Phần Kết Giáo-sư Trần Đại-Sỹ
Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngă ba sông Ô-giang, Trường-giang th́ gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng.
Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ c̣n lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:
Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Đoạn trường, trục Định, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
Đuổi được Tô Định, nhưng đau ḷng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.
Tôi xin vào trong miếu xem, th́ bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối.
Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng pḥ tá nữ chúa.
Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Ông chủ hộ th́ cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. V́ vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội:
Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định,
Bồ-lăng dương nộ lăng, nghĩa trọng phù Trưng.
Nghĩa là:
Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định.
Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng.
Kết luận:
Như vậy th́ quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận th́ biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay.
7. Nghiên cứu những khai quật
Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đă giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính v́ vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi c̣n trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lư thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó.
Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều t́m được những chiếc ŕu thiết diện h́nh trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ t́m được lọai ŕu thiết diện h́nh chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau.
Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đă t́m được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mă (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đă t́m thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quư-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau.
Đồng 53%,
Thíếc 15-16%,
Ch́ 17-19%,
Sắt 4%.
Một ít vàng bạc.
Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đă biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc.
Kết luận,
« Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đ́nh, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ».
8. Tổng kết,
Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi t́m, tất cả đều c̣n đầy đủ di tích.
Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đ́nh, phía Tây giáp Tứ-xuyên.
V. KẾT LUẬN:
Thưa Quư-vị
Quư-vị đă cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để t́m về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt.
Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rơ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán.
Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rơ biên cương nước Việt thời mới lập quốc.
Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).
Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Động-đ́nh với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đ́nh cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục ngh́n trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nh́n nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được.
Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đă có hai cái nh́n khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nh́n rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nh́n rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. V́ vậy tôi đă sưu tầm tất cả những ǵ trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, v́ chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quư-vị.
Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-g̣n, thuộc Việt-Nam cộng-ḥa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc t́m kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp t́m kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt.
Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng:
Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ c̣n nghĩ như vậy.
Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương.
Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay v́ lư do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới.
Lại càng không có việc người Việt gốc từ ḍng giống Mă-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra.
Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước.
Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.
Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống măi vịnh Thái-lan.
Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Thái-lan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay.
Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quư khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quư vị đến tháng 11-92 tôi sẽ tŕnh bày trước quư vị về nguồn gốc triết Việt.
Trân trọng kính chào quư vị.
Giáo-sư Trần Đại-Sỹ,
__________________
Hắc Y Nữ Hiệp
8.5 Thành Hỏa Hầu
Tướng 1 Sao
Bên hiên nhỏ ,gió hờn cành trúc ngoài song cửa
Trong cơn mơ quay về Hà Nội xưa
Mười dặm thác Bản Dốc , Chốn hoa nở thẳm sâu
Bóng nguyệt soi cung đàn u nhă
Thấp thoáng dáng người ngọc ngoảnh đầu
Nắm tay chàng đi giữa mưa khói Ải Nam Quan
THUẬN THIÊN DI SỬ Hồi 1 Trên Đỉnh Núi Dục Thúy
Thuận Thiên Di Sử
Hồi 1:
Trên Đỉnh Núi Dục Thúy
.
Quân sĩ đem đuốc lại gần soi. Đó là một người đàn ông tuổi trung niên. Miệng y ứa máu. Đỗ Lệ-Thanh cầm mạch gật đầu:
- C̣n hy vọng.
Mụ lấy một viên thuốc nhét vào miệng người kia. Thiệu-Thái sờ tay lên ngực y. Xương ngực vỡ làm nhiều mảnh vụn. Chàng không ngờ ḿnh chỉ phất tay nhẹ nhàng, mà khiến cho người kia ra nông nỗi ấy.
Một lát người kia tỉnh dậy. Y rên lên một tiếng. Thanh-Mai hỏi:
- Người là ai ? Tại sao lại đột nhập vào đây ḍ thám ?
Người kia rên rỉ:
- Tôi làm theo lệnh lăo gia. Lăo gia bắt, tôi phải làm. Bằng không...cả nhà tôi sẽ bị giết chết.
Đỗ Lệ-Thanh nắn bóp cho y mấy cái. Mặt y tươi lên một chút. Thanh-Mai hỏi tiếp:
- Lăo gia là ai ?
- Là trưởng lăo Ḥng-thiết giáo.
Đỗ Lệ-Thanh kinh hoảng la lên:
- Úi chà.
Mụ hỏi:
- Lăo ở đâu ?
- Lăo gia nay đây, mai đó, rất khó được gặp. Thường tôi chỉ được tiếp xúc với sứ gỉa của lăo gia mà thôi.
- Lần này người đến đây làm ǵ ?
- Tôi đến trao thuốc giải cho một người. Ối...
Y mửa ra một búng máu, rồi ngẹo đầu sang một bên, hết thở.
Mỹ-Linh truyền giao thi thể người đó chu Khu-mật-viện Trường-yên khám xét.
Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Khi Vương gia vắng mặt tại đây, th́ ai là người thay thế ?
- Trước kia do sư huynh Tạ Sơn. Sau này sư huynh về kinh lĩnh chức Điện-tiền chỉ huy sứ th́ An-phủ-sứ Trường-yên thay thế.
Lát sau, Tôn Trung-Luận vào cùng với một viên thư lại. Viên thư lại bưng cái khay, trên khay để một số vật dụng. Y tŕnh bày:
- Trên trán của gian nhân có xâm chữ Thiên-tử binh như vậy y ở trong quân ngũ. Thẻ bài trong người y khắc tên Phùng-Hiên, Ngự-long vậy y thuộc đạo Ngự-long. Đạo Ngự-long mới đi Cửu-chân về Thăng-long tháng qua. Trên người y c̣n một b́nh hai viên thuốc. Không hiểu thuốc ǵ ?
Đỗ Lệ-Thanh cầm viên thuốc đưa lên mũi ngửi, rồi nói:
- Đây là thuốc giải Chu-sa độc chưởng. Nhưng thuốc này đă cải đi nhiều, không giống thuốc giải nguyên thủy.
Từ khi nghe nói về Chu-sa độc chưởng, Mỹ-Linh, Thanh-Mai đều cảm thấy đau nhói trong ḷng. Hồi đầu Mỹ-Linh nghi Vương mẫu của nàng bị chết về chưởng này của Nguyên-Hạnh. Sau nghe Đỗ Lệ-Thanh biện luận, nàng bỏ ư tưởng ấy ra ngoài.
Trên đường từ Cửu-chân ra Trường-yên, Mỹ-Linh đem truyện Vương mẫu cùng Hồng-sơn phu nhân chết v́ cùng nguyên do cho Thanh-Mai nghe. Thanh-Mai lại choáng váng mặt mày. V́ chính mẫu thân của nàng cũng chết trong cùng một chứng bệnh. Có điều vơ công bà cao. Hôm ác nhân đánh bà là lúc chồng bà vắng nhà cùng với các đại cao thủ trong phái. Bà với ác nhân đấu trên trăm chiêu. Cuối cùng ác nhân bị trúng chưởng của bà phun máu miệng. Trong khi bà cũng bị trúng một chưởng vào lưng. Ác nhân chờ cho hôm sau bà lên cơn đau. Y mới xuất hiện, nói cho biết bà bị trúng độc chưởng, nếu không có thuốc giải, sẽ đau đớn trong bốn mươi chín ngày rồi chết.
Ác nhân bắt bà tuân theo ba điều kiện. Một phải tuyên thệ nhập bang Nhật-hồ Đại-Việt. Hai phải cung cấp mọi tin tức trong phái Đông-a cho y. Ba phải phải tuyệt đối tuân lệnh bang Nhật-hồ Đại-Việt.
Bà từ chối, v́ không thể phản chồng. Khi đại hiệp Trần Tự-An trở về, th́ bà sắp chết. Bà thuật mọi chi tiết cho ông nghe. Ông như điên như khùng, tung đệ tử đi khắp nơi t́m tung tích bọn Nhật-hồ, mà không thấy. Câu truyện tưởng như trôi qua. Bây giờ nghe gian nhân khai, Thanh-Mai lại thấy ánh sáng ló dạng. Có thể t́m ra Nhật-hồ tung tích thủ phạm.
Nàng hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Chu-sa chưởng của bang Nhật-hồ Trung-quốc gồm có Chu-sa chưởng và Ngũ-độc chưởng. Vậy có thể nào khi sau khi luyện Chu-sa chưởng. Người ta phát chiêu Chu-sa riêng, Ngũ-độc riêng hay phải phát Chu-sa Ngu-độc một lúc không?
Đỗ Lệ-Thanh nhảy phắt lên:
- Cô nương thực thông minh. Có thể như thế. Ác nhân tấn công Vương-phi, Hồng-Sơn phu nhân cũng như Tự-An phu nhân bằng Ngũ-độc chưởng mà thôi. Tôi chưa thử phát chiêu Ngũ-độc đánh người, nên không biết họ có đau đớn như các nạn nhân đă bị hay không ?
.....
An-phủ sứ Tôn Trung-Luận chỉ lên tấm bản đồ vẽ trên lụa:
- Bọn Hồng-hương giải ba người họ Chu vượt sông, hiện đang ở trên núi Dục-thúy. Hôm qua bọn thiếu niên Hồng-hương do Phan Thi chỉ huy bị đám Chu An-B́nh đánh bị thương đă cùng Nguyên-Hạnh đến Dục-thúy. Bọn này tạm dùng thuốc giải độc của họ Chu. Nên bớt đau nhức.
Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân, thuốc giải của họ Chu có hiệu lực trong bao lâu ?
- Chỉ được một ngày. Thuốc này trấn thống, nhưng sau bốn mươi chín ngày bệnh nhân cũng chết. Chứ không giống thuốc giải của tiểu tỳ, có hiệu lực một năm, và không bị chết.
Thanh-Mai quyết định:
- Bây giờ thế này. Chúng ta âm thầm cứu bọn thiếu niên Hồng-hương, bắt chúng tuyên thệ trung thành với ta. Sau đó cho chúng thuốc giải. Khi bọn họ Chu thấy đám đệ tử Hồng-hương có thuốc giải. Tất y tưởng Nguyên-Hạnh biết chế thuốc. Chúng sẽ theo quấy rối y ḥai.
Mỹ-Linh cười:
- Như vậy ta kiếm cho Nguyên-Hạnh những kẻ thù ghê gớm của bang Nhật-hồ Trung-nguyên. Y sẽ ăn không ngon, ngủ không yên với người của bang này.
Thanh-Mai gật đầu:
- Trong khi đó ta cứu bọn họ Chu ra, để chúng báo về Trung-quốc rằng đă t́m ra tông tích Dương-Bá. Nào bây giờ An phủ sứ cho chúng tôi biết t́nh h́nh, địa thế núi Dục-thúy.
Tôn Trung-Luận chỉ một viên Đô-thống:
- Xin Đô-thống tŕnh bày:
Viên đô-thống lấy ra một cái trục lụa. Trên trục vẽ bản đồ thành phố Trường-yên (nay là thị xă Ninh-b́nh). Y chỉ vào bản đồ:
- Núi Dục-thúy c̣n có tên là núi Non-nước, gồm ba ngọn dính liền nhau. Ba quả núi dựng đứng bên sông cái. Mặt nh́n ra sông thẳng đứng, chơi vơi. Mặt trong thoai thỏai hướng vào thị trấn. Trên đỉnh núi có khu bằng phẳng rộng ước hơn hai mẫu. Thời vua An-dương, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ dựng một tháp đá rất to, dùng làm cột cờ. Nay trên đó vẫn kéo cờ.
Y lấy trục lụa khác mở ra:
- Trước kia trên núi có quân đóng. Từ bốn năm nay, giao cho thiếu niên Hồng-hương trông coi. Từ trấn muốn lên, có một con đường chính và một con đường mật. Con đường này từ sông lên thẳng đỉnh núi.
Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân. Nếu Nhật-hồ lăo nhân c̣n sống, năm nay ông bao nhiêu tuổi ? H́nh dạnh ông như thế nào ?
Đỗ Lệ-Thanh đáp:
- Không ai nhớ h́nh dạng lăo ra sao. Chỉ biết lăo có mười đệ tử, đều là người Việt. C̣n về tuổi tác, nếu lăo c̣n sống năm nay ít ra cũng hơn trăm tuổi. Tiểu tỳ nghĩ lăo đă chết rồi. Tên gian nhân hôm qua nói rằng tuân lệnh lăo...tiểu tỳ chắc chữ lăo để chỉ đệ tử Nhật-Hồ. Khu-mật viện ắt biết rơ tung tích lăo.
Thanh-Mai đưa mắt nh́n viên đô thống.
Viên Đô-thống kính cẩn:
- Thưa Vương-phi, Nhật-Hồ lăo nhân nguyên gốc người vùng Cửu-chân, xuất thân trong gia đ́nh văn học. Thân phụ làm quan thời vua Ngô. Lớn lên lăo ngao du sang Trung-nguyên, vô sở bất chí. Sau lưu lạc sang vùng Tây-vực, được giáo chủ Hồng-thiết giáo Tây-dương đời thứ nh́ tên Xích Trà-Luyện thu làm đệ tử. Nhờ vậy lăo học được trọn bộ Hồng-thiết kinh. Vơ công lăo rất cao cường. Độc công càng thâm hậu. Lăo về Trung-quốc lập bang Nhật-Hồ. Người thừa kế lăo tên Lưu Trí-Viễn lập ra nhà Hán. Nhật-Hồ lăo nhân về Đại-Việt thu mười đệ tử, rồi lập Hồng-thiết giáo. Thời kỳ Thập-nhị sứ quân có bốn sứ quân theo giáo phái này. Sau khi vua Đinh dẹp sứ quân, đệ tử Hồng-thiết bị truy lùng rất gắt. Măi tới khi đức Hoàng-đế bản triều lên ngôi ban chiếu chỉ ân xá, giáo chúng mới tụ lại dần dần.
Mỹ-Linh rất chú tâm đến vụ này, nàng hỏi thêm:
Hồi ở Thăng-long, tôi nghe chú hai nói lăo chết gần hai mươi năm rồi. Đệ tử thứ ba của lăo têmn Lê Ba xây lăng cho lăo rất lớn. Lăo linh thiêng, nên dân chúng cúng quải ngày sóc, ngày vọng tấp nập. C̣n mười đệ tử của lăo hiện nay ra sao?
- Không ai biết rơ mặt mũi họ, nhưng việc làm của họ th́ ai cũng biết. Họ được phong trưởng lăo trong hội đồng giáo vụ trung ương. Đại đệ tử tên Vũ Nhất-Trụ, vơ công cùng binh pháp vô địch. Nhị đệ tử tên Đặng Trường ẩn hiện không chừng. Tên này giết người không gớm tay. Tam đệ tử tên Lê Ba, hành tung cực kỳ bí mật. Kế tiếp Nguyễn Chí, Phạm Trạch, Phạm Hổ, Đỗ Xích-Thập, Lê Đức, Hoàng Liên, Hoàng Văn. Tất cả hiện ẩn danh. Có tin nói rằng đám trưởng lăo Hồng-thiết giáo không phải ai đâu xa lạ, mà chính là những đại tôn sư vơ học.
Thanh-Mai thấy viên Đô-thống không biết ǵ thêm, nàng xua tay:
- Bây giờ chúng ta trở lại vụ núi Dục-thúy.
Bảo-Ḥa chỉ vào con đường mật trên bản đồ:
- Bây giờ chúng ta lên đỉnh núi Dục-thúy cứu bọn họ Chu và cấp thuốc cho bọn Hồng-Hương. Không biết ai nên đi ?
Thanh-Mai đưa mắt nh́n Bảo-Ḥa:
- Ở đây chưởng lực của Thiệu-Thái dư sức thắng Nguyên-Hạnh. Tuy nhiên đối với Nguyên-Hạnh th́ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái chết rồi. Hai người không đi được. Chỉ c̣n tôi với Bảo-Ḥa mà thôi. Ngặt v́ chúng tôi khó thắng được độc chưởng của Nguyên-Hạnh. Làm thế nào bây giờ ?
Mỹ-Linh mỉm cười:
- Thế th́ ta đem Nguyên-Hạnh đi chỗ khác. Bây giờ An-phủ sứ cho người lên núi Dục-thúy thỉnh Nguyên-Hạnh tới đây thuyết pháp, rồi dâng cơm chay. Trong khi đó Bảo-Ḥa với Thanh-Mai ra tay.
Tôn Trung-Luận gật đầu:
- Nguyên-Hạnh là tên thầy chùa ăn thịt chó, nhưng mặt nạ c̣n nguyên. Chúng ta cứ để cho y đội lốt tăng sĩ, rồi tính sau. Ty chức xin thảo thư mời y.
Đỗ Lệ-Thanh trao cho Bảo-Ḥa một b́nh thuốc, dặn ḍ cách xử dụng. Thanh-Mai với Bảo-Ḥa chờ trời tối lên đường. Hai người hướng bờ sông mà đi.
Tới bờ sông, đă thấy con đ̣ chờ sẵn. Thanh-Mai mừng thầm, v́ Khu-mật-viện Trường-yên bố trí phương tiện cho ḿnh. Trên con đ̣ nhỏ, mui cong, một cô gái xinh xinh đang ngồi bên tay lái. Cô thấy hai người, đon đả chào:
- Xin mời hai cô nương xuống đ̣ dọc sông ngắm cảnh ?
Thuận Thiên Di Sử Hồi 2 :Côi -Sơn Đại Hiệp
Thuận Thiên Di Sử
Hồi 2
Côi -Sơn Đại Hiệp
Từ Trường-yên đến Thiên-trường không xa. Con đường này Thanh-Mai đă đi nhiều lần. Nàng thuộc làu tên từng thôn, rừng xóm sắp đi qua. Mỗi thôn, mỗi xóm đều có di tích, nàng thuật truyện cho mọi người nghe. Khi thấy xa xa một xóm làng, với nhiều ngôi nhà ngói đỏ, nổi bật lên trên những tùm cây xanh ngắt, nàng chỉ tay hỏi Mỹ-Linh: - Chúng ta sắp qua địa phận xă Thanh-liêm. Trong xă có một di tích thời Lĩnh-nam. Đố Mỹ-Linh biết di tích đó là di tích ǵ ?
Mỹ-Linh lắc đầu:
- Sư tỷ nói tổng quát quá, làm sao em đóan ra. Xin sư tỷ “hé” cho chút ánh sáng nữa, họa may.
- Trong xă có đền thờ một danh tướng thời vua Bà.
Thường-Kiệt cỡi một con ngựa chiến lớn, nó luôn đi cạnh Thanh-Mai. Nó hỏi:
- Cô cho con đoán được không ?
Trước đây Thường-Kiệt gọi Thanh-Mai bằng sư thúc. Từ hôm đi cùng với nó từ Thanh-hóa ra, Thanh-Mai cho phép nó gọi bằng cô hầu thêm thân mật. Thanh-Mai gât đầu:
- Con thử đoán xem có đúng không ?
- Con nghe mẹ nói, vùng Thiên-trường sinh ra ba nữ tướng thời vua Bà. Một là công chúa Gia-hưng Trần Quốc. Hai là công chúa Tử-Vân. Ba là bà Chu Tái-Kênh. Chắc trong xă Thanh-liêm có đền thờ một trong ba vị đó.
Thanh-Mai thấy Thường-Kiệt lư luận, nàng gật đầu vui mừng:
- Con đoán gần đúng. Trong xă có đền thờ bà Thánh-Thiên.
Thiệu-Thái hỏi:
- Thánh-Thiên giữ chức ǵ trong triều đ́nh Lĩnh-Nam ?
Thanh-Mai thuật:
- Bà là người bác học đa năng vào bậc nhất thời bấy giờ. Công đức đối với đất nước chỉ thua có vua Trưng mà thôi. Hồi c̣n niên thiếu bà theo cậu là Nam-thành vương Trần Minh-Công khởi binh ở Kư-hợp. Trong gần mười năm làm cho Tích Quang, Tô Định ăn không ngon, ngủ không yên.
Thường-Kiệt hỏi:
- Thế vơ công bà hẳn cao thâm không biết đâu mà lường.
Thanh-Mai lắc đầu:
- Trái lại, vơ công bà rất b́nh thường, gần như chỉ đủ để tự vệ mà thôi. Tính t́nh bà cẩn trọng điềm đạm. Gặp việc gấp, nguy biến, bà vẫn thản nhiên. Khi bà tuẫn quốc, vua Trưng phán: "Thánh-Thiên sống thản nhiên, hành sự cẩn mẫn, nói ít làm nhiều, nhưng mưu trí trùm hoàn vũ". Ngay đối với giặc, bà cũng nói năng ôn tồn. Bà được phong làm B́nh-ngô đại tướng quân, giữ nhiệm vụ tổng trấn vùng Nam-hải.
Bảo-Ḥa gật đầu:
- Nhiệm vụ bà quan trọng thực, như vậy bà tổng trấn vùng biên giới Hán, Việt, giống như mạ mạ bây giờ.
Thanh-Mai tiếp:
- Bà đánh nhiều trận khét tiếng như Thường-sơn, Nam-hải, Phụng-hoàng. Bà để lại bộ Dụng binh yếu chỉ mà bọn Tống cử hàng chục đ̣an sang t́m kiếm.
Chợt nghĩ ra điều ǵ, Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
- Nhập gia vấn húy! Chị Thanh-Mai cho bọn này biết tên húy trong nhà chị, để c̣n kiêng chứ?
Thanh-Mai lắc đầu:
- Các vị yên tâm. Bố tôi vốn tính ngang quá ghẹ. Thành ra ông xoá bỏ tất cả những ǵ ông coi là rởm. V́ vậy các vị tới trang tôi, đừng ngạc nhiên, khi người không cấm con cháu kiêng húy. Cho đến tên Hoàng-đế người cũng không kiêng.
Đỗ Lệ-Thanh hỏi nhỏ Thanh-Mai:
- Trần cô nương. Tiểu tỳ tuyệt không nghe cô nương nhắc đến chủ mẫu là tại sao vậy?
Thanh-Mai cau mày, tỏ vẻ suy nghĩ, rồi thở dài:
- Đỗ phu nhân hỏi thực phải. Tôi phải tường thuật chi tiết những ǵ không hay trong gia đ́nh tôi cho quư vị hiểu rơ mới được. Thân mẫu tôi bị trúng Chu-sa độc chưởng chết đă hơn năm năm. Sau khi mẫu thân tôi qua đời ba năm, phụ thân tôi tục huyền với một người con gái lớn tuổi. V́ bố tôi nghĩ rằng với người lớn tuổi như vậy, dễ dàng cho chúng tôi xưng hô.
- Bấy giờ bà ấy bao nhiêu tuổi rồi?
- Ba mươi bẩy. Mọi người cùng bật lên tiếng ồ. V́ thời bấy giờ, gái mười ba, trai mười sáu, cha mẹ bắt đầu dựng vợ gả chồng cho. Thảng hoặc như trường hợp Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, tuổi mười tám chưa gả chồng, đă thuộc ngoại lệ rồi. Đây nghe nói tới người con gái ba mươi bẩy tuổi, khiến ai cũng phải giật ḿnh.
Thiệu-Thái lắc đầu:
- Chắc bà ấy chắc phải thuộc loại vơ công cao cường, văn chương quán thế. Hoặc giả nhan sắc khuynh quốc?
- Bà ta cùng họ với tôi. Nhũ danh Phương...
Thanh-Mai thuật đến đó, th́ đoàn người ngựa cũng vừa tới ngôi đền thờ Thánh-Thiên. Đền không lớn lắm, rộng, dài khoảng ba chục bước. Trước đền có tượng hai con ngựa bằng đất đắp. Góc sân phía trước, dựng đứng lên hai cây đề cao như muốn chọc mây. Gió thổi vào lá đề thành những tiếng reo như một bản nhạc liên miên bất tận.
Bảo-Ḥa g̣ ngựa lại nói:
- Chúng ta vào đền lễ bà đi!
Đoàn người ngựa dừng lại. Trong sân đền có đám trẻ con đang chơi đùa. Chúng thấy người lạ cỡi ngựa, lưng đeo kiếm, biết rằng khách phương xa văng cảnh. Chúng tránh sang một bên, nhường lối cho khách. Ông từ giữ đền thấy có khách đến vội chạy ra chào. Ông lễ phép hỏi:
- Chẳng hay quư khách từ đâu đến lễ bà ?
Thanh-Mai đáp:
- Chúng tôi ở bên Thiên-trường qua. Ông từ ơi, có nhiều người đến lễ bà không ?
- Thưa cô nương ngày thường th́ vắng lắm. Nhưng mồng một, ngày rằm đông vô cùng. Những ngày đó, hội đền cử thêm nhiều người giúp, chứ ḿnh tôi, lo không xuể.
Trước đền, có đôi câu đối khắc trên cột gỗ. Thanh-Mai ngơ ngác hỏi Mỹ-Linh:
- Sư muội, chữ ǵ chị đọc không được.
Mỹ-Linh lẩm nhẩm một lát rồi bật cười:
- Chữ Khoa-đẩu. Để em đọc đôi câu đối cho chị nghe. Thực hào kiệt, thực anh hùng, những khi giúp đỡ vua Trưng, mặt nước sông Thương gươm báu trăng lồng c̣n lấp lánh. C̣n bâng khuâng, c̣n phảng phất, sau lúc đuổi tan giặc Hán cành hoa bến Ngọc, ṿng tay thơm nức vẫn c̣n đây.
Mỹ-Linh nh́n lên thấy mặt trời gần đứng bóng. Nàng móc trong bọc ra một xâu tiền đưa cho ông từ:
- Phiền ông mua dùm chúng tôi hoa quả, cùng gà, gạo làm cơm cúng bà.
Ông từ vui vẻ:
- Mời quư khách vào trong ngồi chơi uống trà. Tôi sai mẹ nó đi liền. Chợ gần đây thôi.
Phía sau đền có cái hồ sen. Sen vào thu, hoa đă tàn, chỉ c̣n những bọng với lá. Bảo-Ḥa nói:
- Chúng ta ra ao rửa mặt rồi vào lễ. Bằng không bà mắng là bọn con cháu ở dơ, mặt mũi ghớm nhờn.
Ông từ đi trước dẫn đường. Ông mở cửa đền, đánh lửa đốt lên nến. Ánh nến lung linh chiếu vào những đỉnh hương, bát hương bằng đồng lóng lánh. Ông kéo màn trước bàn thờ. Phía sau màn, một ngôi tượng bằng đồng theo tư thức đứng, hông đeo bảo kiếm, tay trái giữ đốc kiếm. Tay phải chỉ về trước. Gương mặt đầy vẻ cương quyết.
Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:
- Sư tỷ này. Em nghe nói dáng người bà ẻo lả, tính t́nh hiền hậu, nhưng khi ra lệnh lại quyết liệt vô cùng. Tượng này chắc đúc theo truyền thuyết ấy.
- Đúng. Bà vốn người ôn nhu văn nhă, thông kim bác cổ, chỉ thua có công chúa Phùng Vĩnh-Hoa mà thôi.
Bảo-Ḥa đứng ngắm pho tượng, ḷng nàng đầy xao xuyến nói với Thiệu-Thái:
- Người xưa anh hùng như thế. Tuy bà sống cách đây ngh́n năm, mà anh khí vẫn c̣n phảng phất. Ḿnh là con cháu phải làm thế nào nối tiếp sự nghiệp đó, đừng để mất đi cái hào khí dân tộc.
Ông từ gióng chuông. Thanh-Mai nói:
- Bây giờ ai lễ trước, ai lễ sau?
Ông từ nói:
- Theo Khâm định điển lệ của đức Ḥang-đế ban hành th́ nam lễ trước, nữ lễ sau. Lớn tuỗi lễ trước, nhỏ tuổi lễ sau. Nhưng phép vua thua lệ làng. Trong đền này thuộc lănh địa thời vua Trưng. Nếu áp dụng luật Lĩnh-Nam, trai, gái như nhau. Lớn tuổi lễ trước, nhỏ tuổi lễ sau.
Ngô Tuấn nói với Thanh-Mai: