Results 1 to 6 of 6

Thread: Một nghi vấn văn học sử

  1. #1
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Posts
    264

    Một nghi vấn văn học sử


    Phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đă trau chuốt lại bài thơ "Đèo Ngang" nguyên thủy ?
    Tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Tráng

    -----o0o-----

    Bà Huyện Thanh Quan và Bà Hồ Xuân Hương là hai nữ sĩ kiệt xuất trong nữ giới của nền Văn Học Việt Nam vào cuốt thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19. Điều đó khó ai phản bác được. Hai nữ sĩ, mỗi người mỗi vẽ, mỗi người mỗi cung cách, nhưng cả hai Bà đều độc đáo.

    Rất nhiều nhà phê b́nh văn học đă cho Bà Hồ Xuân Hương có một văn phong "b́nh dân", dùng rặt chữ Nôm, c̣n Bà Huyện Thanh Quan th́ có văn phong "bác học", xen Hán tự nhiều trong tác phẩm của ḿnh.

    Thật thế, ta thấy rất nhiều thành ngữ chữ Hán trong tác phẩm của Bà Huyện. Theo văn học th́ ngày nay ta chỉ c̣n 6 bài thơ "thất ngôn bát cú" của Bà, ngoại trừ bài "Cảnh Thu", mà người ta cho rằng có thể là của Bà Hồ Xuân Hương. Trong 6 bài đó có rất nhiều thành ngữ chữ Hán, trừ bài "Qua Đèo Ngang".

    "Thành ngữ chữ Hán" tôi muốn nói ở đây, có nghĩa là ta có thành ngữ chữ Việt (Nam, Nôm) tương đương, như Triêu Mộ 朝 暮, ta có Sớm Tối; Tuế Nguyệt 歲 月, ta có Năm Tháng; Đoạn Trường 斷 腸, ta có Đứt Ruột…

    Mặt khác, tôi t́m thấy trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, in lần thứ 2, tại Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàig̣n 1925, có bài "Le Râle d’eau". Trong "Le Râle d’eau" lại có bài "Đèo Ngang", vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, c̣n nội dung th́ giống hệt nội dung bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.

    Bài "Le Râle d’eau" kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đă hết lời can gián và xin hoăn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa.

    Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mă, nên Quốc đă chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để t́m xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: "Quốc Quốc, La Hoa", Quốc ở đây, c̣n La Hoa ở đâu ?

    Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đă làm bài thơ "Đèo Ngang".

    Ông Lê Văn Phát chỉ để lại hai tác phẩn La vie intime d’un Annamite et ses croyances vulgaires, (Bulletins de la Société des Etudes Indochinoises, Imprimerie F.H Schneider Sàig̣n 1907), và Contes et Légendes du Pays d’Annam, (Imprimerie de l’Union Nguyễn Văn Của, Sàig̣n 1913), bằng chữ Pháp. Như thế, có thể ông Lê Văn Phát không biết nhiều về các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Những bài của ông Lê Văn Phát viết, toàn là chuyện cổ tích, huyền thoại dân gian cả. Bài "Đèo Ngang" trong Contes et Légendes du Pays d’Annam có thể là một giai thoại dân gian lâu đời, có trước thời Bà Huyện Thanh Quan chăng. Sau đây là bài "Đèo Ngang" theo ông Lê Văn Phát:

    Đèo Ngang

    Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen ba
    Non cao rải rác tiều vài lăo
    Đất rộng lai rai xóm mấy nhà
    Nhớ chúa đau ḷng con Quốc-Quốc (tên của trung thần Quốc)
    Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa (tên của vua La Hoa)
    Dừng chơn ngóng cổ miền non nước
    Một tấm ḷng riêng ta với ta

    Vô danh

    Vậy phải chăng Bà Huyện đă lấy bài đó, đă có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ như ta đă biết:

    Qua đèo Ngang

    Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
    Lom khom dưới núi, tiều vài chú
    Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
    Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
    Một mảnh t́nh riêng, ta với ta

    Bà Huyện Thanh Quan

    Ta thử từ từ kiểm xét xem.

    Sáu bài thơ của Bà Huyện như sau:

    1 – Chùa Trấn Bắc

    Trấn Bắc hành cung cỏ dăi dầu
    Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
    Mấy ṭa sen tỏa hơi hương ngự
    Năm thức mây phong nếp áo chầu
    Sóng lớp phế hưng coi đă rộn
    Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
    Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
    Ngơ ngẩn ḷng thu khách bạc đầu

    Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 5 thành ngữ chữ Hán và 1 chữ Hán. Cộng tất cả 11 chữ Hán:

    Hành cung 行 宮
    cố quốc 故 國
    hương ngự 香 御
    phong 封
    phế hưng 廢 興
    kim cổ 今 古

    2 – Đền Trấn Vơ

    Êm ái chiều xuân tới Trấn đài
    Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
    Ba hồi triêu mộ *, chuông gầm sóng
    Một vũng tang thuơng, nước lộn trời
    Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
    Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
    Nào nào cực lạc là đâu tá
    Cực lạc là đây, chín rơ mười

    Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 6 câu dùng 4 thành ngữ chữ Hán và 4 chữ Hán. Cộng tất cả 12 chữ Hán:

    trấn đài 鎮 臺
    trần ai 塵 埃
    triêu mộ 朝 暮 (sớm tối)*
    tang thương 桑 蒼
    ái 愛 ; trùng 重
    ân 恩 ; trượng 丈

    * Ba hồi triêu mộ là ba hồi chuông sớm tối. Có rất nhiều tác giả, ngay cả các tác giả gốc miền Trung và miền Nam là những người phân biệt rơ ràng hai phụ âm đầu trch đă lầm lẫn viết sai hai chữ chiêu mộ thay cho hai chữ triêu mộ, như trên.

    3 – Cảnh Chiều Hôm

    Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
    Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
    Gác mái, ngư ông về viễn phố
    Gơ sừng, mục tử lại cô thôn
    Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
    Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn
    Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ
    Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

    Trong 8 câu của bài nầy, ta thấy có 5 câu dùng 8 thành ngữ chữ Hán. Cộng tất cả 16 chữ Hán:

    Hoàng hôn 黃 昏
    ngư ông 漁 翁 ; viễn phố 遠 鋪
    mục tử 牧 子 ; cô thôn 孤 村
    chương đài 章 臺 ; lữ thứ 旅 次
    hàn ôn 寒 溫

    4 – Thăng Long thành hoài cổ

    Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
    Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
    Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
    Nước c̣n cau mặt với tang thương
    Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
    Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường

    Bài nầy đă phá kỷ lục, trong 8 câu, mỗi câu đều có thành ngữ chữ Hán, với 10 thành ngữ. Cộng tất cả là 20 chữ Hán:

    tạo hóa 造 化 ; hí trường 戲 場
    tinh sương 星 霜 (năm)
    thu thảo 秋 草
    lâu đài 樓 臺 ; tịch dương 夕 陽
    tuế nguyệt 歲 月
    tang thương 桑 蒼
    kim cổ 今 古
    đoạn trường 斷 腸

    Chỉ có bài:

    5 – Nhớ Nhà

    Vàng tỏa non tây, bóng ác tà
    Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
    Ngàn mai lác đác, chim về tổ
    Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
    C̣i mục thét trăng miền khoáng dă
    Chài ngư tung gió băi b́nh sa
    Ḷng quê một bước càng ngao ngán
    Mấy kẻ t́nh chung có thấu là

    Vỏn vẹn 2 câu với 2 thành ngữ và 2 chữ Hán. Tất cả 6 chữ Hán.

    mục 牧 ; khoàng dă 曠 野
    ngư 漁 ; b́nh sa 平 沙

    6 – Qua đèo Ngang

    Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
    Lom khom dưới núi, tiều vài chú
    Lác đác bên sông, rợ mấy nhà
    Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
    Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
    Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
    Một mảnh t́nh riêng, ta với ta

    Bài nầy không có chữ Hán, hay có chăng là 2 chữ rất thông dụng, chữ quốc 國, chữ gia 家 lập lại 2 lần. Hơn nữa, hai chữ Quốc Quốc, Gia Gia là hai tượng thanh của tiếng kêu của con Cuốc Cuốc (Đỗ Quyên) và con Đa Đa (Gà Gô).

    Vậy, phải chăng Bà Huyện Thanh Quan đă lấy bài "Đèo Ngang" của tác giả vô danh đă truyền khẩu trong dân gian từ lâu, rồi trau chuốt lại, chứ không phải Bà làm ra, v́ bài "Qua Đèo Ngang", chẳng những không có văn phong "bác học" của các bài khác của Bà Huyện, mà lại "b́nh dân", tuy đă trau chuốt hơn văn phong rất mộc mạc và rặt tiếng Nam (Nôm) của bài "Đèo Ngang" mà Lê Văn Phát đề cập tới trong Contes et Légendes du Pays d’Annam.

    Nguyễn Vĩnh Tráng
    Tiết Lập Xuân Canh Dần

  2. #2
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Posts
    264

    Lời b́nh của Trần Tư B́nh

    Đây là một khám phá lư thú và bất ngờ, cộng thêm những dẫn chứng của tác giả Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Tráng về các bài thơ khác mang tính "bác học" của bà Huyện Thanh Quan nên khiến độc giả cũng tự đặt câu hỏi và tự trả lời như tác giả Nguyễn Vĩnh Tráng.

    Cho dù sau này người ta chứng minh được sự thật là bà Huyện đă trau chuốt lại bài thơ "Đèo Ngang" của tác giả vô danh, th́ không v́ vậy mà bài "Qua Đèo Ngang" của bà mất đi cái man mác quyến rũ vốn có lâu nay trong ḷng người đọc.
    Tựa như việc dù biết Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) của thi hào Nguyễn Du đă lấy ư từ cuốn tiểu thuyết Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng trong ḷng người Việt, cái hay, cái đẹp của Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) vẫn măi là một viên kim cương độc lập, tự tỏa ánh sáng kiều diễm của nó qua những vần thơ thiên tài của cụ Tố Như.

    Trần Tư B́nh

  3. #3
    Member
    Join Date
    27-05-2011
    Posts
    187
    Chuyện cũng có phần lư thú, nhưng v́ ông Lê văn Phát viết bài này năm 1913 nên ta không thể vin vào nó mà nói là bài thơ kia là không xuất phát từ Bà Huyện Thanh Quan . Cũng rất có thể bài này được truyền khẩu mà những chữ thay đổi qua thời gian đến ông Lê văn Phát nghe được th́ tưởng là văn học dân gian .

    Ngược lại tôi có đọc thấy một học giả đă bàn là bài Đền Trấn Vơ không phải là của bà .

  4. #4
    Member
    Join Date
    09-12-2010
    Posts
    77
    1) Theo văn học sử , bà huyện thanh quan là người làm thơ bằng chữ Nôm , đậu thủ khoa nhà Lê , cho nên sau này bà ta vẫn c̣n hoài niệm về triều đại nhà Lê chiêu Thống ( bán nước cho Tầu bị vua Quang Trng lật đổ ) , là người miền bắc , sau dạy học trong cung đ́nh Huế ở miền Trung .http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0...87n_Thanh_Quan, cho nên lúc nào cũng nhớ về Hà nội chốn xưa

    Chữ Nôm là chữ dựa vào chữ Hán nhưng viết theo kiểu ghép âm nên Người tầu đọc không hiểu , nếu họ đọc tách riêng từng chữ như bên trên , chỉ hiểu phần tiếng Hán , sẽ không hiểu được hết âm của tiếng việt .

    Thí dụ : chữ nôm viết trời thanh thanh =>> TRỜI XANH NHẠT . ==>> âm đôi khiến mầu nhạt đi .

    chữ Hán trời thanh =>> trời xanh .

    Cho nên , nếu tách từng chữ , th́ sẽ hiểu theo gốc Hán là trời xanh .

    2) Bài thơ đèo ngang dạy trong trung học , hoàn toàn không nói ǵ đến chuyện Chiêm Thành và cận vệ của chiêm thành .

    Bà Huyện Thanh quan Khi đến Đèo ngang , núi cao chất ngất như đèo non nước ( Hải Vân ) , nh́n ra bốn bên chỉ thấy rừng và trời mây , trong khung cảnh tĩnh mịch của khu rừng ; Xa xa bóng dáng người tiều phu lấy củi , lúc đó khi về chiều tiếng kêu của bầy gà bầy gà gô kêu con về tổ , chim cuốc lủi cũng cất tiếng kêu về tổ ( kêu là chim nhưng không bqay được , nó giống con gà nhỏ chạy lẹ , ẩn vào các bụi cây , thường đi bầy với các con ) .

    Khiến bà ta nhớ đến thời kỳ vàng son triều đại của nhà Lê ( lê chiêu Thống ) nay đă mất , và dù ở miền Trung dạy học nhưng lúc nào cũng nhớ về Hà Nội . Đó là sự tiềm ẩn trong hai câu thơ :

    " Nhớ nước đâu ḷng con Quóc quốc ,
    thương nhà mỏi miệng cái gia gia "

    Bài thơ đèo ngang dạy trong trung học , hoàn toàn không nói ǵ đến chuyện vua Chiêm Thành và cận vệ của vua chiêm thành tên quốc . Đó chỉ là nói chơi .

    Sau 500 năm , Ai c̣n biết Cận vệ vua Chiêm tên Quốc , sách nào nói vua chiêm chỉ có mỗi một cận vệ ??? . Nếu sách có viết thường chỉ viết tên vị vua .

    Thực sự những người tây nguyên , người thượng , người Rađê ...chính là người chiêm thành xưa , có ai đọc được chữ viết của họ ngày nay ???
    Last edited by Chú Tư; 12-09-2011 at 09:09 AM.

  5. #5
    kenjin_knightvn2009
    Khách
    Quote Originally Posted by Chú Tư View Post
    1) Theo văn học sử , bà huyện thanh quan là người làm thơ bằng chữ Nôm , đậu thủ khoa nhà Lê , cho nên sau này bà ta vẫn c̣n hoài niệm về triều đại nhà Lê chiêu Thống ( bán nước cho Tầu bị vua Quang Trng lật đổ ) , là người miền bắc , sau dạy học trong cung đ́nh Huế ở miền Trung .http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0...87n_Thanh_Quan, cho nên lúc nào cũng nhớ về Hà nội chốn xưa

    Chữ Nôm là chữ dựa vào chữ Hán nhưng viết theo kiểu ghép âm nên Người tầu đọc không hiểu , nếu họ đọc tách riêng từng chữ như bên trên , chỉ hiểu phần tiếng Hán , sẽ không hiểu được hết âm của tiếng việt .

    Thí dụ : chữ nôm viết trời thanh thanh =>> TRỜI XANH NHẠT . ==>> âm đôi khiến mầu nhạt đi .

    chữ Hán trời thanh =>> trời xanh .

    Cho nên , nếu tách từng chữ , th́ sẽ hiểu theo gốc Hán là trời xanh .

    2) Bài thơ đèo ngang dạy trong trung học , hoàn toàn không nói ǵ đến chuyện Chiêm Thành và cận vệ của chiêm thành .

    Bà Huyện Thanh quan Khi đến Đèo ngang , núi cao chất ngất như đèo non nước ( Hải Vân ) , nh́n ra bốn bên chỉ thấy rừng và trời mây , trong khung cảnh tĩnh mịch của khu rừng ; Xa xa bóng dáng người tiều phu lấy củi , lúc đó khi về chiều tiếng kêu của bầy gà bầy gà gô kêu con về tổ , chim cuốc lủi cũng cất tiếng kêu về tổ ( kêu là chim nhưng không bqay được , nó giống con gà nhỏ chạy lẹ , ẩn vào các bụi cây , thường đi bầy với các con ) .

    Khiến bà ta nhớ đến thời kỳ vàng son triều đại của nhà Lê ( lê chiêu Thống ) nay đă mất , và dù ở miền Trung dạy học nhưng lúc nào cũng nhớ về Hà Nội . Đó là sự tiềm ẩn trong hai câu thơ :

    " Nhớ nước đâu ḷng con Quóc quốc ,
    thương nhà mỏi miệng cái gia gia "

    Bài thơ đèo ngang dạy trong trung học , hoàn toàn không nói ǵ đến chuyện vua Chiêm Thành và cận vệ của vua chiêm thành tên quốc . Đó chỉ là nói chơi .

    Sau 500 năm , Ai c̣n biết Cận vệ vua Chiêm tên Quốc , sách nào nói vua chiêm chỉ có mỗi một cận vệ ??? . Nếu sách có viết thường chỉ viết tên vị vua .

    Thực sự những người tây nguyên , người thượng , người Rađê ...chính là người chiêm thành xưa , có ai đọc được chữ viết của họ ngày nay ???
    Phúc hồi của Chú Tư dẫn đến hai câu hỏi:

    1.
    Thực sự những người tây nguyên , người thượng , người Rađê ...chính là người chiêm thành xưa , có ai đọc được chữ viết của họ ngày nay ???
    Ông dựa vào đâu để kết luận như vậy? Người Chiêm Thành (xin viết hoa thưa ông) thuộc văn hoá Khmer. Rất khác với dân tộc thiểu số VN.

    2.
    Chữ Nôm là chữ dựa vào chữ Hán
    Thưa ông, điều này lại hoàn toàn sai. Ông có bao giờ vào mục triết của Việt Land này không?

    Nhắc ông đó: wiki là sọt rác đó. Đừng vào đó mà dẫn tài liệu, hố có ngày đó ông à.

  6. #6
    Member
    Join Date
    27-05-2011
    Posts
    187
    Quote Originally Posted by kenjin_knightvn2009 View Post

    2. Chữ Nôm là chữ dựa vào chữ Hán

    Thưa ông, điều này lại hoàn toàn sai. Ông có bao giờ vào mục triết của Việt Land này không?

    Nhắc ông đó: wiki là sọt rác đó. Đừng vào đó mà dẫn tài liệu, hố có ngày đó ông à.
    Chữ Nôm đúng là dựa vào chữ Hán . Bạn có thể t́m được một số sách về chữ Nôm ấn hành ở Hoa Kỳ hay từ VN. Cũng giống như người Nhật và người Hàn, ông cha ta ngày xưa mượn chữ Hán để t́m chữ viết cho ngôn ngữ dân tộc . Một số chữ Nôm th́ mượn theo nghĩa hoặc âm . Nhiều chữ th́ tạo ra bằng cách ghép âm với nghĩa . Trong Truyện Kiều bản chữ nôm Nguyễn Du dùng Hán "nương" (pinyin: niáng) để cho chữ Nôm "nàng", Hán "tại" (pinyin: zài) cho Nôm "tại". Chữ Nôm "nói" là kết hợp của bộ "khẩu" với chữ "nội". Chữ Nôm "lời" rất ngộ nghĩnh v́ nó có thể dùng để chứng minh là tiếng Việt ngày xưa phát âm "blời" thay v́ "trời" như ngày nay . Chữ này kết hợp bộ "khẩu" với chữ Nôm "blời" (chữ Thiên ở trên, chữ Thượng ở dưới).

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trung Cộng thử nghiệm quy mô máy bay không người lái.
    By Vincent Le in forum Khoa Học - Kỹ Thuật
    Replies: 0
    Last Post: 08-10-2011, 09:43 PM
  2. Thử nghiệm mở cửa cho các bạn độc giả đăng bài trực tiếp
    By Thương Dân in forum Thông Báo Diễn Đàn
    Replies: 9
    Last Post: 14-10-2010, 10:58 PM
  3. Replies: 7
    Last Post: 17-09-2010, 04:18 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •