-
Kiếp tù
[B]
KIẾP TÙ [/B]
[I]Tác giả Duy Xuyên [/I]
Tôi sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt.
Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. C̣n việc trả công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn: của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự t́m thức ăn.
Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót ḷng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đă hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên, một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hănh diện được xúng xính trong quân phục 'lính áo đen'.
Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó!
Tôi được dạy cho biết cách sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là 'người t́nh' đi theo tôi trong suốt quăng đời lính tráng này.
Tôi được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là 'tiểu đội thám báo'.
Nói 'thám báo' cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh gác trụ sở Xă, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa h́nh khác với mục đích tránh sự ḍm ngó, quan sát theo dơi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là 'phục kích đêm' để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ư ẩn nấp để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng cấp.
Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi ŕnh ṃ về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật ḿnh, anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngă gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rơ tên du kích là một người dân trong xă vừa thoát ly gia đ́nh theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xă để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất.
Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên 'thám báo' của chúng tôi.
Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội 'áo đen' làm ǵ có phương tiện tải thương để chuyên chở tử thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân. V́ thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xă. Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ́ ạch khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xă, chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xă.
Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo tôi vừa thả buông băng ca xuống:
- Đặt xác nó tại đây đi!
Anh bạn vừa thả băng ca th́ trời bất chợt đổ cơn mưa rào.
Tôi đem ḷng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị...mưa ướt.
Đó là ḷng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế.
Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập th́nh thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om ṣm:
- "Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng tao!!" rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. "Trời ơi là trời!"
Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải tŕnh diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.
Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày th́ được cho về sinh hoạt với gia đ́nh. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xă, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân...
Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố t́m các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đă không t́m thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đă bắn chết anh du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào. Thậm chí ngay cả các anh 'linh áo đen' đă đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!
Tôi bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một ḿnh tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
- Ủa, anh là nghĩa quân trơn, sao lại tŕnh diện vào đây để ngồi tù?!
Có người th́ nói ôn tồn, thương hại. Có người th́ nh́n tôi, tỏ vẻ thắc mắc.
Lúc nào tôi cũng nhă nhặn trả lời:
- Dạ em cũng không biết nữa thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đă thăng hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu. Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng pḥng, trưởng cuộc... ǵ đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các vị thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các vị thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy v́ các vị này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng của tôi.
Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại tù.
Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.
Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được về đoàn tụ với gia đ́nh. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một Đại tá và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân.
Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu th́ ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về gặp lại vợ con.
À, mà tôi quên kể cho quư vị nghe về gia đ́nh, sự nghiệp, thân thế của tôi...
Năm 18 tuổi tôi cũng đă lập gia đ́nh với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia nhập 'quân áo đen' dưới 'cờ vàng ba sọc đỏ' th́ Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết ǵ!
Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lăng mạn để trao cho nhau làm ǵ cho mất th́ giờ.
Tôi cũng không nhớ rơ, cái đêm động pḥng hoa chúc ấy ... ra làm sao... Tôi đă nói với Nại những ǵ... âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong ṿng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đă có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, 'quân áo đen' không được hưởng phụ cấp gia đ́nh như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ được lănh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một ḿnh nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nh́ tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ đêm với Nại trong nhà 'thăm nuôi" và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại th́ được biết một thảm kịch đă xảy ra lôi thôi cho gia đ́nh tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi thăm nuôi chồng bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại v́ không có thân nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đă chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh trán, một ít mắm ruốc kho...
Năm đứa con, ngồi khóc v́ không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.
Nại chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính ḿnh, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.
Cảnh gà trống nuôi con. T́nh cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười.
Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đă lắng xuống nhiều, song h́nh ảnh của Nại vẫn c̣n lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng ḿ. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. C̣n lại một đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi. Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đă mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó lều như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào ḿ và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ chúng.
Nào ngờ một đêm, tôi giật ḿnh thức giấc th́ thấy vắng mặt con Thanh -đứa con gái đầu ḷng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.
Tôi nh́n ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét...
Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vă lách mưa đi t́m Thanh.
Sau một hồi t́m kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi: "Thanh! Thanh! Con ở đâu?" Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đă về nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.
Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác không biết chuyện ǵ đang xảy ra.
Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một ḿnh ngồi chờ con Thanh về.
Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai...Không biết chuyện ǵ đă xảy ra th́ khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.
- Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp... Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đă bắn chết nó rồi... Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.
Điếng cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu. Quanh bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh ḿnh chừng mười trái bắp và hai củ khoai ḿ mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó c̣n đang nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm v́ đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà ḷng buồn rũ rượi. Tôi không c̣n một chỗ nào trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ khoai ḿ đă đổi sinh mạng của nó.
Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh v́ thiếu t́nh thương của cha, trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy tuổi đă phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xă hội đă hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lănh phụ cấp gia đ́nh, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. C̣n vợ con của 'quân áo đen' th́ đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lănh đạo nào thèm quan tâm đến.
Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào 'ngụy quân', cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các ông 'đỉnh cao của nhân loại' không biết phân biệt hành xử để ‘quân áo đen' như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!
Bảy ngày sau, đúng vào 'thất thứ nhất', vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đ́nh và cái chết thê thảm của con Thanh ...
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, năo nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre nh́n ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên...Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nh́n kỹ th́ ra đó là h́nh dáng của con Thanh. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo ṭn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất b́nh tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đă đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn c̣n đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi :"Để cha ra bồng con Thanh vào nhà" tôi vừa đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng khi ra đến mả th́ h́nh dáng con Thanh không c̣n nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện ǵ đă xảy ra nhưng tôi vẫn c̣n b́nh tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc ừa vái trước mộ nó: "Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn."
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đă bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.
Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang t́m kiếm vật ǵ? Sau đó nó lấy một cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: "Ba ơi! Nhà không có ly, ḿnh dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?"
Nước mắt lưng tṛng, tôi khẽ gật đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả ḷng yêu thương người chị.
Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho tôi. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội t́m trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt h́nh vợ ḿnh trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt h́nh của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo c̣n sót lại.
Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của một chế độ mà người bốc lột người... Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng: "Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh láng c̣n Thanh th́ đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn c̣n nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.."
[B]Duy Xuyên[/B]