-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
THƯỜNG ĐỨC 1974
[/I][/B]
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/maps/quangnam.gif[/IMG]
- Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm ở phía tây Đà Nẵng, cách Đà Nẵng khoảng 60 cây số và cách biên giới Việt-Lào khoảng 50 cây số. Ba phần tư lănh thổ tỉnh Quảng Nam là núi rừng, trong đó có rất nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Lam Heo, đỉnh Tion, v.v. V́ thế, việc bảo vệ Quảng Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Dưới thời Đệ nhất Cộng Ḥa, để dễ dàng cho việc bảo vệ an ninh lănh thổ và phát triển, lănh thổ Quảng Nam được chia ra thành hai tỉnh: Từ đèo Hải Vân đến sông Rù Ŕ thuộc tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Tín là phần đất c̣n lại. Quảng Nam được chia ra 9 quận: Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Ḥa Vang và Hiếu Nhơn. Quảng Tín gồm 6 quận: Thăng B́nh, Tam Kỳ, Tiên Phước, Hiệp Đức, Hậu Đức và Lư Tín.
Quận Thường Đức được thành lập năm 1962, tách ra khỏi quận Đức Dục, nằm sâu vào trong núi. Từ quận Điện Bàn trên quốc lộ 1 có liên tỉnh lộ 4 chạy theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, đường sá rất hiểm trở. Thường Đức nằm ở ngă tư liên tỉnh lộ 4 và quốc lộ 14, khống chế con đường di chuyển của Cộng quân vào Nam. Quốc lộ 14, sau khi qua Thường Đức, đi vào mật khu Hiệp Đức của Cộng quân, chạy dọc phía trên các quận Đức Dục, Tiên Phước, Hiệp Đức và Hậu Đức, vào đến Khâm Đức thuộc Phước Sơn rồi quẹo lên Kontum (See map).
Năm 1965 đă xẩy ra một trận đánh lớn ở Thường Đức khi Cộng quân tập trung một lực lượng khá lớn để mở cuộc tấn công vào quận này. Lực lượng Cộng quân lúc đó gồm có Mặt trận 44 Quảng Đà, Trung đoàn Q82 và Sư đoàn 2 Sao Vàng. Trận đánh diễn ra tại Ba Khe, Hà Nha và đồi Tétonon (1062). Trung đoàn 51 BB biệt lập của QLVNCH đă chiến đấu một cách anh dũng để giữ phần đất này. Sau trận đánh đó, hầu hết nhà cửa trong quận đều bị thiêu rụi.
Trong khoảng thời gian 1973 và 1974, phía VNCH có SD 3 BB trấn giữ tỉnh Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Tín. Sư đoàn này có ba trung đoàn cơ hữu là TRD 2 BB, TRD 56 BB và TRD 57 BB. Trung đoàn 2 BB phụ trách khu vực G̣ Nồi và quận Đức Dục. Trung đoàn 56 BB chịu trách nhiệm về hai quận Quế Sơn và Thăng B́nh. Trung đoàn 57 BB là trung đoàn trừ bị. Hai nơi hiểm yếu và chịu áp lực nặng nhất là Nông Sơn và Thường Đức, được giao cho LD 14 BDQ. Liên đoàn này có 3 tiểu đoàn là TD 77 BDQ, TD 78 BDQ và TD 79 BDQ. Tiểu đoàn 78 BDQ đóng ở Nông Sơn và Tiểu đoàn 79 BDQ đóng ở Thường Đức. Cụm pḥng thủ Nông Sơn – Trung Phước nằm hai bên bờ sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc 16 cây số. Quận lỵ Thường Đức vốn do một tiểu đoàn Địa phương quân bảo vệ. Vào giữa tháng 6/1974, khi được tin Cộng quân có thể tấn công Thường Đức, Tiểu đoàn 79 BDQ mới được đưa từ Quảng Ngăi về tăng cường trấn giữ vị trí này.
Phía Cộng quân có Sư đoàn 711 và Trung đoàn 52 biệt lập. Sư đoàn 711 có các trung đoàn 31, 38 và 270. Ngoài ra, Cộng quân c̣n có Tiểu đoàn 10 Đặc công. Sư đoàn 711 đặt bản doanh tại mật khu Hiệp Đức nằm khoảng giữa Nông Sơn và Hậu Đức thuộc tỉnh Quảng Tín, và khống chế toàn bộ quốc lộ 14 trong lănh thổ tỉnh Quảng Nam, ngoại trừ khu vực đồn Thường Đức. Tháng 6/1974, Hà Nội ra lệnh dứt điểm Thường Đức, trước là để khai thông con đường Đông Trường Sơn, sau là thăm ḍ phản ứng của Hoa Kỳ. Năm 1972, Sư đoàn 711 đă chiếm quận Quế Sơn của tỉnh Quảng Nam và Tiên Phước của tỉnh Quảng Tín. Tháng 7/1972, SD 3 BB và lực lượng Biệt động quân đă chiếm lại hai quận này, sau đó mở cuộc Hành quân Quang Trung 81 tiến từ Quế Sơn vào mật khu Hiệp Đức. Sư đoàn 711 bị thiệt hại nặng, Trung đoàn 270 của sư đoàn này phải bị giải thể. Đến năm 1974, Sư đoàn 711 CSBV được đổi tên thành Sư đoàn 2 và bắt đầu hoạt động trở lại với ba Trung đoàn 1, 31 và 38. (CSBV c̣n có một sư đoàn mang tên là Sư đoàn 2 Sao Vàng đă bị B-52 tiêu diệt trong trận Kontum năm 1972).
Đơn vị tham chiến:
TD 77 BDQ
TD 78 BDQ
TD 79 BDQ
Hà Văn Lầu
SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
TRD 2 BB
Ngô Văn Chung
TRD 56 BB
Vĩnh Giác
TRD 57 BB
● 7/1974 LD 12 BDQ
Trần Kim Đại
TD 1/57 BB
TRD 2 BB
Ngô Văn Chung
TD 11 KB
Bùi Thế Dung
● 8/1974 LD 1 ND
Nguyễn Văn Đỉnh
LD 2 ND
Lê Minh Ngọc
LD 3 ND
Lê Văn Phát
TD 1 ND
Ngô Tùng Châu
TD 8 ND
Nguyễn Quang Vân
TD 9 ND
Nguyễn Văn Nhỏ
Thường Đức
● Trung tá Nguyễn Quốc Hùng
Quận trưởng Thường Đức, Quảng Nam (1974)
● Đại úy Hoàng Thế Tựu
Bị thương nặng tại mặt trận Thường Đức, Quảng Nam (23/8/1974)
● Thiếu tá Lă Quí Trang
Chỉ huy TD 3 ND tham gia trận đánh Thường Đức (9/1974)
● DD 93 ND
Bị thiệt hại nặng tại mặt trận Thường Đức, Quảng Nam (8/1974)
● TD 1 PB/ND
Thuộc quyền điều động của LD 1 ND tham gia trận đánh Thường Đức (8/1974)
● TD 2 ND
Thuộc quyền điều động của LD 3 ND tham gia trận đánh Thường Đức (9/1974)
● TD 2 PB/ND
Di chuyển về Thường Đức và Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (7/1974)
● TD 3 ND
Tham gia trận đánh Thường Đức (9/1974)
● TD 5 ND
Sau chiến trận Thường Đức về trấn giữ Đại Lộc, Quảng Nam (1/1975)
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]Mặt Trận Thường Đức[/I][/B]
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
(Tài liệu lịch sử nầy sẽ được Gia Đ́nh Mũ Đỏ xuất bản nay mai tại Hoa Kỳ)
Sau khi Hiệp Định Paris được kư kết vào cuối tháng 1/1973, t́nh h́nh chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu. Hai sư đoàn Tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn c̣n bị lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dăy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hăn (tỉnh Quảng Trị). Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, và từ sông Mỹ Chánh ra đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa tới tận chân dăy Trường Sơn, các căn cứ Anne (Động Ông Đô), Barbara (đă giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ chiến lược chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ An Lổ, cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) về phía Nam là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Đoàn 1. Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 2 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là Sư Đoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Đoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. T́nh h́nh tổng quát tại Quân Khu 1 sau ngày kư hiệp định tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ư đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng vơ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam. Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên ào ạt di chuyễn trên đường ṃn HCM vào các quân khu 2 và 3 hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Song song với việc chuyển quân, Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ư đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của QL-VNCH. Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở.
Thường Đức là một trong 9 quận của tỉnh Quảng Nam (Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Ḥa Vang và Hiếu Nhơn), được thành lập năm 1962, tách ra từ quận Đức Dục, nằm trong thung lủng Hà Tân, một khu vực nghèo nàn khô cằn sỏi đá ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 60 cây số, và phía Tây là vùng rừng núi trùng điệp chạy dài tới biên giới Việt - Lào khoảng 50 cây số. Đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ căn cứ quân sự và phi trường Đà Nẵng, một trong những căn cứ lớn nhất của VNCH.
Năm 1974, Quân Đoàn I đă bố trí Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ tỉnh Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Tín. Sư đoàn này có ba trung đoàn cơ hữu là Trung Đoàn 2, Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57. Trung Đoàn 2 phụ trách khu vực G̣ Nồi và quận Đức Dục. Trung Đoàn 56 chịu trách nhiệm về hai quận Quế Sơn và Thăng B́nh. Trung Đoàn 57 là trung đoàn trừ bị.
Hai nơi hiểm yếu và chịu áp lực nặng nhất là Nông Sơn và Thường Đức, được giao cho Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân. Liên đoàn này có 3 tiểu đoàn là 77, 78 và 79. Tiểu Đoàn 78 đóng ở Nông Sơn và Tiểu Đoàn 79 đóng ở Thường Đức. Thường nhật quận lỵ Thường Đức do hai Đại Đội Địa Phương
Quân bảo vệ. Vào giữa tháng 6 năm 1974, khi được tin Cộng quân có thể tấn công Thường Đức, Tiểu Đoàn 79 mới được đưa từ Quảng Ngăi về trấn giữ vị trí này.
Địa h́nh Thượng Đức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Đông bằng phẳng, từ quận Điện Bàn trên giao điểm Quốc lộ 1, Liên tỉnh lộ 4 chạy dọc theo sông Vu Gia dẫn vào Thường Đức dài khoảng 40 cây số, đường sá rất hiểm trở. Quận lỵ Thường Đức nằm ngay ngă tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con sông Côn và sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Đông. Chính phủ VNCH cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh sống.
Trước kia Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ đă xây dựng và để lại một căn cứ pḥng thủ chiến lược với hệ thống giao thông hào liên hoàn trong căn cứ cùng với 35 lô cốt nửa ch́m nửa nổi, mỗi lô cốt rộng bốn mét, xây dựng bằng xi măng cốt thép bao bọc hai lớp bao cát đặt ngang ở giữa, nhiều công sự có nắp và một hệ thống nhà hầm và hầm ngầm. Khu truyền tin, chỉ huy pháo binh, bệnh viện, kho đều nằm sâu trong ḷng đất. Trong khu vực nhà ngầm được chia thành nhiều pḥng. Lực lượng VNCH ở Thượng Đức có Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Pḥng, hai đại đội Địa Phương Quân, một đại đội Cảnh Sát Dă Chiến, một trung đội Viễn Thám và 16 trung đội Nghĩa Quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Quốc Hùng, quận trưởng.
Về mặt chiến lược Thường Đức c̣n là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát, khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Đông mà CSBV vừa mới khai dựng sau ngày kư hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc quân dụng và chiến cụ theo đường ṃn HCM đưa từ A-Lưới đến A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên LTL 4 cách Thường Đức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trử quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.
Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Đức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng tăng viện viện trợ quân sự cho Sàig̣n. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ của chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là lực lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).
Đối với Việt Nam Cộng Ḥa, trận chiến Thượng Đức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đă đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay cộng sản sau ngày ngưng bắn. Đại Lộc và Đà Nẵng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.
Lực lượng địch tham chiến gồm có :
- SĐ324B gồm các Trung Đoàn 29, Trung Đoàn 6 & Trung Đoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam
- SĐ304 Điện Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, Chính ủy là Trần B́nh chỉ huy trực tiếp trận chiến. gồm 3 Trung Đoàn 66, 24 & 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa tháng Năm đă bí mật di chuyển vào khu vực Thượng Đức.
- Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến.
- 2 Tiểu Đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà
- Một Trung đoàn Pháo và 3 chiếc Chiến Xa.
Lực lượng địch quân tham gia tác chiến chủ yếu ở Thường Đức là Sư Đoàn 304 với Trung Đoàn 66 được tăng cường Trung Đoàn 29 (c̣n gọi là Trung Đoàn 3) /Sư Đoàn 324, Tiểu Đoàn 1/Lữ Đoàn 219 Công Binh, một đại đội tên lửa A72 (SA-7) và một đại đội tên lửa B72 (AT-3), tất cả từ Quân Đoàn 2 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Đà. Các đơn vị của Quân Đoàn 2CSBV đă được cơ giới trên con đường chiến lược mới mở Đông Trường Sơn từ thung lũng Ba Ḷng (Quảng Trị) xuống. Riêng Trung Đoàn 3/ Sư Đoàn 324 vừa mới được cơ giới từ thung lũng A Shau (Thừa Thiên) xuống tham gia đánh trận Dak Pek, sau đó đă cơ động trở lại Quảng Nam đễ tham gia chiến dịch Thường Đức.
SA-7 và AT-3 đều được gọi là "tên lửa" (hỏa tiển), nhưng công dụng khác nhau. SA-7 là hỏa tiển pḥng không, chống máy bay hoặc trực thăng, nhỏ gọn, dài khoảng 1.47 mét với đường kính 70mm nằm trong một ống phóng ngắn có thể bắn từ trên vai. AT-3 được chế tạo để chống thiết giáp (xe tăng, thiết vận xa) hoặc bắn vào các công sự chiến đấu kiên-cố.
Trận Thường Đức do cán bộ Sư Đoàn 304CSBV trực tiếp chỉ huy. Trong cuộc họp chuẩn bị giữa Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 với bộ chỉ huy Quân Khu 5 CSBV, đă có việc trao đổi kinh nghiệm sử dụng pháo bắn thẳng có hiệu lực cao ở Nông Sơn. Tư lịnh Sư Đoàn 304 CS khẳng định sẽ tiêu diệt Thường Đức với hỏa lực hùng hậu của BộTư Lệnh B5 yểm trợ gồm cấp số trang bị pháo 85 ly và 105 ly gấp đôi của Sư Đoàn 2 CSBV lại có thêm súng cối 160 ly có sức công phá lớn, yểm trợ đắc lực cho bộ binh xung phong.
Quân Đoàn 2 CS tổ chức một bộ phận tiền phương đi cùng với Sư Đoàn 304 do Đại Tá VC Hoàng Đan, phó tư lệnh quân đoàn phụ trách.
Với nhiệm vụ tấn công chi khu quận lỵ Thường Đức, thử thách quan trọng đối với Sư Đoàn 304 là việc chuyển vận đưa vũ khí đạn dược vào trận chiến. Hai tổ trinh sát từ hai hướng hoạt động gởi về báo cáo các kế-hoạch mở đường. Sau khi cân nhắc, cán bộ chỉ huy Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 quyết định mở đường từ Trào vào bến Hiên. Con đường này Cộng Sản Bắc Việt phải làm mới 45km, c̣n 21km dựa vào con đường VNCH làm dở dang đă bỏ từ lâu, sửa lại là xe pháo đi được, việc bảo đảm bí mật đưa lực lượng vào chiến dịch cũng tốt hơn. Ngoài việc ghép thuyền chở pháo, và các loại vũ khí cộng quân c̣n đóng nhiều bè chuối, bè nứa để vận chuyển đạn và gạo vào chiến dịch
Đoạn đường từ bến Hiên vào Thượng Đức dài 17km, phía VNCH thường đưa thám báo ra phục kích, cộng quân chưa thể sửa ngay được. Giai đoạn đầu, cộng quân phải dùng thuyền, bè chở pháo đạn xuôi sông Côn rồi dùng sức người đưa pháo lên chiếm lĩnh trận địa. Quân Đoàn 2 CSBV và Sư Đoàn 304 hạ quyết tâm đến ngày 20-7 phải làm xong đường để đưa các lực lượng chính yếu vào đánh chiếm Thường Đức.
Sau hơn một tháng vật lộn với con đường, đêm 17 tháng 7/1974, các xe pháo của cộng quân đă bí mật kéo vào tập trung ở thôn Hiên. Các đại pháo 122 mm của Sư Đoàn 304 được bố trí trong các làng bản không có người ở, v́ dân đă bỏ đi từ lâu, nay biến thành rừng. Cối 160 mm vào tới vị trí an toàn cách căn cứ Thượng Đức 3 km. Bộ đội và dân công lại đưa pháo 85 mm vượt qua một băi śnh lầy lên điểm cao 118 để bắn trực tiếp vào Thượng Đức.
Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 304 đặt tại phía Đông Nam núi Hà Sống, tại đây có thể quan sát rơ bộ binh xung phong lên Thượng Đức. Sư Đoàn 304 chia thành ba mũi tiến công vào Thượng Đức: Trung Đoàn 66 với Tiểu Đoàn 7,8 và 9 tấn công vào các vị trí VNCH ở trung tâm chi khu quận lỵ , bộ đội địa phương, dân quân du kích tấn công vào các thôn xung quanh quận lỵ, Trung Đoàn 29 của Sư Đoàn 324 chiếm lỉnh các cao điểm ngăn chận viện binh ở ṿng ngoài dọc theo phía Bắc LTL 4.
Vi trí Chi Khu Thường Đức
Lực lượng bạn :
- Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Pḥng, Thiếu Tá Hà Văn Lầu Tiểu Đoàn Trưởng và Đại Úy Trương Đ́nh Sinh TĐP.
- Hai Đại Đội Địa Phương Quân,
- Một Đại Đội Cảnh Sát Dă Chiến,
- Một Trung Đội Viễn Thám
- 16 Trung Đội Nghĩa Quân
- LĐIND do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Đoàn 1,8,9 ND và TĐ1PBND
* Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Văn Nhỏ làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù , Thiếu Tá Nguyễn Bá Trí làm Tiểu Đoàn Trưởng.
- LĐ3ND do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Đoàn 2,3,6 ND và TĐ3PBND
* Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu Tá Trần Công Hạnh làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu Tá Vơ Thanh Đồng làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, Thiếu Tá Nguyển Hửu Thành làm Tiểu Đoàn Trưởng
* Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù Thiếu Tá Nguyển Văn Thông làm Tiểu Đoàn Trưởng
Diển Tiến :
Trước khi tấn công Thường Đức, vào trưa ngày 18.7.1974 Cộng quân tung Trung Đoàn 36 / Sư Đoàn 308 CSBV với sự tăng cường của 2 tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 2 CSBV và Tiểu Đoàn 10 Đặc Công tấn chiếm Nông Sơn, nằm hai bên bờ sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc chỉ 16 cây số do Tiểu Đoàn 78 BĐQ trấn giữ. Cộng quân đă tràn ngập căn cứ Nông Sơn. Sư Đoàn 3 VNCH liền đưa Trung Đoàn 2, một pháo đội 155 ly, một pháo đội 175 ly và một chi đoàn của Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh đánh chiếm lại, nhưng thất bại và bị thiệt hại nặng. Bộ Tư Lệnh QĐ1 phải điều động Liên Đoàn 12 BĐQ (gồm ba tiểu đoàn 21, 37 và 39) vào thay Trung Đoàn 2 mới tái chiếm được.
Ngày 29/7/1974 Cộng Quân mở cuộc tấn công vào quận Đức Dục do Tiểu Đoàn 21 BĐQ trấn giữ và bắn hoả tiển vào phi trường Đà Nẳng, cùng lúc cho Trung Đoàn 29 tấn công và pháo kích vào Chi Khu Thường Đức. Khởi sự Cộng quân đă pháo kích đễ triệt hạ các công sự pḥng thủ bên trong Chi Khu và tấn công các vị trí tiền đồn của Tiểu Đoàn 79 BĐQ trấn giữ. Kho đạn của quận lỵ bị bốc cháy, Chi Khu Thượng Đức mất liên lạc với ba vị trí tiền đồn của Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân và hai vị trí tiền đồn của Biệt Động Quân nhưng pháo binh từ Đồi 52 gần Đại Lộc yểm trợ hữu hiệu, gây nhiều thiệt hại cho quân Cộng Sản.
Sau đó, Trung Đoàn 66 CSBV tấn công trực diện vào hướng chính của Chi Khu, dùng bộc phá mở hàng rào, Tiểu Đoàn 7 CSBV bị một Trung Đội ĐPQ chận đứng với một khẩu đại liên 50 (đại liên 12.7 mm) ở Trúc Hà. Cộng quân dùng pháo 85 ly bắn trực xạ diệt được khẩu đại liên 50 của trung đội ĐPQ, Tiểu Đoàn 7 CSBV tiếp tục khai triển đưa lực lượng vào đột phá nhưng cũng không thành công.
Hướng Tiểu Đoàn 9 CSBV, mặc dù chiến đấu rất dữ dội, nhưng mở đến hàng rào thứ tư th́ bị lính BĐQ đánh trả mạnh mẽ. Cộng quân bị thương vong quá nhiều phải dừng lại. Phía VNCH phản ứng rất nhanh, Không Quân VNCH từ Đà Nẵng bay lên đă ném bom chính xác vào ngay hàng rào. Khi Bắc quân bắn nát một lô cốt và chuyển sang lô cốt khác, TĐ79 BĐQ lập tức đưa quân bám lấy lô cốt sập, bắn chận không cho quân Bắc Việt tiến lên.
Sáng sớm hôm sau, ngày 30/7/1974 CSBV pháo dử dội và tấn công vào chi khu Thượng Đức, Chi Khu Trưởng bị thương nặng do đạn pháo nhưng quân ta vẫn giử vửng được pḥng tuyến, các binh sĩ VNCH tiếp tục anh dũng đánh bật các đợt tấn công của Bắc quân. Phi cơ quan sát của VNCH phát hiện một đoàn quân xa và pháo binh của VC di chuyển trên liên Tỉnh Lộ số 4 phiá Tây Thượng Đức, Không quân VNCH từ Đà Nẵng đă được gọi đến oanh kich tiêu diệt được 3 chiến xa và nhiều quân xa của địch.
Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cường tập rất mạnh của Trung Đoàn 66 CSBV và sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn công nhưng vẫn không thành công trước sự chống trả vô cùng anh dũng, quyết liệt của những người lính VNCH được Không Quân từ Đà Nẳng lên yểm trợ đắc lực.
Sau hai ngày đêm tấn công quyết liệt, Trung Đoàn 66 vẫn không “mở cửa” được trong khi bị thiệt hại nặng nề, phài dừng lại cũng cố đội h́nh. Đêm 30/07 Nguyễn Chánh, Tư lịnh phó Quân Khu 5, phải ra mặt trận để chấn chỉnh lại đội ngũ và quyết định đưa pháo vào gần để bắn trực xạ.
Ngày 31/7/1974 sau những đợt pháo tập khũng khiếp, Trung Đoàn 66 CSBV liên tục đưa lực lượng tiến sát vào ṿng đai pḥng thủ nhưng Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng ĐPQ/NQ Thượng Đức chống trả rất dữ dội khiến cộng quân bị thương vong rất nhiều mà hàng rào vào quận lỵ vẫn chưa mở được. Thiếu Tá Hà Văn Lầu, Tiểu Đoàn Trưởng 79 BĐQ yêu cầu dội pháo ngay lên hầm chỉ huy của ông. Các công sự pḥng thủ cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục của quân CSBV nhưng lính mũ nâu vẫn giữ được căn cứ và sau cùng Cộng quân cũng chiếm được bải đáp trực thăng phiá ngoài đồng thời bố trí quân trên các cao điểm để chế ngự Tỉnh lộ 4 ở phía Đông Thượng Đức chờ quân đội VNCH phản công theo đúng chiến thuật "đánh điểm diệt viện." Trước sự thiệt hại nặng nề của Trung Đoàn 66, Sư Đoàn 304 phải ra lệnh cho Trung đoàn ngừng tiến công và chuyển sang pḥng ngự giữ bàn đạp đă chiếm được.
Trong ngày nầy Quân cộng sản cũng pháo vào các vị trí của Trung Đoàn 2 BB và Pháo Binh đóng tại Đại Lộc. Sau khi tổn thất nặng ở trận Đức Dục vài tuần trước Trung Đoàn 2 BB đang được tái bổ sung và huấn luyện ở phía tây Đại Lộc, một pháo đội 175 ly được di chuyển ra quận Hiếu Đức để yểm trợ cho Thượng Đức.
Sau đợt tấn công đầu tiên của quân CS, Trung Tá Quận Trưởng Nguyễn Quốc Hùng tuy bị thương găy chân nhưng vẫn báo cáo về Đà Nẵng là giữ được Thường Đức và yêu cầu tăng viện. Bộ Chỉ Huy Chi Khu Thường Đức ráo riết huy động binh lính cũng cố các công sự pḥng thủ. Phát hiện được lực lượng đang bao vây Thường Đức là bộ đội chủ lực CSBV vừa di chuyển từ Quảng Trị vào, Không Quân VNCH đă được gọi tới oanh kích dữ dội vào đội h́nh vây lấn của địch quân.
Tại chi khu Thường Đức, tổn thất của Biệt Động Quân và các đơn vị trú pḥng ngày càng gia tăng trong khi việc tải thương không thực hiện được do hỏa lực pḥng không ác liệt của cộng quân. Tướng Trưởng điều động một Chi đoàn chiến xa M-48 từ Tân Mỹ phía Bắc Hải Vân vào Đà Nẵng làm trừ bị cho Tướng Hinh khi t́nh h́nh trở nên nghiêm trọng.
Ngày 1/8/1974 để giải toả áp lực địch, Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư Lịnh Sư Đoàn 3 BB đă thành lập một Chiến đoàn đặc nhiệm gồm Trung Đoàn 2BB và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh từ Đại Lộc đi dọc theo Tỉnh lộ 4 tiến về Thượng Đức.
Ngày 3/8/1974, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 2BB bắt được một tù binh Bắc Việt ở phía Đông Thượng Đức, theo cung từ cuả tù binh nầy cho biết Trung đoàn 29 CSBV đă chiếm giữ các cao điểm 1235 và 1062 để chế ngự tỉnh lộ 4 giữa Thượng Đức và Đồi 52 ở phía Tây Đại Lộc, con đường tiếp liệu và tiếp viện cho Thượng Đức trong khi Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 được tăng cường lực lượng chuẩn bị dứt điểm Thượng Đức.
Bắt đầu đợt tấn công mới. Pháo binh CS, đă hạ ṇng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không Quân VNCH đă gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh nghiệm của đợt tấn công trước, đội h́nh bộ binh cộng quân áp sát mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô cốt c̣n lại, sau đó cối 160 mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo chuyển lần hướng dẩn cho bộ đội tiến tới.
Mặc dầu được tăng cường Tiểu Đoàn 1/57, Chiến đoàn của Trung Đoàn 2 tiến rất chậm trước sự kháng cự của Trung Đoàn 29 CSBV và hỏa lực pháo binh hùng hậu của Cộng quân dọc theo các cao điểm 1235 và 1062 cạnh LTL4. Trong khi tại Thường Đức, t́nh h́nh trở nên nguy kịch khi lính Biệt Động Quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như lương thực. Không Quân VNCH cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày 5 tháng 8 nhưng do hỏa lực pḥng không ác liệt của Bắc Việt, tám kiện hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi pḥng thủ. Một oanh tạc cơ A-37 bị bắn rớt khi định tiêu hủy các kiện hàng tiếp tế không may rơi vào khu vực do quân CSBV kiểm soát.
Lo ngại về mối đe dọa nguy hiểm lớn cho Đà Nẵng từ hướng Tây của Đại Lộc, Tướng Trưởng khẩn cầu trực tiếp với Đại Tướng Cao Văn Viên cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù từ Sàig̣n ra tăng viện đồng thời ra lệnh cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đang pḥng thủ phía tây Huế chuẩn bị di chuyển vào Quảng Nam, nhưng các hoạt động này đă không c̣n kịp đễ cứu văn t́nh thế cho Thượng Đức.
Mặc dầu liên tục pháo vào Thường Đức từ ngày 29 tháng 7, cường độ pháo trong đêm 6 tháng 8 gia tăng mạnh với trên 1,200 đạn pháo. Ở hướng chính của căn cứ, Cộng quân dùng bộc phá liên tục để mở ngỏ, nhưng binh sĩ VNCH trong hầm ngầm chui ra các lô cốt đă bị sập, bắn trả quyết liệt. Đến 7 giờ sáng ngày 6 tháng 8/1974, Địch quân vẫn chưa vào được quận lỵ.
Suốt một ngày và đêm 6 tháng 8/1974 chiến đấu liên tục, Tiểu Đoàn 9 CSBV đă mở được cửa đột phá và đánh chiếm được một số lô cốt tuyến chiến hào thứ nhất. Nhưng khi phát triển vào trung tâm, các mũi tiến công của Cộng quân bị khựng lại trước hệ thống hỏa lực dày đặc của Binh Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa. Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng lính Địa Phương Quân/Nghĩa Quân ở Thượng Đức quyết không đầu hàng nên đă chiến đấu vô cùng quyết liệt, đánh trả các cuộc xung phong của bộ đội CSBV đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối cùng.
Trên trời, máy bay A-37 của Không Quân VNCH liên tục quần đảo bắn phá và bổ nhào trúc bom đánh ngay vào khu vực hàng rào căn cứ, chi viện cho quân đồn trú ở Thượng Đức giữ vững khu vực c̣n lại. Những người lính mũ nâu anh hùng của Tiểu Đoàn 79 BĐQ tiếp tục đẩy lui một đợt tấn công nữa vào đêm này.
Đến 1 giờ sáng ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu Đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội h́nh, Trung Đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu Đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Bộc pha nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người lính BĐQ, ĐPQ và NQ c̣n sống sót rút vào lô cốt ngầm bắn ra như điên như dại, chống cự quyết liệt.
Tiểu Đoàn 9 đă chiếm được khu Địa Phương Quân và phát triển xuống khu cảnh sát, quận lỵ. Tiểu Đoàn 7 từ hướng tây bắc đă sang hướng Tiểu Đoàn 9, đột phá vào khu Biệt Động Quân. Lúc 8 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8/1974, Sư Đoàn 304 đă tràn ngập cứ điểm Thượng Đức. Tiểu đoàn trưởng BĐQ báo cáo mở đường máu rút lui trước khi liên lạc bị mất vào trưa ngày 7 tháng 8.
Thượng Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay quân Bắc Việt sau ngày ngừng bắn và một cơ hội cho Hà Nội đánh giá phản ứng và khả năng yểm trợ cho VNCH của Hoa Kỳ khi chiến sự bắt đầu leo thang.
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]Mặt Trận Thường Đức
P2[/I][/B]
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
(Tài liệu lịch sử nầy sẽ được Gia Đ́nh Mũ Đỏ xuất bản nay mai tại Hoa Kỳ)
Do chủ quan về khả năng chiến đấu của chủ lực cơ động cùng pháo binh hùng hậu yểm trợ, Trung Đoàn 66 của Sư Đoàn 304 đă phải trả một giá khá đắt, thiệt hại nặng nề với 75% quân số thương vong khi bị Tiểu Đoàn 79 BĐQ cùng các người lính ĐPQ/NQ và CSDC của chi khu Thượng Đức được sự yểm trợ tích cực và hữu hiệu của Không Quân VNCH từ phi trường Đà Nẳng đă chận đứng và đánh bật hàng loạt các đợt tấn công kéo dài suốt 9 ngày đêm. Các người lính VNCH đă không chịu đầu hàng mà chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, cho đến giọt máu cuối cùng. Nhưng sự hy sinh anh dũng này đă đi vào quên lăng do địa thế hẻo lánh, không được nhiều người biết đến.
Sư Đoàn Nhảy Dù tham chiến :
Ngày 8/8/1974, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù cùng 3 Tiểu Đoàn trực thuộc 1, 8, & 9ND được khẩn cấp không vận đến vùng hành quân Đại Lộc bằng phi cơ C130, một ngày sau khi Thường Đức thất thủ, trong khi các thiết bị nặng như đại bác 105-ly và xe cộ được đưa ra bằng tàu của Hải Quân. Sau khi nghỉ đêm tại Quận Hiếu Đức, sáng hôm sau Lữ Đoàn I ND di chuyển bằng đoàn xe GMC hướng về quận Đại Lộc, qua Ái Nghĩa, cầu Ch́m. Đoàn xe dừng tại đây, mọi người ba lô súng đạn gọn ghẽ, triển khai đội h́nh từ từ tiến vào vùng hành quân.
Ngày 11/8/1974 Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù cùng 3 tiểu đoàn 2, 3 & 6 được lệnh di chuyển bằng phi cơ từ phi trường Phú Bài xuống phi trường Đà Nẵng trách nhiệm án ngử ở quận Hiếu Đức sau khi bàn giao khu vực trách cho Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân / Quân Khu 1.
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù và Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) cũng di chuyển đến Đà Nẵng đặt bản doanh tại phi trường Non Nước ở phía Nam Đà Nẵng.
Trên vùng đồi núi chập chùng nằm phía bắc thung lũng sông Vu Gia, Liên Tỉnh Lộ 4 gồ ghề và ngoẳn nghèo nối liền Thường Đức với khu vực đồng bằng duyên hải, 2 bên trái phải là 2 dăy núi cao chót vót trùng điệp chạy chụm lại, 2 dăy núi gặp nhau tại một khe núi rất hẹp, có tên là Ba khe, với ngọn đồi 52 trọc đỏ ối nằm ngay yết hầu con đường độc đạo chạy từ Đại Lộc vào Thường Đức, vào sâu nữa là vùng Bến Giàng rồi Khâm Đức.
Biết Quân Lực VNCH sẽ t́m cách chiến lại Thường Đức, Địch quân đă có ư đồ từ lâu cho Trung đoàn 29 chiếm giữ những ngọn đồi ở phía Nam của dăy núi. Dọc hai bên sườn đồi, hầm hố được xây dựng rất kiên cố. Họ cưa cột nhà của dân chúng đem gác thành khung chữ A, tháo tôn trên mái nhà đặt lên mặt, rồi tấn đất cát chặt lên trên. Từng chiếc hầm kiên cố, nếu một quả đạn 105 ly có nổ trên nắp hầm cũng chả ăn thua ǵ, địch vẫn ngồi bên dưới ung dung kéo thuốc lào.
Địch đă xây dựng hệ thống pḥng thủ này từ lâu lắm rồi. Họ đă khống chế toàn vùng từ khuya, nhưng vẫn để cho con đường độc đạo này thông thương qua lại, dân chúng vẫn ra vào, quân ta vẫn đi lại lui tới tưởng như vô sự. Nhưng nếu thử tung một toán trinh sát lấn sâu sang bên lộ thử xem, địch quân đang nằm trong đó. Cho nên khi địch lật úp bàn tay th́ toàn bộ lực lượng Sư đoàn 3BB và Biệt Động Quân tan tác trong nháy mắt. Vị sĩ quan Đại đội trưởng ĐĐ/BĐQ trấn thủ đồi 52 khi chạy thoát về gặp Nhảy Dù, chỉ c̣n có một người lính mang máy PRC-25 đi theo, ông ta vẫn chưa kịp hoàn hồn. Cách Liên Tỉnh Lộ 4 khoảng 6 km về phía Bắc, đồi 1235 nằm ở phía đông Thường Đức là đỉnh cao nhất, trong khi Đồi 1062 cách đó khoảng 2 km về phía Nam có vị trí chiến lược quan trọng có thể quan sát khống chế toàn bộ khu vực Liên Tỉnh Lộ 4 và thung lũng sông Vu Gia từ Thường Đức kéo dài cho đến Đại Lộc.
Theo con đường độc đạo ngoằn ngoèo, những toán quân của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, của Biệt Động Quân đang nhớn nhác di tản từ Thường Đức ra. Nương theo đoàn binh lính là những dân lành, gồng gánh bồng bế nhau t́m đường thoát hiểm. Những loạt đại bác 130 ly của địch từ núi sâu bắn rải theo đoàn người dọc trên mặt lộ. Mỗi khi một cụm khói bốc lên, đoàn người lại ngă xô xuống. Khi cụm khói tan đi, có dáng người loạng choạng đứng lên lê lết bước, có dáng người vẫn nằm yên một chỗ phơi thây trên mặt đường.
Trung Đoàn 29 CSBV đă đóng chốt trên những ngọn đồi nằm sát Liên Tỉnh Lộ 4 và đă thiết lập một đài quan sát pháo binh ở trên đỉnh 1062 để có thể pháo chính xác vào các vị trí của Việt Nam Cộng Ḥa trong khu vực Đại Lộc và kiểm soát tất cả mọi chuyển động trên Tỉnh lộ 4.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được giao cho nhiệm vụ chiếm lại đồi 1062 cùng các ngọn đồi lân cận tiếp giáp với Liên Tỉnh Lộ 4 trong khi Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù bảo vệ Đà Nẵng ở hướng Tây qua quận Hiếu Đức. Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù thay phiên nhổ từng chốt Cộng quân bám chặt trong những hốc núi trong suốt một tháng trời, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tiến dần lên Đồi 1062.
Sau khi các cánh quân của Nhảy Dù đă vào tuyến xuất phát. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng, Tư Lịnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dăy núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Giai đoạn I của cuộc hành quân:
Ngày 18/8/1974 Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bắt đầu xung trận, tuyến xuất phát khởi từ làng Hà Nha. Hà Nha là một dải đồng bằng hẹp, bên trái là con đường độc đạo dẫn vào Thường Đức, bên phải giáp với chân của rặng Sơn Ya ( c̣n gọi là Sơn Gà) cao ngất trời xanh. Các đơn vị Nhảy Dù chia thành từng toán nhỏ đeo bám trên các sườn núi để diệt các chốt Cộng Sản bằng lựu đạn, vừa vượt tuyến xuất phát khoảng 1 cây số, th́ chạm mạnh với đich quân, họ phải giành giựt từ ngôi nhà, từng gốc cây trên con đường độc đạo dẫn vào quận Thường Đức. Đoạn đường 5 cây số vô cùng gian nan hiểm trở, với nhiều bẫy và pháo tập gài sẵn của địch. Đoàn quân Nhảy Dù súng hờm trên tay, cẩn trọng trải rộng đội h́nh dấn bước vào ḷ lửa đang sôi sục Đây quả thật là một thử thách, đo lường sự can đảm, kinh nghiệm và kỹ thuật chiến đấu của các chiến sĩ Nhảy Dù trước khi họ thực sự tham dự một trận đánh để đời quanh ngọn đồi đẫm máu 1062.
Về phía CSBV,Trung Đoàn 29 bị tổn thất quá nặng phải lùi dần về sau nên Quân Khu 5 Cộng Sản phải điều động Trung Đoàn 31 của Sư Đoàn 2 CSBV vào thay cho Trung Đoàn 66 đang giữ Thường Đức để đơn vị này ra tăng cường cho Trung Đoàn 29 để làm chậm lại bước tiến của những người lính Nhảy Dù. Cộng quân cũng đă đưa Trung Đoàn 24 của Sư Đoàn 304 từ Quảng Trị vào đến chiến trường vào đầu tháng 9/1974 để tăng cường cho mặt trận.
Sáng ngày 18/8, ba Tiểu Đoàn 1ND, 8ND và 9ND vượt tuyến xuất phát, BTL/SĐ Nhảy Dù cũng đă tung các đơn vị Đại Đội 19, 21 và 27 Đa-Năng hoạt động để đánh lạc hướng t́nh báo địch.( 12 Đại Đội Đa Năng là những Đại Đội thiện chiến ưu tú của SĐND, được tổ chức ngoài bản cấp số. Quân số rút ra từ các đơn vị thống thuộc và được huấn luyện khả năng tác chiến như một Đại Đội độc lập).
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐIND ra lệnh Tiểu Đoàn 8 tiến theo Tỉnh Lộ 4, dọc bờ sông Vu-Già bảo vệ cánh trái trục tiến quân tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa Phương Quân cũ (trên cao điểm 52). Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8 chuyển lệnh cho Đ/U Phạm Văn Hiệu dàn Đại Đội 83 xung phong thần tốc tấn công thẳng vào làng Hà Nha để giải tỏa đồn Địa Phương Quân.
Khi Trung đội 1/83, Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến vào gần tới bờ làng th́ quân CS Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả mănh liệt. Trung Đội 2 do Thiếu Úy Nghiêm Sỉ Thành chỉ huy nhào vô cứu bồ vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt bỏ chạy hết. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được bờ làng, Đại Úy Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Thiếu Úy Tiến dẫn toàn bộ Trung Đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ làng.
Sau 40 phút giao tranh, Đại Đội 83 hoàn toàn làm chủ làng Hà Nha. Đ/U Hiệu cho bố trí, binh sĩ canh gác cẩn mật, đào hầm hố củng cố vị trí chiến đấu. Kết quả tịch thu vài súng cá nhân v́ quân số địch cỡ một trung đội, Cộng quân chỉ chống trả yếu v́ thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác.
Trong khi binh sĩ Đại Đội 83 đào hầm hố, gài ḿn Claymore, ḿn chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Đ/U Phạm Văn Hiệu điều chỉnh hỏa tập cận pḥng với sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm th́ nghe "đùng" một tiếng, cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57 ly không giật. Hiệu giật ḿnh! Nếu sớm chừng 5 phút th́ nguyên tổ chỉ huy của Đại Đội 83 đă bị tan tành.
Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 130 ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo th́ cả tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ đă chuẩn bị hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù đă bắn trả mănh liệt. Hiệu cho súng cối 60 ly bắn yểm trợ sơ khởi, sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận pḥng. Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến và Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành ra lệnh bấm ḿn claymore, hàng loạt địch ngă gục, súng đại liên M-60 và súng cá nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân CS Bắc Việt cứ nhào tới định tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và Thành thật can đảm, hai Sỉ quan nầy ra ngay tuyến ngoài đốc thúc binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô t́nh đă kết liễu đời hai người hùng trai trẻ của Đại Đội 83. Đây là hai sĩ quan đầu tiên của Tiểu đoàn 8 ND ngă xuống trên mặt trận Thường Đức, mở đường cho năm sĩ quan Trung Đội Trưởng sau đó theo chân Tiến ra đi không hẹn ngày về.
Đ/U Hiệu điều động Trung Đội 3 của Thiếu Úy Lê Mậu Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương nặng (phải di tản). Chỉ c̣n Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại Úy Hiệu đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng th́ địch rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số tù binh.
Trong lúc đó, Tiểu Đoàn 1 do Thiếu Tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, đi cánh phải của Lữ Đoàn, tiến chiếm mục tiêu đầu là cao điểm Đông Lâm, rồi theo đường đỉnh dăy Sơn Ya tiến về hướng Tây tới 1062. Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài xuống tận chân núi. Các đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của quân CS Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh cận chiến để địch không sử dụng được các băi pháo mà họ đă chuẩn bị sẵn. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quư (Tiểu Đoàn Phó) chỉ huy 2 Đại Đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dăy Sơn Gà. Một trở lực lớn là quá nhiều ḿn bẫy (thuộc loại "ḿn hơi" làm bằng nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại ḿn này có thể hủy diệt 2 chân nếu dẫm phải. Tại đây Đại Đội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ v́ ḿn hơi này.
Hôm sau, Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà ḿn của Đại Đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm lĩnh dễ dàng v́ không có lực lượng pḥng ngự của địch. Tuy nhiên các chiến sĩ Dù vẫn gặp khó khăn trước những tấn công lẻ tẻ bằng súng đại bác không giật từ những hốc đá. Một toán tiền quân của Đại Đội 11 đă diệt được toán tiền sát viên pháo binh của địch gồm 2 người đă chết do cụt chân v́ ḿn hơi và một người c̣n sống với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đó vị trí các lực lượng bạn không c̣n bị pháo kích chính xác nữa. Sau khi chiếm được Đông Lâm, hai Đại Đội 11 và 14 trực chỉ tới mục tiêu B.
Tiểu Đoàn 9 ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dăy đồi thấp có rừng chồi che phủ. Từ dăy đồi thấp phía Nam dăy Sơn Gà, Trung Úy Nhơn, Đại Đội Trưởng Đại Đội 92, Trung Úy Thăng, Đại Đội Trưởng Đại Đội 94, Đại Úy Trọng, Đại Đội Trưởng Đại Đội 91, cùng Đại Đội 93 của Đại Úy Tường phải băng qua một cánh rừng tràm để đến đồi 383 rồi mới tiến sát tới đỉnh 1062, . Các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 9 không sao qua đến được b́a rừng dưới chân núi Đông Lâm, v́ hỏa lực từ cứ điểm B1 trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố, vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau. Tiểu Đoàn 9 đă dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt được. Đại Úy Tửu bị thương chân nên Đại Úy Đinh Văn Tường (Tức Tường Ruby) từ Đại Đội 90 ra thay thế.
Từ đỉnh Đông Lâm, Tiểu Đoàn 1 nhờ lợi thế hơn 2 cánh quân bạn, nên tiến quân tốc độ cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Đoàn 1 từ cao điểm đă bảo vệ hữu hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu Đoàn 9, Tiểu Đoàn 1 đă cho lệnh Đại Đội 11 đánh bọc hậu phía sau xuống cứ điểm B1, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Đoàn 9.
Xuyên qua thung lũng, Đại Úy Thể dẫn quân tấn công vào phía sau B1 một cách bất ngờ ở ngay sau lưng địch. Đối diện với Cộng quân là Tiểu Đoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi thế cao, Đại Đội 11 để lại một trung đội ở B để đóng chốt và giữ ba lô cho các trung đội khác. Thành phần c̣n lại tập trung hỏa lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1.
Quân CS Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong ṿng 2 tiếng đồng hồ, Đại Đội 11 đă kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1 súng cối 61 ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện thoại, một số đạn 72 ly nhưng không t́m được súng. Sau này Tiểu Đoàn 11 của Trung Tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn.
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062 :
Trời sẩm tối, chờ bắt tay với Tiểu Đoàn 9 không được, Đại Đội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Đêm đó, đặc công địch ḅ trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến Trung Đội Trưởng bị hy sinh. Sáng hôm sau 20/8/1974, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quư và Đại Đội 14 bắt tay với Tiểu Đoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TĐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Đại Đội 14 đi đầu và chạm địch. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quư đi với cánh quân bọc hậu là Đại Đội 11 của Đại Úy Thể. Một phần v́ địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không c̣n nữa. Địch đă chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Đại Đội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó v́ sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn.
Suốt 3 ngày cầm cự, Đại Đội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ. Thiếu Tá Quư đẩy Đại Đội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Đại Đội 11 bám sát tiến lần vào cách mục tiêu C khoảng 200 thước, và phải dừng lại v́ sợ lọt vào tầm lựu đạn. Tiểu Đoàn 1 sử dụng đại bác 57 ly và súng cối 81 ly để có thể bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu Tá Quư cho tập trung 5 khẩu đại liên M-60 chờ cho Tiểu Đoàn bắn hơi cay để địch chạy ra khỏi hầm trú ẩn, th́ tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch.
Đại Đội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3 người ḅ dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào pḥng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa thắng Thiếu Tá Quư đẩy Đại Đội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Đại Đội 11 và Đại Đội 14 phải trả giá rất đắt.
Sau khi địch tháo chạy v́ sự tấn công quá dũng mănh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, hai Đại Đội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí pḥng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 120 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở, rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nh́n lên mục tiêu, ở cao hơn 2 ṿng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rơ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường pḥng thủ. Thiếu Tá Quư gọi xin pháo binh bắn "cắm chỉ" lên mục tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Lúc nầy Tiểu Đoàn 8 và 9 c̣n cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Đoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố.
Đỉnh 1062, có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi. Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Đội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Đội thuộc Đại Đội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Đội của Đại Đội 11. Đây là 2 Sĩ Quan xuất sắc đă từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho Tiểu Đoàn. Đại Đội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Đại Đội 11 do Thiếu Tá Quư trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đă được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đă tắt hẳn. Hai Trung Đội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn trung đội đi bên trái, trung đội Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội h́nh đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo Binh 105 ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi 3 giờ trôi qua. T́nh h́nh vẫn yên tỉnh, một thứ im lặng ngộp thở, v́ mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của ḿnh. Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu Úy Quang th́ thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rơ mồn một, đích thân.
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quư trả lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quư đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 120 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
Ban đêm trời tối, Đại Đội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu Úy Bá th́ không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và 4 binh sĩ đă hy sinh v́ ḿn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Đoàn 3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Đoàn Trưởng) bảo Quư:
- Nếu thấy không được th́ bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ t́m cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung Đội đột kích của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù đă gặp sự kháng cự phản công quá mănh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quư phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV). T/U Quang đă tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, c̣n Quang th́ ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D. Đáng phục thay một Sĩ-Quan can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp và làm tṛn bổn phận với núi sông.
Các đạn pháo CVT đă sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh đồi 1062. Trung Đội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sỉ anh dũng hy sinh.
Đại Đội 14 của Trung Úy Vệ bị kẹt cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Đại Đội 14 tổn thất mỗi lúc một nhiều mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối đa nhưng địa thế núi cao cây rậm Pháo Binh phải bắn góc độ cao mới "gơ" vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu Tá Quư lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Đại Đội 11 về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Đại Đội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc không như lần trước, Đại Đội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam của 1062 th́ địch dùng súng cối 82 ly từ góc đồi phía Tây bắn một cách dữ dội, Đại Đội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh sĩ chưa kể một số bị thương. Rạng sáng, sau khi sử dụng Pháo Binh và súng cối 81 l ồng l ất là đạn súng cối 61 ly của địch. Ngay đợt phá h. Ba mươi bảy bị thương trong đó có hai Sỉ Q ong hốc đá ở yên ngựa để lên 1062 bắ 5 của Đại Úy Lộc đi với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu vẫ Xa Luân Chiến, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù xông trận : điều động lên thay thế Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù để tiếp tục đán địa thế, địa h́nh. Khi quân ta vừa băng qua mộ y tối đa tối đa, Đại Đội 11 dàn 3 trung đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng đồng hồ, cuối cùng Đại Đội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa đầy 10 phút, quân Bắc Việt đă từ D1 và D2 đoạt khai hỏa bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất. Thượng liên Cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và nho đầu Thiếu Úy Huệ đă bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đă bị phi pháo quần nát từ rậm rạp nay chỉ c̣n lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung tóe. Đại Đội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam, Huệ kéo xuống được c̣n xác Thiếu Úy Quang bị cháy đen.. Tổn thất Đại Đội 11: Thiếu Úy Quang và 15 binh sĩ hy sin uan Trung Đội Trưởng là Thiếu Úy Huệ và Thiếu Úy Quách An. Trong khi đó Đại Đội 14 cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trt tay với Đại Đội 11, nhưng mọi dự tính không thành. Trung Úy Vệ bị thương, Trung Úy Bằng, Đại Đội Phó Đại Đội 11 qua thay, hai ngày sau cũng bị tử thương v́ lựu đạn địch. Eo yên ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô cùng. Riêng Đại Đội 12 của Trung Úy Thọ và Đại Đội 1 n lục soát và làm thành phần trừ bị ở Đông Lâm. Trung Úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung Úy Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu Đoàn 8 của Thiếu Tá Vân vào thay. Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Theo kế hoạch, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù được h chiếm 1062. Cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn khi Tiểu Đoàn 8 rời bỏ Hà Nha, chuyển lên núi để thay thế cho đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm. Địch vào trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi dụng tối đa
t trảng trống th́ bị địch nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nh́n chung quanh có những tảng đá lớn chênh vênh trên sườn núi th́ đừng có dại dột chạy vào ẩn nấp, sau lưng tảng đá là một băi ḿn gài sẵn. Địch từ vị trí thuận lợi trên cao nh́n xuống thấy rơ từng người lính đang hút thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61 ly bắn vào quân ta.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062, sức lực của đơn vị cũng đă sức mẻ phần nào, c̣n lại bao nhiêu sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngă về không. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, th́ lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, cứ như hai gă thanh niên cùng tranh dành một cô gái thơm như múi mít, bên nào cũng đ̣i quyền sở hữu em gái, không ai chịu nhường ai.
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]Mặt Trận Thường Đức
P3[/I][/B]
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974 )
(Tài liệu lịch sử nầy sẽ được Gia Đ́nh Mũ Đỏ xuất bản nay mai tại Hoa Kỳ)
Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Quang Vân, cho Đại Đội 84 của Minh và 83 của Hiệu làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu Tá Vân dẫn Đại Đội 81 của Đại Úy Vơ Thế Hùng và Đại Đội 82 của Trung Úy Đỗ Việt Hùng (Hùng ốm), xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các binh sĩ Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiêng 70 độ) đồng loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm gần nhau, làm thành h́nh tṛn theo thế liên hoàn; mặt hướng về Tỉnh Lộ 4 th́ dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân ta tấn công vào mặt này. C̣n các hướng khác th́ có 4 đỉnh nhỏ che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ 4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua những yên ngựa chập chùng như sóng gợn.
Hai Đại Đội 83 và 84 do Thiếu Tá Trần Toán chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù tới mục tiêu C của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, bọc ṿng lên đỉnh cao bên dăy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062. Đại đội 81 của Đại Úy Hùng và 82 của Trung Úy Hùng ốm lợi dụng đêm tối lén ḅ lên đánh vào sườn dốc đứng (v́ mặt này địch chỉ pḥng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng nầy, v́ sẽ làm mồi cho lựu đạn.
Ba giờ khuya xuất phát tấn công, sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Đại Đội 82 của Trung Úy Hùng "ốm" làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai gốc hiểm trở, những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang đang phân tán pḥng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và Hiệu chia từng tổ 3 người ḅ lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ, rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm, họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch.
Những người binh sĩ Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Đội 81,82, 83, và 84 nầy đă phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được b́nh an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu đạn đă rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Đoàn Tấn và Chuẩn Úy Đến thuộc Đại Đội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân ḿnh che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đă tung nổ, khiến hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung Úy Thạch và Thiếu Úy Hà Mai Trường, thuộc Đại Đội 84 của Minh, v́ hăng hái leo lên nên cũng bị thương.
"Cái giá" để chiếm được đồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đă gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Đoàn 3 của Thiếu Tá Vơ Thanh Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.
Đại Úy Hiệu dẫn đại đội 83 xuyên qua Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế Đại Đội 11 của Đại Úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu:
- Sư Đoàn Điện Biên 304 đó, phải cẩn thận v́ địch có lợi thế cao và hầm hố kiên cố.
Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um tùm, và địch đă gài nhiều ḿn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, v́ thế các Đại Đội 81 (cánh trái), Đại Đội 84 (cánh phải), cùng Đại Đội 83 đă thử đột kích đêm nhưng không kết quả.
Địch chỉ ngồi trên cao đạp những tảng đá và liệng lựu đạn chày xuống làm những chốt đóng gần bị thương hằng ngày. Quân số các đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu Tá Nguyễn Quang Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng v́ địa thế quá hiểm trở nên các đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Sang ngày thứ 4 sau ngày thay Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, v́ không thể theo đường đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ư, Đại Úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062 và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Đại Đội 83 tiến c̣n cách 1062 khoảng 50
thước th́ địch nghe động nhưng không phát giác là có nguyên đại đội. Cộng quân bắn dọa (v́ không ngờ quân ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40, nhưng vô hiệu nhờ các tản đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và đồng thời các Đại Đội 81, Đại Đội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải phân tán mỏng để pḥng thủ.
Vị trí đóng quân giửa TĐ8ND và địch quân chỉ cách nhau khoảng 50m, đôi bên giử thế cài răng lược gờm nhau đă suốt 2 tuần lể, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay. Tinh thần mọi người luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là vong mạng.
Lúc 8.30 tối, Cộng quân từ cao điểm hai ngọn đồi 1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sỉ Nhảy Dù phản công quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận pḥng dội ngay lên đầu địch. Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo binh tác xạ dữ dội nên chúng rút lui.
Sáng hôm sau địch quân tấn công ban ngày, v́ biết Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần phải bứng gốc mới mong giữ được 1062. Các Đại Đội 81,83 và 84 cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến địch. Tất cả các tuyến đều chạm địch. Trung Úy Vũ Đức Tiềm, một Trung Đội Trưởng bị tử thương. Đại Úy Đồng Văn Minh và Trung Úy Hà Mai Trường bị thương nặng phải di tản.
Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi th́ chiếm lại bằng mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐ1ND quyết định tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra lịnh cho các đơn vị lui lại 200m để phi pháo và pháo binh tác xạ liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho địch quân không ngốc đầu nổi. Sau đó tất cả đơn vị xung kích Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một số lớn cộng quân run rẩy qùy lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế, băng bó vết thương, cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe tuyên truyền rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các Anh đối xử tốt với chúng tôi quá vậy?”
Sau đó TĐ8ND bung rộng ra lục soát quanh đỉnh đồi t́m thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm 7 tù binh tịch thu gần 200 khẩu súng đủ loại… Sau khi thu dọn chiến trường, TĐ8ND phối trí các đơn vị chiếm giữ các cao điểm và cho binh sỉ bố pḥng chuẩn bị địch quân tấn công trả đủa. Nhờ vào địa thế cộng quân làm sẳn các công sự nên các chiến sỉ Dù cũng đở phải vất vả.
Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt đầu pháo tập dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3 Trung Đoàn 29, 24 và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số một của Tướng Giáp, tăng cường Trung Đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV quyết tâm tràn ngập và chiếm lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn đều chạm địch.
Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, Cộng quân ào ạt tấn công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh tác xạ vào các điểm hỏa tập tiên liệu cận pḥng nên các chiến sỉ Tiểu Đoàn 8 vẫn giữ vững pḥng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung Đoàn Sông Hồng tung thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào giờ nầy, lực lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh viên kẹo.
Lữ Đoàn 1ND ra lịnh TĐ8ND lui binh về sau khoảng 200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao quanh đỉnh 1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của Không Quân VNCH, TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến lược nầy, đồng thời tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát xâm nhập sâu vào các hốc đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt pháo của địch nên pháo binh và không quân phản pháo chính xác tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung Đoàn Sông Hồng đầu nảo của VC tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch quân phải tháo lui, bỏ lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung Đoàn Sông Hồng.
Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nửa tấn công biển người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân VNCH và pháo binh ND yểm trợ hoả tập kịp thời và chính xác vào các ngọn đồi 383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến :
Sau đó, áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu Đoàn 3 ND do Trung Tá Vơ Thanh Đồng (Tiểu Đoàn Trưởng) và Thiếu Tá Trương Văn Vân (Tiểu Đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Đoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng một vài ngày th́ Tiểu Đoàn 3 ND bị địch trở lại phản công ào ạt. Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi nầy bằng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi đối diện.
Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng sung, t́nh h́nh các nơi yên tỉnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu Tá Vân ra lịnh cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác, kiểm soát các tuyến pḥng thủ, gài ḿn Claymore và canh gác cẩn thận, sẵn sàng tư thế đề pḥng địch tấn công bất ngờ.
Bỗng súng nổ liên hồi ở khu vực của Đại Đội 31 của Đ/U Ngụy Văn Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo dơi châm chú trận đánh. Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp ǵ cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mănh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt tấn công vào tuyến pḥng thủ của Đại Đội 31 đang đóng tiền đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm lính của Sư Đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật trên mảnh đất cằn cổi, tan hoang để t́m kiếm thức ăn. Họ t́m những bịch gạo sấy, thịt hộp, C Ration, cuối đường của giải phóng "Mỹ ngụy" là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại Mỹ!
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Đ/U Đàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, v́ địch đă tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đ/U Đàng và anh em trong đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên ḿnh cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là sĩ quan cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Đàng bị thương nặng c̣n ngất ngư v́ trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, th́ người anh bị đạn ghim như lông nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hăy c̣n trợn trừng không khuất phục.
Đại Đội 34 của Trung Úy Vơ Thiện Thư, lên tiếp ứng th́ gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Địch hô: "Hàng sống chống chết," nhưng Thư cứ hăng máu lấy M16 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một ḿnh Tiểu Đoàn 3 ND mà phải cầm cự với cả trung đoàn của Sư Đoàn 304, địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mănh của Tiểu Đoàn 3 ND như Trung Úy Vơ Thiện Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đă gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng pḥng thủ 1062 của Nhảy Dù phải rút khỏi cứ điểm nầy (2 ĐĐ 31ND, ĐĐT là Đ/U Ngụy Văn Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung Úy Vơ Thiện Thư cùng 7 Sỉ Quan Trung Đội Trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh v́ pháo địch ). Mặc dù có những công sự do Cộng quân đă chuẩn bị các "lô cốt" bằng những khúc cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy Dù rút lui để cho dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng "hỏa công" đốt cháy toàn khu ác liệt nầy bằng bom Napalm và bằng các viên đạn lửa bắn vào băi lau sậy.
Ngày 1/11/1974, CSBV tái chiếm đỉnh đồi 1062. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù được lịnh vào vùng tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu Đoàn 9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của Đ/U Đinh Văn Tường và ĐĐ 92 của Trung Úy Nhơn tấn công từ trên cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc đứng phía dưới, Trung Tá Nhỏ cùng Đại Úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế nghi binh để cho địch quân tưởng là ta tấn công mặt nầy. Địch quân dùng giàn thung bắn thư rơi khiêu chiến “ Thách ngụy Dù lên đánh”.
V́ biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên đỉnh 1062, pháo binh của ta không làm ǵ được, Đại Úy Tường cho phóng lựu đạn cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó gọi phi pháo thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua quân bao vây nguồn tiếp tế và nước. khiến địch quân chịu không nổi phải bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi nầy nhiều lần, quân số đôi bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung Úy Nhơn bị thương cả hai chân v́ đạp phải ḿn hơi.
Ngày 8/11/1974 lực lượng Nhảy Dù phản công tái chiếm lại 1062 và lập tuyến pḥng thủ quanh sườn núi. Dẹp tan các chốt lẻ tẻ cuả địch và thu nhặt xác các quân nhân Nhảy Dù bị tử trận trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết giá lạnh nên các xác không bị hư hủy..
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù sau hai tuần nghỉ ngơi và chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía Bắc của 1062, Thiếu Tá Phú (biệt hiệu Phú "đen") sử dụng tối đa các phi tuần A-37 oanh kích tối đa mục tiêu và áp dụng chiến thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách tung hai Đại Đội 11 & 15 duyên theo đường thông thủy tiến ṿng lên phía Bắc thay v́ đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào D1 và D2.
V́ hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú trọng pḥng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại Đội 15 thanh toán xong D1 và Đại Đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được xem như nhẹ, Đại Đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng liên, và một số súng cá nhân. Đại Đội 11 thu được 1 súng cối 61 ly và một số súng cá nhân.
Sau đó Bắc quân tháo lui v́ chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Ḥa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Thiếu Tá Trần Công Hạnh tân Tiểu Đoàn Trưởng, cùng Tiểu Đoàn trừ đóng ở làng Hà Nha 1. C̣n Thiếu Tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu Đoàn Phó), chỉ huy 2 đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới phá được ṿng vây.
Sáng hôm sau, Thiếu Tá Phương cho các Đại Đội tung ra lục soát, Chuẩn Úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung Đội tiến chiếm vị trí chốt mà địch đă đặt thượng liên bắn vào Tiểu Đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong th́ nghe tiếng "Ầm," tiếp theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn Úy Bảo hy sinh bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức. Thiếu Tá Phương phái Thiếu Úy Tăng Thành-Lân chỉ huy trung đội chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao địa nầy. Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề pḥng địch phản công. Nhưng khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Thiếu Úy Lân cũng bị hy sinh. Thiếu Tá Phương lập tức kêu phi pháo đánh vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai đến vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu Đoàn 2 được lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung phong của các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh ba sĩ quan tài giỏi là Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Đại Thanh, và Thiếu Úy Lê Hải Bằng. Sau đó Thiếu Tá Trần Công Hạnh lên làm Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Ḥa về làm Tiểu Đoàn Phó.
Tiểu Đoàn 7 ND do Thiếu Tá Nguyễn Lô (Tiểu Đoàn Trưởng), và Thiếu Tá Nguyễn Văn Quư, từ Tiểu Đoàn 1 trở về, làm Tiểu Đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông kích Tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu cần bị phá hủy, và toàn bộ tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Đại Úy Tú Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đă bị thương trong trận này. Trước đó Nguyễn Lô đă đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dăy Sơn Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đă thực hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu Đoàn 11 ND tiến lên đỉnh 1062 thay cho Tiểu Đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái trang bị.
Đến cuối năm 1974 th́ Sư Đoàn Nhảy Dù rút quân về quận Đại Lộc nghĩ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp, chỉ để lại Tiểu Đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu vực Đồi 52 và núi Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4 km về phía đông, thường xuyên đưa các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062 và sử dụng hỏa lực pháo binh để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân. Kể từ đây,t́nh h́nh quân sự tại cả hai phía Nam và Bắc đèo Hải Vân hoàn toàn yên tỉnh cho đến khi SĐND bắt đầu rút quân khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng 3/1975.
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh :
Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15 tháng 8 liên tục trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đă bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Đoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng 11 có đến 6 tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062. Ba trung đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu .
Nhảy Dù : 500 chiến sỉ hy sinh 2000 bị thương.
Cộng Sản : 2000 chết, 5000 bị thương ( tài liệu :Col.William E. Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation )
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưởng xuất bản tại California ngày 15/5/1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức Phương Làng Văn Canada xuất bản 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch Đột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Đại Úy Vơ Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong được đón nhận những ư kiến bổ chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn đề thời gian đă trên 30 năm và tài liệu tham khảo hạn hẹp. Email: [email]pvotin@gmail.com[/email]
TrT Lê Văn Mể,TrT. Phu (TD9) TT Luong, TT Thieu, Dai ta Bo Binh, Trg ta Le Van Ngoc, TT Bui The Lan (TQLC), DT Vien, Can Ve TT Thieu va Dai ta Nhan van Thiet
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
DA NANG ● 3/1975 [/I][/B]
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/maps/map-danang.jpg[/IMG]
- Đà Nẵng, thành phố phát triển kinh tế lớn nhất miền Trung, là thành phố lớn thứ hai sau Thủ đô Sài G̣n, nơi đặt các cơ sở quân sự và hành chánh quan trọng của Quân khu 1 như Bộ Chỉ huy Quân đoàn-Quân khu 1, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải ở Tiên Sa, Bệnh viện Toàn khoa Đà Nẵng, Quân y viện Duy Tân, v.v. Trước 1975, thành phố Đà Nẵng chia thành ba quận, dân số khoảng 1 triệu rưỡi người.
Đà Nẵng nằm ở một vị trí chiến lược quan trọng trên trục giao thông đường bộ và hỏa xa dọc theo quốc lộ 1. Ngoài một phi trường lớn nằm cách trung tâm thành phố 3 cây số, Đà Nẵng c̣n có một hải cảng cửa ngơ ra biển Đông, với khả năng tiếp nhận các tàu thuyền cỡ lớn. Bờ biển cát trắng dài khoảng 30km, có nhiều băi tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê, Tiên Sa, Thanh B́nh, Xuân Thiều... Chính tại băi biển Xuân Thiều (Nam Ô) thuộc xă Hoà Hiệp, quận Hoà Vang, Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ đă đổ bộ đầu tiên ngày 8/3/1965 khai mào cho hơn nửa triệu quân Đồng minh đến trợ giúp VNCH chận đứng làn sóng đỏ (See map).
Ngày 13 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QD 1-QK 1, về Dinh Độc Lập họp để nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nói về kế hoạch tái phối trí lực lượng, rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng. Theo đó, các đơn vị Biệt động quân thay Sư đoàn TQLC tại Quảng Trị, Sư đoàn TQLC rút về Đà Nẵng thay Sư đoàn Nhảy dù về Sài G̣n. Ngày 17 tháng 3/1975, Lữ đoàn 1 Nhảy dù di chuyển về Sài G̣n. Ngày hôm sau, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra Đà Nẵng họp, dự trù lập một phái đoàn Chính phủ tại đây để giải quyết vấn đề di dân từ Quảng Trị, Huế vào Đà Nẵng.
Trong lúc đó, Bộ Tư lệnh Cảnh lực Vùng 1 tổ chức phát lương sớm cho nhân viên các tỉnh thất thủ di tản về. Một số cảnh sát viên vô kỷ luật muốn được giải quyết trước đă xông đến bao vây phát ngân viên, và trong lúc lộn xộn có kẻ đă nổ súng uy hiếp để cướp tiền. Một số tự xưng là thân nhân của cảnh sát và nhân viên tỉnh Thừa Thiên, t́m Trung tá Hoàng Thế Khanh, Chỉ huy Cảnh lực tỉnh Thừa Thiên, lúc ấy đang ở trong pḥng Đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư lệnh Cảnh lực Vùng 1, để đ̣i biết tin thân nhân thất lạc trên đường di tản.
Ngày 19 tháng 3, Tướng Trưởng được triệu về Sài G̣n lần thứ hai họp với Tổng thống Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, để tŕnh bầy kế hoạch tái phối trí các lực lượng Quân đoàn 1. Ngày hôm sau, Tướng Trưởng bay ra Huế họp Bộ Tham mưu bàn kế hoạch pḥng thủ v́ Tổng thống Thiệu ra lệnh phải tử thủ Huế. Chiều hôm ấy ở Huế, Tướng Trưởng lại nhận được lệnh chỉ giữ Đà Nẵng thôi. Sau đó, Tướng Viên gởi công điện bắt buộc đưa hết toàn bộ quân Nhảy dù về Sài G̣n, Tướng Trưởng đánh điện xin từ chức, nhưng không được chấp thuận.
Ngày 21 tháng 3/1975, TD 8 TQLC và TD 94 BDQ cố gắng giải tỏa quốc lộ 1 cho đồng bào từ Huế chạy vào Đà Nẵng. Vào một buổi sáng, từ hướng phi trường hai tiếng nổ làm rung chuyển cả thành phố do hai kho dự trữ bom, hỏa tiễn và napalm của SD 1 KQ bị nội tuyến phá hoại. Ngày 25 tháng 3/1975, các đơn vị VNCH tại pḥng tuyến Thừa Thiên triệt thoái, rút về Đà Nẵng. Áp lực Cộng quân quanh Đà Nẵng gia tăng, t́nh h́nh trở nên khẩn trương, Tướng Trưởng triệu tập Bộ Tham mưu Quân đoàn 1 họp bàn chuyện rút quân theo mật lệnh của Tổng thống Thiệu. Đêm cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thành phố và phi trường Đà Nẵng. Hai ngày sau, Cộng quân tiến vào Đà Nẵng với ba sư đoàn: SD 325 từ hướng bắc, SD 304 từ hướng tây và SD 2 từ Quảng Tín.
Các thành phần bất hảo lợi dụng t́nh thế cướp bóc. Tại thành phố Đà Nẵng, quân số Quân cảnh thiếu hụt, nên Quân khu 1 đă phải thành lập một lực lượng hỗn hợp, gồm Địa phương quân Tiểu khu Thừa Thiên và Cảnh sát Dă chiến Tiểu khu Quảng Nam, có nhiệm vụ tái lập trật tự bằng cách tuần tiễu trên khắp mọi nẻo đường, và được quyền bắn hạ bất cứ phần tử khủng bố nào. Chiều 27 tháng 3, Tổng Lănh sự Hoa Kỳ tại Đà Nẵng ra lệnh cho tất cả công dân Mỹ rời Đà Nẵng.
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/images/danang-view.jpg[/IMG]
Đơn vị tham chiến
● 3/1975 QD 1
Ngô Quang Trưởng
TD 94 BDQ
SD 1 BB
Nguyễn Văn Điềm
SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
SD 1 KQ
Nguyễn Đức Khánh
TD 8 TQLC
Nguyễn Đăng Ḥa
Tham khảo
● Quân đội Đồng minh tại Việt Nam
● Cuộc di tản KQVNCH
● Cuộc di tản Quân đoàn 1
● Căn cứ HQ Tiên Sa
Diễn tiến
► Tại băi biển Xuân Thiều (Nam Ô) thuộc xă Hoà Hiệp, quận Hoà Vang, Tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ đă đổ bộ đầu tiên ngày 8/3/1965
► Ngày 13 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QD 1-QK 1, về Dinh Độc Lập họp
► Ngày 17 tháng 3/1975, Lữ đoàn 1 Nhảy dù di chuyển về Sài G̣n
► Ngày 21 tháng 3/1975, TD 8 TQLC và TD 94 BDQ cố gắng giải tỏa quốc lộ 1 cho đồng bào từ Huế chạy vào Đà Nẵng
► Ngày 25 tháng 3/1975, các đơn vị VNCH tại pḥng tuyến Thừa Thiên triệt thoái, rút về Đà Nẵng
► Sáng ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng mở cuộc họp khẩn với các đơn vị trưởng tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn
► 7 giờ 30 tối ngày 28 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng và vài sĩ quan tham mưu Quân đoàn 1 đến Bộ Tư lệnh SD 3 BB tại căn cứ Ḥa Khánh
Đà Nẵng
● Đại tá Lê Quang Mỹ
Thị trưởng Đà Nẵng (1963)
● Đại tá Lê Chí Cường
Thị trưởng Đà Nẵng (1966-1969)
● Chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiện
Đại tá Thị trưởng Đà Nẵng, tử nạn máy bay, truy thăng Chuẩn tướng (1970)
● Trung tá Lê Bá Thông
Chỉ huy truởng Căn cứ HQ Đà Nẵng (1970)
● Chuẩn tướng Vũ Văn Giai
Sau trận Quảng Trị, Tướng Giai bị Tổng thống Thiệu giải nhiệm chức vụ Tư lệnh SD 3 BB và bị tạm giam ở Đà Nẵng (5/1972)
● Thiếu tá Đặng Trung Đức
Hy sinh tại căn cứ Non Nước, Đà Nẵng (6/1973)
● Đại tá Vương Hữu Thiều
Chỉ huy trưởng Căn cứ Yểm trợ HQ Đà Nẵng (1975)
● Thiếu tá Phạm Văn Lương
Trưởng khu Giải phẫu (1975) của Tổng y viện Duy Tân, Đà Nẵng
● Đại tá Đào Trọng Tường
Thị trưởng Đà Nẵng (1975)
● Trung tá Lê Minh Ngọc
Trách nhiệm thành lập LD 4 ND (1975, căn cứ Non Nước, Đà Nẵng)
● Trung tướng Ngô Quang Trưởng
Tháng 3/1975, Tướng Trưởng được lệnh của Tổng thống Thiệu phải tử thủ Huế-Đà Nẵng, nhưng ít lâu sau lại nhận lệnh di tản
● Đại tá Nguyễn B́nh Trứ
Mất tích khi bay di tản khỏi Đà Nẵng (28/3/1975)
● Trung tá Nguyễn Xuân Phúc
Tử nạn do pháo kích (?) tại căn cứ Non Nước, Đà Nẵng (29/3/1975)
● Trung tá Đỗ Hữu Tùng
Lữ đoàn phó LD 369 TQLC, tử nạn do pháo kích (?) tại căn cứ Non Nước, Đà Nẵng (29/3/1975)
● HQ 5
Yểm trợ hải pháo cho SD TQLC vào Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) phía bắc Đà Nẵng và trận Sa Huỳnh vào ngày kư kết Hiệp định Paris (27/1/1973)
● HQ 504
Đảm trách công tác di tản quân bạn tại cảng Đà Nẵng, tháng 3/1975
● LD 1 ND
Gồm các tiểu đoàn TD 1, 8, 9 ND và TD 1 PB/ND tham dự mặt trận Thường Đức, Đà Nẵng (8/1974)
● LD 12 BDQ
Ngày 29 tháng 3/1975, Liên đoàn từ Tam Kỳ rút về Đà Nẵng và tan hàng tại đây
● LD 14 BDQ
Thay thế LD 369 TQLC trấn giữ Quảng Trị (3/1975) để đơn vị này di chuyển vào Đà Nẵng
. . .
Sau đó theo lệnh của Bộ Tư lệnh QD 1, rút về Đà Nẵng và tan hàng tại đây (29/3/1975)
● LD 15 BDQ
Bảo vệ quốc lộ 1 từ phía bắc đèo Phước Tượng đến phía nam Huế (3/1975) để các đơn vị bạn rút an toàn về Đà Nẵng
. . .
Sau đó theo lệnh của Bộ Tư lệnh QD 1, rút về Đà Nẵng và tan hàng tại đây (29/3/1975)
● LD 2 ND
Tăng phái mặt trận Thường Đức, Đà Nẵng (8/1974)
● LD 258 TQLC
Di chuyển từ Quảng Trị về Đà Nẵng (3/1975)
● LD 369 TQLC
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● PD 219
Phi đoàn Trực thăng UH-1, nickname Long Mă (King Bee), đóng tại Đà Nẵng (1966)
● PD 516
Khi di chuyển ra Đà Nẵng (1964) phi cơ T-28D được thay thế bởi Skyraider A-1H
● TD 1 PB/TQLC
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TD 11 KB
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TD 2 TQLC
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TD 20 PB
Nguyên là TD 30 PB yểm trợ tổng quát của Quân đoàn 1, thành lập năm 1968 tại Đà Nẵng
● TD 3 PB/TQLC
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TD 37 BDQ
Triệt thoái từ Tam Kỳ về Đà Nẵng và tan hàng tại đây (29/3/1975)
● TD 39 BDQ
Triệt thoái từ Tam Kỳ về Đà Nẵng và tan hàng tại đây (29/3/1975)
● TD 6 TQLC
Ngày 19 tháng 3/1975, TD 6 TQLC di chuyển vào Đà Nẵng
. . .
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TD 7 TQLC
Tháng 2/1972, Tiểu đoàn rời vào căn cứ Non Nước, phía đông thành phố Đà Nẵng, làm đơn vị trừ bị cho Quân đoàn 1
● TD 9 TQLC
Tan hàng tại Đà Nẵng (29/3/1975)
● TRD 2 BB
Tháng 3/1975, sau khi Quân đoàn 1 triệt thoái khỏi Đà Nẵng, SD 3 BB rút về tỉnh Phước Tuy tái bổ sung từ thành phần c̣n lại của SD 1 BB
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
QUANG NAM ● 3/1975 [/I][/B]
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/maps/quangnam.gif[/IMG]
- Ngày 15 tháng 3/1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của Địa phương quân-Nghĩa quân trên địa bàn các quận Duy Xuyên, Quế Sơn, Đức Dục, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam. Kịch chiến đă diễn ra tại khu vực G̣ Nổi, cầu Bà Rén và Nam Phước. Tại G̣ Nổi, LD 915 DPQ do Trung tá Vơ Vàng chỉ huy đă đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng quân. Cũng trong ngày, lực lượng Địa phương quân với sự yểm trợ của 1 chi đoàn thiết giáp thuộc TD 11 KB đă giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Bà Rén, và một đoạn của quốc lộ 1 ở phía nam tỉnh Quảng Nam.
LD 3 ND đang trấn đóng tại Đại Lộc, Quảng Nam, sau chiến trận Thường Đức, được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm cho LD 369 TQLC về Sài G̣n. (Cùng lúc đó, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh QD 2, xin BTTM cho lực lượng Nhảy dù tăng viện để lập tuyến pḥng thủ Khánh Dương).
Ngày 22 tháng 3/1975, Cộng quân đưa thêm quân vào khu vực tây nam Thăng B́nh, Quế Sơn. Trước t́nh h́nh đó, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB, đă họp với các Tiểu khu trưởng kiêm Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quảng Tín để bàn kế hoạch chống trả các đợt tấn công của Cộng quân tại các khu vực nói trên (See map).
Trong hai ngày 26 và 27 tháng 3/1975, Cộng quân mở các đợt pháo kích vào các vị trí của một số đơn vị thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh. Trung đoàn 56 BB được lệnh rút về Câu Lâu, Thu Bồn. Tại pḥng tuyến Đại Lộc, Cộng quân đă chiếm được Bộ Chỉ huy Chi khu. Trung đoàn 57 BB được lệnh triệt phá các chốt chận của Cộng quân quanh quận lỵ.
Trưa ngày 28 tháng 3/1975, tại Trung tâm Huấn luyện Ḥa Cầm, binh sĩ Địa phương quân phá kho lương thực sau khi khóa sinh theo học tại trung tâm đă bỏ đi, chỉ c̣n lại khoảng một đại đội phụ trách pḥng thủ. Theo lời Đại tá Phạm Văn Chung, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam, th́ ngày hôm đó ông đến Duyên đoàn 15 dùng tàu nhỏ đi quan sát việc bố pḥng quanh thị xă Hội An, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam. Tại đây, tràn ngập quân nhân của SD 2 BB và Tiểu khu Quảng Ngăi, Quảng Tín, kéo về nhắm hướng Đà Nẵng. Sau đó ông liên lạc về Bộ Chỉ huy Tiểu khu th́ không có ai trả lời. Cùng ngày, Cộng quân tung một tiểu đoàn lập các chốt chận tại Thanh Quít. Ngay sau đó, Bộ Tư lệnh SD 3 BB điều động một tiểu đoàn của TRD 2 BB giải tỏa khu vực này, hai tiểu đoàn c̣n lại và Bộ Chỉ huy Trung đoàn lo phụ trách pḥng ngự pḥng tuyến Điện Bàn-Hội An. Đến chiều, ba tiểu đoàn của Liên đoàn 915 DPQ được điều động pḥng thủ thị xă Hội An.
Đơn vị tham chiến
● 3/1975 SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
LD 915 DPQ
Vơ Vàng
LD 3 ND
Lê Văn Phát
TD 11 KB
Bùi Thế Dung
LD 369 TQLC
Nguyễn Xuân Phúc
Quảng Nam
● Trung tá Nguyễn Quốc Hùng
Quận trưởng Thường Đức, Quảng Nam (1974)
● Đại úy Hoàng Thế Tựu
Bị thương nặng tại mặt trận Thường Đức, Quảng Nam (23/8/1974)
● Trung tá Lê Đ́nh Ái
Quận trưởng Tiên Phước, Quảng Nam (1975)
● Đại tá Phạm Văn Chung
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Nam (1975)
● Trung tá Nguyễn Tối Lạc
Quận trưởng kiên Chi khu trưởng Đức Dục, Quảng Nam (1975)
● Đại tá Vũ Ngọc Hướng
Kiêm nhiệm chỉ huy các tiểu đoàn Địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Nam (3/1975)
● Trung úy Phạm Mẫn
Hoa tiêu Phi đoàn Tản thương 257 Cứu Tinh, bị bắt sau khi phi cơ bị bắn rớt trên bờ biển Quảng Nam, quận Dục Đức, ngày 28 tháng 3/1975
● DD 93 ND
Bị thiệt hại nặng tại mặt trận Thường Đức, Quảng Nam (8/1974)
● LD 12 BDQ
Trấn đóng Quảng Nam (1974)
. . .
Thay TRD 56 BB bị tổn thất nặng tại Đức Dục, Quảng Nam (10/1974)
● LD 14 BDQ
Tăng phái cho SD 3 BB trấn giữ Nông Sơn và Thường Đức, Quảng Nam (1974)
● SD 2 BB
Cho đến năm 1972, Sư đoàn 2 BB chịu trách nhiệm khu vực nam Hải Vân ở Quân khu 1, bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi
● TD 1 ND
Thuộc quyền điều động của LD 1 ND tái chiếm Thường Đức, Quảng Nam (8/1974)
● TD 1/56 BB
Được tái trang bị chịu trách nhiệm pḥng thủ khu vực Đức Dục, Quảng Nam (1974)
● TD 1/57 BB
Tăng phái cho TRD 2 BB tiếp ứng mặt trận Thường Đức, Quảng Nam (8/1974)
● TD 2 PB/ND
Di chuyển về Thường Đức và Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (7/1974)
● TD 2/56 BB
Được tái phối trí trách nhiệm pḥng thủ khu vực Đức Dục, Quảng Nam (1974)
● TD 21 BDQ
Bảo vệ căn cứ Đức Dục, tỉnh Quảng Nam (8/1974)
● TD 3/56 BB
Tan hàng tại Đức Dục, Quảng Nam (10/1974)
● TD 37 BDQ
Bảo vệ Đức Dục, Quảng Nam (7/1974)
● TD 39 BDQ
Bảo vệ Đức Dục, Quảng Nam (7/1974)
● TD 5 ND
Sau chiến trận Thường Đức về trấn giữ Đại Lộc, Quảng Nam (1/1975)
● TD 78 BDQ
Triệt thoái khỏi căn cứ Nông Sơn, Quảng Nam (7/1974)
● TD 79 BDQ
Trấn giữ Thường Đức, Quảng Nam (1974)
● TD 9 TQLC
Ngày 16 tháng 3/1975, Tiểu đoàn di chuyển theo Lữ đoàn 369 TQLC rời Quảng Trị về Đại Lộc, Quảng Nam, để thay thế LD 3 ND
● TRD 2 BB
Bị tổn thất nặng tại mặt trận Đức Dục, Quảng Nam (7/1974)
● TRD 54 BB
Di chuyển vào Quảng Nam tiếp ứng cho TRD 2 BB (7/1974)
● TRD 56 BB
Sau khi tan hàng lần thứ nhất tại căn cứ Tân Lâm, Quảng Trị (4/1972) được tái phối trí trấn đóng Quảng Nam
. . .
Bị tổn thất nặng tại Đức Dục, Quảng Nam (10/1974)
● TRD 57 BB
Sau khi tan ră ở căn cứ Ái Tử, Quảng Trị (4/1972) được tái phối trí trấn đóng Quảng Nam
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
QUANG TIN ● 3/1975 [/I][/B]-
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/maps/quangtin.gif[/IMG]
Tại Tiểu khu Quảng Tín, cùng ngày Ban Mê Thuột bị tấn công, Trung đoàn 52 và Sư đoàn 711 Cộng quân đă tiến chiếm các quận Tiên Phước và Hậu Đức, cách thị xă Tam Kỳ 20km về phía tây, gây nhiều tổn thất cho LD 916 DPQ. Trong khi Huế đang ở vào cao độ của cuộc chiến th́ tại Quảng Nam và Quảng Tín, từ ngày 16 tháng 3/1975 đến ngày 21 tháng 3/1975 Cộng quân tung một trung đoàn thuộc Tỉnh đội Quảng Nam đánh chiếm vùng B́nh Tú, quận Thăng B́nh, phía bắc Tam Kỳ. Bộ Tư lệnh SD 3 BB đă điều động ba tiểu đoàn TD 3/2 BB, TD 2/56 BB và TD 3/56 BB cùng với 2 chi đoàn thuộc TD 11 KB của Sư đoàn 3 BB giải tỏa áp lực của Cộng quân (See map).
Sau khi mất quận Tiên Phước, Bộ Tư lệnh Tiền phương Sư đoàn 2 Bộ binh dời về đóng tại trường trung học thị xă Tam Kỳ. Sáng ngày 24 tháng 3/1975, một biệt đội Đặc công và hai chiến xa PT-76 của Cộng quân đă lọt vào thị xă Tam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Tín. Do bị tấn công bất ngờ, binh sĩ trú pḥng đă không kịp có phản ứng nên Cộng quân đă chiếm được thị xă này. Trước t́nh h́nh đó, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Quảng Tín, Bộ Tư lệnh Tiền phương SD 2 BB và Bộ Chỉ huy TRD 5 BB đang đóng ở thị xă Tam Kỳ đă phải rút quân về vùng hoạt động của SD 3 BB ở phía bắc quận Thăng B́nh, rồi từ đó về Đà Nẵng.
Đơn vị tham chiến
● 3/1975 SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
TD 2/56 BB
TD 3/2 BB
TD 3/56 BB
TRD 5 BB
Tôn Thất Lữ
LD 916 DPQ
TD 11 KB
Bùi Thế Dung
Quảng Tín
● Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
Thăng cấp Thiếu tướng sau chiến thắng Hiệp Đức, Quảng Tín (1973)
● Đại tá Đào Mộng Xuân
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Quảng Tín (3/1975)
● Thiếu tá Lê Quang
Bị thương tại Tam Kỳ, Quảng Tín (23/3/1975)
● Thiếu tá Phạm Văn Lương
Bắt giam tại trại Kỳ Sơn, Quảng Tín, và đă tuẫn tiết (ngày 3/4/1976)
● Đại úy Hà Văn Khâm
Sau 30 tháng 4/1975, Đại úy Khâm bị CS giam giữ ở tổng trại Kỳ Sơn, Tam Kỳ (tỉnh Quảng Tín) và chết trong trại tù vào khoảng thời gian (1977-1978)
● Trung tá Vơ Vàng
Bị CSBV trả thù bắn chết trong trại tù cải tạo Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Tín (7/1977)
● LD 12 BDQ
Pḥng thủ Tiên Phước, Quảng Tín (5/1974)
● SD 2 BB
Cho đến năm 1972, Sư đoàn 2 BB chịu trách nhiệm khu vực nam Hải Vân ở Quân khu 1, bao gồm ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi
● TD 1/4 BB
Thiệt hại nặng trong hành quân giải vây Tiên Phước, Quảng Tín (5/1974)
● TD 2/6 BB
Bị thiệt hại nặng trong hành quân giải vây Tiên Phước, Quảng Tín (6/1974)
● TD 3/6 BB
Bị thiệt hại nặng trong hành quân giải vây Tiên Phước, Quảng Tín (6/1974)
● TD 77 BDQ
Trấn đóng Tiên Phước, Quảng Tín (9/1972)
● TD 79 BDQ
Giải tỏa Tiên Phước, Quảng Tín (6/1974)
● TRD 2 BB
Giải tỏa Tiên Phước, Quảng Tín (6/1974)
● TRD 4 BB
Sau khi bị tổn thất tại Tam Kỳ, Quảng Tín, Trung đoàn rút về Hàm Tân, B́nh Tuy, tái chỉnh trang để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang (4/1975)
● TRD 6 BB
Trách nhiệm an ninh khu vực quanh căn cứ Artillery Hill, Quảng Tín (1972)
. . .
Hành quân giải vây Tiên Phước, Quảng Tín (5/1974)
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
BA RIA ● 4/1975 - [/I][/B]
6 giờ chiều ngày 26 tháng 4/1975, mặt trận Phước Tuy bắt đầu sôi động. Cộng quân pháo kích vào thị xă Bà Rịa, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh Tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. Sau trận mưa pháo kéo dài 3 tiếng, toàn bộ hệ thống điện trong thị xă Bà Rịa đều bị hư hại. Khoảng 10 giờ đêm, CSBV tổ chức tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp CSBV phối hợp đánh vào Trung tâm Tiếp vận Tiểu khu và tư dinh Tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía nam thị xă Bà Rịa.
Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB, kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu liền điều động 1 tiểu đoàn Nhảy dù, đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của Tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xă. Tiểu đoàn Nhảy dù này đă bắn cháy 5 chiến xa Cộng quân ngay trong đêm cùng ngày.
Rạng sáng ngày 27 tháng 4/1975 tại thị xă Bà Rịa, LD 1 ND đă đẩy lui Cộng quân ra khỏi tỉnh lỵ. Để ngăn chận các đợt tấn công kế tiếp của địch, Bộ Chỉ huy Lữ đoàn xin tăng thêm quân pḥng thủ bên ngoài thị xă. Khoảng 8 giờ sáng, hai trung đoàn bộ binh CSBV và khoảng 30 chiến xa từ hai hướng mở đợt tấn công thứ 2 vào thị xă. LD 1 ND đă chống trả quyết liệt gây thiệt hại nặng cho Cộng quân. Khoảng 2 giờ chiều, LD 1 ND được lệnh rút khỏi Bà Rịa và về pḥng thủ tuyến Cỏ May (nằm trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu). Buổi chiều cùng ngày một đơn vị Công binh TQLC được điều động đến để giật sập cầu Cỏ May hầu ngăn chận Cộng quân tràn qua.
Đơn vị tham chiến
● 4/1975 SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
LD 1 ND
Nguyễn Văn Đỉnh
Bà Rịa
● Trung tướng Vĩnh Lộc
Trung tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (1/1962)
● Đại tá Nguyễn Văn Huấn
Trung tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (12/1963)
● Đại tá Lư Thái Như
Đại tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (5/1965)
● Đại tá Lê Minh Quư
Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (3/1967-4/1971)
● Đại tá Vơ Văn Ba
Trung tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (4/1971)
● Đại tá Trần Cửu Thiên
Đại tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (8/1972)
● Đại tá Nguyễn Bá Thịnh
Đại tá Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp, Bà Rịa (2/1975)
● Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu (4/1975)
● Trung tá Lê Quang Định
Tham mưu trưởng kiêm Tiểu khu phó Tiểu khu Long Khánh, tử trận trên đường rút quân về Bà Rịa, Phước Tuy (21/4/1975)
● Đại tá Phạm Văn Phúc
Bị bắt khi triệt thoái trên liên tỉnh lộ số 2 Xuân Lộc-Bà Rịa (21/4/1975)
● CD 2/15 KB
Tăng cường cho SD 3 BB khi sư đoàn này triệt thoái khỏi Quân khu 1 pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 (24/4/1975)
● TD 1 ND
Trấn giữ pḥng tuyến Bà Rịa, Phước Tuy (22/4/1975)
● TD 15 KB
Tăng cường cho SD 3 BB pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 (24/4/1975)
● TD 3 PB/ND
Tan hàng trên đường triệt thoái về Bà Rịa (21/4/1975)
● TD 8 ND
Trấn giữ pḥng tuyến Bà Rịa, Phước Tuy (22/4/1975)
● TD 9 ND
Trấn giữ pḥng tuyến Bà Rịa, Phước Tuy (22/4/1975)
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
PHUOC TUY - 4/1975[/I][/B]
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/images/qdUc.jpg[/IMG]
● Tỉnh Phước Tuy phía đông giáp ranh tỉnh B́nh Tuy, phía bắc giáp tỉnh Long Khánh và Biên Ḥa, phía tây giáp Gia Định, phía nam và đông nam giáp biển Đông Hải, diện tích ước độ trên dưới 2400 cây số vuông. Dân số năm 1975 vào khoảng 130.000 người. Tỉnh có bờ biển dài 45km chạy dài từ ranh giới thị xă Vủng Tàu đến ranh giới tỉnh B́nh Tuy. Dọc theo quốc lộ 15 có dảy núi Ông Trịnh và núi Thị Vải nối tiếp chạy dài từ tỉnh lỵ và lài ra đến xă Phú Mỹ. Phía nam cạnh bờ biển dọc theo tỉnh lộ 44 có dảy núi Long Hải và cạnh bên phải liên tỉnh lộ 2 có núi Đất. Cao độ trung b́nh của các dảy núi này từ 500 đến 550 mét so với mặt biển.
Tỉnh Phước Tuy có 5 quận: Long Lễ, Đức Thạnh, Đất Đỏ, Long Điền và Xuyên Mộc. Tỉnh lỵ Bà Rịa nằm trong xă Phước Lễ thuộc quận Long Lễ. Ngày 6 tháng 9/1973, Thủ tướng VNCH Trần Thiện Khiêm ban hành Nghị định cho sát nhập đảo Trường Sa và các đảo phụ cận vào xă Phước Hải, quận Đất Đỏ.
Năm 1955 đồng bào miền Bắc di cư vào Nam lập thêm các làng B́nh Giă, Phước Tỉnh và một số giáo xứ rải rác nên tỷ số người theo đạo Công giáo đă tăng lên với tỷ số đáng kể.
Không giống như những tỉnh miền Tây hầu như hoàn toàn dựa vào nông nghiệp, người dân Phước Tuy phần đông sống về nghề đánh cá và làm muối. Các ruộng muối với phẩm chất tốt trải dài từ Long Hải đến Vũng Tàu đă cung cấp muối cho nghề đánh cá địa phương cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cao Miên. Năm 1897, cao su được đưa từ Mă Lai sang để trồng thử. Nhờ đất tốt và sản lượng cao nên từ năm 1938, cao su khai thác tại Việt Nam đă có thể thỏa măn được nhu cầu của nước Pháp.
Trong tỉnh Phước Tuy có Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Tại Vũng Tàu có trường Quân cảnh, trường Truyền tin và trường Thiếu sinh quân.
Ngày 16 tháng 9/1973, Hải Quân VNCH bàn giao đảo Trường Sa lại cho Tiểu khu Phước Tuy. Một đại đội Địa phương quân thuộc Tiểu đoàn 372 DPQ ra chiếm đóng các đảo như sau: Ban Chỉ huy Đại đội đóng tại đảo Nam Yết, 1 trung đội tại đảo Sơn Ca, 1 trung đội tại đảo Sinh Tồn và 1 trung đội tại đảo Trường Sa. Đơn vị sau cùng trấn đóng Trường Sa vào tháng 4 năm 1975 là đại đội thuộc Tiểu đoàn 302 DPQ.
Đơn vị tham chiến
● 4/1975 SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
TRD 2 BB
Vũ Ngọc Hướng
TRD 56 BB
Vĩnh Giác
LD 1 ND
Nguyễn Văn Đỉnh
TD 9 ND
Lê Mạnh Đường
TD 15 KB
Đỗ Đức Thảo
Phước Tuy
● Đại tá Lê Đức Đạt
Trung tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phước Tuy (1964)
● Thiếu tá Trần Ngọc Toàn
Bị thương nặng tại trận B́nh Giả, Phước Tuy ngày 31/12/1964
● Trung tá Trần Đ́nh Bích
Trung tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phước Tuy (1973)
● Trung tá Huỳnh Bửu Sơn
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phước Tuy (4/1973)
● Trung tá Đỗ Duy Nhượng
Chỉ huy trưởng Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận Tiểu khu Phước Tuy (1974)
● Đại tá Phạm Ngọc Lân
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phước Tuy (1975)
● Trung tá Nguyễn Văn Nhỏ
Bị thương khi cùng TD 9 ND trên đường rút từ chiến trường Xuân Lộc-Long Khánh về Phước Tuy (4/1975)
● Thiếu tá Lê Mạnh Đường
Thiếu tá Tiểu đoàn phó TD 9 ND thay Trung tá Nguyễn Văn Nhỏ bị thương trên đường rút về Phước Tuy từ chiến trường Xuân Lộc-Long Khánh (4/1975)
● Trung tá Lê Quang Định
Tham mưu trưởng kiêm Tiểu khu phó Tiểu khu Long Khánh, tử trận trên đường rút quân về Bà Rịa, Phước Tuy (21/4/1975)
● Đại úy Lê Ngọc Báu
Quyền Chỉ huy phó Trung tâm Yểm trợ Tiếp vận Tiểu khu Phước Tuy (27/4/1975)
● DD 201 CTCT
Sau khi Quân đoàn 2 triệt thoái, rút về Phước Tuy và Vàm Láng, G̣ Công, tăng phái cho SD 22 BB (4/1975)
● TD 1 ND
Trấn giữ pḥng tuyến Bà Rịa, Phước Tuy (22/4/1975)
● TD 371 DPQ
Thuộc Tiểu khu Phước Tuy, trú đóng quần đảo Trường Sa (1/1974)
● TD 4 TQLC
Thiệt hại nặng sau trận B́nh Giả, Phước Tuy (12/1964)
● TD 8 ND
Trấn giữ pḥng tuyến Bà Rịa, Phước Tuy (22/4/1975)
● TRD 57 BB
Tan hàng lần hai tại Phước Tuy (30/4/1975)
-
[IMG]http://www.conongviet.com/Pictures/VietNamFlag.gif[/IMG]
[B][I]SƯ ĐOÀN 3 BB QLVNCH
VUNG TAU ● 4/1975 [/I][/B]
[IMG]http://www.mekongrepublic.com/vietnam/maps/phuoctuy.gif[/IMG]
- Sau khi Phan Thiết và Hàm Tân thất thủ th́ Vũng Tàu bị đe dọa nặng nề. Lúc này thành phố đông nghẹt đồng bào và quân nhân di tản. Để tránh t́nh trạng hỗn loạn, các chiến hạm được lệnh đưa đồng bào tị nạn từ Quân khu 1 và 2 ra thẳng đảo Phú Quốc.
Ngày 24 tháng 4/1975, SD 3 BB được giao trách nhiệm pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 với lực lượng tăng cường gồm Chi đoàn 2 của TD 15 KB, và LD 1 ND. Theo Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh SD 3 BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu, th́ quân số của mỗi tiểu đoàn Nhảy dù chỉ c̣n khoảng 50%. Sư đoàn 3 BB gồm cả số quân nhân từ SD 1 BB nhập lại chỉ c̣n hơn ngàn người, tạm thành lập được hai tiểu đoàn, một cho TRD 2 BB và một cho TRD 56 BB. Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh SD TQLC, được cử làm Tổng trấn Vũng Tàu. (See map)
Ngày 27 tháng 4/1975, Long Thành đă bị địch chiếm, tiếp đến là Bà Rịa cũng rơi vào tay địch. T́nh h́nh thành phố Vũng Tàu trở nên bi đát. Từ những nơi vừa chiếm xong cũng như từ trên các ghe, tầu ngoài biển, Cộng quân pháo liên miên suốt ngày vào hai cao điểm trong thành phố là núi Lớn và núi Nhỏ. Suốt đêm những tiếng súng lớn, nhỏ nổ râm ran khắp mọi nơi. Trận pháo đầu tiên trúng ngay đài ICS VC Hill núi Lớn, kế đến là trường Truyền tin và phi trường Vũng Tàu. Dân chúng v́ bị pháo kích nên một số gia đ́nh lên tàu ra khơi, một số chạy về hướng núi Lớn, núi Nhỏ, Thích Ca Phật Đài để tránh. Ngay từ đêm 28 tháng 4/1975, CSBV đă thực hiện những đợt tấn công thăm ḍ phản ứng của quân trú pḥng. TD 9 ND và một đơn vị Thiết giáp cùng một đại đội TQLC pḥng thủ dọc theo con đường từ ngoại ô Bà Rịa đến cầu Cỏ May. Có ít nhất 2 tiểu đoàn Cộng quân bị loại ngoài ṿng chiến khi di chuyển gần đến cầu. Bộ Chỉ huy Hành quân của Tướng Hinh đă phải di chuyển ra làm việc tại Duyên đoàn 33 Hải quân để điều động các cánh quân.
Sáng 29 tháng 4/1975 mới tờ mờ sáng, Cộng quân đă mở một cuộc pháo kích dữ dội vào mọi nơi trong thị xă Vũng Tàu. Sau đó, cùng với các cuộc tấn công vào các tuyến pḥng thủ khác tại ṿng đai Sài G̣n, Cộng quân đă mở các cuộc tấn công tại pḥng tuyến Cỏ May-Vũng Tàu. Chúng bắt đầu tiến chiếm vào thị xă bằng 2 mũi tấn công, một mũi qua sông cầu Cỏ May (cầu đă bị giật sập), và một mũi từ B́nh Châu, Phan Thiết qua ngỏ suối nước nóng. Tại hai mũi này Cộng quân đă gặp sự chống cự của những đơn vị Nhảy dù, TQLC hay SD 3 BB. T́nh h́nh pḥng tuyến Vũng Tàu trở nên nguy kịch khi đường điện thoại liên lạc về Bộ Tổng Tham mưu bị gián đoạn. Vũng Tàu trở thành một ốc đảo chỉ chờ đợi địch quân tràn ngập. Lực lượng pḥng thủ thành phố giờ phút này hầu như không c̣n ǵ cả sau khi SD TQLC và Lữ đoàn 1 ND của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút đi. Trong Đặc khu Vũng Tàu chỉ c̣n lại trường Quân cảnh và trường Thiếu sinh quân. Các đơn vị khác như trường Truyền tin, Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Rạch Dừa, Trung tâm Chí Linh và Bộ Tư lệnh Vùng 3 Duyên hải cũng như Bộ Chỉ huy Đặc khu hoàn toàn mất liên lạc. Cùng lúc đó, Cộng quân chính thức tung đại quân tấn công vào pḥng tuyến Cỏ May, quân trú pḥng rút về pḥng thủ quanh căn cứ Hải quân Cát Lái.
Khoảng 7 giờ 30 cùng ngày, Cộng quân pháo kích vào Bộ Chỉ huy Đặc khu Vũng Tàu, Tiền cảng và Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc gia. T́nh h́nh mỗi lúc một tệ hơn v́ CSBV đă hướng đại pháo về Băi Trước và Bến Đá, hai nơi có nhiều quân nhân và dân chúng tập trung.
Sáng ngày 30 tháng 4/1975 sau khi tân Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu các đơn vị ở yên tại chỗ chờ bàn giao, thành phố Vũng Tàu mất vào tay CSBV.
Đơn vị tham chiến
● 4/1975 SD 3 BB
Nguyễn Duy Hinh
TRD 2 BB
Vũ Ngọc Hướng
TRD 56 BB
Vĩnh Giác
LD 1 ND
Nguyễn Văn Đỉnh
TD 9 ND
Lê Mạnh Đường
TD 15 KB
Đỗ Đức Thảo
Vũng Tàu
● Đại tá Cao Mạnh Thắng
Chỉ huy trưởng trường Truyền tin Vũng Tàu (3/1975)
● Đại tướng Nguyễn Khánh
Ngày 16 tháng 8/1964 tại Vũng Tàu, Tướng Khánh lập hội đồng các tướng lănh gọi là Hội đồng Quân đội Cách mạng
● Thiếu tướng Vơ Văn Cảnh
Trung tá Thị trưởng Vũng Tàu tháng 11/1964
● Đại tá Hồ Nhựt Quan
Thị trưởng Vũng Tàu (7/1965)
● Đại tá Nguyễn Tài Lâm
Chỉ huy trưởng TTHL Cán bộ Nông thôn, Vũng Tàu (1973)
● Trung tá Nguyễn Minh Thơ
Chỉ huy trưởng căn cứ Hải quân Cát Lỡ, Vũng Tàu (1975)
● Thiếu tá Lâm Tài Thạnh
Bị bắt ngày 29 tháng 3/1975, sau đó vượt thoát được về Vũng Tàu
● Thiếu tướng Bùi Thế Lân
Kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Đặc khu Vũng Tàu (4/1975)
● Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu (4/1975)
● Thiếu tá Hứa Văn Giang
Chỉ huy Chiến đoàn trường Truyền tin tử thủ tại thành phố Vũng Tàu (4/1975)
● Trung úy Trần Văn Kính
Hy sinh vào giờ thứ 25 tại tuyến pḥng thủ phía tây trường Quân cảnh, Vũng Tàu (30/4/1975)
● Đại úy Nguyễn Ḥa Đương
Hy sinh vào giờ thứ 25 tại tuyến pḥng thủ phía tây trường Quân cảnh, Vũng Tàu (30/4/1975)
● Thiếu tá Trần Khoa Tràng
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Khoá sinh của trường Truyền tin Vũng Tàu hy sinh trong khi chỉ huy đơn vị tử thủ ở núi Lớn (30/4/1975)
● CD 2/15 KB
Tăng cường cho SD 3 BB khi sư đoàn này triệt thoái khỏi Quân khu 1 pḥng thủ khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu và quốc lộ 15 (24/4/1975)
● DH CTCT
Tại băi Phan Rí Cửa, cả trường lên ghe đánh cá và về đến bến Đá thuộc băi trước Vũng Tàu 11 giờ sáng ngày 8 tháng 4/1975
● HQ 9
Trách nhiệm tuần tiểu khu vực quần đảo Trường Sa và yểm trợ các giàn khoan dầu ngoài khơi từ Vũng Tàu đến Côn Đảo (1974)
● LD 369 TQLC
Tái phối trí tại Vũng Tàu (22/4/1975)
● SD 22 BB
Di tản về Vũng Tàu tái bổ sung tăng cường cho pḥng tuyến Phan Rang (4/1975)
● TD 1 ND
Rút ra Vũng Tàu và tan hàng tại đây (29/4/1975)
● TD 8 ND
Rút ra Vũng Tàu và tan hàng tại đây (29/4/1975)
● TD 8 TQLC
Tăng phái cho LD 468 TQLC pḥng thủ Vũng Tàu (8/4/1975)
● TRD 44 BB
Sau khi tan hàng tại Phước An, Darlac (15/3/1975) tập trung về Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn và Vũng Tàu, để tái phối trí