Nguyễn Hưng Quốc: Tiếng Việt: Đút vào - Rút ra
[I][COLOR="navy"][FONT="Arial"]Mới đây, đọc báo, không hiểu tại sao, t́nh cờ tôi lại chú ư đến chữ “đút” trong một câu văn không có ǵ đặc biệt: “Chị ấy đút vội lá thư vào túi quần...”
Từ chữ “đút” ấy, tôi chợt liên tưởng đến chữ “rút”: cả hai từ làm thành một cặp phản nghĩa: đút (vào) / rút (ra).
-Điều làm tôi ngạc nhiên là cả hai từ đều có phần vần giống nhau: “-ÚT”.
Chúng chỉ khác nhau ở phụ âm đầu mà thôi: một chữ bắt đầu bằng phụ âm “đ-” (đút) và một chữ bằng phụ âm “r- ” (rút).
-Hơn nữa, cả từ “đút” lẫn từ “rút”, tuy phản nghĩa, nhưng lại có một điểm giống nhau: cả hai đều ám chỉ sự di chuyển từ không gian này sang không gian khác.
“Đút” cái ǵ vào túi hay “rút” cái ǵ từ túi ra cũng đều là sự chuyển động từ không gian trong túi đến không gian ngoài túi hoặc ngược lại.
Tôi nghĩ ngay đến những động từ có vần
“-ÚT” khác trong tiếng Việt và thấy có khá nhiều từ cũng có nghĩa tương tự.
“Hút” là động tác đưa nước hoặc không khí vào miệng.
“Mút” cũng là động tác đưa cái ǵ vào miệng, nhưng khác “hút” ở chỗ vật thể được “mút” thường là cái ǵ đặc.
“Trút” là đổ cái ǵ xuống.
“Vút” là bay từ dưới lên trên.
“Cút” là đi từ nơi này đến nơi khác do bị xua đuổi. “Nút” hay “gút” là cái ǵ chặn lại, phân làm hai không gian khác nhau.
“Sút” là tuột, là suy, là giảm so với một điểm chuẩn nào đó.
Thay dấu sắc (ÚT) bằng dấu nặng (ỤT), ư nghĩa chung ở trên vẫn không thay đổi.
“Trụt” hay “tụt” là di chuyển từ trên xuống dưới. “Vụt” là di chuyển thật nhanh, thường là theo chiều ngang.
“Lụt” là nước dâng lên quá một giới hạn không gian nào đó.
“Cụt” là bị cắt ngang, không cho phát triển trong không gian.
“Đụt” (mưa) là núp ở một không gian nào đó, nhỏ hơn, để tránh mưa ngoài trời.
Nếu những động từ có vần “-ÚT” thường ám chỉ việc di chuyển (hoặc việc ngăn chận quá tŕnh di chuyển ấy) giữa hai không gian th́ những động từ có vần
“-UN” lại ám chỉ việc dồn ứ lại thành cục trong một không gian nhất định nào đó, thường là có giới hạn. “Ùn”, “chùn”, “dùn”, hay “đùn” đều có nghĩa như thế.
“Thun” hay “chun” cũng như thế, đều chỉ cái ǵ bị rút, bị co.
“Cùn” là bẹt ra.
“Hùn” là góp lại.
-“Vun” là gom vào. “Lún” hay “lụn” là bẹp xuống.
Cả những chữ như “lùn” hay (cụt) “lủn”, (ngắn) “ngủn”, “lũn cũn”... cũng đều ám chỉ cái ǵ bị dồn nhỏ hay thu ngắn lại.
Với cách phân tích như vậy, nếu đọc thật kỹ và thật chậm các cuốn từ điển tiếng Việt, chúng ta sẽ dễ thấy có khá nhiều khuôn vần h́nh như có một ư nghĩa chung.
-Chẳng hạn, phần lớn các động từ hay tính từ kết thúc bằng âm ÉT hay ẸT đều chỉ những động tác hay những vật thể hẹp, thấp, phẳng. “Kẹt” là mắc vào giữa hai vật ǵ; “chẹt” là bị cái ǵ ép lại. “Dẹt” là mỏng và phẳng; “tẹt” là dẹp xuống (kiểu mũi tẹt); “bét” là nát, dí sát xuống đất; “đét” là gầy, mỏng và lép.
Những động từ kết thúc bằng âm EN thường chỉ các động tác đi qua một chỗ hẹp, một cách khó khăn, như: “chen”, “chẹn”, “chèn”, “len”, “men”, “nghẽn”, “nghẹn”, “nén”.
-Những từ láy có khuôn vần ỨC – ÔI th́ chỉ những trạng thái khó chịu, như “tức tối”, “bức bối”, “bực bội”, “nực nội”, “nhức nhối”,
Những ví dụ vừa nêu cho thấy hai điều quan trọng:
Thứ nhất, nếu chịu khó quan sát, chúng ta sẽ phát hiện trong những chữ quen thuộc chúng ta thường sử dụng hàng ngày ẩn giấu những quy luật bí ẩn lạ lùng.
Tính chất bí ẩn ấy có thể nói là vô cùng vô tận, dẫu t́m kiếm cả đời cũng không hết được.
-Điều này khiến cho không ai có thể an tâm là ḿnh am tường tiếng Việt.
Ngay cả những nhà văn hay nhà thơ thuộc loại lừng lẫy nhất vẫn luôn luôn có cảm tưởng ngôn ngữ là một cái ǵ lạ lùng vô hạn.
-Thứ hai, v́ có những quy luật, những điểm chung tiềm tàng giữa các chữ như vậy cho nên việc học tiếng Việt không quá khó khăn.
Nói chung, người Việt Nam đều có khả năng đoán được ư nghĩa của phần lớn các chữ mới lạ họ gặp lần đầu.
Lần đầu gặp chữ “thun lủn”, chúng ta cũng hiểu ngay nó ám chỉ cái ǵ rất ngắn.
Lư do là v́ chúng ta liên tưởng ngay đến những chữ có vần “UN” vừa kể ở trên: cụt ngủn, ngắn ngủn,
.. Lần đầu gặp chữ “dập dềnh”, chúng ta cũng có thể đoán là nó ám chỉ một cái ǵ trồi lên trụt xuống do sự liên tưởng đến những chữ có khuôn vần tương tự: bấp bênh, gập ghềnh, khấp khểnh, tập tễnh, v.v...
-Học tiếng Việt, như vậy, không khó lắm, phải không?
Nguyễn Hưng Quốc[/FONT][/COLOR][/I]
Một đặc điểm của tiếng Việt- Nguyễn Hưng Quốc
[I][COLOR="navy"]Bạn thử dịch câu dưới đây sang tiếng Việt giùm tôi nhé.
He goes to Saigon.
Cái câu có cấu trúc đơn giản và gồm những chữ hầu như người mới học tiếng Anh nào cũng đều biết, riêng tôi, thú thực, tôi không biết dịch sao cả.
Có hai chỗ tôi không dịch được.
Thứ nhất, chữ “he”, đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ ba số ít. Trong tiếng Việt, trên nguyên tắc, nếu chúng ta không biết chữ “he” ấy ám chỉ người nào và người ấy có quan hệ ǵ với người kể chuyện, chúng ta không thể dịch chính xác được.
“Ông ấy” hay “anh ấy” ư? Nhưng nếu người kể chuyện đang nói về một em bé th́ sao? Th́ phải dịch là “em ấy”, dĩ nhiên.
C̣n nếu em bé ấy là con trai của người phát ngôn th́ phải dịch là “con tôi”; nếu đứng ở vai em và nếu cần lịch sự, th́ dịch là “cậu ấy” hay “chú ấy”.
Nếu câu văn ấy xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết th́ tùy theo tính cách của nhân vật, có thể dịch là “chàng” hay “gă” hay “hắn” hay “lăo” hay “nó” hay “y”, hay, xưa hơn một chút, “va”, và xưa hơn nữa, “nghỉ’ (như trong câu Kiều: “Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”), Nhưng cứ tạm cho “he” là “ông ấy” th́ chúng ta lại đối diện với vấn đề thứ hai này nữa:
Động từ “to go”. “Đi” chăng? Ừ, th́ cũng được. Nhưng nếu ông ấy đang ở Hà Nội th́ thường người ta không nói “đi Sài G̣n”. Mà là “vào Sài G̣n”
. Và nếu người ấy đang ở Cần Thơ hay Đà Lạt, chẳng hạn, người ta sẽ nói: “Ông ấy lên Sài G̣n” hay “Ông ấy xuống Sài G̣n”. Nếu địa danh ấy ở miền Trung hay miền Bắc, ví dụ Huế hay Hà Nội, th́ người ta có thể nói: “Ông ấy ra Huế / Hà Nội”, v.v…
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta thấy rơ là các đại từ nhân xưng trong tiếng Việt không phải chỉ liên hệ đến vai tṛ trong hành ngôn (người nói – ngôi thứ nhất; người nghe – ngôi thứ hai; hay người được đề cập – ngôi thứ ba) như trong các ngôn ngữ Tây phương mà c̣n gắn liền với (a) tuổi tác, (b) địa vị xă hội, (c) tính cách; (d) quan hệ với người phát ngôn, và (đ) t́nh cảm hay thái độ của người phát ngôn, v.v…
Tất cả các yếu tố này thường xuyên thay đổi, do đó, cách xưng hô cũng biến hóa theo.
Trong trường hợp thứ hai, động từ chỉ việc di chuyển gắn liền chặt chẽ với yếu tố địa lư (lên/xuống), và riêng trường hợp của vào/ra, c̣n gắn liền với yếu tố lịch sử.
Ai cũng biết, “vào” là động từ chỉ sự di chuyển từ một không gian rộng đến một không gian hẹp; “ra”, ngược lại, từ một không gian hẹp đến một không gian khác rộng hơn
. Nhưng tại sao đang ở miền Nam, người ta lại “ra” miền Trung trong khi miền Trung rơ ràng là hẹp hơn miền Nam hẳn?
Để trả lời câu hỏi ấy, người ta phải quay ngược lịch sử về tận thời Lư và đầu nhà Trần, lúc biên giới phía nam của Việt Nam chỉ dừng lại ở đèo Ngang: lúc ấy, trên bản đồ Việt Nam, phía Bắc đồng nghĩa với rộng và phía nam đồng nghĩa với hẹp. Chính trong bối cảnh ấy, hai chữ “vào” (nhập) và “ra” (xuất) được ra đời.
Mà không phải chỉ có các động từ lên/xuống/vào/ra, ngay cả các danh từ chỉ vị trí như trong hay ngoài, trên hay dưới cũng đều như thế. Ở các ngôn ngữ khác, ít nhất là các ngôn ngữ tôi biết, trong là trong, ngoài là ngoài, cũng như trên khác hẳn với dưới. Nhưng trong tiếng Việt th́ khác.
Trong hai câu “Ông ấy đứng trong vườn nh́n ra ngoài đường” và “Ông ấy đứng ngoài vườn nh́n vào trong nhà” th́ vị trí của người được gọi là “ông ấy” không có ǵ thay đổi cả. Vẫn đâu đó trong không gian của một khu vườn thôi. Vậy mà lúc th́ “trong vườn”, lúc th́ “ngoài vườn”.
Cũng tương tự như vậy, chúng ta có thể nói về ai đó là ông hay bà ấy ngồi trên nền nhà hay ngồi dưới nền nhà. Ư nghĩa giống hệt nhau.
Cả hai trường hợp vừa kể, đại từ nhân xưng và động từ chỉ phương hướng (và cùng với chúng, danh từ chỉ vị trí), cho thấy một đặc điểm nổi bật của tiếng Việt: tính t́nh thái (situational), trong đó, nổi bật nhất là tính liên hệ (relational).
Mỗi cách nói năng hay viết lách đều gắn liền với một hoàn cảnh nhất định và với những mối quan hệ nhất định.
Trong các ngôn ngữ khác, kẻ phát ngôn, bất kể tuổi tác, địa vị, tư cách, tâm trạng và bất kể đang nói chuyện với ai, đều là “I” (tiếng Anh) hay “Je” (tiếng Pháp) cả. Và người nghe, cũng vậy, lúc nào cũng là “you” hay “tu/vous”.
Lúc nào cũng vậy. Trong tiếng Việt th́ cách xưng hô của cái người phát ngôn ấy cứ thay đổi xoành xoạch tùy theo các quan hệ và cũng tùy cả t́nh cảm của người phát ngôn nữa. Trong các ngôn ngữ khác, trong bao giờ cũng là trong và ngoài bao giờ cũng là ngoài, nhưng trong tiếng Việt, với người ở trong nhà th́ cái kẻ đang đứng “trong” vườn lại trở thành “ngoài” vườn; ngược lại, với kẻ đang đứng ngoài đường th́ cái người đứng “ngoài” vườn ấy lại biến thành người “trong” vườn, v.v…
Theo tôi, chính tính t́nh thái ấy là nguyên nhân chính dẫn đến sự thiếu vắng thói quen tư duy trừu tượng cũng như truyền thống triết học của Việt Nam.
Lâu nay, nhiều học giả, từ Phạm Quỳnh đến Vơ Phiến, đều giải thích sự thiếu vắng ấy xuất phát từ yếu tố từ vựng: tiếng Việt thiếu hẳn các từ trừu tượng hay nói theo chữ của Phạm Quỳnh, phần “h́nh nhi thượng”.
Nhưng thiếu th́ mượn. Và người Việt cũng đă vay mượn rất nhiều từ trừu tượng từ chữ Hán. Nhưng mượn rồi th́ sao?
Khả năng tư duy trừu tượng vẫn èo uột và một nền triết học đặc sản của Việt Nam vẫn cứ là một mơ ước xa vời của hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Tại sao?
Theo tôi, nó nằm ở tính t́nh thái của tiếng Việt. Xin nhấn mạnh: của tiếng Việt chứ không phải của phần từ vựng trong tiếng Việt. Chính thói quen bao giờ cũng nh́n sự vật và sự việc từ một góc nh́n cụ thể, trong những quan hệ cụ thể đă ngăn cản khả năng trừu tượng hóa của người Việt.
Khi năng lực trừu tượng hóa c̣n yếu, triết học vẫn c̣n là một giấc mơ xa xăm.
Nguyễn Hưng Quốc[/COLOR][/I]
Viết Tiếng Việt Khó Hay Dễ ?
“[SIZE="4"][FONT="Arial"][COLOR="navy"]Vát Than Nặng Thở Thang”
Khi đọc tựa của bài này, nếu bạn không thấy viết sai chánh tả th́ xin bạn...duyệt xét lại khả năng viết tiếng Việt của bạn. Tôi xin đưa thêm vài thí dụ để bạn tự phán xét :
“Té chưới vô bượi chúi” và "Paulus Húnh Tịnh Của”, "Nguiễn Khuiến”.
Có ǵ sai hoặc...kỳ kỳ không?
Các thí dụ trên rất phổ biến khi dạy về chánh tả tiếng Việt. Viết “c” hay “t”, có “g” hay không “g”, dấu “hỏi” hay “ngă”, vần “úi” và “ưới”, “ụi” và ượi”, “i” và “y”, v.v...là một vài vấn đề mà chúng ta nên chú ư khi viết tiếng Việt.
Có phải v́ là tiếng mẹ đẻ nên chúng ta chủ quan, không lưu ư viết cho đúng chánh tả?
Hay v́...lười? Hay v́ phát âm sai cho nên viết sai?
Hay v́ vấn đề chánh tả không quan trọng ǵ hết, miễn sao người khác hiểu chữ và ư mà bạn muốn thông đạt là được rồi?
Để trả lời cho những câu hỏi này, xin hỏi bạn rằng nếu trong trường hợp nào đó, bạn viết tiếng Anh, bạn có viết như sau không:
He do thiz becose himseo love I so much. Hỏi tức trả lời.
-Không viết th́ thôi, c̣n nếu đă viết th́ cố gắng viết cho đúng chi'nh tả càng nhiều càng tốt. Điều may mắn cho chúng ta là tiếng nói và chữ viết Việt Nam không đến nỗi rắc rối quá như các thứ tiếng khác.
Tuy vậy, bạn, người Việt Nam, vẫn phải bỏ th́ giờ và công sức học hỏi nếu bạn muốn nói, viết và sử dụng tiếng Việt tương đối đúng nghĩa và thông thạo.
Tôi dùng chữ “tương đối” bởi v́ trên nguyên tắc, tất cả chúng ta đều phát âm sai, viết sai và trong chừng mực nào đó, không hiểu được tường tận ư nghĩa của tiếng mà chúng ta sử dụng!
Để hiểu tiếng Việt đến mức “thấu t́nh đạt lư”, bạn không có cách nào khác là phải am tường cái gốc 70% tiếng Hán của nó! Nếu không học tiếng Hán th́ phải có tự điển tiếng Việt để tra chánh tả và nghĩa chữ.
C̣n nếu sử dụng máy điện toán cá nhân th́ nên mua software VNI Tân Việt 2000, trong đó bộ “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Tru.
Tiếng Việt rất phong phú về âm, vận và thanh. V́ vậy, khi mượn bộ chữ Latin để kư âm tiếng Việt, các nhà truyền giáo đă phải sáng tạo nhiều kư hiệu CHỮ để phản ánh cho đúng giọng nói, cũng như để phân biệt các âm gần giống nhau.
Công tŕnh này là một tài sản quư báu vô vàn cho dân tộc Việt Nam mà chúng ta đang thừa kế, mặc dù chưa được hoàn chỉnh ở một vài chi tiết.
Hệ thống chữ viết này xây dựng trên một nguyên tắc then chốt : nói sao, viết vậy.
Hầu hết các tranh căi về chánh tả tiếng Việt đều xuất phát từ nguyên tắc này.
Căn cứ vào đâu mà nhận xét đúng hay sai chánh tả? Một khi bạn cho rằng viết “vát” là sai, phải viết “vác”, “than” phải viết không có “g”, “thở thang” phải viết “thở than”, “Húnh” phải viết “Huỳnh”, ... tức là bạn đă chấp nhận một nguyên tắc phổ cập trong ngôn ngữ: quy ước chung được đa số mọi người chấp nhận. Cái ǵ không phù hợp với quy ước chung là sai - mặc dù quy ước chung đôi khi không hợp lư!
Cho đến khi nào chúng ta có một hàn lâm viện thống nhất các vấn đề c̣n đang tranh căi th́ mới chấm dứt được. Trong khi chờ đợi th́ vẫn cứ...”mổ ḅ”.
Tiếng Việt Nam thống nhất cho nên việc kư âm (kư hiệu âm thanh-phonetic symbols) để sáng tạo một hệ thống chữ viết chung cho cả nước sử dụng là điều có thể làm được.
Trái lại, tiếng Trung quốc phát âm hoàn toàn khác nhau từ tỉnh này đến tỉnh kia, v́ vậy, hầu chắc không thể thống nhất theo kiểu chữ Latin được mà măi cho đến nay, chỉ có thể thống nhất theo hệ thống chữ tượng h́nh, biểu ư: viết cùng một loại chữ nhưng đọc khác nhau.
V́ hai kiểu chữ khác nhau, vấn đề phiên âm nảy ra.
- Khi viết về tên địa phương hoặc nhân vật Tây phương, người Trung quốc không có cách nào khác hơn là phải phiên âm
. Nếu đang viết một loạt chữ Hán mà chen vào kiểu chữ Latin th́ quả là điều hết sức phiền toái cho người viết cũng như người đọcB
ởi cái cốt lơi của chữ Hán là biểu ư, không ráp vần lại mà đọc được, phải học thuộc ḷng cách phát âm của từng chữ một và phát âm theo giọng Bắc kinh hay địa phương là tùy theo người học.
Người Trung quốc bắt buộc phải phiên âm ṭan bộ tên ngoại quốc để thông đạt trong tiếng Hán.
Câu hỏi đặt ra là người Việt Nam có nên bắt chước phiên âm không? Theo thiển ư của tôi, chúng ta không nên phiên âm bởi lẽ rất đơn giản là chúng ta sử dụng hệ thống chữ Latin để ghi lại giọng đọc.
Chúng ta có thể viết lại đúng nguyên văn tên gốc của địa phương hay nhân vật và mọi người Việt Nam đều có thể đọc được - đọc trúng giọng hay không là chuyện khác, nhưng ít nhất là đọc đượcv́ cuối cùng, cái gốc của việc phiên âm này chỉ xuất phát từ khổ nạn của bản thân chữ Hán mà thôi.
Chữ viết Việt Nam theo mẫu tự Latin không dính dáng đến khổ nạn này. Khi phân tích về âm “gi” và “d”, trong bài “Chánh tả với tự nguyên”, viết ngày 29/05/1953, GS Lê Ngọc Trụ viết:
“Chúng ta hay lầm lẫn hai âm “gi” và “d”; nếu không xét nguồn gốc th́ khó phân biệt. Như tiếng “Gia Tô”: đúng theo nguồản gốc của nó phải viết “D”: Da Tô. Tiếng Da Tô là tên “Jésus” dịch âm.
Có lẽ các cố đạo khi xưa đă tùy cách phát âm mỗi xứ mà âm tên của Chúa Jésus.
Ở Việt Nam th́ âm Giê Su, phát âm gần giống với tên Jésus; âm “Gi” ghi đúng âm “J”.
Ở Trung Hoa th́ ghi âm: Dè Xố Kí Lị Xứ Túc (Jésus Christ). Tiếng Trung Hoa không có âm “J”, phải mượn âm “D” thế. Phát âm theo giọng Hán Việt th́ là “Da Tô Cơ Lợi Tư Đốc”.
Sau ta mượn dùng, gọi tắt là đạo “Da Tô” hoặc đạo “Cơ Đốc”. (Cơ Lợi Tư Đốc thâu bớt).”
Muốn viết đúng chánh tả Việt Nam th́ phải phát âm cho đúng. Cái khổ là không người Việt Nam nào phát âm đúng cả!
Người miền Bắc nói sai các âm “Ch và Tr “, “X và S”, “Gi, D và Z” nhưng giọng “hỏi, ngă” và các âm cuối chữ như “c/t”, “ai/ay”, “ao/au”, “ăng/ăn”, “ác/át”, v.v...lại nói đúng. Nếu áp dụng nguyên tắc “nói sao, viết vậy”, người miền Bắc sẽ viết:
Chuyện cḥ ḷng ẓng cũng như đọc chuyện: có ź xung xướng đâu?
(Chuyện tṛ ḷng ṿng cũng như đọc truyện: có ǵ sung sướng đâu? )
Chữ “chuyện” là tiếng Việt thuần túy, c̣n gọi là tiếng nôm, nghĩa là việc hoặc sự ǵ đó được bàn bạc với nhau: chuyện tṛ, chuyện văn, nói chuyện.
C̣n “truyện” là tiếng Hán Việt, nghĩa là sách chép sự việc truyền lại đời sau: truyện cổ tích, truyện kư, liệt truyện.
“Xung xướng” có lẽ để nghe cho dịu đi, xin bạn thử nói: “Sờ soạng sung sướng” và lắng nghe giọng đọc của bạn th́ sẽ thấy hơi khó phát âm và khó nghe.
Người miền Trung lại phát âm rất khác nhau. Người Nghệ Tĩnh nói rất đúng các âm khởi đầu, nhưng lại không nói rơ dấu hỏi, ngă hoặc ngă, nặng. Đi dần vào Huế, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định th́ giọng nói khá nặng.
Nếu áp dụng nguyên tắc “nói sao, viết vậy”, người Quảng Ngăi sẽ viết:
-Eng th́ eng, không eng tét đèn đi ngủ. (Ăn th́ ăn, không ăn tắt đèn đi ngủ).
Đi về phía Nam nữa, như Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết th́ tiếng nói lại pha trộn âm hưởng của dân Chiêm Thành, giọng nói nhẹ hơn.
Tiến đến miền Nam th́ giọng đọc khác hẳn miền Bắc. Trong cuốn “Chánh tả Việt Ngữ”, trang 22-23, giáo sư Lê Ngọc Trụ viết:
“Có lẽ nhờ khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long và đất đai ph́ nhiêu dễ sanh sống mà người miền Nam ít hay chịu khó.
Cứ nói những vận “dễ”, thêm tật “ít chịu khó” (principe du moindre effort) - tật mà ông Phan Văn Hùm gọi là sự “lười tự nhiên” - đă đổi luôn mấy vận “khó” cho trở thành vận “dễ”, lâu đời thành quen, không sửa chữa được và không biết sai mà sửa chưă.”
[/COLOR][/FONT][/SIZE]