Hải quân Việt Nam Cộng ḥa
Hải quân Việt Nam Cộng ḥa là lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng ḥa, trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và tồn tại từ năm 1954 đến năm 1975 trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Huy hiệu là "Tổ Quốc-Đại Dương".
[COLOR="#000080"][B]Lực lượng h́nh thành[/B][/COLOR]
Trước khi triệt thoái khỏi Việt nam theo Hiệp định Geneve 1954, quân đội Pháp đă để lại cho quân đội Quốc gia Việt Nam một số chiến hạm và giang đỉnh. Sau đó, cộng thêm với những giang đĩnh của các đoàn tuần giang bán chính quy sáp nhập vào, lực lượng thủy quân Quốc gia Việt Nam gồm có những đơn vị sau:
3 hộ tống hạm (patrol craft PC)
2 hải vận hạm (landing ship medium LSM)
1 tàu thủy đạo (batiment hydrographe)
3 trục lôi hạm (dragueur, yard mine sweeper YMS)
2 trợ chiến hạm (landing ship support large LSSL)
5 giang pháo hạm (landing ship infantery large LSIL)
4 giang vận hạm (landing craft utility LCU)
2 tuần duyên hạm (garde côtière GC)
70 quân vận đĩnh (landing craft mechanized LCM). Trong số này có 2 tiền phong đĩnh (LCM monitor), 4 soái đĩnh (LCM de Commandement), 53 quân vận đĩnh bọc thép (LCM blinde) và 11 quân vận đĩnh loại nhẹ (LCM leger).
95 tiểu đĩnh gọi chung là vơ-đét (vedette), trong đó có 17 chiếc loại ứng chiến (vedette d'interception), 1 vơ-đét canh pḥng (vedette de surveillance), 6 chiếc loại tuần cảng Y (yard). Ngoài ra là các Tiểu Giáp Đĩnh: 36 chiếc loại STCAN, 12 chiếc loại FOM dài 8 mét và 23 chiếc loại FOM dài 11 mét.
100 tiểu vận đĩnh LCVP (landing craft vehicle personnel), tức là loại tàu nhỏ cỡ như vơ-đét chở được 6 người, trong đó có 81 loại b́nh thường và 19 loại nhẹ.
15 sà lan trong đó một sà lan máy, 1 sà lan chở nước và 13 sà lan thường.
3 tàu ḍng (remorqueur)
Ngoài ra, phần lớn các chiến hạm đă cũ và có một vài chiếc không c̣n dùng được.
C̣n tiếp...