Page 12 of 16 FirstFirst ... 28910111213141516 LastLast
Results 111 to 120 of 160

Thread: Rạp xi-nê Sài G̣n xưa và Tên đường phố Sài G̣n (Thời Pháp thuộc - Trước và sau 1975)

  1. #111
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Cinema CATHAY

    .... Đi về phía tay mặt của h́nh .... sẽ là trụ sở của Nestlé tại Việt Nam ... đền Hồi giáo .... và ngă ba Nguyễn Văn Sâm-Công Lư cũ ....

    Đi theo tay trái h́nh là đường Nguyễn Công Trứ .... chạy dài đến ngă tư Phó Đức Chính-Nguyễn Công Trứ ...

    Tấm h́nh này có thể đă được chụp từ khoảng năm 1968-69 .... V́ thời này bắt đầu thịnh hành loại h́nh "trắng đen .... tô màu" ...

    Sau năm 1975 ... mọi cái đều thay đổi ... và hăng này đă rút về chính quốc ... Riêng Việt Nam th́ vẫn tiếp tục sử dụng những thương hiệu của "Nestlé" như "Longevity" (VN gọi là "sữa Ông Thọ") ... "Mont Blanc" (VN gọi là "sữa Trái Núi") .... Ngay cả thương hiệu "Nestlé" cũng bị xài tuốt (VN gọi nhăn hiệu này là "sữa Con Chim") ... Đến khi "hội nhập" ... việc đầu tiên của Việt Nam là phải bồi thường v́ "dùng bản quyền không phép" ... sau đó mới thành lập cái gọi là "Vinamilk" trên nền của những "Foremost" (VN gọi là "sữa Kim Cương") và "Longevity" cũng như các thương hiệu cũ trước kia ...

    Ngay mặt tiền của trụ sở Nestlé cũ có mấy cây cột ... trên mỗi cột là một logo "ổ chim" đắp nổi ... Mặt tiền này nối ngay sau chỗ .... (cách đây vài năm) ... là một showroom của hăng General Electric ...





    foyer du soldat et du marin.Cư xá binh sĩ Pháp, trên ĐL Thống Nhất, gần Sở Thú (trước 1975 là Trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, sau 1975 là Pḥng Trưng bày Quân Khu 7,bây giờ là bảo tàng chiến dịch HCM)


    Ṭa nhà 211-213 đường Đồng Khởi ,đối diện công viên Chi Lăng.


    Khu Eden.
    C̣n tiếp

  2. #112
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Trụ sở Sài G̣n tourist ở góc Lê Lợi + Nguyễn Huệ.


    Nhà hàng Brodard đường Đồng Khởi.


    Trường Collete đường Hồ Xuân Hương.



    Trường Ngô Thời Nhiệm ,xưa là ecole_jaureguiberry.

  3. #113
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    Bệnh viện mắt Sanit Paul.



    Khu biệt thự của Chú Hỏa trên dường Lư Thái Tổ giờ là Nhà khách Chính phủ.


    -Sứ quán Campuchia cũ, nay là UBND quận 3.


    Trái : cái mỏ Ford Edsel 1957, giải nhất về kiểu dáng tính từ ... dưới lên
    Phải : xe 2 cửa trắng : Simca Aronde Pháp
    Giữa : áo zài Trần Lệ Xuân
    ... hổng biết cụ bú-lít mải ngó theo bóng hồng hay ... liếc thèng cha chụp h́nh

  4. #114
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476

    SG : US ARMY bus (Isuzu) đă đề cập các trang trước ; người chụp cũng đang ở trong 1 Isuzu y hệt.
    Cái "mavinelle" giữa xe chỗ kiếng trước ngay tầm tay phải bác tài = cần gạt đóng/mở cửa xe bên phải bác tài - vận hành bằng ... cơm
    Góc dưới trái : ô nhỏ mở ra cho bác tài .... khoe giày xịn



    Công trường Mê-linh SG - phía sau : Isuzu bus của doanh nghiệp VNCH mua lại thanh lư từ bus Mỹ h́nh trên khoảng 1973 trở đi, lúc đó Chính phủ VNCH khuyến khích phát triển bus (ô-tô-buưt = autobus, Pháp), có 1 doanh nghiệp tên "VINAVAN" (VN vận tải ?) mua lại rất nhiều Isuzu này, c̣n khá ngon :
    "Mốt" Áo Dài mini : vạt chấm gối hoặc cao hơn.
    ... quân nhân Hoa kỳ chơi h́nh màu - phó thường dân VN = đen/trắng



    SG - Ngă 6 Trần Hoàng Quân - Minh Mạng (Nguyễn Chí Thanh - Ngô Gia Tự) Người dân thường gọi là Ngă sáu An Dương Vương.
    Trái : Renault Dauphine
    Phải : "chim Ưng" Mỹ 1968 - tục gọi ... Ford Falcon



    SG - chợ B́nh tây Q6
    Xe đỏ = Hanomag Henschel Tây Đức

  5. #115
    Member
    Join Date
    04-10-2010
    Posts
    205


    Cũng tấm này, nơi cái cḥi cao cao như cái miếu bên tay trái, đúng ngay góc ngă tư Phan Đ́nh Phùng (Nguyễn Đ́nh Chiểu bây giờ) và Lê Văn Duyệt (CMT8) là nơi ông HT Thích Quảng Đức bị đồng bọn tưới xăng thiêu sống đây! Nên được dựng cái miếu nhỏ cao cao đó để thờ cúng.

    Phía bên đối diện là cây xăng, nay bị đập bỏ, dựng lên một công viên xây thêm cái tượng cho ông ấy ngay giữa công viên nữa!

  6. #116
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Tên đường phố SàiG̣n xưa

    Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đă chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xă hội.... luôn cả tên đường của Sài G̣n. Nhiều đường đă thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới t́m lại được nhà ḿnh đă ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể h́nh dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh ṭ ṃ muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ư kiến để tu bổ về sau.

    Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái B́nh thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài G̣n, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng ch́m trong khói lửa, lúc đó Việt Nam c̣n là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài G̣n mang tên Pháp.

    Tôi lớn lên tại Sài G̣n, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.

    Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 v́ máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đ́nh tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet. Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng G̣ Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài G̣n và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

    Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và v́ một sự t́nh cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Ch***eloup-Laubat, thay v́ Petrus Kư như Ba tôi."Trường Ch***eloup" xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 th́ đổi lại là Collège Ch***eloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Ch***eloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đ́nh và trẻ con pháp sống tại Sài G̣n nên dư giáo viên mà thiếu học tṛ ! Lớp 12è niên khoá 1946- 1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi c̣n nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để t́m Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời giang để cạo mủ cao su !

    Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài G̣n không hiểu ông Tây nào có ư kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đă đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ th́ chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô th́ cuốn tṛn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.

    Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài G̣n một trăm phần trăm", lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà t́m các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị "tây hóa" nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay t́m ṭi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít c̣n ai nhớ đến tên những con đường Sài G̣n năm xưa…

    Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Ch***eloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài G̣n theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đựng Amiral Roze (người đă từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đă chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài G̣n phát triển mạnh mẻ).

    Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng th́ do Ông "Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi c̣n gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là v́ trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.

    Ra vườn Bờ Rô gặp đường Ch***eloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng v́ Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Ḥa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đốc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Ch***eloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự. Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé v́ học sinh vào trường Ch***eloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa.

    Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đă che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện c̣n lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài G̣n, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng đường sản phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. C̣n Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đă 103 tuổi và hiện c̣n minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài G̣n; vào đầu năm 1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại th́ trao cho Viện Đại Học Sài G̣n để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.

    Lớn lên tôi đi xe đạp về một ḿnh nhưng thích đi theo đường Testard hơn v́ có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đ́nh Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, c̣n Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài G̣n).

    Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ư lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài G̣n đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).

    Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài G̣n tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn c̣n), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngă sáu Sài G̣n th́ tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị v́ bị hành h́nh lối năm 1847, mả đó nay vẫn c̣n nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đă xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

    Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ v́ Sài G̣n và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài G̣n : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de T***igny và sau đó là Công Lư), đi đường Barbé và một đoạn đường Ch***eloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi v́ giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Ḥa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài G̣n, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).

    Rồi cứ đi theo măi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) v́ vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó, để về Ngă Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngă Amiral Roze. Đặc biệt Sài G̣n có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc pháp v́ dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngựi đă chiếm Nam Kỳ, c̣n Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.

  7. #117
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài G̣n là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài G̣n đến Ṭa Thị Xă, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. V́ mùi hôi thúi người pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn căi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập th́ đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước śnh lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển v́ gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Ḥa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ư kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, v́ thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đ̣ họ thành lập một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài G̣n, nay vẫn c̣n tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu t́nh dưới thời Ngô Đ́nh Diệm năm 1963. Trước Ṭa Thị Xă, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đă bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.

    Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài G̣n là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đă bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố.

    Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn c̣n dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong P***age Eden v́ trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài G̣n vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm th́ lấy vài tấm h́nh mà các ông phó nḥm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài G̣n, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra tŕnh diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom th́ đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xă Sài G̣n Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đựng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa".

    Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa giữa" v́ chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy th́ bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng v́ ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi c̣n nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài G̣n với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và śnh lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài G̣n học vào năm 1928 th́ đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 măn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc c̣n Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" v́ là người gốc Ư Đại Lợi.

    Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (v́ lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương th́ quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.

    Lúc c̣n ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắng "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, c̣n có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài G̣n ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, v́ học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi t́m hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy c̣n tên là Fémina Annamite và ṭa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?

    Về sau, gia đ́nh tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng v́ "Ḿ La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lư Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 v́ dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngă Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài G̣n Policlinique Dejean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đ́nh Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

    Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều v́ có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nh́ chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

    Từ đường Lacaze đi ra trường Ch***eloup-Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngă Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngă Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ư tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc c̣n Đại Tá, c̣n Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưă người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không c̣n đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không c̣n đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không c̣n trường học nào mang tên Petrus Kư ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Kư, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều điều vô lư, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Kư là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài G̣n đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng v́ những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.

    Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ
    Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Kư, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Kư đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Ṭa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc 55 tuổi v́ bệnh lao phổi.

    Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Vơ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó
    đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson de Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đ́nh tại Chợ Lớn.

    Nay Sài G̣n mất nhiều di tích ngày xưa, v́ chiến tranh và v́ sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đă san bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đă ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân việt nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người đă giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đ́nh vua Louis XVI để kư Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đ́nh có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Ṭa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đ́nh Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài G̣n gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di t́ch xưa nhứt của Sài G̣n "ở Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ văng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …

    Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ ǵn những kho tàng quư giá của lịch sử.

    BS Trần Ngọc Quang
    Paris, Mùa hè 2009

  8. #118
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Những thay đổi tên đường của Thành Phố Sài G̣n từ 1928 đến 1993

    - Nguyễn Công Tánh biên khảo


    I
    Sơ lược về thành phố Sài G̣n từ năm 1795 đến 2004

    Tên đường của thành phố Sài G̣n đă bị đổi thay nhiều lần qua bao nhiêu trào lưu lịch sử của nước Việt Nam kể từ khi có sự xuất hiện của đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp đánh phá vụng cảng Đà Nẵng rồi quay xuống phía Nam đánh chiếm thành Gia Định vào năm 1861.

    Có thể nói rằng thành phố Sài G̣n là một thành phố lớn nhất của nước Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào từ tháng 8 âm lịch năm Đinh Dậu (7-9-1788) là thời điểm Nguyễn Vương Phúc Ánh phá tan quân Tây Sơn để chiếm lại đất Gia Định một cách vĩnh viễn và kể từ năm đó đến năm 1801, Nguyễn Vương lập Kinh đô Gia Định dùng làm bàn đạp để Bắc tiến:

    Đầu năm Canh Tuất (1790), xây đắp lại một thành đồn cũ ở làng Tân Khai cho rộng thêm. Đồn nầy c̣n có tên là đồn Nghi Giang (Rạch Thị Nghè ngày nay) hay Đồn Đất. Thời Pháp thuộc, trên địa danh nầy là một bệnh viện quân đội của Pháp có tên là Hopital Grall, rồi trước 30 tháng 04 năm 1975 đổi gọi là Nhà Thương Đồn Đất, sau 1975 đổi gọi là Bệnh Viện Nhi Đồng số 2. Sau khi xây đắp lại, đồn đất Tân Khai trở nên một thành lũy kiên cố tráng lệ tức là thành Gia Định c̣n gọi là thành Bát quái hay thành Qui (h́nh con rùa).

    Về thành mới nầy, Trịnh Hoài Đức mô tả khá rơ ràng trong sách Gia Định Thành Thông Chí: "Ngày 4 tháng 2 mùa xuân năm Canh Tuất thứ 13 (1790) mới đắp thành Bát quái ở g̣ cao thôn Tân Khai đất huyện B́nh Dương, thành như h́nh hoa sen, mở tám cửa, tám đường đi ngang dọc, bề đông tây 131 trượng 2 thước, bề nam bắc cũng thế, cao 10 thước, chân dày 7 trượng 5 thước, đắp làm 3 cấp. Ngồi ngôi kiểu trông hướng Tốn. Trong thành đằng trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho trữ tích, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dăy nhà cho quân túc vệ ở. . . . . . . . . ., thành đặt xong, ngoài thành đường ngơ, phố chợ bày hàng ngang dọc, đều có thứ tự. Đường quan lộ bên tả từ cửa Chấn hanh qua cầu Ḥa Mỹ, qua sông B́nh Đồng mà đến trấn Biên Ḥa"(Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch 1998; NXB Giáo Dục; trang 176).

    Tuy nhiên, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn th́ c̣n có một con đường quan lộ khác cũng xuất phát từ cửa Cấn Chỉ của đồn thành cũ Tân Khai hướng về phía bắc, nguyên xưa khai thác từ Tất Kiều (nay là Cầu Sơn) phía bắc đến B́nh Trị (?) ruộng bùn lầy lội chưa mở, hành khách muốn đến Biên Ḥa hoặc lên Băng Bột đều phải đáp thuyền đ̣. Năm Mậu Th́n (1748), nhân có loạn Cao Man, quan Điều khiển là Nguyễn Doăn mới đăng dây đắp thẳng, gặp chỗ mương rănh th́ bắc cầu, gặp chỗ bùn lầy th́ bỏ cây đắp đất để đi qua lại, từ cửa Cấn Chỉ của thành đồn cũ đến bến đ̣ B́nh Đồng dài 17 dặm, phía bắc tỉnh giới Biên Ḥa có đặt trạm B́nh Đồng theo hướng bắc qua núi Chiêu Thái (núi Châu Thới ngày nay) đến bến đ̣ B́nh Xan (hay B́nh Thiển), qua bến Sa Giang (sông Cát) do đường Phủ sứ xuống Đông Môn (nay là Long Thành) đến Hưng Phước (nay là Bà Rịa), phàm gặp mấy sông lớn có đặt độ thuyền độ phu được miễn trừ sưu dịch. (ĐNNTC; Lục tỉnh Nam Việt; Tập thượng: Biên Hoà-Gia Định; phụ chép Thiên lư cù; trang 87; Sài G̣n; tái bản 1973).

    Như vậy, sau khi Nguyễn vương Phúc Ánh xây cất lại đồn Nghi Giang hay Đồn Đất để làm kinh thành Gia Định vào năm 1790 th́ thành nầy đă có sẵn một con đường cái quan để đi ra bắc từ năm 1748 và một con đường cái quan khác cũng để đi ra bắc cũng được xây cùng một lúc với công tŕnh sửa mới thành Đồn Đất như Trịnh Hoài Đức mô tả.

    Cũng theo Trịnh Hoài Đức, Đường quan lộ bên hữu gặp chỗ quanh co đều chăng dây làm cho thẳng, tự cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương qua phố Sàig̣n G̣n (tức Chợ Lớn ngày nay) đến cầu B́nh Yên, qua g̣ Tuyên Tự mà đến sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông), bến đ̣ Thủ Đoàn, sang sông Hưng Ḥa (Vàm Cỏ Tây), qua giồng Trấn Định rồi đến giồng Triệu. Đường rộng 6 tầm (14m61), hai bên đều trồng các cây thổ nghi như mù u, mít, cầu cống thuyền đ̣ sở tại thường sửa chữa, đường phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lư phía nam (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176).

    Ngoài 3 con đường thiên lư cù vừa kể trên, sách ĐNNTC cũng có viết thêm một con đường thiên lư khác về phía cửa Đoài Duyệt của thành Qui như sau: "Một đường phía tây, niên hiệu Gia Long thứ 14, mệnh (tức là truyền lệnh) tỉnh thần đo từ cửa Đoài Duyệt ở tỉnh thành nơi nơi cầu Tham Cấn (Tham Lương) qua đ̣ Thi Du, chằm Lăo Phong, giáp ngă ba sứ lộ qua Xỉ Khê (Tây Ninh) đến địa phận A Ba Cao Man, giáp Đại Giang (Sông Mê Kông) dài 439 dặm. Gặp chỗ có rừng th́ chặt cây đắp đường bề ngang 3 trượng (14m61), làm ra con đường b́nh an tiện lợi, chỉ hiềm đường xa vắng vẻ không có nhà cửa dân cư, Lại theo dọc sông A-Ba xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lô Yêm (Lovea-em). Từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến sách Chế Lăng (Chelong hay Chlong) cũng là một yếu lộ dụng binh." (ĐNNTC; sđd; trang 87). Con đường nầy có thể đă có từ lâu và dùng để đi Cao Miên (ngày nay là Đường Lê Văn Duyệt nối dài trước ngày 30 tháng 04 năm 1975) nhưng măi đến năm Gia Long thứ 14 (1815) mới được chỉnh đốn lại giống như ĐNNTC mô tả.

    Như lịch sử đă ghi lại, có rất nhiều người Pháp đánh thuê được Nguyễn Vương Phúc Ánh xử dụng để phục vụ trong chương tŕnh xây dựng và củng cố vùng đất Gia Định Nguyễn Ánh đă tận dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan Pháp bằng cách yêu cầu họ vẽ các họa đồ, và trông nom việc xây dựng, một ṭa thành lũy tân tiến theo thiết kế của Âu Châu. Họa đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và đại tá Victor Olivier de Puymanel coi sóc công tŕnh xây cất kinh thành Gia Định. Trên họa đồ vẽ bởi Theodore Le Brun theo lệnh của Nguyễn vương vào năm 1795 người ta thấy phía ngoài 4 mặt thành đă có nhiều phố xá; mặt phía trước thành, đường phố lấn ra tới bờ sông Bến Nghé; mặt phía trái tới bờ Thị Nghè nơi đó có dinh riêng dành cho giáo sĩ Bá Đa Lộc. (ngày nay là vị trí gần với Viện Bảo Tàng nằm bên trong Sở Thú Sài G̣n) và nhà phố lan tới phía bên kia cầu Thị Nghè; mặt phía sau thành nhà cửa phố xa đông đúc chạy dọc suốt đến Cầu Bông và cầu Kiệu ngày nay; về phía bên mặt của thành th́ phố xá lan rộng ra tới đường thiên lư đi Cao Miên tức là đường Lê Văn Duyệt nối dài sau nầy. Nh́n sang hướng tây nam là các hiệu buôn bán của người Hoa mà trên bản đồ ghi là Bazar Chinois tức là thành phố Chợ Lớn Sau nầy. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí được hoàn thành dưới thời hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, Trịnh Hoài Đức đă dùng nhóm chữ Phố Sài G̣n để gọi khu phố người Hoa nầy (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176). Phố xá vào lúc nầy nhất định là phải có số hoặc có tên bằng tiếng Việt Nam và khó có thể có -hoặc nếu có th́ cũng chỉ là một vài trường hợp đặc biệt- những tên đường bằng tiếng ngoại quốc. Một điểm đáng chú ư là trên bản đồ của Le Brun nơi phần chú giải góc phải phía trên được ghi là Plan de la Ville de SAIGON-Đồ bản Thành Phố SÀI G̉N có nghĩa là kinh đô Gia Định vào năm 1795 bao gồm khu phố người Hoa BAZAR CHINOIS của Le Brun mà Trịnh Hoài Đức gọi là Phố Sài G̣n và khu phố rộng lớn bao quanh thành Qui.

    Nơi quyển III, mục Cương vực chí, Trịnh Hoài Đức viết:

    " ...Kể th́ Gia Định, xưa là đất của nước Thủy Chân Lập (tức là nước Cao Mên ngày nay, ṇi giống chia làm Thủy Chân Lập và Lục Chân Lập), đất ruộng béo tốt, sông nhiều, có nhiều địa lợi như thóc, đậu, cá, muối.
    "Các đấng tiên hoàng triều ta chưa nhàn rỗi mưu tính xa, tạm cho đất ấy là đất của nước Cao Mên, đời đời xưng là nước phiên ở phương Nam, cống hiến không ngớt. Đến năm Mậu Tuất đời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế năm thứ 11 (1658), (Lê Thần Tông Vĩnh Thọ năm thứ 1; ngang với niên hiệu Minh Vĩnh Lịch năm thứ 12, Thanh Thuận Trị năm thứ 14), mùa thu, tháng 9 , vua nước Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới . . . . . .

    "Vua sai Phó tướng dinh Trấn Biên (khi bắt đầu mở mang bờ cơi, phàm chỗ đầu địa giới gọi là Trấn Biên, xét dinh Trấn Biên nầy, tức là trấn Phú Yên ngày nay) là Yến Vũ hầu, Tham mưu là Minh Lộc hầu, Cai đội suất tiên phong là Xuân Thắng hầu, đem 2,000 quân , đi 2 tuần đến thành Mỗi Xoài (tức Bà Rịa ngày nay) nước Cao Mên, đánh phá tan được, bắt vua ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng B́nh. Vua dụ tha tội, vẫn phong Nặc Ông Chân làm vua nước Cao Mên, cho làm phiên thần nộp cống, không được để cho dân phiên xâm nhiễu. Bèn sai quan quân hộ tống về nước. Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Ḥa ngày nay) đă có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên Sợ phục uy đức của triều đ́nh, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở.

    "Giáp Dần năm thứ 27 (Lê Gia Tông Đức Nguyên năm thứ 1, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 13) (1674), mùa xuân, tháng 2, người nước Cao Mên là Nặc Đài (xét Nam Việt Chí của Nguyễn Bảng Trung gọi là Nặc Ô Đài, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn gọi là Nặc Đài) đuổi vua nước ấy là Nặc Ông Non chạy sang nước ta. Sai tướng dinh Thái Khang (trấn B́nh Ḥa ngày nay) là Dương Lâm Hầu làm thống suất và Tham mưu là Diên Phái hầu cùng phụ trách việc biên giới, đem quân đến đánh. Mùa hạ tháng 4, phá luôn 3 lũy Sài G̣n (tức đất trấn Phiên An ngày nay), G̣ Bích, Nam Vang . . . . . Mùa hạ, tháng 6, tin thắng trận tâu lên, triều đ́nh bèn lấy Nặc Thu là phái trưởng phong làm chính quốc vương của nước Cao Mên, đóng ở thành Vũng Long ( chữ Hán gọi là Long Úc, tức là thành U Đong), Nặc Non làm phó quốc vương, đóng ở thành Sài G̣n, triều cống như trước, bèn thăng Dương Lâm hầu làm trấn thủ dinh Thái Khang, pḥng giữ việc biên giới ." (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 74,75)

    Nhóm chữ lũy Sài G̣n do Trịnh Hoài Đức viết ra bằng chữ Hán nho và có thể đây là lần đầu tiên chữ Sài G̣n mới xuất hiện trên sách sử của Việt Nam để ghi thêm 1 biến cố lịch sử quan trọng thứ nh́ xảy ra vào năm 1674, (biến cố quan trọng lần thứ nhứt là vua Cao Mên Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới vào năm 1658 như vừa kể ra ở phần trên) hay nói khác đi địa danh Sài G̣n đă là một đồn lũy pḥng thủ (nhỏ hơn một thành tŕ b́nh thường), hoặc là một thị trấn của nước Cao Miên từ xưa rồi. Câu hỏi nêu lên là lũy Sài G̣n nầy bởi từ đâu mà có ? Và đă có từ bao giờ ?


    (C̣n tiếp)

  9. #119
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    1,476
    Bản đồ Sài G̣n hiện nay nh́n từ vệ tinh nhân tạo :

    http://wikimapia.org/#lat=10.7650038...&z=19&l=38&m=h

    Như Trịnh Hoài Đức đă viết ở phần trên, kể từ năm 1658 "địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Ḥa ngày nay) đă có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đ́nh, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở" có nghĩa là 2 xứ nầy trên thực tế đă thành đất đai của các người dân lưu tán Việt Nam kể từ 1658 và những người dân Cao Mên bản địa của 2 xứ đó đă phải bỏ xứ mà đi nơi khác (Trịnh Hoài Đức viết là họ nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở). Mặc dù trên danh nghĩa th́ các phần đất nầy vẫn là của nước Cao Miên và vẫn dưới quyền cai trị của phó quốc vương bù nh́n thân Việt Nặc Ông Chân rồi kế tiếp theo là vua bù nh́n Nặc Ông Nôn do triều đ́nh Việt Nam tấn phong đóng ở thành Sài G̣n mà Trịnh Hoài Đức (hay là dịch giả quyển Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức) chú thích trong dấu ngoặc đơn như sau: (tức đất trấn Phiên An ngày nay): trước khi có thành Gia Định th́ đă có thành Sài G̣n của các phó vương nước Cao Mên ở trên một vùng đất mà sau nầy dưới thời đại của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Th́n niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808), ngày 12 tháng Giêng đổi gọi gọi là trấn Phiên An. Trấn Phiên An trước đó gọi là ǵ ? Trịnh Hoài Đức khi mô tả Trấn Phiên An có viết " Trấn ấy lúc mới dùng gọi là dinh Phiên Trấn, có 1 huyện, 4 Tổng, lỵ sở ở thôn Tân Lân (?), tổng B́nh Trị, huyện B́nh Dương ngày nay" (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 86: Trấn Phiên An) . Như vậy có thể nói rằng thành Sài G̣n là tên gọi 1 vùng đất dưới quyền kiểm soát của quan chức Việt Nam ở dinh Trấn Phiên nằm ở thôn Tân Lân, Tổng B́nh Trị, huyện B́nh Dương thời Trịnh Hoài Đức. Không thể truy cứu đích xác lỵ sở Tân Lân của "thành Sài G̣n" (tức dinh Trấn Phiên) v́ trong danh mục xă thôn thuộc Tổng B́nh Trị do chính Trịnh Hoài Đức liệt kê (THĐ; sđd; trang 87 và 88) không thấy tên vùng đất thôn Tân Lân .

    Tuy nhiên cũng theo THĐ th́ dinh Trấn Phiên đă được thành h́nh từ năm 1698 :"Mậu Dần Hiến Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu) năm thứ 8 (1698) (Lê Hy Tông Chính Ḥa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai Thống suất chưởng cơ là Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh) kinh lược nước Cao Mên lấy đât Nông Nại (nguyên cả một vùng miền Đông sau nấy) đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long dựng dinh Trấn Biên (lỵ sở ở thôn Phúc Lư ngày nay, xứ Sài G̣n làm huyện Tân B́nh, dựng dinh Phiên Trấn (lỵ sở bên cạnh đồn mới ngày nay), mỗi dinh đặt ra các chức Lưu thủ, Cai bạ, Kư lục để giữ và chăm . . . . .(THĐ; sđd; trang 77) . Phải chăng là "đồn mới ngày nay" phải được hiểu chính là đồn của huyện Tân B́nh mới đuợc thiết lập chứ không thể hiều là một đồn lũy nào đó mới được xây cất vào thời THĐ viết GĐTTC. C̣n xứ Sài G̣n đă có từ thời xưa th́ trở thành huyện Tân B́nh vào năm 1698 . Vậy dinh Phiên Trấn được dựng lên để cai trị huyện Tân B́nh. Dinh Trấn Biên vừa là lỵ sở vừa là đơn vị hành chánh.

    C̣n địa phận của Tổng B́nh Trị th́ theo như sự mô tả của Trịnh Hoài Đức như sau: " Tổng B́nh Trị (mới đặt ra) 76 xă thôn, phường, lân, ấp, phiá đông giáp sông B́nh Giang (tức sông Sài G̣n bây giờ), từ trước thành sông dọc theo kho Gian Thảo (nay là vùng Cầu Kho), phía tây giáp đàu suối Bến Năi đến đầu cầu Tham Lương (tức địa giới quận Tân-B́nh-Hốc Môn bây giờ), giáp địa giới phía đông tổng Dương Ḥa; phía nam giáp kho Gian Thảo, qua miếu Hội Đồng đến cầu Tham Lương, phía bắc giáp trấn Biên Ḥa, từ trên sông Đúc Giang (tức là sông Sài G̣n ở khúc trên khoảng gần với Thủ Đức hiện nay), dưới đến bờ phía nam sông B́nh Giang (tức bến cảng Bạch Đằng của sông Sài G̣n ngày nay)" (THĐ; sđd; trang 87) hay nói khác đi th́ Tổng B́nh Trị nằm lọt ở khoảng giữa Rạch Thị Nghè với Cầu Kho hiện nay tức là nằm trong phạm vi của Quận I bây giờ.

    "Trấn Phiên An, đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ giao thông, phía bác giáp trấn Biên Hoà, trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến sông B́nh Giang (về huyện B́nh Dương, tục gọi là sông Bến Nghé), chuyển quanh xuống cửa ngă ba Phù Gia (tục gọi là ngă ba sông Nhà Bè) ra thẳng cửa Cần Giờ . Phàm ở bờ phía nam sông ấy là địa giới trấn Phiên An, phía Nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong sang phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, phía đông xuống Vũng Cù, qua sông Tra Giang ra cửa bể Soi Rạp. Theo bờ phía bắc sông là địa giới trấn Phiên An, phía đông đến biển, phía tây giáp nước Cao Mên, ngăn cchặn người Man núi, gối vào đầm phá . Từ đông sang tây cách 352 dậm, từ nam sang bắc cách 107 dặm . . . . Năm Mậu Th́n Gia Long thứ 7 (1808, ngày 12 tháng giêng đổi làm Trấn Phiên An, lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hăy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giuới hạn. Năm Tân Mùi Gia Long thứ 10 (1811), dời làm lỵ sở ở chợ Điều Khiển, lân Tân Mỹ" (THĐ; sđd; trang 86)

    Trở lại biến cố lịch sử năm 1674, vua nước Cao Mên thân Việt lúc bấy giờ là Nặc Ông Non bị người trong nước là Nặc Đài nổi dậy làm phản phải tháo chạy xuống vùng đất Sài G̣n để cầu cứu với các chức quyền Việt Nam. Quân nổi loạn Cao Mên do Nặc Đài cầm đầu không những truy đuổi Nặc Ông Non mà c̣n nhân dịp đắc thắng đă tiến thẳng xuống chiếm đóng trấn Phiên An mà THĐ viết tránh đi và gọi là lũy Sài G̣n. Sau đó th́ chúa Nguyễn đă sai quan binh đi thảo trừ giặc loạn người Cao Mên, đánh bật họ ra khỏi Trấn Phiên An (lũy Sài G̣n), rồi tiến quân đánh chiếm luôn thành G̣ Bích và thành Nam Vang. Nặc Đài thua chạy rồi bị chết trận. Chúa Nguyễn lại đặt Nặc Ông Thu làm Cao Mên Quốc vương ngự trị ở thành U Đong c̣n Nặc Ông Non th́ cho làm phó Vương ngự trị ở thành Sài G̣n và thành Sài G̣n nầy của phó vương Ông Non có thể ở vào một vị trí gần với lỵ sở dinh trấn Phiên An của chúa Nguyễn để dễ bề giám hộ và kiểm soát. Chuyện xảy ra như vậy, nhưng sử thần nhà Nguyễn nào lại dám viết thật sự là quan binh chúa Nguyễn đă bị quân phiên Cao Mên nổi loạn đánh đuổi và phải bỏ chạy ra khỏi vùng lănh thổ trấn Phiên An?

    Năm 1772, sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất h́nh bán nguyệt để bảo vệ vùng Sài G̣n:

    " . .Đàm ân hầu về đến dinh đồn, đắp thành đất, phía nam từ cát ngang, phía tây đến cầu Lăo Huệ, phía bắc giáp cửa trên sông Nghi Giang, kéo dài 15 dậm, bao quanh dinh đồn, chặn ngang đường bộ để làm kế pḥng ngừa."(THĐ; sđd; trang 127). Lũy nầy trên bản đồ Le Brun (h́nh bản đồ trích dẫn ở phần trên) ghi là Mur d'enceinte (ṿng tường ngoại vi).

    Như vậy, từ khởi đầu đến đây, ai cũng có thể thấy đuợc rằng cái tên Sài G̣n đă hiện hữu từ lâu rồi, ít ra th́ cũng đă được viết lên trên giấy trắng mực đen kể từ thời của Trịnh Hoài Đức biên soạn sách GĐTTC.

    Vùng Sài G̣n trở nên một vùng đất phồn thịnh và thu hút kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất bán nguyệt kể trên và đào kinh Ruột Ngựa vào năm (1772), THĐ ghi rơ:" Sông Mă Trường (tục danh sông Ruột Ngựa). Trước kia từ cửa Rạch Cát về bắc đến ḷ ngói, một lối vũng trâu, thuyền bè không đi lại được. Mùa thu năm Nhâm Th́n (1713) ((chỗ nầy trong sách ghi sai, phải là 1772 mới đúng) Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ năm của Chánh thống Vân Trường hầu) nhân sau khi dẹp Cao Mên rồi, đào làm kênh cừ, thẳng như ruột ngựa, bèn lấy đó mà đặt tên. Nhưng c̣n nong nhỏ, nên thuyền đi đến đó tạm phải ngừng lại, để chờ nước triều lên mới qua được, nay khơi đào cho sâu rộng thêm, dân khen là tiện lợi." (THĐ, sđd; trang 35).

    Vùng Sài G̣n cũng bắt đầu biến đổi thành một thành phố đúng với ư nghĩa của 2 chữ thành phố : thành ở đây tức là tường thành bằng đât của Nguyễn Cửu Đàm và phố ở đây chính là vùng phố buôn bán của những ngựi Hoa tàn dư của nhà Minh tha phương cầu thực mà Le Brun gọi là phố Bazar Chinois càng lúc càng trở nên sầm uất, cuốn hút dân t́nh tứ phương thuộc nhiều sắc tộc kéo nhau về tụ tập sinh sống trong vùng Sài G̣n, chợ búa bắt đầu nhóm họp ở nhiều nơi như Chợ Cầu Muối, Chợ Đũi, Chợ Gạo, dân cư lan tỏa ra các vùng chung quanh lũy đất Nguyễn Cửu Đàm như Phú Nhận, G̣ Vấp, Bà Chiểu, Cầu Sơn, Thị Nghè, Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, Ḷ Gốm và bắt đầu có sự phân biệt dân thành thị với dân ngoại ô, dân nội thành với dân ngoại thành, dân con buôn ở chợ và dân nhà quê làm ruộng rẫy.

    Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1776 vùng Sài G̣n bị xáo trộn và đổi chủ nhiều lần qua sự tranh giành giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn kéo dài măi cho đến năm 1788 bởi v́ Vùng Sài G̣n đă trở thành một vùng trọng yếu mà kẻ nào làm chủ th́ kẻ đó cũng sẽ là chủ nhân cả miền Nam trù phú: lịch sử Việt Nam đă chứng minh điều đó. Trong khoảng thời gian nầy, vùng Sài G̣n đă phải gánh chịu hàng chục trận đánh lớn, tài sản tiêu hao, chết chóc nhân mạng dẫy đầy, dân t́nh xôn xao nhưng lạ lùng thay vùng Sài G̣n chưa bao giờ bị san phẳng thành b́nh địa và dân Sài G̣n vẫ trơ gan cùng tuế nguyệt, cách ăn ở, mức sống không hề bị suy sụp, nét văn hoá miền Sài G̣n không bị xóa nḥa hay biến dạng, người Sài G̣n luôn luôn nghiến răng chịu đựng, măi cho đến tháng 8 năm Đinh Dậu tức là ngày 07-09-11788 nguyên soái Nguyễn Ánh lấy lại toàn vùng Sài G̣n và từ đây trở đi không c̣n bị quân của anh em nhà Tây Sơn đánh đuổi giành giựt được nữa.

    Và như đă tŕnh bày ở phần trên, năm 1790, nguyên soái Nguyễn Ánh đă ra lệnh cho Le Brun và Olivier thiết kế và xây dựng kinh thành Gia Định.

    Theo sự kê chú trong bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun 1790 th́ các cơ sở bên trong thành Gia Định được xây cất từ 1790 cho đến khi họa đồ được vẽ ra vào năm 1795 là những vị trí được Le Brun đánh số từ số 1 đến số 17. Trước khi đi vào chi tiết về kiến trúc thành Gia Định, chúng ta thử truy cứu xem vào năm 1795 ai là người đă thực hiện bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun?

    Dư luận từ trước tới nay đă căn cứ vào đoạn ghi chú trên bản đồ 1795 để cho rằng bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun vào năm 1795 là chính tay Le Brun vẽ từ đồ án kiến trúc Grand plan do chính của người Pháp nầy thực hiện năm 1790. Hiểu như vậy rồi thắc mắc rằng Le Brun không phục vụ Nguyễn vương Phúc Ánh đến năm 1795 th́ làm sao lại có thể cho rằng bản vẽ 1795 là do Le Brun vẽ ra?
    Alfred Schreiner trong sách Abrégé de L' Histoire d' Annam đă viết về Théodore Le Brun như sau:

    <<Le Brun (Théodore), volontaire de 1re classe provenant de la frégate la Méduse, se fit débarqué à Macao le 13 Janvier 1790 et passa la mêm année au service du Chúạ Il fut engagé comme ingénieur et leva le plan de Saigon; mais il ne resta que quinze mois environ au service de Nguyễn Ánh, ne se trouvant pas suffisamment payé, de plus, peu disposé " à servir sous les ordres d' Olivier, volontaire de 2è class seulement, pourtant chef d' état major de l' armée de Cochinchine, fonctions qui lui donnaient autorité sur son collègue " >>. (Dịch: Le Brun Théodore, binh nhất hiện dịch của tàu chiến Méduse, đào ngũ khi tàu ghé cảng Ma Cao ngày 13 tháng 1 năm 1790 và đến phục vụ cho chúa. Được giao nhiệm vụ kỷ sư và phát họa bản đồ thành Sài G̣n. Tuy nhiên đương sự chỉ làm công cho Nguyễn Ánh khoảng 15 tháng rồi tự ư bỏ đi v́ không được trả công trọng hậu mà c̣n bị đặt dưới quyền sai khiến của Olivier "binh nh́ tham mưu trưởng trong quân đội của Nam Kỳ" ).

    Cũng theo Alfred Schreiner th́ binh nh́ Olivier de Puynamel đến phục vụ cho Nguyễn Ánh vào năm 1788 và được giao cho chức vụ tham mưu để lo việc tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ. Sử cũ thường gọi người Pháp đánh thuê nầy là Cai Tín. Năm 1790 được Nguyễn Ánh giao cho việc xây cất thành Quy Sài G̣n. Năm 1799 sang Mallaca chữa bệnh và chết ở đó vào lúc 31 tuổi.

    Sử sách cũ của triều Nguyễn cũng cho biết là từ năm 1790, tức là từ lúc khởi sự xây cất thành Quy, Nguyễn vương Phúc Ánh rất bận rộn trong việc chinh chiến đối phó với quân Tây Sơn:


    (c̣n tiếp)

  10. #120
    Member
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    570

    Cô Tigon

    [QUOTE=Tigon;67620][QUOTE=cachon;67602]Chào bác NQ,
    Cái sân vận động đó giờ vẫn c̣n, vẫn mang tên sân Hoa Lư.
    Ở đó có nhiều kỷ niệm với bọn học sinh Hồ Ngọc Cẩn v́ đây là nơi tập môn thể dục của các trường trong vùng, cả trường nam lẫn trường nữ.
    QUOTE]


    Sân Hoa Lư cũng là nơi mang nhiều kỷ niệm của dân Trưng Vương chúng tôi .

    Các lớp đệ nhất cấp , th́ tập thể dục trong sân trường . C̣n các lớp đệ nhị cấp th́ ra sân Hoa Lư , sau đổi lên sân Phan Đ́nh Phùng .

    Sân Hoa Lư cũng là chỗ chúng tôi tập thao diễn trong 3 tháng " Bán Quân Sự ". Tại đây , chúng tôi đă sinh hoạt chung với Ngô Đ́nh Lệ Thủy , tập hát với Kim Chi ( ca sĩ Hoàng Oanh ) của Gia Long .


    Nhờ dịp này , Trưng Vương - Gia Long mới tiến lại gần nhau hơn , không c̣n kỳ thị nhau như trước . Tigon cũng kết bạn thân với vài chị Gia Long , cho tới khi xong Đại Học , ra đi làm , lấy chồng rồi đường ai nấy đi .
    Chuyện ǵ mới xẩy ra hôm qua th́ quên tuốt luốt , c̣n chuyện ngày xưa lại như một khúc phim , nhớ không xót đoạn nào , kỳ thật

    Tigon


    Chào cô Tigon,

    Nếu cô đă có dịp tập "Bán quân sự" với Ngô Đ́nh Lệ Thuỷ, hồi đệ nhất đệ nhị, th́ thời gian này tôi vừa tốt nghiệp và được bổ nhiệm về Tỉnh Darlac cũng huấn luyện "Bán quân sự" v́ là "Thanh Niên Cộng Hoà" Nhắc lại chuyện này để so sánh số tuổi của tôi hiện nay th́ tôi có thể đoán được số tuổi của cô Tigon. Th́ ra cô Tigon hăy c̣n trẻ lắm.

    *Góp ư này chỉ nhằm nhắc lại những ǵ tươi đẹp của thuở thanh xuân, chứ không dám đi vào chuyện riêng tư (tuổi tác) chắc cô Tigon cũng hiểu và không phiền ḷng?.

    NQ

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 14-08-2011, 11:46 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 28-03-2011, 04:40 PM
  3. Replies: 14
    Last Post: 02-10-2010, 11:42 AM
  4. Replies: 26
    Last Post: 30-09-2010, 04:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •