Mother's Day - Ngày Lễ Dành Cho MẸ 5/08/2011
[COLOR="blue"]Ngày Hiền Mẫu (Tiếng Anh: Mother's Day) cận đại được khởi xướng bởi bà Anna Marie Jarvis tại thành phố Grafton, tiểu bang West Virgina, Hoa Kỳ, để tôn vinh những người mẹ hiền (đặc biệt là trong khung cảnh của mái ấm gia đ́nh).
Theo truyền thống của Hoa Kỳ và đa số các quốc gia trên thế giới, Ngày Hiền Mẫu được tổ chức hằng năm vào ngày Chủ Nhật thứ nh́ của tháng 5.
Một số nước khác cũng những ngày lễ tương tự được tổ chức vào các ngày khác trong năm.
Lịch Sử và Nguồn Gốc Ngày Hiền Mẫu
Thời Hy Lạp cổ đại, lễ hội tôn vinh nữ thần Cybelle, mẹ của tất cả các vị thần Hy Lạp, được tổ chức vào thời điểm Xuân Phân (khi mặt trời ở gần xích đạo nhất).
Trong khi đó tại La Mă cổ đại, người ta ăn mừng lễ hội Matronialia để tôn vinh nữ thần Juno, nữ hoàng của các vị thần La Mă, vợ của thần Jupiter. Theo phong tục, các người mẹ tại La Mă cũng được tặng quà trong ngày này.
Tại Châu Âu, nhiều quốc gia có tục lệ để dành riêng một ngày Chủ Nhật trong năm để tôn vinh những người mẹ hiền, điển h́nh là ngày Mothering Sunday tại những nước có đông giáo dân của các chi nhánh Thiên Chúa Giáo như Vương Quốc Anh.
Lễ Mothering Sunday được tổ chức vào Chủ Nhật thứ tư vào Mùa Chay, cũng là để tôn vinh Đức Mẹ.
Tại một số quốc gia mà Ngày Hiều Mẫu chưa được phổ biến, người ta cũng dùng Ngày Quốc tế Phụ nữ vào tháng 8 tháng 3 để tôn vinh những người mẹ.
Bản Tuyên Ngôn Ngày Hiền Mẫu ("The Mother's Day Proclamation") của bà Julia Ward Howe là một trong những lời kêu gọi đầu tiên để tôn vinh các người mẹ tại Hoa Kỳ.
Được viết vào năm 1870, bản tuyên ngôn này là sự phản ứng ôn ḥa đối với sự tàn phá của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ cũng như là cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ.
Bản tuyên ngôn này dựa trên nền tảng của chủ nghĩa nữ quyền, với ư tưởng người phụ nữ cũng có trách nhiệm uốn nắn xă hội trên con đường chính trị. Julia Ward Howe có ư định thành lập một ngày lễ mang tên "Ngày Hiền Mẫu v́ Ḥa B́nh" (Mother's Day for Peace), nhưng phong trào này dần lụi tàn v́ không đủ kinh phí.
Tuy nhiên, ư tưởng của bà Howe đă gây ảnh hưởng lớn đến không ít phụ nữ trong xă hội, điển h́nh là bà Ann Maria Reeves Jarvis, nữ giáo viên tại trường học của ngôi thánh đường mang tên Thánh Andrew tại thành phố Grafton, tiểu bang West Virginia.
Trong bối cảnh Nội chiến Hoa Kỳ, Bà Ann Maria Reeves Jarvis tập hợp các phụ nữ khác với sứ mệnh chăm sóc cho các thương binh từ cả hai miền Nam Bắc.
Sau khi cuộc chiến chấm dứt, bà khởi xướng phong trào mang tên Ngày Các Hiền Mẫu Làm Việc (Mothers' Work Days) vào năm 1858 cùng với các bà mẹ của các chiến binh từ cả hai miền để nhấn mạnh các hoạt động xă hội v́ ḥa b́nh. Ann Maria Reeves Jarvis qua đời tại thành phố Philadelphia vào năm 1905.
Tại ngôi mộ của mẹ ḿnh, cô con gái Anna Marie Jarvis thề rằng sẽ nối gót theo chân mẹ và thành lập một ngày lễ dành riêng cho các người hiền mẫu, c̣n sống cũng như đă qua đời.
Hai năm sau đó, cô Anna Marie Jarvis mang 500 đóa hoa Cẩm chướng đến tặng cho từng người mẹ tham dự thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Andrew, nơi mà mẹ cô từng dạy học khi xưa.
Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, năm 1905, Nhà thờ Thánh Andrew lần đầu tiên tổ chức một thánh lễ ngày Chủ Nhật đặc biệt để vinh danh các người hiền mẫu trong cộng đoàn.
Cô Anna Marie tiếp tục tranh đấu không ngừng để quảng bá ngày lễ này khắp nơi.
Đến năm 1909, thánh lễ vinh danh người hiều mẫu đă lan rộng đến 46 tiểu bang, cũng như là đến hai quốc gia láng giềng của Hoa Kỳ là Canada và Mexico.
Ngày Hiền Mẫu Trên Thế Giới
Tuy Ngày Hiền Mẫu được tổ chức vào rất nhiều ngày khác nhau trên thế giới, hai ngày phổ biến nhất là ngày Chủ Nhật thứ nh́ của tháng 5 theo truyền thống Mother's Day của Hoa Kỳ, tiếp theo là ngày Chủ Nhật thứ tư của Mùa Chay theo truyền thống Mothering Sunday của Vương Quốc Anh.
Danh sách các quốc gia có truyền thống tổ chức ngày Hiền Mẫu vào Chủ Nhật thứ nh́ trong tháng 5
theo reader's digest
[/color]
[IMG]http://img32.imageshack.us/img32/5067/sdayc.png[/IMG]
Người Mẹ Của Biên Giới Sống và Chết
[COLOR="blue"][SIZE="4"][FONT="Arial"] Năm 2000 tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California.
Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nh́n, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn t́m từ lâu.
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 - 1995, tôi gặp ông ở đấy.
Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm.
Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng, bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos.
Ngày ấy, 1 US dollar được 25 pesos tiền Philippine. Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực.
Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ sách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh.
Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.
Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy.
Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.
Sau nhiều ngày băo táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này.
Ông ta chỉ đồng ư tiếp tế gạo, cho nước, và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày.
Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ
Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vă biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan.
Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong.
Đau thương v́ mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu?
Vợ chồng mỗi người một ngả. Đứa con mất tích sẽ ra sao. Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đă nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi.
Theo ông kể lại, v́ không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ.
Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.
Một trong những ư định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi t́m gặp ông ta để hỏi chuyện.
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hăi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số c̣n lại kết hợp với ít người đă trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe t́m đường qua Hongkong
. Người đàn ông tưởng chừng vợ đă chết trên biển v́ hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút ch́ từ trại tỵ nạn Hongkong.
Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút ch́ mờ cho tôi.
Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ c̣n giữ tấm giấy như một kỷ niệm quư hơn chục năm nay.
Đó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong thánh lễ về t́nh nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc ḍ hỏi tin con.
Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước?
T́nh trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba.
Đất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu t́m?Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt.
Tôi thấy ư nghĩ mơ ước đi t́m con của ông như cây kim lặng lờ ch́m xuống ḷng đại dương.
- Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Đỏ Hongkong?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đ́nh Tầu kia biết tin sẽ trốn mất.
Chi bằng cứ âm thầm t́m kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá.
Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo.
Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ ǵ có thể.
Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.
[/FONT][/SIZE][/COLOR]