Chinh phụ Ngâm khúc VNCH ( thời binh lửa)
Chính v́ lịch sử dường như đă bỏ quên những đau khổ, oan khiên và hy sinh vô bờ bến của vô số những người chinh phụ Việt Nam Cộng Ḥa trong và sau cuộc chiến, tôi đă viết thi tập "Chinh phụ ngâm khúc Việt Nam Cộng Ḥa ( thời binh lửa) để tri ơn và tưởng nhớ các chị.
Thi tập CPNK/VNCH cũng viết theo thể song thất lục bát như Chinh phụ ngâm khúc của hai cụ Đặng Trần Côn và cụ Đoàn Thị Điểm, và sẽ ra đời và phát hành trong mùa Thu năm nay, 2013. Qua thi tập này, chúng ta sẽ thấy thân phận những chinh phụ VNCH đau thương và bất hạnh hàng ngh́n lần hơn người chinh phụ thuở xưa qua tác phẩm CPNK/ của hai cụ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm.
Xin gửi đến quư anh chị, nhất là các chị vài ḍng đầu trong bản thảo tập Chinh phụ ngâm khúc VNCH ( thời binh lửa)...
Lê Khắc Anh Hào
Chinh phụ ngâm khúc
Việt Nam Cộng Hoà
(thời binh lửa)
Giầy saut dẫm bước phong trần
Sương đêm thấm nặng ngh́n cân cơi người.
Dẫn nhập
Trong cuộc chiến chống Bắc quân để bảo vệ tự do, bờ cơi miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17, bờ Nam sông Bến Hải, những người lính miền Nam Việt Nam, hay nói như ư thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc” của hai cụ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm, họ là những lớp chinh phu can trường, gian khổ và bất hạnh. Họ đă chiến đấu, họ đă “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”, một số họ đă hy sinh, đă ngă xuống nơi chiến trường… Và những chinh phu sống c̣n trong cuộc chiến, họ đă trở thành những “bại binh” bị hy sinh sau 1975 khi người Mỹ “phủi tay” rời chiến trường miền Nam v́ nhu cầu chiến lược toàn cầu của họ.
Người chinh phu của thời xưa, số phận của họ may mắn hơn với những chinh phu miền Nam thời VNCH. Thời xưa, chinh phu là những “chàng Siêu tóc đă điểm sương mới về”. Những chinh phu miền Nam thời VNCH thời chiến tranh có người cũng đă trở về, không phải để “Ngâm nga mong gửi chữ t́nh. Dường này âu hẳn tài lành trượng phu”, mà họ, một số hy sinh nơi chiến địa, một số trở về trên đôi nạng gỗ, đa số lại trở về để rồi tan nát đời trai trong các trại tù cộng sản từ Nam tới Bắc.
Thế nhưng, từ những ngày đầu, khi “thuở trời đất giặc Hồ nổi lửa” đến ngày Sài G̣n sụp đổ năm 1975 , “Oan khiên trĩu nặng h́nh hài. Cái thân tù ngục an bài kiếp nao?”… th́ lớp lớp những người chinh phụ miền Nam đă trải qua những cảnh đời đau khổ, khốn nhục, bất hạnh ngàn lần hơn người chinh phụ ngày xưa trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” của hai cụ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm.
Chúng ta biết những chinh phụ miền Nam “lệch làn tóc rối, lỏng ṿng lưng eo”, tan nát đời hoa ra sao khi từng đêm nghe tiếng đại bác, đêm từng đêm nh́n hỏa châu rực sáng núi rừng, nơi chồng ḿnh xông pha trận mạc.
Chúng ta biết những chinh phụ miền Nam đau khổ ra sao những khi phải đối diện với thảm cảnh “ngày mai đi nhận xác chồng, say đi để tưởng ḿnh không là ḿnh…”
Chúng ta biết những chinh phụ miền Nam bất hạnh ra sao khi phải vừa tần tảo nuôi con, vừa lặn lội thăm chồng trong các trại tù cộng sản núi rừng heo hút từ Nam ra Bắc.
Chúng ta biết những chinh phụ miền Nam lịm chết ra sao khi hay tin chồng chết trong tù giặc cộng.
Chúng ta biết những chinh phụ miền Nam gió sương, cơ cực và cô đơn ra sao khi giặc cộng tịch thu nhà cửa và tống nàng và các con ra khỏi mái nhà êm ấm của hai vợ chồng v́ tội cộng sản gọi là “có nợ máu với nhân dân”…
Chúng ta cũng biết những đoạn trường, bất hạnh của những chinh phụ miền Nam ra sao khi nàng phải vượt sóng đại dương, bỏ nước ra đi t́m chồng, t́m tự do, hay sau khi chồng chết trong trại giặc mà phải dắt con ra đi…
Hăy bỏ trái tim và biển lệ của những người chinh phụ miền Nam lên bàn cân lịch sử đầy nước mắt, máu xương, oan nghiệt của dân tộc trong suốt chiều dài của cuộc chiến chống Bắc quân… th́ độc giả mới hiểu được tại sao tôi viết “Chinh phụ ngâm khúc Việt Nam Cộng Ḥa”…
Tôi viết “Chinh phụ ngâm khúc Việt Nam Cộng Ḥa” không v́ mục đích văn học, mà hoàn toàn v́ muốn ghi nhận những gian truân, khổ nhọc, đoạn trường của vô số những người vợ lính, những chinh phụ miền Nam trong suốt chiều dài của cuộc chiến bi hùng, oan nghiệt, và cả ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt. Họ là thành phần gần như bị bỏ quên, bất công và vô t́nh…
Tôi, người cũ năm xưa, mạo muội viết thi tập “Chinh phụ ngâm khúc VNCH”, chân thành gửi đến quư chị một lời vinh danh, một lời cám ơn và một bông hồng không tàn phai cùng năm tháng, cho dù các chị c̣n sống đoài đoạn ở Việt Nam, sống lưu vong trên đất khách, hay đă không c̣n trên cơi đời này…
Rừng xanh áo trận bạc màu
Em hay anh nặng nỗi đau chia ĺa?
Lê Khắc Anh Hào
Chinh phụ ngâm khúc
Việt Nam Cộng Hoà
(thời binh lửa)
Chương một
Chinh phụ ngâm khúc
Việt Nam Cộng Ḥa
( Song thất lục bát)
1.
Thuở trời đất giặc Hồ nổi lửa
Ngày đời em đổ vỡ phong ba
V́ ai loan phụng ĺa xa
V́ ai xă tắc sơn hà nát tan?
2.
Ngày xuất quân, lệnh ban chống giặc
Đêm hỏa châu giăng mắc lưng trời
Rừng sâu chong súng ngậm lời
Chờ nghe đạn giặc gọi mời lửa binh.
3.
Trời phương Nam thanh b́nh năm cũ
Đời anh như hoa nụ trên cành
Bỗng nhiên vỡ đất tan thành
Bút nghiêng xếp lại, máu tanh giang hồ.
4.
Vượt Bến Hải giặc vô như thác
Nhập rừng sâu: lệnh Mác Lê Nin
Lệnh truyền từ Hồ Chí Minh
Tang thương đất Việt, điêu linh giống ṇi.
5.
Thuở thư sinh đêm soi đèn s ách
Giờ súng gươm anh vạch đường quân
Giầy saut dẫm bước phong trần
Sương đêm thấm nặng ngh́n cân cơi người.
6.
Ngày anh đi một trời úa lá
Chân tiển anh mà lạ gót son
Khối sầu dằng dặc héo hon
Chắp tay nguyện bước vuông tṛn theo anh.
7.
Anh bước đi, trời xanh rực nắng
Em đứng nh́n đăng đắng bờ môi
Anh đi, nắng lạ bồi hồi
Em về lẽ bóng ngậm lời biệt ly.
8.
Lùng Bắc quân, ngại khi lạc lối
Súng Khe Sanh khẽ gọi Pleiku
Anh đi sương khói mịt mù
Súng gươm anh chận gót thù đạn bom.
9.
Em thơ thẩn từng hôm soi bóng
Dơi vầng trăng lồng lộng quan san
Quân đi rừng núi bạt ngàn
Trường Sơn đổ lửa, em tràn lệ sa.
10.
Đêm đụng giặc, xông pha trận mạc
Ngày dừng quân lục soát chiến trường
Chiến y phủ lớp bụi đường
Uy nghi cờ lộng gió sương biên thùy.
.....
Lê Khắc Anh Hào