Người Mỹ mừng lễ Độc lập thứ 235
[CENTER][IMG]http://i53.tinypic.com/t9f7nl.jpg[/IMG]
Diễn viên Jimmy smits chuẩn bị buổi ḥa nhạc cho ngày Lễ Độc Lập[/CENTER]
.Hôm nay là ngày Lễ Độc lập của Mỹ, thường được gọi là Lễ Mồng 4 Tháng 7.
Với những bữa ăn ngoài trời, diễu hành và ḥa nhạc, dân chúng sẽ ăn mừng ngày mà các vị quốc phụ tuyên bố độc lập thoát khỏi Anh quốc năm 1776.
Những buổi đốt pháo bông truyền thống sẽ làm rực sáng bầu trời của nhiều thành phố, kể cả Washington, New York và Philadelphia, nơi Tuyên ngôn Độc lập được kư kết.
Một trăm công dân mới sẽ tuyên thệ nhập tịch ngày hôm nay tại Mount Vernon, nhà của vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington, ở tiểu bang Virginia, ngoại ô thủ đô Washington.
Đương kim Tổng thống Barack Obama sẽ tiếp đón các quân nhân và gia đ́nh của họ tại Ṭa Bạch Ốc để dự bữa ăn thịt nướng ngoài trời và nghe ḥa nhạc.
VOA
Người Mỹ suy ngẫm về ngày lễ Độc lập
[B]Ngày lễ độc lập của Mỹ, mồng 4 tháng 7, là dịp để người Mỹ được nghỉ làm, tổ chức đi chơi ngoài trời, ra băi biển, và tận dụng những món hàng bán hạ giá ở các thương xá. Và theo ghi nhận của thông tín viên VOA Julie Taboh, đây cũng là thời điểm để suy ngẫm về ư nghĩa lịch sử của ngày 4 tháng 7. [/B]
[CENTER][IMG]http://i53.tinypic.com/25thuh2.jpg[/IMG]
Khách đến tham quan Viện Bảo tàng Lịch sử trong thủ đô Washington đang ngắm Lá Cờ Mỹ [/CENTER]
Nhạc bầy tỏ ḷng yêu nước - cho dù được tŕnh diễn bởi các nhạc sĩ ngoài đường phố như Raycurt Johnson hay bởi các thành viên của ban Đại ḥa tấu Quốc gia - là một phần của những buổi lễ lạc thường niên mừng ngày 4 tháng 7, cùng với những bữa ăn thịt nướng và đốt pháo hoa.
[CENTER]
[IMG]http://i53.tinypic.com/2rptxz9.jpg[/IMG][/CENTER]
Và đối với nhiều người Mỹ, ngày nghỉ lễ cuối tuần cũng là lúc để nghĩ về lịch sử và suy tưởng về việc là người công dân Mỹ có ư nghĩa ra sao.
Đối với một số gia đ́nh, sự kiện đó có nghĩa là đến thủ đô Washington, thăm viếng các đền đài lịch sử và bảo tàng viện ở thành phố.
Ông John Carothers, từ Santa Cruz, California, nói rằng thủ đô mang một ư nghĩa đặc biệt đối với ông vào thời điểm này trong năm.
Ông nói: “Thực là tuyệt diệu được đến đây nh́n thấy cái nôi của chính quyền mà chúng ta đang sống ở trong.”
Gia đ́nh Carothers đến thăm Viện Bảo tàng Lịch sử Mỹ thuộc hệ thống bảo tàng viện quốc gia Smithsonian, nơi một trong những bảo vật trưng bầy nổi bật là lá cờ 200 năm tuổi của Hoa Kỳ.
Lá cờ làm bằng tay này đă là nguồn cảm hứng để Francis Scott Key viết bài thơ đă trở thành bài quốc ca Mỹ.
Đến xem lá cờ này là một trong những cao điểm của chuyến đi đối với em Milena Carothers 14 tuổi.
Milena nói: “Lá cờ lớn hơn rất nhiều so với suy nghĩ của em. Và thật là kỳ diệu khi thấy nó được bảo quản khá tốt – ta vẫn c̣n nhận ra đấy là một lá cờ, không bị hư hại bao nhiêu – quả là kỳ diệu.”
Ông Andrea Lowther, giám đốc dịch vụ phục vụ khách của Viện Bảo tàng Lịch sử Mỹ nói:
“Tôi cho rằng ngày 4 tháng 7 là lúc mọi người đến và họ thực sự muốn liên hệ với lịch sử Mỹ cùng với những câu chuyện về nước Mỹ. Và dĩ nhiên, là họ đến để xem các biểu tượng này.”
Ông Lowther dự kiến sẽ tiếp hơn 100.000 du khách vào kỳ nghỉ lễ cuối tuần này.
Ông cho biết: “...chúng tôi có cái mũ mà Tổng thống Abraham Lincoln đă đội vào đêm ông bị ám sát. Chúng tôi có cái hộp kê mà tổng thống Thomas Jefferson đă thảo bản Tuyên ngôn độc lập trên đó, ư tôi muốn nói không có ǵ hoàn hảo hơn đối với ngày 4 tháng 7 so với những bảo vật này.”
( Con` tiếp ...)
Tác Giả Của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền : Thomas Jefferson
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là công tŕnh lừng danh nhất của ông Thomas Jefferson.
[CENTER][IMG]http://i56.tinypic.com/2wn7jpy.jpg[/IMG][/CENTER]
Bản văn đó đă diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lư, biện hộ thế đứng của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người.
Các ư tưởng này phần lớn không phải là mới lạ v́ theo lời ông Jefferson, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa b́nh dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ư, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.
Tháng 9 năm 1776, ông Thomas Jefferson rời khỏi Quốc Hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates).
Ông Jefferson tự nhận không có khả năng phục vụ Quân Đội trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, ông Jefferson đă bắt đầu một chương tŕnh cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai.
Tại xứ Virginia, một số người giàu có đă chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục.
Ông Thomas Jefferson được bầu vào Hội Đồng Duyệt Xét (the Board of Revisors).
Trong hai năm, ông đă xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quư tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân.
Giai cấp quư tộc căn cứ vào tài sản và gia đ́nh đă dần dần phải nhường chỗ cho “giai cấp quư tộc của tài năng và đức hạnh”, v́ các đạo luật sau của ông Thomas Jefferson :
(1) Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế (the bill abolishing entails)
(2) đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng (the bill abolishing primogeniture),
(3) đạo luật tự do tôn giáo (the statute for religious freedom) nhờ đó đă bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách “nhà thờ” và “quốc gia”, hủy bỏ các đặc quyền của “nhà thờ Anh Cát Giáo” (the Anglican church).
Giới tu sĩ không c̣n được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không c̣n phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa,
(4) đạo luật về giáo dục tổng quát (the bill for general education) đă cho phép mọi người, bất kể tài sản hay nguồn gốc chủng tộc, đều được hưởng nền giáo dục miễn phí.
Đạo luật về giáo dục này tuy chưa được thông qua ngay, nhưng đă là nền móng cho các hệ thống trường học công lập và thư viện miễn phí của Hoa Kỳ.
Vào các thập niên trước, chỉ những người có đất đai mới có quyền đi bầu cử nhưng nhờ các đạo luật do ông Jefferson đề xướng, các vùng đất rộng lớn được chia nhỏ ra, khiến cho nhiều người đă có đất canh tác và số người đi bầu cũng tăng lên.
Ông Thomas Jefferson cũng đưa ra các đạo luật cho phép các di dân có được quốc tịch Mỹ sau khi đă sinh sống tại Virginia hai năm. Ngoài việc cứu xét lại hệ thống luật pháp của xứ Virginia và luật đất đai, ông Jefferson c̣n sửa đổi cả H́nh Luật (Criminal Law).
Ông Jefferson c̣n dự tính chấm dứt chế độ nô lệ nhưng ông đă không làm mạnh v́ cho rằng người dân của xứ thuộc địa này chưa sẵn sàng với việc cải cách đó.
Dù sao, ông Thomas Jefferson vẫn tin tưởng rằng chế độ nô lệ th́ sai nhầm về luân lư và không thể tồn tại vĩnh viễn tại các xứ Bắc Mỹ.
RIF
Mùa Hoa Anh Đào tại Wahington DC và đền Tưởng Niệm Tổng Thống THOMAS JEFERSON
[QUOTE=Tigon;54139]Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là công tŕnh lừng danh nhất của ông Thomas Jefferson.
Bản văn đó đă diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lư, biện hộ thế đứng của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người.
Các ư tưởng này phần lớn không phải là mới lạ v́ theo lời ông Jefferson, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa b́nh dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ư, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.
Tháng 9 năm 1776, ông Thomas Jefferson rời khỏi Quốc Hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates).
Ông Jefferson tự nhận không có khả năng phục vụ Quân Đội trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, ông Jefferson đă bắt đầu một chương tŕnh cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai.
Tại xứ Virginia, một số người giàu có đă chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục.
Ông Thomas Jefferson được bầu vào Hội Đồng Duyệt Xét (the Board of Revisors).
Trong hai năm, ông đă xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quư tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân.
Giai cấp quư tộc căn cứ vào tài sản và gia đ́nh đă dần dần phải nhường chỗ cho “giai cấp quư tộc của tài năng và đức hạnh”, v́ các đạo luật sau của ông Thomas Jefferson :
(1) Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế (the bill abolishing entails)
(2) đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng (the bill abolishing primogeniture),
(3) đạo luật tự do tôn giáo (the statute for religious freedom) nhờ đó đă bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách “nhà thờ” và “quốc gia”, hủy bỏ các đặc quyền của “nhà thờ Anh Cát Giáo” (the Anglican church).
Giới tu sĩ không c̣n được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không c̣n phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa,
(4) đạo luật về giáo dục tổng quát (the bill for general education) đă cho phép mọi người, bất kể tài sản hay nguồn gốc chủng tộc, đều được hưởng nền giáo dục miễn phí.
Đạo luật về giáo dục này tuy chưa được thông qua ngay, nhưng đă là nền móng cho các hệ thống trường học công lập và thư viện miễn phí của Hoa Kỳ.
Vào các thập niên trước, chỉ những người có đất đai mới có quyền đi bầu cử nhưng nhờ các đạo luật do ông Jefferson đề xướng, các vùng đất rộng lớn được chia nhỏ ra, khiến cho nhiều người đă có đất canh tác và số người đi bầu cũng tăng lên.
Ông Thomas Jefferson cũng đưa ra các đạo luật cho phép các di dân có được quốc tịch Mỹ sau khi đă sinh sống tại Virginia hai năm. Ngoài việc cứu xét lại hệ thống luật pháp của xứ Virginia và luật đất đai, ông Jefferson c̣n sửa đổi cả H́nh Luật (Criminal Law).
Ông Jefferson c̣n dự tính chấm dứt chế độ nô lệ nhưng ông đă không làm mạnh v́ cho rằng người dân của xứ thuộc địa này chưa sẵn sàng với việc cải cách đó.
Dù sao, ông Thomas Jefferson vẫn tin tưởng rằng chế độ nô lệ th́ sai nhầm về luân lư và không thể tồn tại vĩnh viễn tại các xứ Bắc Mỹ.
RIF[/QUOTE]
NHân dịp lễ Độc Lập của HIệp Chủng Quốc HoaKy, tôi xin đăng một bài viết cũ :
[B][COLOR="blue"][CENTER]Sự tích Hoa Anh Đào tại DC
và đền tưởng niệm TỔNG THỐNG THOMAS JEFFERSON[/CENTER][/COLOR][/B].
Sự tích hoa Anh Đào tại Washington DC bắt đầu từ năm 1909, do lòng yêu hoa của bà Helen Staft, phu nhân của tổng thống đương nhiệm William H Staft hồi bấy giờ.
Nhân trong một chuyến sang Nhật, bà được xem dân chúng Nhật đổ về Tokyo xem hoa Anh Đào một cách say mê. Bà nghĩ rằng lòng yêu hoa của người Nhật trong mùa hoa đào nở là nguồn hứng của những tao nhân ghi lại cái đẹp của đời sống đang trôi qua. Bà ngỏ ý muốn mua hoa về trồng.
Qua ngả ngoại giao, ông thị trưởng thành phố Tokyo gửi sang tặng chính phủ Hoa Kỳ hơn 2,000 cây giống năm 1009, nhưng có sâu phải bỏ hết. Đến năm 1912 chính phủ Nhật gửi sang thêm 3,000 cây sau khi ươm trồng cẩn thận mới thành công. Những cây này được trồng trên một khu bờ phía bắc hồ Tidal Basin, bên tả ngạn sông Potomac. Chỉ vài năm sau cứ mỗi độ xuân về ai qua lai khu này đã thấy rừng hoa Anh Đào phơi phới trước gió đông.
Trong số’ 12 loại hoa du nhập lớp sau này, du khách ngày nay chỉ còn tìm thấy hai loại chính : Yoshino có tên khoa học là Prunus Yedoensis, và Kwanzan có tên khoa học là Prunus Serrulata, và một loại thứ ba là Akebono (Rạng đông) ghép chiết từ hai loại trên kia.
Cây Yoshino thường mọc toả rộng theo chiều ngang. Khi đã trưởng thành, có thể cao từ 30 tới 50 feet. Hoa loại cây này có năm cánh và toả hương thơm mùi hạnh nhân. Khi mới nở hoa có mầu hồng nhạt, rồi đổi ra màu trắng khi đã mãn khai.
Kwanzan cũng có cánh màu hồng nhạt, nhưng cánh và đài hoa dính chùm vào nhau, hoa cũng trổ bông từng cụm. Còn Akebono trổ nụ màu hồng khi nỏ lại ra hoa màu tím nhạt.
Mùa đào nở sớm muộn khác nhau từng năm. Mỗi năm các chuyên viên hoa thuộc sở lâm viên quan sát các nụ hoa và thời tiết để tiên đoán ngày hoa nở rộ, rồi công bố cho khách yêu hoa thập phương trẩy hội Hoa Anh Đào. Năm nay (2001) hội hoa bắt đầu từ 24 / 3 đến 8/4 dương lịch.
Hội Hoa Anh Đào (Cherry Blosom Festival ) bên Nhật đã có từ lâu lắm. Bên
Mỹ mới bất đầu từ năm 1935.
Tại Nhật, hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ sĩ đao qu câu nói mà người Nhật thích có dịp kể ra, “ Nếu ai có hỏi tinh thần của một người Nhật Bản đích thực như thế nào, bạn hãy chỉ vào đoá hoa đào đang nở dưới ánh mặt trời “ (If one should inquiry you concerning the spirit of a true Japanese, point to the cherry blossom in the sun). Ai có ngờ cái tinh thần cương dũng của người kiếm sĩ SAMURAI lại thơ mng đáng yêu đến thế ! Thực chất của đường kiếm tuyệt luân, tiếng thét kinh hồn bạt vía địch thủ lại chính là để bảo vệ nâng niu vẻ yêu kiều diễm lệ và thơm nức của đóa hoa đào đang nở.
Hội Hoa Anh Đào tại D C kéo dài hai tuần lễ với nhiều tiết mục . Các tiết mục như thi xe hoa, nhạc diễn hành với sự tham dự của 50 Hoa hậu Tiểu Bang, các cuộc triển lãm đủ loại như phẩm phục Nhật Bản, hàng dệt Kimono; nếm rượu Sakê, các cuộc đua thuyền hoa trên sông Potomac và hồ Basin. Cuộc thi Hoa Hậu Anh Dào được rất nhiều người ưa thích. Thi’ sinh Hoa hậu được gửi về từ các tiểu bang và quận C D. Giây phút ui nhất là lúc tuyên bố kết quả và Hoa Hậu được trao vương miện và bước lên xe hoa để chuẩn bị diễn hành. Vương mịện Hoa Anh Đào có dát ngọc trai Mikimoto do tợ kim hoàn hoàng gia Nhật Bản nạm khắc.
. Đêm Hoa Thuyền năn ấy bắt đầu hồi 8 giờ tối ngày 8 April, co ca? su+. tham dự của thuyền rồng dài 36 bộ của Trung Hoa gửi sang, và các thuyền hoa đẹp nhất của Hoa Kỳ trong đó có chiếc Hoa Thuyền da`i 116 bộ mà 10 vi. Tổng thống gần đây đã ngự trong các cuộc lễ hội.
Hội hoa anh đào được mở ra để mừng tình hứu nghi giữa hai dân tộc Hoa Kỳ và Nhật Bản, giữa hai nền văn hoá Mỹ và Á châu.
Xem hoa anh đào, du khách thưởng ưa thích vùng có nhiều cây cũ..... Đến nơi trước mặt tôi là những hàng cổ thụ già, gốc to xù xì, cổ kính, cành xoè ra như những cêy bonsai vĩ đại. Có những cây có cành vươn ra xa đến vài ba chục thước, ngọn sà xuống gần mặt hồ, nặng chĩu những hoa, một vài cành ít hoa nhẹ hơn đu đưa theo từng ngọn gió xuân. Cứ mỗi đợt gió thoảng lại có ít cánh hoa rời chùm bay lên cao như cánh bướm , rồi đong đưa chao đảo hạ cánh nhẹ nhàng trên mặt hồ chòng chành lơi lả. Ngoài xa, dăm ba chiếc du thuyền nhiều màu nhặt khoan xuôi ngược. Nước hồ xanh trong, phản chiếu bóng hoa, bóng người, mây trời, đền đài, dinh thự....
Trên bờ khách du ngoạn với y phục muôn màu chen chúc đi dưới rặng hoa, lượn vòng theo bờ hồ uốn ả. Phía bên kia bờ một toà lâu đài trắng nuột có mái vòm lồ lộ nhô lên, đài trang thanh nhã. Đó là đài tưởng niệm cố tổng thống Thomas Jefferson, cha đẻ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ .
Việc xây đài này có xẩy ra một câu chuyện lý thú có liên quan đến hoa Anh Đào.
Số là vào năm 1934 khi TT Roosevelt chấp thuận dự án xây đài. Vì ông rất sùng kính tổng thống Jefferson, nên theo ý ông, đài và tượng tổng thống Jefferson sẽ được kiến trúc quay mặt về hướng Toà Bạch Ốc, chính hướng ngồi của đương kim tổng thống trong văn phòng làm việc hình bầu dục. Để từ đó ông và các vị tổng thống tương lai sẽ có thể nhìn thẳng đến tượng ông Thomas Jefferson để có thể có được những cảm hứng sáng tạo và minh mẫn trong việc điều khiển quốc sự.
Khi khởi công xây đài vào năm 1939, một số cây anh đào nằm trên đường thẳng nhỡn quang của tổng thống và tượng tổng thống Jefferson đã bị khai quang.
Việc này làm cho các phu nhân trong chính phủ, trong đó có bà Roosevelt vốn yêu hoa Anh Đào nổi giận. Thế là các bà hè nhau xuống đường phản đối. Các bà còn hăm he doạ rằng nếu các ông làm quá, các bà sẽ tự xích vào các thân cây mà các ông muốn chặt bỏ. Tiến sĩ David Fairchild thuộc tổng nha Lâm Viên (Parks and Recreations Department) bèn được chỉ thị cầu viện với chức quyền đối tác Nhật. Tức thời mấy ngàn cây Anh Đào được gửi sang thay thế đền bù. Các bà hài lòng, chia nhau đi trồng lung tung khắp nơi và ra công vun tưới. Rừng anh đào tại DC do đó cứ xanh tốt và sinh con đẻ cháu lan rộng ra mãi. Việc xây đài cũng tiến hành xuông xẻ như đã dự trù.
Đài tưởng niệm Tổng thống Jefferon được xây trên khu đất rộng 18 mẫu, nằm trên bờ phía đông nam của hồ Tidal Basin. Đài do kiến trúc sư John Russell pope vẽ kiểu theo các đền đài thời trung cổ La Mã (Roman Pantheon). Mái vòm ở giữa được bao quanh bằng một hàng cột chạy vòng cung. Bên trong đài là bốn bức tường. Trên mỗi bức có khắc một đoạn văn hay nhất và có ý nghĩa nhất trích từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Tường vách trong ngoài và mái đều xây và lợp bằng cẩm thạch trắng. Nền nhà lát bằng cẩm thạch tím.
Giưã đài, tượng tổng thống Jefferon đứng thẳng trên một bệ cao. Tượng do nhà điêu khắc Rudolph Evans đắp khuôn, đúc bằng đồng nặng năm tấn, cao 19 feet. Vẻ mặt bình thản mà uy nghiêm, quắc thước, mặc đại triều phục thời trung cổ, nút áo phù hiệu sáng ngời.
Tổng thống Thomas Jefferon sinh ra trong một gia đình khá giả, học trường đại học William and Mary, tốt nghiệp ngành luật; đã từng giữ các chức vu nghị sĩ và thống đốc tiểu bang Virginia, đại sứ tại Pháp rồi tổng trưởng ngoại giao dưới thời tổng thống George Washington; làm phó tổng thống cho ông Johm Adams, và đắc cử tổng thống hai nhiệm kỳ 180l – 1809.
Ông là nhà lãnh đạo chú tâm về mặt khai trí và giải phóng con người . Ngoài bản tuyên Ngôn Độc Lập ông cũng là người sáng lập ra trường đại học Virginia và thư viện Quốc Hội, thư viện có nhiều sách nhất thế giới. Chính ông là người đã khởi đầu dự thảo đạo luật đặt việc mua bán và sử dụng nô lệ ra ngoài vòng pháp luật. Nhưng phải chờ đến đời TT Abraham Lincoln và sau cuộc nội chiến Nam Bắc mới hoàn tất và áp dụng được.
Đứng cạnh bức tượng tôi nhìn thẳng ra phía trước thấy mặt tiền toà Bạch Ốc. Ổ đó các tổng thống Hoa Kỳ đã nhìn về đây nhớ đến bộ óc khai sáng của vị tiền nhiệm bực thầy để tìm nguồn cảm hứng và sáng tạo để điều hành đất nước.
Bỗng dưng tôi cảm thấy xao xuyến. Hôm nay, tôi là một phần tử trong bỉển người du ngoạn, có đủ chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, cội nguồn đang hít thở không khí tự do, bình đẳng, vạn vật xung quanh tôi như cũng cùng tâm sự :
Trên tường đá, hoa của đá là những đường cong nét thẩng của vân, được đúc kết và hình thành từ ngàn vạn năm trong lòng quặng mỏ, mang âm địêu tiếng gấm, lời hoa của loài khoáng thạch.
Trong rừng hoa tiếng chim đang líu lo giai điệu như đồng vọng cùng tiếng cựa mình của những đóa hoa đang nở , biến thiên cung bậc theo sự chuyển sắc đổi mầu của cánh.
Trên trời bồng bềnh mây nõn, đang tụ tán theo tiếng ru của gió, thấp thóang bóng tiên mở khép xiêm y múa khúc nghê thương.
Dưới nước, lung linh ảo bóng, trời mây, hoa lá, thực tại cảnh sắc hình hài.
Vạn vật hiện hữu ở các thể động, thực, khoáng, khí đang giao hưởng như những tiếng tơ lòng đang đắm say vui thích với vẻ đẹp thiên nhiên không có biên giới của ngôn từ từng loại.
.
Được tận hưởng một ngày hội thưởng hoa, chiêm ngoạn thắng cảnh tuyệt vời, lòng tôi lâng lâng vui thoả. Kịp nhìn ra trời đã xết chiều. Trên đương về tôi càng thấm cảm và sung sướng được hưởng hai chữ tự do.
Tôi tri ân chính phủ Hoa Kỳ và tổng thống Thomas Jefferson, người đã có trái tim và bộ óc sáng tạo ra nền tự do dân chủ tại đất nước này, nhờ đó mà gia đình tôi và gần hai triệu đồng bảo tôi có đất dung thân và hưởng một đời sống ấm no an lạc.
UQ
Virginia 10 April 2001.
T̀M HIỂU VỀ NƯỚC MỸ NHÂN NGÀY ĐỘC LẬP HOA KỲ 4 THÁNG 7
TG MƯỜNG GIANG
[CENTER][IMG]http://i51.tinypic.com/b3whls.jpg[/IMG][/CENTER]
Dù cho vật đổi sao dời hay thiên hạ có nói ǵ chăng nữa, th́ tới nay Hoa Kỳ cũng vẫn là quốc gia vĩ đại nhất về đủ mọi phương diện kể cả mức thu nhập b́nh quân đầu người trên 40.000 USD bỏ xa Thụy Sĩ (33.800) , Úc (30.700), Anh (29.600), Nhật (29.400), Đức và Pháp (28.700)..
Căn cứ vào tác phẩm nổi tiếng ‘ Un Jour De La Vie De L’Amerique ‘ do nhà xuất bản Robert Laffont tại Pháp ấn hành, tổng hợp từ bài viết của hơn 200 kư giả ngoại quốc và trên 250.000 tấm ảnh độc đáo vô cùng giá trị. Nhờ vậy chúng ta mới có cơ hội hiểu được phần nào về ‘ Một đất nước trong một lục địa ‘ có lảnh thổ rộng lớn tới 9.629.091 km2 (chỉ thua Nga, Canada, Trung Cộng) với tổng sản lượng quốc gia gấp trăm ngàn lần nhiều nước khác trên thế giới. Hiện dân số Mỹ 295.734 triệụ người, đông nhất vẫn là da trắng (chiếm 77% ), da đen (12 %) , gốc La Tin như Y Pha Nho, Bồ Đào Nha (8%) .. c̣n lại là thiểu số người gốc Châu Á, Polynésien và Da Đỏ . Có hơn 73,5% người Mỹ sống tại các đô thị lớn nhỏ . Los Angeles nằm trong tiểu bang California, là một trong những siêu đô thị hiện nay của Hoa Kỳ, xuất phát từ cái tên do người Mễ đặt ‘ El Pueblo De Nuestra Senora Le Reina De Los Angeles De Porcianculal ‘ , hiện có trên 12 triệu dân nói lẫn lộn tiếng Tây Ban Nha và Anh Ngữ. Trong khi đó New York lại là thành phố lớn nhất của Mỹ, cũng là đô thị có nhiều người Do Thái sinh sống nhất trên thế giới, sử dụng tiếng Yiddish (Israel) , loại cổ ngữ chỉ c̣n xài ở Trung Đông mà thôi.
Toàn quốc có 15.132 phi trường lớn nhỏ, trong đó Chicago và Dallas Fort Worth được coi là lớn nhất thế giới, cứ 14 giây là có một phi cơ hạ hay cất cánh nhưng có điều kỳ lạ là người Mỹ không thích xuất ngoại bằng máy bay, nên trung b́nh hằng năm có chừng 15 triệu người ra nước ngoài. Về phương tiện giao thông, Hoa Kỳ đứng đầu thế giới với 6 triệu cây số xa lộ , 150 triệu xe ô tô đủ loại và 30 triệu xe vận tải hạng nặng, xuôi ngược khắp nước hàng ngày, qua vận tốc ấn định từ 88-105 km/giờ.
Kỹ nghệ sản xuất xe hơi của Mỹ vẫn đứng đầu thế giới cho dù mọi người xài cả xe Nhật lẫn Châu Âu. Thủ đô ô tô của Mỹ là Detroit thuộc tiểu bang Michigan nằm kế Ngủ Đại Hồ.
Một người di dân Pháp tên Antoine De La Mothe Cadillac đă lập ra thành phố này. V́ vậy để tưởng nhớ tới ông, các công ty sản xuất xe hơi của Mỹ, mới đặt tên cho một loại xe đắt tiền nhất do Hoa Kỳ chế tạo là ‘ Cadillac ‘.
Tới nay ba đại công ty Géneral Motors, Ford và Chryslev vẫn đứng đầu cả nước và thế giới về mức sản xuất xe, qua sự hổ trợ của nhiều công ty nhỏ .
Ngoài ra Hoa Kỳ c̣n là cường quốc dẫn đầu thế giới về điện nguyên tử, máy bay, máy điện toán, thuốc lá, bắp, thịt ḅ, than đá..
Tuy người Mỹ sống rất thực tế nhưng hầu hết đều tham gia các công tác từ thiện với số tiền góp và tậng phẩm hằng năm gần 100 tỷ mỹ kim. Tóm lại không có ai dám nói rằng ḿnh biết hết chuyện nước Mỹ v́ đời sống ở đây gần như thay đổi từng giây từng phút, khó ḷng dự đoán được. Với Người Việt Tị Nạn Cộng Sản qua 33 năm lưu vong, nay đă để lại một dấu ấn tốt đẹp và đậm nét trong những trang sử của Hoa Kỳ. Đó là sự h́nh thành các cộng đồng Người Việt Quốc Gia mà biểu tượng là ‘ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ‘ đă được nhiều Tiểu Bang công nhận, tại các thành phố lớn như San José, Los Angeles, Houston, Wasington DC, New York.. và nhất là Little Sài G̣n, thủ đô của Người Việt Hải Ngoại..
Tóm lại, người Mỹ không cần biết tới đời tư của bất cứ cá nhân nào khi họ dấn thân vào con đường chính trị, miễn sao các cấp lănh đạo, mang cho dân chúng có đủ cơm ăn áo mặc, đất nước thanh b́nh, uy tín của Hoa Kỳ được tôn trong khắp thế giới là đủ rồi.
Ngoài các vấn đề trên, đối với người Mỹ cho dù là người địa phương hay di dân, trong thâm tâm bất cứ ai cũng đều mang một sự hănh diện với thế giới, qua các công tŕnh kiến tạo của tiền nhân suốt 200 năm lập quốc : phố xá khang trang, nhà cửa đồ sộ, thư viện đầy ắp báo chí sách vở, chợ búa sạch ngon, bến tàu phi trường tấp nập rộn rịp về cảnh sắc lẩn t́nh người.
Nói chung, dù dân tộc Hoa Kỳ chỉ mới lập quốc nhưng hầu hết đều có lễ nghĩa đạo đức, lương thiện và chan ḥa t́nh thương không biên giới (trong đó sự cưu mang hơn 3 triệu người VN Tị Nạn Cộng Sản, từ tháng 5-1975 tới nay), nên đă nhanh chóng thu phục được nhân tâm và đứng đầu thế giới về mọi mặt.
Người Việt tị nạn CS chúng ta may mắn được sống hạnh phúc trên đất Mỹ, với đầy đủ các quyền lợi đă qui định từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Nhân Quyền, mà đâu mấy ai hiểu rơ là Tiền Nhân của họ đă đổi lấy nó bằng máu và mạng sống trước bạo lực.
Bởi vậy để đền đáp phần nào tấm ḷng nhân đạo mà Hoa Kỳ đă rộng mở , chúng ta phải biết ‘ nhập gia tuỳ tục ‘, làm tốt bổn phận công dân và cố gắng phát huy truyền thống tinh hoa của Dân Tộc Việt, để không hổ danh là con Hồng Cháu Lạc dù đă có quốc tịch Mỹ hay đang sống tạm nơi xứ người.
( Con` tiếp...)