Quân nước Tề sang đánh nước Lỗ.
    Khi đến chỗ giáp giới, trông thấy một người đàn bà một tay bồng một đứa bé, một tay dắt đứa nữa. Người đàn bà thấy quân kéo tới, vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống mà bồng đứa bé đang dắt, rồi chạy trốn vào trong núi. Đứa bé kia chạy theo khóc, người đàn bà cứ chạy không ngoảnh lại.
    Một viên tướng nước Tề cho bắt đến, hỏi:
    -Đứa bé nàng bế chạy là con ai? C̣n đứa trẻ nàng bỏ liều là con ai?
    Người đàn bà thưa:
    -Đứa tôi bế là con anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi. Tôi thấy quân lính kéo đến, sức tôi không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.
    Viên tướng nước Tề nói: Con với mẹ kể t́nh thân yêu th́ đau xót lắm. Nay bỏ con ḿnh lại mà chạy lấy con anh là cớ làm sao?
    Người đàn bà nói:
    Con tôi là “ t́nh riêng”, con anh tôi là “nghĩa công”. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa th́ tính làm sao. Cho nên tôi đành bỏ liều con tôi mà làm việc “nghĩa”. Tôi không thể nào chịu tiếng “vô nghĩa” mà vác mặt sống ở nước tôi được.
    Viên tướng nước Tề dừng quân lại, sai người tâu với vua Tề rằng:
    -Nước Lỗ chưa thể đánh được. Quân ta mới đến chỗ cương giới, đă thấy con mụ đàn bà xó rừng c̣n biết làm điều “Nghĩa” chẳng chịu đem “T́nh riêng” mà hại “Nghĩa công” huống chi là những bậc quan lại, sĩ phu ở trong nước. Xin kéo quân về.
    Vua Tề cho là phải.
    Sau vua Lỗ biết chuyện này, thưởng người đàn bà một trăm tấm lụa và phong cho hai chữ “Nghĩa cô”.
    Lưu Hương Liệt Nữ Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Lỗ: tên một nước nhỏ, có tự đời nhà Chu sau phải nước Sở diệt mất, ở vào phủ Duyên Châu và Bĩ tức tỉnh Sơn Đông ngày nay.
    LỜI BÀN
    T́nh với nghĩa cũng là quư, không quyết hẳn được bên nào nặng hơn bên nào. Cho nên ta phải cân nhắc cho cẩn thận, t́nh nặng hơn nghĩa, th́ ta giữ t́nh, nghĩa nặng hơn t́nh, th́ ta trọng nghĩa.
    Như người đàn bà nói trong truyện đây so cái “t́nh riêng” đối với “ nghĩa công” th́ không c̣n phải do dự ǵ nữa. Thế nào là t́nh riêng? Là cái ḷng yêu riêng của một ḿnh ḿnh. Thế nào là nghĩa công? Là cái việc phải đối với nhà, với nước, với thiên hạ. T́nh riêng cứ kể cũng là nặng, nhưng so với nghĩa công th́ nghĩa công c̣n nặng gấp mấy muơi. Nghĩa công đă nặng, th́ đến cái thân là yêu nhất của ḿnh ở đời ḿnh, c̣n có thể hi sinh để mà giữ nghĩa huống chi là những thứ ngoài thân. Nguời đàn bà đây hiểu thấu lẽ ấy nên mới đành đem nghĩa để đoạn t́nh, chẳng v́ t́nh mà hại nghĩa để giữ lấy ṇi giống ông cha nhà chồng. Ngờ đâu cái ảnh hưởng của việc nghĩa ấy c̣n làm quân ngoại xâm (Tề) phải kéo nhau về, v́ chúng nghĩ: “nước người có thể cướp được, ḷng dân có nghĩa không thể cướp được, về mới cao, sống chung sao được”. Thế mới hay, làm dân một nước mà không biết trọng “ nghĩa” là người dân tai hại cho tổ quốc vậy.

    192. MẸ KHÔN CON GIỎI
    Vương Lăng, người đất Bái là người hào trưởng trong huyện.
    Cao Tổ nhà Hán, lúc c̣n hàn vi, quư Vương Lăng như anh. Khi Cao Tổ khởi binh, đánh dẹp, Vương Lăng có vài ngh́n quân, đem đi phụ theo Cao Tổ.
    Hạng Vũ thấy thế, bắt mẹ Vương Lăng giam ở trong quận. Sứ giả của Vương Lăng đến, Hạng Vũ bách mẹ Lăng phải dụ Lăng về với ḿnh.
    Bà mẹ Lăng, tiễn sứ giả ra một ḿnh, khóc mà bảo rằng:
    -Người nên v́ thiếp già này nhắn bảo hộ Lăng một câu: “Cứ hết ḷng mà theo thờ Hán Vương chớ v́ có thiếp già đây mà sinh ra nhị tâm nhé”.
    Nói đoạn, bà cầm gươm tự đâm chết, cốt ư để khuyến khích Vương Lăng giữ cho bền ḷng.
    Hán Sử
    GIẢI NGHĨA
    Cao Tổ: tức là Bái Công vua đầu nhà Tây Hán, phá nhà Tần, diệt nhà Sở mà có thiên hạ.
    Nhà Hán: (203 TCN–220) nối tiếp sau nhà Tần và trước thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Người Trung Quốc coi thời gian trị v́ của nhà Hán, kéo dài 400 năm, là một trong những giai đoạn vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử Trung Quốc. V́ thế, đa phần người Trung Quốc ngày nay vẫn tự cho ḿnh là "người Hán", để vinh danh ḍng họ Lưu và triều đại mà họ đă sáng lập ra. Giai đoạn đầu tiên trong hai giai đoạn của nhà Hán, được gọi là Tiền Hán hay triều Tây Hán 206 TCN–9 CN, đóng đô ở Trường An. Hậu Hán hay triều Đông Hán 25–220, đóng đô ở Lạc Dương. (Chú thích này được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt").
    Tần: tên nước thời Xuân Thu (tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà nhất thống thiên hạ.
    Sở: Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
    Hạng Vũ: tức là Hạng Tịch khỏe mạnh và tài khá hơn người, tranh thiên hạ với Bái Công sau thua chết ở Cai Hạ.
    LỜI BÀN
    Đang lúc thiên hạ loạn lạc, quần hùng nổi lên, dù người có mắt tinh đời cũng chưa dễ đoán được sau này ai là vua, ai là giặc.
    Như Bái Công và Hạng Vũ đây, đôi bên bấy giờ đang tranh đấu. Bái Công thua luôn, Hạng Vũ được luôn, lại càng khó biết sự thống nhất về tay ai hơn nữa. Thế mà khen thay, bà mẹ Vương Lăng biết con quy phục Bái Công là phải. Một khi bà đă hiểu rơ ai là người có chính nghĩa, trước bà liều thân để khuyên con, sau là thí thân để vững ḷng con, thực là một bậc đàn bà khôn ngoan sáng suốt hiếm có vậy. Cho nên người đời trước có câu khen rằng: “Mẫu hề hà trí, tử hề hà trung, nhất môn mẫu tử, vạn cổ anh phong” nghĩa là “mẹ sao mà khôn như thế, con sao mà trung như thế, một nhà mẹ con tiếng thơm muôn đời”, thật là phải lắm.

    193. TU TẠI GIA
    Dương Phủ, lúc nhỏ nhà nghèo nhưng hết sức cày cấy đẻ phụng dưỡng song thân.
    Một hôm, ông nghe bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ, ông bèn nói với song thân xin từ biệt ít lâu để đến hầu bực Vô Tế.
    Đi được nửa đường, ông gặp một vị lăo tăng bảo ông rằng:
    -Được gặp bực Vô Tế chẳng bằng được gặp Phật.
    Ông hỏi: Phật ở đâu?
    Lăo tăng nói: Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này, th́ chính là Phật đấy.
    Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai như thế cả. Khi ông tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa, mẹ ông nghe tiếng mừng quá, tức th́ vội khoác chăn đi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bây giờ ông trông ra, th́ h́nh dáng Phật, mà lăo tăng đă nói chuyện cho nghe.
    Từ đấy, ông biết cha mẹ trong nhà tức là Phật, chẳng phải cầu kỳ đi mộ Phật đâu xa nữa.
    Lư Nguyên Dương
    GIẢI NGHĨA
    Dương Phủ: người đời nhà Minh đỗ Tiến sĩ làm ngự sử có tiếng là một ông quan thẳng và liêm.
    Thục: tên đất ở tỉnh Tứ Xuyên bây giờ.
    Vô Tế đại sĩ: một nhà tu hành đắc đạo vô cùng.
    LỜI BÀN
    Bài này cốt dạy ta về chữ “Hiếu” v́ cha mẹ như Phật, con phải phụng thờ cha mẹ như phụng thờ Phật vậy. Phật là một v́ tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn, thiên hạ thành kính thờ phụng rất phải. Nhưng cha mẹ là người sinh thành ra thân ḿnh, th́ há ḿnh lại không nên thờ phụng thành kính hay sao! Phật xa, cha mẹ gần, con cái hăy nên một niềm thành kính mà thờ phụng lấy mẹ cha trước.
    Thứ nhất th́ tu tại gia
    Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
    Tu đâu bằng tu tại gia,
    Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu.
    Nghĩa những câu cổ ấy thực là đúng với nghĩa trong bài này. Vả lại, hiếu là đầu cả trăm nét tốt, chỉ có người có hiếu mới trung với tổ quốc và nhân từ với nhân loại vậy.

    194. NGƯỜI VỢ HIỀN MINH
    Vợ Nhạc Dương Tử là một bậc hiền minh.
    Dương Tử một hôm đi đường bắt được lọ vàng người ta đáng rơi, mừng rỡ đem về nhà đưa cho vợ.
    Vợ nói: Thiếp trộm nghe người chí sĩ không ai uống nước suối “Đạo toàn”, người liêm khiết không nhận của ăn “Ta lai”. Chàng nay nhặt được của rơi đường đem về cầu lợi để ô uế phẩm hạnh, thử nghĩ có nên không?
    Dương Tử nghe nói thẹn quá, liền đem lọ vàng bắt được bỏ ngoài đồng. Rồi đi xa, t́m thầy để học.
    Đi học mới được một năm, Dương Tử về chơi nhà. Vợ quỳ xuống trước mặt, hỏi rằng:
    - Chàng có việc ǵ mà về nhà?
    Dương Tử nói:
    - Ta đi lâu nhớ nhà th́ về, chẳng có việc ǵ cả.
    Vợ cầm con dao đến chỗ khung cửi nói rằng:
    - Lụa đang dệt đây là phải làm từ lúc nuôi tằm ươm tơ cho đến lúc mắc lên được khung cửi. Nếu đánh đứt một sợi mà đứt măi, th́ đứt đến hàng tấc, đứt hàng tấc mà đứt măi th́ đứt đến hàng thước, hàng trượng, hàng cả tấm. Nếu bây giờ mà thiếp chặt đoạn đang dệt đây, th́ bao nhiêu công phu ngày giờ từ trước đến nay đều mất hết cả. Chàng đi học là để trở nên một bậc tài giỏi, nếu đang học mà bỏ về, th́ khác ǵ tấm lụa đang dệt đây mà chặt đi vậy.
    Dương Tử thấy nói, cảm động lắm, đi học luôn bẩy năm đến tốt nghiệp mới về.
    Vợ ở nhà chăm chỉ làm ăn trong bấy nhiêu năm, vừa nuôi nấng mẹ chồng, vừa nuôi cho chồng ăn học.
    Nhạc Dương Tử nhờ có người vợ hiền như thế mà sau được quí hiển.
    Hậu Hán Thư Nhạc Dương Tử Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Hậu Hán Thư: là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220. (Chú thích này được trích một phần từ Phụ Lục D; xem thêm Hậu Hán Thư trong Phụ Lục D).
    Dương Tử: người thời Chiến quốc, tên tự là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự một ḿnh cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi th́ thiên hạ tự nhiên thái b́nh”. Học thuyết ấy rất thịnh hành thời Chiến quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngă”.
    Hiền minh: có tài, có nết, sáng suốt công việc.
    Chí sĩ: người có khí tiết.
    Đạo Toàn: tên một cái suối ở huyện Tứ Thủy tỉnh Sơn Đông, Đạo Toàn nghĩa đen là cái suối ăn trộm, tên nghe đáng ghét nên cho nên khát cũng không muốn uống nước ấy.
    Ta lai: thương rằng cùng khổ đói khát mà gọi cho ăn và có ư khinh bỉ.
    LỜI BÀN
    Cứ theo lẽ thường, cái ǵ nên làm thế nào th́ người tài trai phải biết tự chủ trương lấy, không cần người đàn bà dạy bảo rồi mới chịu làm. Tuy vậy lắm khi cũng phải có sự kích thích ở ngoài vào th́ mới dễ khiến người ta phấn chấn lên mà cố sức làm cho nên việc, và nhất là sự khuyến khích của vợ.
    Như vợ Dương Tử đây thật là khéo biết dạy chồng, làm cho chồng thành ra người được có khí lại có chí và sau quí hiển được. Đúng với những câu ngạn ngữ “giai khôn v́ vợ, giá ngoan v́ chồng”, “giàu v́ bạn sang v́ vợ” lắm.

    195. TRỌNG NGHĨA KHINH TÀI
    Ông Phạm Trọng Yêm, người nhà Tống, làm quan đến Tể Tường mà vẫn nghèo suốt đời, tính ông trọng nghĩa, khinh tài, thích làm việc bố thí nhất là đối với người trong họ, lại càng hậu lắm. Ông để dành lương bổng, mua được một thửa đất làm nghĩa trang để lấy hoa lợi cứu người nghèo khó trong họ. Phàm việc tang tóc, cưới xin của chúng, ông đều lo liệu giúp đỡ cho hết.
    Con ông là Thuần Nhân, đức tính cũng như ông. Lúc ông làm quan ở Khai Phong, để dành được năm trăm thùng thóc, sai Thuần Nhân đem về quê. Thuần Nhân đi đến Đan Dương gặp người bạn cũ của cha là Thạch Man Khanh, nhà đă cùng quẫn, chẳng may gặp ba cái tang một lúc, Thuần Nhân giúp cho cả năm trăm thùng thóc. Hai con gái Man Khanh lớn tuổi mà chưa gả bán xây dựng, không chỗ nương tựa. Nhân Thuần cho nốt cả cái thuyền.
    Đến lúc về nhà cha hỏi:
    - Con đi có gặp ai không?
    Thuần Nhân thưa: - Con đi đến Đan Dương có gặp Thạch Man Khanh nhà nghèo khổ, lại gặp lúc liền ba cái tang, hai con gái lớn không có ǵ để gây dựng, con có tự tiện cho cả năm trăm thùng thóc mà c̣n chưa đủ.
    Ông bảo: - Thế sao con không cho nốt cả cái thuyền?
    Thuần Nhân thưa: - Con cũng đă cho cả cái thuyền rồi.
    Ông khen phải, rồi nói: - Cứ như thế mới đáng là con ta.
    Phạm Trọng Yêm Truyện
    GIẢI NGHĨA
    Phạm Trọng Yêm: bực danh thần nhà Tống, có chí to gánh vác việc đời, lo th́ lo trước khi thiên hạ lo, vui th́ sau khi thiên hạ vui. (Xin xem thêm Phạm Trọng Yêm trong Phụ Lục C).
    Tống: Một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Trọng nghĩa: lấy điều phải làm trọng mà hết sức làm.
    Khinh tài: cho của cải là thường, không để cho của lấn được nghĩa.
    LỜI BÀN
    Làm quan đến bậc tể tướng mà nhà vẫn nghèo, thế là thanh liêm đáng trọng. Để dành được đồng nào lại đem bố thí cho kẻ nghèo khổ, thế là nhân đức, đáng trọng hơn nữa. Có năm trăm hộc thóc cho cả thế là thương người, đáng phục. C̣n chiếc thuyền ḿnh đi cũng cho nốt, thế là quên ḿnh đáng phục hơn nữa. Rơ ràng cha nào, con nấy; hai cha con ông Phạm Trọng Yêm thật là có ḷng nhân ái, hiểu thấu cái nghĩa cứu kẻ khốn cùng, giúp người tai nạn là việc vui ḷng nhất ở đời. Cho nên ta có câu:
    Sướng ǵ hơn sướng làm lành,
    Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu.

    196. MUA XƯƠNG NGỰA
    Người nước Tề đánh nước Yên giết được vua Yên.
    Người Yên lập thái tử tên là B́nh lên làm vua tức là vua Chiêu Vương.
    Chiêu Vương lên ngôi, thương dân lo việc nước, cầu người hiền tài. Một hôm, bảo Quách Ngỗi rằng:
    - Nước Tề nhân dịp nước ta loạn, sang đánh lấy nước ta. Ta biết rơ ràng nước ta nhỏ, dân ta yếu, thực khó ḷng mà báo thù. Song nếu được những người giỏi cùng lo toan việc nước may mà rửa sạch sự sĩ nhục của tiên vương được chăng. Chí nguyện quả nhân như vậy tiên sinh xem ai là người giỏi để cùng ta lo toan việc nước th́ hay.
    Ngỗi nói: Xưa có ông vua đưa ngh́n vàng cho người nội thị đi mua con ngựa chạy ngày ngh́n dặm. Khi đến, ngựa đă chết, anh ta mua bộ xương ngựa năm trăm nén vàng đem về. Vua thấy thế giận lắm. Anh ta thưa: “Ngựa chết c̣n quư mà mua như vậy huống chi là ngựa sống. Tôi chắc thế nào nay mai người ta cũng đem ngựa hay đến bán cho nhà vua”. Quả nhiên, không đầy một năm mà người ta đem ngựa hay đến bán đă ba bận. Nay nhà vua muốn được người giỏi th́ trước hăy dùng tôi. Người giỏi hơn tôi thấy thế há có ngại xa mà không lại ư?
    Vua Chiêu Vương lập tức dùng Quách Ngỗi, kính trọng Quách Ngỗi như thầy. Quả nhiên không bao lâu, những người giỏi các nơi tranh nhau sang nước Yên.
    Vua Chiêu Vương uỷ thác việc nước cho những người ấy. Sau nước Yên thành một nước cường thịnh thật.
    Chu Sử
    GIẢI NGHĨA
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc) và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
    LỜI BÀN
    Có bỏ năm trăm nén vàng ra mua bộ xương ngựa, sau mới có ngựa hay mà dùng; có dùng Quách Ngỗi là người tài vừa và ở gần trước, sau mới có người thật hiền tài ở xa cầu đến. Cái lối ấy là lối quyền mưu trí thuật của bá giả đời bấy giờ, để quyến dẫn lấy nhân tài trong thiên hạ.
    Đọc bài này, ta đáng khen Quách Ngỗi, đă t́m được câu thí dụ hay để tự tiến lấy ḿnh mà nhất là khi được tin dùng lại hết ḷng báo đáp, không phụ sự ủy thác của Chiêu Vương.
    Ta lại đáng phục Chiêu Vương là biết nghe Quách Ngỗi mà nhất là biết cố ư lo toan báo thù cho tiên vương, và dụng tâm làm cho cố quốc được cường thịnh.

    197. LỜI NÓI KẺ BẮT RẮN
    Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng, chạm vào cây cỏ th́ cây cỏ chết, cắn phải người, th́ không thuốc ǵ chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.
    Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn th́ được trừ thuế ruộng.
    Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đă được ba đời. Hỏi ra th́ họ nhà Tương nói:
    - Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng mấy lần suưt chết.
    Người ấy nói, vẻ mặt buồn rầu.
    Ta thương và hỏi rằng:
    - Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà người tính thế nào?
    Người họ Tương vừa khóc, vừa nói:
    - Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, th́ ông để cho tôi làm nghề bắt rắn c̣n hơn. Nếu tôi không làm nghề này th́ tôi khốn khổ lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng này kể đă hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào trạc tuổi ông tôi mười nhà không c̣n một. Những người vào trạc tuổi cha tôi, mười nhà c̣n độ hai, ba. Những người vào trạc tuổi tôi, mười nhà c̣n độ bốn, năm. Không chết chóc th́ lưu lạc cả… Tôi nhờ nghề bắt rắn mà c̣n đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng cuối xóm, vơ vét đến cả con gà con chó, dân gian phải hăi hùng kính sợ. Những lúc ấy về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn c̣n là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đă là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.
    Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng lắm: “Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ” ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi! Cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được t́nh cảnh đau khổ của dân!
    Liễu Tôn Nguyên
    GIẢI NGHĨA
    Liễu Tôn Nguyên: tên tự là Tử Hậu, người Hà Đông, tinh anh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng ở nước Tàu, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ Sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
    Vĩnh Châu: tên phủ, thuộc về tỉnh Hồ Nam ngày nay.
    Trúng phong: phải gió độc, ngất người đi.
    LỜI BÀN
    Ta đọc bài này thật lấy làm ghê tởm cái chính sách hà khắc, người cầm quyền đă ác một phần, th́ những kẻ dưới thừa hành ác tăng lên trăm phầm. Cái cảnh khổ của dân thường thường vẫn như thế. Liễu Tôn Nguyên có bụng thương dân mất hết cả quyền, sống cũng như chết, đem chuyện thật viết ra bài này, là có ư mong cho người trên hiểu thấu cái t́nh của dân gian, cái tệ của quan lại mà phần th́ đánh thuế cho dân vừa phải, phần th́ t́m cách trừng trị những phường tham nhũng, ngơ hầu dân mới đỡ được khổ chăng.

    198. H̉A VI QUƯ
    Đời cổ những người lo toan việc quốc gia, trước hết phải dạy dỗ dân, thân yên dân.
    Phép trị dân có bốn điều “bất ḥa” cần phải biết.
    1) Trong nước mà bất ḥa, th́ chẳng nên đem quân đi đánh đâu;
    2) Trong quân mà bất ḥa, th́ chẳng nên đem quân ra trận;
    3) Quân ở trận mà bất ḥa, th́ chẳng nên tiến lên đánh;
    4) Tiến lên đánh mà bất ḥa, th́ chẳng nên quyết đánh.
    Bởi vậy ông vua hữu đạo khi định dùng dân, trước hết có ḥa sau mới gây dựng việc lớn mà chẳng dám tin cái mưu riêng của ai. Không những thế mà thôi, lại c̣n phải xem cái thời có đáng cử sự sau mới cử sự.
    Khi dân trong nước ai nấy đều biết vua đă chịu suy nghĩ đắn đo cẩn thận, quí cái mạng của dân, tiếc cái chết của dân, th́ bấy giờ dù có phải ra chỗ nguy nan, ai nấy mới cùng lấy việc tiến lên mà liều chết là vinh, lùi về mà sống thừa là nhục vậy.
    Ngô Tử
    GIẢI NGHĨA
    Ngô Tử: tức là Ngô Khởi, người nước Vệ về thời Chiến Quốc, làm tướng nước Ngụy là một nhà dùng binh giỏi có tiếng. (Xin xem thêm Ngô Khởi trong Phụ Lục C).
    Ngụy: Một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc, ở vào bắc bộ Hà Nam và phía nam Sơn Tây bây giờ.
    LỜI BÀN
    C̣n ai không biết trong nước đă bất ḥa th́ dân chúng dễ ngờ vực nhau, dễ tàn hại nhau, quên hết nghĩa công, chỉ biết thù riêng, thậm chí chia rẽ theo cả địch quốc và đi đến diệt vong nữa. Nên trong bài này tác giả nói phép dùng dân rút lại chỉ có một sự cốt yếu là “Ḥa”. Dân có ḥa và lại nhờ thêm cái thời thuận, tức là cơ hội tốt, nhiên hậu mới khả dĩ khiến dân hết ḷng với nước, v́ nước mà liều chết được. Bài này nói rộng là phép dụng dân, nhưng nói hẹp mà đúng hơn, th́ chỉ là cách dụng binh mà thôi, tác giả là một nhà binh hơn là một nhà chính trị.

    199. CÁCH TRỊ DÂN
    Tử Sản làm tướng nước Trịnh đă lâu năm, có ḷng thương dân, lấy đạo khoan mà trị dân.
    Khi Tử Sản bệnh nặng, gọi Tử Thái Thúc đến bảo rằng:
    - Ta chết, tất nhà ngươi làm tướng nước Trịnh. Người phải biết người có đức mới lấy đạo “khoan” mà phục được dân, c̣n người thường phải lấy sách “nghiêm” mà trị mới được. Nay ví như lửa nóng, dân trông thấy mà sợ, cho nên chết v́ lừa ít; nước mát dân khinh mà lờn, cho nên chết v́ nước nhiều. Thế mới biết dùng khoan là khó.
    Mấy tháng sau, Tử Sản mất, Tử Thái Thúc thay làm tướng, không nỡ dùng nghiêm, e có mănh liệt cứ lấy đạo khoan mà trị dân.
    Không được bao lâu, trong nước sinh ra nhiều trộm cắp, thường núp náu ở các đồng lầy mà lấy của giết người nhũng nhiều lương dân.
    Tử Thái Thúc hối lại, nói rằng:
    - Giá ta biết sớm theo lời Tử Sản th́ đâu đến thế này!
    Rồi liền đem quân đi đánh bắt bọn cướp ở đồng lầy mà giết hết. Từ đấy nước Trịnh mới bớt trộm cướp.
    Đức Khổng Tử nói rằng: Được lắm! Chính sách khoan th́ dân lờn, dân lờn th́ lại phải dùng chính sách nghiêm, nghiêm tức là mănh: mănh th́ dân tan, tan lại phải dùng khoan ; khoan giúp cho mănh, mănh giúp cho khoan, có thế th́ chính sách mới ḥa được.
    Tả Khưu Minh
    GIẢI NGHĨA
    Tả Khưu Minh: quan Thái Sư nước Lỗ theo chí của Khổng Tử mà làm ra chuyện kinh Xuân Thu gọi là Tả Thị Xuân Thu cho nên người ta thường xưng Khổng Tử là Tố Vương, Khưu Minh là Tố Thần.
    Lỗ: một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Tử Sản: tên tự là Công Tôn Kiều làm quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu. (Xin xem thêm Tử Sản ở Phụ Lục C).
    Khổng Tử: người nước Lỗ về thời Xuân Thu, tên là Khâu tự là Trọng Ni, ông tổ nho học. (Xin xem thêm Khổng Tử ở Phụ Lục C).
    Tướng: quan đứng đầu cả bách quan giúp vua để hành chính.
    LỜI BÀN
    Tử Sản vốn là một người học rộng chính trị giỏi, làm tướng nước Trịnh hơn 40 năm, đối với trong th́ dân b́nh trị, đối với ngoài th́ các nước e nể ông là một bậc quân tử có bốn điều hay; đối với ḿnh th́ tự trọng (cung), đối với người mà ḿnh phụng sự th́ thành kính, nuôi dân th́ có ơn huệ, khiến dân th́ có nghĩa lư.
    Câu ông dặn Tử Thái Thúc đây thực có ư lắm. Mănh mà khiến cho dân sợ dễ bao nhiêu, th́ khoan mà cũng khiến cho dân sợ khó bấy nhiêu. Tuy cũng gọi là sợ, nhưng cái sợ trước không có giá, v́ sợ bất đắc dĩ, sợ miễn cưỡng, sợ bề ngoài mà khinh trong bụng, cái sợ sau mới là cái sợ quí, vừa sợ, vừa yêu, sợ mà kính phục, sợ như vui ḷng mà sợ vậy. Nhưng muốn được cái sợ sau, tất cái đức phải to làm sao mới cảm hóa được nhân tâm đến bực ấy.
    C̣n thường thường, phép trị dân không thể cứ khoan măi được, v́ khoan th́ dân lờn. Lại cũng không thể cứ mănh măi được, v́ mănh th́ dân oán. Dân oán hay dân lờn cũng đều có trở ngại đến việc nước cả. Cho nên phải có khoan, lại phải có mảnh đắp đổi đỡ đần cho nhau th́ mới được. Bốn chữ “Khoan mănh tương tế” thực đáng làm cái phương châm cho cả những người cầm quyền trị dân vậy.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 14-06-2011, 11:48 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 09-06-2011, 12:08 PM
  3. Replies: 9
    Last Post: 06-06-2011, 03:12 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 05-06-2011, 07:03 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-03-2011, 01:12 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •