BỐN MƯƠI NĂM , NỖI NIỀM BA THẾ HỆ
[COLOR="#FF0000"][SIZE=5][B][CENTER]Bốn Mươi Năm, Nỗi Niềm Ba Thế Hệ [/CENTER][/B][/SIZE][/COLOR]
[SIZE=2][B]Khôi An[/B][/SIZE]
[CENTER][IMG]http://i58.tinypic.com/345jxp4.jpg[/IMG]
[/CENTER]
[SIZE=1][B][CENTER]Tấm ảnh sinh viên Việt Nam ở Pháp. Đă tuần hành trên đường phố Paris. Để tang cho Việt Nam.
Ngày 27 tháng 4 năm 1975[/CENTER][/B][/SIZE]
[COLOR="#800080"][B][CENTER]
"Hai mươi năm,
bầy trẻ thơ nay đă lớn
và chàng trai nay đă già"[/CENTER][/B][/COLOR]
Tháng Tư 1995, tôi lặng người khi nghe câu hát đó. Rồi bùi ngùi nhận ra ḿnh là một trong bầy trẻ đă lớn. Lớn, nhưng chưa làm được ǵ nhiều, chỉ đau đau trong ḷng những ước mơ cho một quê hương xa vời vợi.
Thoáng một cái, đă 2015. Trong email với những người bạn thân từ thưở học tṛ, tôi sửa lời của nhạc sĩ Phan Văn Hưng để đùa chơi
[COLOR="#800080"][B][CENTER] "Bốn mươi năm,
bầy trẻ thơ nay đă xế
và chàng trai nay quá già"[/CENTER][/B][/COLOR]
Các anh chị, cô chú mà nghe "chàng trai nay quá già" chắc sẽ không vui.
Tôi cũng biết lẽ ra không nên diễu (dở) với sự thật... phũ phàng. Nhưng, thay v́ thở dài hoặc chống trả thứ không thể chống trả, có lẽ cách hay nhất là làm theo câu thơ tiền chiến: Tôi nói ḷng ra để tự cười.2
*
Khi Bố tôi tự nhận là "tuyến đầu" - tiếng của Bố đặt cho những người đứng mũi, chịu sào cho cả ba thế hệ gồm có cha mẹ, chính ḿnh, và con cái - th́ tôi chỉ có vừa đủ trí khôn để gom góp vài kư ức về ông bà.
Kư ức đó gồm có nét thanh lịch của các bà vấn khăn nhung, mặc áo dài lụa, cổ đeo chuỗi cẩm thạch xanh rờn nước lư trong ngày Tết. Có sự ấm áp của h́nh dáng bà ngoại tôi ra vào, vun vén, trông nom. Có h́nh ảnh trang nghiêm của các ông, áo the khăn xếp, cầm bó hương cháy nghi ngút đứng khấn thật lâu trước bàn thờ trong những ngày giỗ kỵ. Có những "nụ cười đen nhánh sau tay áo" (3), có các bà luôn luôn mặc áo dài khi ra khỏi nhà và gọi con là "các anh, các chị". Và có cả sự kính cẩn trong cách tôi gọi nhiều người, không bằng tên mà bằng chức vị ở miền Bắc trước khi họ di cư vào Nam: bà Thông, bà Hộ, ông Chánh...
Ngày đó, đối với tôi, tuổi già là những ông bà hay nhắc tới những địa danh, những kỷ niệm ở miền Bắc xa xôi. Họ có cách ăn nói và hỏi chuyện con cháu giống nhau, rất gần gũi, quen thuộc trong gia đ́nh nhưng khác với những ông bà cụ người Nam ở chung quanh. Chỉ như thế. Những điều khác như sự đau yếu, qua đời chỉ lờ mờ đằng sau sự hiện diện vững chăi của Bố Mẹ tôi. Chúng tôi nhởn nhơ trong bóng mát b́nh yên khi những gay gắt của cuộc đời đă được thế hệ cha mẹ lọc đi.
Bà ngoại tôi mất năm 1974, đem theo niềm mơ ước gặp lại hai người con trai đi kháng chiến chống Pháp từ thập niên 40 và ở lại ngoài Bắc. Tuy vậy, nhiều người vẫn nói là bà có phước v́ không phải chứng kiến cảnh lạc đàn tan nghé, con tù cháu tội, nheo nhóc đói khổ sau cuộc đổi đời năm 1975. Các ông bà khác th́ một số kẹt lại Việt Nam, một số ôm nỗi nhớ thương miền Bắc c̣n chưa ráo theo con cháu đi tứ tán. Sau đó, v́ chia cắt, tôi không được gặp lại các ông bà. Tôi chỉ nghe nói thời gian đầu ở nước ngoài họ coi nhà, trông cháu cho các con lao ra ngoài kiếm sống. Những gia đ́nh may mắn có ông bà th́ các cháu bé không phải lang thang ở những nhà giữ trẻ, nơi mà mọi thứ đều xa lạ.
Ông bà giữ ngọn đèn trong nhà bật sáng, dọn mâm cơm để các cháu ngồi cùng ăn khi cha mẹ đi học lớp tối hay làm thêm giờ về trễ. Họ ru cháu ngủ khi cha mẹ làm ca đêm. Họ là bếp sưởi ấm áp, là h́nh ảnh đậm đà của quê hương vừa ĺa xa...
Khoảng mười lăm năm sau, khi cộng đồng người Việt tạm cứng cáp th́ hầu hết các cụ đă yên lặng ra đi. Thời đó bận rộn, xa xôi quá nên tin về các ông bà chỉ được biết qua những lá thư hay những cuộc điện đàm hiếm hoi. Tôi đă không nghĩ nhiều đến các cụ, không thắc mắc họ đă sống tuổi tám mươi, chín mươi như thế nào ở những thành phố của Mỹ, Canada, Pháp, Úc và ra đi trong hoàn cảnh ra sao. Một phần v́ tôi c̣n "trẻ người, non dạ", nhưng lư do chính là v́ Bố Mẹ tôi vẫn c̣n khỏe nên chúng tôi được núp bóng, vô tư trước quy luật đến và đi của đời người.
*
Sau khung kính vuông trên trần là một khoảng trời xanh dịu, hoe chút nắng nhẹ nhàng.
Đó là một buổi sáng mùa Đông ở Bắc California, ba ngày sau khi tôi đến Mỹ. Hôm đó là ngày thứ Hai, mọi người đều đi học, đi làm. Ở nhà chỉ có hai chị em tôi mới từ trại tị nạn sang, vừa được D́ đón về nhà.
Căn nhà vắng vẻ dường như rộng hơn b́nh thường. Tôi đi ra pḥng khách, ngồi trên ghế sofa, nh́n lên tấm skylight trên trần trời, ghi vào óc h́nh ảnh đang thấy, và thầm nói "Tôi đă đến! Bầu trời nước Mỹ là như thế này đây."
Mới đó, mà hơn ba mươi năm!
D́ là em gái của Mẹ tôi, nhưng trong gia đ́nh gốc Bắc tôi gọi bằng "Cô" và chồng của D́ th́ gọi là "Chú". Bây giờ, tôi gọi là "D́" (để nói rằng đó là người thân lắm, giống như trong câu tục ngữ "Xảy Cha c̣n Chú, mất Mẹ bú D́".)
Trong gia đ́nh, D́ qua Mỹ trước tiên, vào tháng Tư năm 1975. D́ kể, ra khỏi trại Pendleton gia đ́nh Chú và D́ được một nhà thờ ở Hayward, Bắc California bảo trợ. Đó là một điều buồn vui lẫn lộn. Vui v́ California là nơi khí hậu dịu dàng, không lạnh cóng như những vùng khác, nhưng lại buồn v́ bạn bè trong quân đội của Chú phần lớn sang miền Đông Hoa Kỳ qua sự đỡ đầu của những người bạn cố vấn Mỹ ngày trước. Nhưng D́ nghĩ thân tị nạn trên đất nước xa lạ, biết đâu mà lựa chọn, cứ theo duyên phận, rồi "nước chảy tới đâu, bắc cầu tới đó".
Chú cất bộ quân phục có gắn bông mai vàng vào kư ức, ngày ngày mang bộ đồng phục của thợ lắp ráp trong hăng xe hơi. Ở thắt lưng chú đeo nguyên một bộ kềm vặn ốc lớn nhỏ đủ cỡ, sắp xếp theo đúng thứ tự đă thuộc ḷng. Khi chiếc xe trên đường dây chuyền trờ tới, chú nhảy phóc lên, rút kềm, gồng tay vặn những con ốc ở những vị trí cũng nhớ nằm ḷng. Xe đi khoảng bốn mét là hết khâu, chú phải nhảy xuống, chạy ngược lại đón chiếc xe mới tới. Cứ chạy nhảy liên tục như vậy. Một ngày tám tiếng.
D́ cũng thay áo luật sư bằng áo khoác trắng và lưới trùm tóc của hăng trái cây đóng hộp. Cũng ngày ngày đứng trước một bộ máy dây chuyền gồm những thùng sắt khổng lồ đi chầm chậm. Trái anh đào hay trái dâu từ trên đổ xuống ào ào, hai tay D́ phải lựa thật nhanh những trái xấu, bỏ ra ngoài. Lúc mới làm chưa nhanh tay, nhanh mắt, có đôi khi trái xấu xót lại, bà đốc công lượm ra đem dí vào mặt la xối xả. D́ không dám phân trần nửa lời, chỉ im lặng làm tiếp. Hai tay bốc lia, bốc lịa nên không thể gạt nước mắt chảy ṛng ṛng.
May mắn cho Chú, D́ và cả cộng đồng người Việt tị nạn ở Bắc California, kỹ nghệ điện tử được phôi thai từ những năm 1965, 1968 đến giữa thập niên bảy mươi bắt đầu cứng cáp. Các hăng bắt đầu cần rất nhiều chuyên viên điện tử và, nhờ ơn trời (như D́ nói), nghề này hợp với rất nhiều người Việt. Kiến thức khoa học: có đủ, v́ hầu hết là sĩ quan, công chức ở Việt Nam; sự cẩn thận, chịu khó: có thừa; khả năng học hỏi và ḷng cầu tiến: tràn trề. Bắt đầu là những người có sẵn bằng cấp từ Việt Nam lấy một vài lớp học về điên tử rất dễ so với khả năng của họ, rồi được tuyển vào các hăng làm chuyên viên kỹ thuật (technician). Từ đó họ chỉ đường cho gia đ́nh và bạn bè.
D́ và Chú sau giờ đi làm đă ghi danh học lớp tối ở San Jose City College, lấy nhanh tấm bằng hai năm rồi đầu quân vào đội ngũ chuyên viên kỹ thuật đang tăng vọt. Từ các tiểu bang khác, sinh viên Việt Nam đi du học trước năm 1975 mới tốt nghiệp cũng đổ về San Jose t́m việc. Đă có nhiều cuộc gặp gỡ ngỡ ngàng khi những kỹ sư trẻ măng biết ra rằng những techinician tóc loáng thoáng sợi bạc, im lặng, chăm chỉ làm cùng pḥng thí nghiệm chính là những nhân vật mà họ từng nghe tên tuổi lẫy lừng trong những trận đánh của Tết Mậu Thân 1968, của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Gia đ́nh Chú D́ cũng như nhiều người Việt khác dần dà khá giả hơn. Nhiều gia đ́nh chồng đi học có bằng làm technician, vợ chưa tốt nghiệp cũng hăng hái đi làm nhân viên khâu lắp ráp (assembler hay assembly line worker).
"Ở đây chồng Tách (technician), vợ Ly (assembly)
Cùng làm một buổi, c̣n ǵ sướng hơn"
Hạnh phúc của người tị nạn thời đó đơn giản là vậy. Đầu óc, công sức và sự khéo léo của họ đă chăm chút, hoàn thiện biết bao sản phẩm của các hăng điện tử. Thành công đem lại thành công, các hăng mọc lên ngày càng nhiều, và người Việt tị nạn đă góp công rất lớn vào sự phát triển của Thung Lũng Điện Tử, nơi ra đời của những sản phẩm thay đổi đời sống con người trên toàn thế giới.
Trong guồng máy của thung lũng này, D́ và Chú vừa xây dựng lại cuộc đời trên đất mới, vừa dành dụm gởi về giúp đỡ hàng chục anh chị em trong họ hàng hai bên.
Rồi đại gia đ́nh dần dần đoàn tụ, lúc đầu là những người trẻ đi bằng đường vượt biển, sau đó là người lớn tuổi đi theo diện bảo lănh. Là con gái út nhưng v́ quen gánh vác họ hàng từ sau cuộc đổi đời, D́ đă trở thành người đầu đàn của họ ngoại tôi trên đất Mỹ.
Có một lần tôi mỉm cười và nghĩ rằng D́ không giống với h́nh ảnh quen thuộc của những người đàn bà Việt Nam trong văn chương: đơn giản, đảm đang, hy sinh, và chịu đựng.
D́ không chỉ vậy, mà hơn vậy.
D́ hy sinh, chịu khó, nhân từ, và can đảm. D́ đẹp và cao. D́ ăn mặc lịch lăm. Hồi tôi mới sang, thỉnh thoảng cuối tuần D́ chở đám cháu đi mua sắm ở những tiệm quần áo clearance. Mấy D́ cháu hí hửng t́m kiếm trong đống quần áo giảm giá tới bảy mươi, tám mươi phần trăm. Phần lớn là mua gởi về Việt Nam, nhưng D́ cũng giữ lại vài thứ để mặc. Những chiếc áo có nơ ở cổ, có kiểu dáng điệu đà, thanh nhă rất hợp với D́. Và điều đặc biệt nữa là hai bàn tay của D́. Trải qua bao năm tháng nhặt trái cây, làm việc nhà, vật lộn với những máy móc điện tử, bàn tay D́ vẫn thon đẹp với những ngón búp măng dài muốt.
Ba mươi chín năm qua nhà D́ là nơi nhóm họ. Hàng trăm lần giỗ Tết đến, rồi đi, rồi trở lại. Họp mặt ở nhà D́ đă trở thành một điều tưởng như không bao giờ thay đổi...
Gần đây, có một lần tôi ghé thăm D́. Khi bước xuống xe, ánh nắng vàng trên con đường, hai dăy nhà màu nâu nhạt dọc hai bên, những bụi hoa và băi cỏ, chúng quen thuộc đến mức làm tôi ngỡ ngàng! Cánh cổng sắt vẫn sơn màu xám, đưa vào căn nhà nơi Chú và D́ đón hai chị em tôi về sau chuyến bay từ trại tị nạn Galang tới San Francisco. Thời đó băi cỏ tươi hơn và giàn hoa giấy đỏ mới chập chững leo trên cái giàn tạm nhỏ xíu. Nhưng, nh́n chung căn nhà vẫn rất giống như xưa.
Vậy mà rất nhiều điều đă vô cùng khác.
Kể từ năm nay, ngày 29 Tết D́ không c̣n gọi điện thoại cho từng đứa cháu, nói "Giao thừa đến nhà Cô cúng ông bà, nghe!" Căn nhà này sẽ không c̣n là nơi mà mấy chục người trong ba thế hệ bên ngoại gặp gỡ nhau. V́ Chú đă qua đời, c̣n D́ th́ liệt nửa người sau cơn tai biến mạch máu năo.
Lần đó tôi vào bệnh viện thăm lúc D́ mới hồi tỉnh. Khi ra về, tôi nắm tay D́ và nói to "Cháu đi về nha. Cô bye cháu đi." D́ bập bẹ "Bye" rồi vẫy vẫy tay. Và, tôi bùi ngùi thấy rằng bệnh tật đă làm D́ thay đổi, nhưng vẫn không cướp được hai bàn tay đẹp của D́. Chúng vẫn đẹp, như xưa. Nhưng vẻ đẹp ấy như đang dùng sự tương phản để đánh thức tôi, nhắc tôi là đời người ngắn ngủi, là đă đến lúc tôi phải đối diện với lẽ tử sinh.
C̣n tiếp...