Tâm Tư hay là Khoa Siêu Lư của Viễn Đông.
[quote=nguyentrongsuu][B]"Đạo Từ Tâm Mà Ra"[/B] và "đều quan trọng là [B]tâm trong mổi người[/B] phải luôn hướng về sự trung thành (ở đây chỉ về sự trung thành thiên thượng với chân lư với những điều tốt đẹp ).[/quote]
Vậy Tâm là ǵ ? Tâm ở đâu ? Có thật là tâm ở trong mỗi người như bạn nguyentrongsuu đă cắt nghĩa theo chương 3:9-13 Sáng Thế Kư của Kinh Thánh ? Nên nếu bạn muốn t́m hiểu Tâm là ǵ và ở đâu, th́ bạn ráng chịu khó đọc tác phẩm "Tâm Tư" của triết gia Kim-Định mà tôi sẽ lần lượt trích đăng từ từ ở đây.
[B]TỰA [/B]
Đă một dạo chúng ta quen nói rằng Viễn Đông không có khoa danh lư. Đó là câu nói chỉ thật có lớp ngoài mà sai lớp trong.
Nh́n bao trùm đường vận hành của tư tưởng nhân loại chúng ta có thể phân ra ba lối suy luận. Lối thứ nhất là có danh lư của triết học Tây Âu, xây trên những lư lẽ rút ra từ sự kiện hay những ư niệm của sự vật. Lối thứ hai của triết lư Ấn Độ gọi là vô lư hay phản lư : tuyệt đối quay lưng lại với lư lẽ suy luận.
Viễn Đông không hữu lư hay phản lư nhưng là hàm lư, nghĩa là lư luận chỉ đóng một vai tṛ tương đối và nằm khuất trong t́nh cảm, làm nên một lối lư luận riêng biệt vận chuyển qua ba đợt lư, t́nh, chí. Tận cùng của lư là lư luận biện chứng. Tận cùng của t́nh là cảm nghiệm, là nghệ thuật. [B]Tận cùng của chí là thể nghiệm, là ngộ đạo, tức nhận thức ra chiều kích vũ trụ nơi ḿnh.[/B] Ta gọi đó là An tư hay [B]Tâm tư[/B].
Khoa An tư hay Tâm tư nhằm giúp vào việc nhận thức ra và đáp ứng nhu yếu có tính cách vũ trụ của [B]con người đại ngă Tâm linh[/B], sự nhận thức đó cũng gọi được là Ư thức vũ trụ hay là [I]"thiên địa chi tâm"[/I]. Người thường mới có thiên địa chi ư, chi tưởng, nhưng chưa có "thiên địa chi tâm". Để có được [I]"vũ trụ chi tâm"[/I] th́ cần rút bớt nghị lực ra khỏi ư, khỏi tưởng, khỏi tướng đặng đầu tư vào việc hàm súc tinh luyện những mối t́nh vi tế [B]cho tới khi nào thể nghiệm qua thân tâm rằng ḿnh với vũ trụ cùng rung theo một tiết nhịp[/B], lúc ấy mới trúng là [I]"thiên địa chi tâm"[/I] (dialectique cosmo-psycho-somatique) được tŕnh bày trong quyển này qua một hai lối hành xử, dăm ba câu nói, một hai bài thơ. Những câu nói cũng như những bài thơ đó khi đứng riêng lẻ th́ không có ǵ gọi được là lư luận cả, nhưng lúc đặt vào mạch lạc của cái toàn thể trong nền Minh triết Viễn Đông bằng cách phân tích và xếp đặt cho câu nọ liên hệ với câu kia th́ lại làm tỏa ra một nguồn sáng lung linh và uyển chuyển vận hành theo tiết nhịp không c̣n phải là mạch lạc của danh lư, sự lư, luận lư, [I]nhưng là thuận theo [B]"tính mệnh chi lư"[/B][/I]. Nói khác đó là cái lư luận không luận lư mà vẫn có luận lư, không suy tư mà vẫn có suy tư, một nền suy tư phồng lên bằng cả tầm vóc vũ trụ và tạm gọi là TÂM TƯ. Sau đây là mấy ư tưởng hướng dẫn vào Tâm Tư.
Tâm tư nối tiếp hai quyển Nhân Bản và Chữ Thời bằng đặt giữa hai quyển trên một mối liên hệ sống động. Nếu Nhân Bản dẫn tới con người toàn diện, th́ Chữ Thời dẫn tới "vũ trụ chi tâm". Quyển Tâm Tư sẽ đặt phương tŕnh : [B]"vũ trụ chi tâm" = "nhân bản toàn diện"[/B]. Nói khác muốn có cái tâm bao la như vũ trụ ([B]đă là tâm chân thực bao giờ cũng to bằng vũ trụ[/B]) th́ cần con người phải sống toàn diện, phát huy mọi khả năng trong con người. Khi mọi khả năng được tài bồi vun tưới để nảy nở đều đặn, [B]để tất cả vươn lên tới chỗ chí cực[/B], không năng lực nào lấn át năng lực kia khác, [U]th́ lúc ấy liền nhận thức ra sự vật nào cũng nằm trong thế tương liên với Toàn thể[/U]. Nói gọn lại th́ [B]Tâm chính là Toàn thể[/B].
[B]Có Tâm là khi Toàn thể tham dự : khi ta xem, nghe, nghĩ mà toàn thể thân tâm xem, nghe, nghĩ, chí cực th́ đấy là Tâm Tư.[/B]
Đó là một phương tŕnh rất phong phú có khả năng bơm sinh động vào cho mọi ư niệm trừu tượng. Và làm cho cái biết hàng ngang của luận lư trở thành [B]"chu tri"[/B] là cái biết tṛn đầy, biết "ṿng tṛn" theo Tam tài. Vậy cái biết tri kiến hay lư trí mới là cái biết nhị nguyên hàng ngang : có Đông có Tây, có trước có sau, thiếu hai điểm nửa để làm ra tṛng tức [B]t́nh thâm vi tế và triêu văn đạo. Với hai yếu tố mới này làm như hàng dọc thêm vào cái biết luận lư hàng ngang mỗi lần đi lên một đợt là biến đổi tâm thức, biến đổi cái nh́n và lần cuối biến đổi trọn vẹn để làm thành một cái biết rất sâu xa thấm thía gây an vui thư thái [COLOR="red"]khác hẳn với cái biết lưu tục dù của suy luận hay khoa học cũng không bằng.[/COLOR] [/B]
Kim-Định
I. KHỞI BẤT NHĨ TƯ THẤT THỊ VIỄN NHI
[B]1. Nh́n tổng quát [/B]
[I][B]Đường Lệ chi Hoa, thiên kỳ phản nhi.
Khởi bất nhĩ tư ? Thất thị viễn nhi !
Tử viết : vị chi tư dă ?
Phù hà viễn chi hữu ?[/B][/I]
唐 棣 之 華, 偏 其 反 而.
豈 不 爾 思? 室 是 遠 而!
子 曰: 未 之 思 也?
夫 何 遠 之 有? (L.IX.29)
Đây là một trong những câu rất dễ bị đọc trượt qua, v́ coi như không có ǵ. Nhưng chính cái bề ngoài "như không có ǵ đó" lại hàm chứa một nội dung rất phong phú, v́ cái "ư tại ngôn ngoại !" Đấy mới là chỗ rắc rối trêu ngươi. Sao lại cứ [I][B]"vô ngôn ẩn ngữ"[/B][/I]? Thưa, v́ Đạo là cái chi rất vi tế kín nhiệm không thể dùng lời nói thẳng ra được. Cần phải cảm nghiệm, thể nghiệm có nên nói hết ra người nghe tưởng là liền hiểu mà kỳ thực chưa liền hiểu [B]tức mới hiểu bằng lư trí mà chưa cảm nghiệm bằng tâm t́nh và thể nghiệm bằng siêu thức.[/B] V́ thế các bậc thầy hay dùng lối nói úp mở để nhử mồi, để thúc đẩy môn đệ lên đường nghĩa là người học Đạo phải đưa vào sự chăm chú tŕu mến v́ "ai có tai mới hiểu được".
Nhưng ai chẳng có tai?
"Vúc vách cũng c̣n có tai", huống chi người. Ngày xưa một dạo người có "tám tai" nhưng cũng không v́ thế mà lưu lại tiếng khôn hơn.
Vậy th́ tai đây phải hiểu là Tâm tai, hay [B]"nhĩ nhuận"[/B] tức là [B]"nhĩ nhập tâm"[/B] mới có thể [I][B]"thính ư vô thanh"[/B][/I]. Tai đó mới nghe lọt những điều [B]"duy tinh duy nhất"[/B] vượt khả năng tai mắt thường, và môn Đạo cần khởi đầu tự chỗ tế vi đó. Nếu không sẽ lạc xa nhà rồi nỏ mồm kêu : "nhà xa quá ta", [I]thất thị viễn nhi[/I] ! Nhưng thực ra có xa chi đâu. [B][I]"Phù! Hà viễn chi hữu"[/I][/B]. Không xa nhưng phải biết đường [B]"nhập ư thất"[/B]. Có bao nhiêu đường? [U]Triết học Tây Âu đi đường lư luận, biện chứng,[/U] triết lư Ấn Độ thiên mạnh về lối phủ nhận và mặc niệm. [B]Triết Nho đi Đường lệ chi hoa mà ta gọi là Tâm tư[/B] và sẽ là đề tài suy luận trong niên khóa này.
Chương đầu chúng ta dành để nh́n qua các lối luận lư, biện chứng, tân luận lư của triết học Tây Âu.
Điều đáng ngạc nhiên hơn hết là triết học Tây Âu phong phú hơn hết v́ các khoa danh lư, luận lư đến độ làm cho các đàn anh chúng ta (Hồ Thích là đại diện) phải mang nặng mặc cảm tự ti, thế mà hiện nay chúng ta mở quyển "Thế nào là suy tư" của Heidegger lại đọc thấy câu này : [I]"Điều đáng cho chúng ta suy tư hơn hết là chúng ta chưa có suy tư"[/I] (W.D.22). Và Heidegger đưa ra lư do là tại con người chưa biết "ở đời". V́ "ở đời" là phải ở sao cho hợp với nét căn bổn của tiềm thể : " [I]mais habiter serait le trait fondamental de l'Etre en conformité duquel les mortels sont.[/I]" (V.A 192). Nhưng đấy là điều con người thời đại không làm nổi, không làm nổi v́ quan niệm về vũ trụ nhân sinh đă bị khập khiễng ngay từ trong căn bản. [I]"Không phải ở chỗ này hay chỗ kia, nhưng người thời đại đi cà nhắc từ trong yếu tính, một cách kỳ cục và đă từ lâu lắm. Những tổ chức trong phạm vi xă hội, việc tái vơ trang tinh thần, bụi rắc mắt của những hoạt động văn hóa, tất cả những thứ đó không sao đạt tới căn cơ. Mặc dầu đầy thiện chí, đầy cố gắng không ngừng nghỉ, tất cả những hoạt động trên chỉ là chi cành, vá víu từng ngày".[/I] (W.D.108).
T́nh trạng bi đát xui nên do sự quên mất chữ Phản, không biết theo [I][B]"Hoa Đường Lệ thiên kỳ phản nhi"[/B][/I] hóa trở thành lưu liên.
[I][B]Tùng lưu há nhi vong phản vị chi lưu
Tùng lưu thướng nhi vong phản vị chi liên[/B][/I]
從 流 下 而 忘 反 謂 之 流,
從 流 上 而 忘 反 謂 之 連 (Mạnh Ib.4)
Theo ḍng đi xuống quên trở lại gọi là lưu
Theo ḍng đi lên quên trở lại gọi là liên.
Cả hai đều là [B]vong bản[/B] quên gốc của ḿnh, trở thành [B]"du đăng"[/B] không nơi cư ngụ (heitmatlosigkeit = không nhà). Nói khác đi [B]thiếu nhà là tại vong thân, mà vong thân là tại thiếu suy tư. [/B]
Một điều kinh hoàng được Heidegger phát giác là con người chưa có suy tư : hay có suy tư nhưng một cách kỳ cục. [I]"L'homme a pensé mais d'une manière étrange."[/I] (V.A 155)
[I]"Vũ trụ trở nên hoang tàn v́ chẳng có một ai suy nghĩ trong tâm can". [/I](Kinh Thánh)
Tử viết : [I][B]"vị chi tư dă"[/B][/I], chưa có suy tư, bởi [B]suy tư chân thực phải là quy tư tức tưởng niệm Lời Vô Ngôn[/B] đầy tính các viên dung quán nhất. Cái tư đó c̣n thiếu. [I]"L'homme a trop agi et trop peu pensé depuis des siècles."[/I] [I]"Con người đă làm quá nhiều mà suy tư quá ít, măi từ bao thế kỷ đă như vậy"[/I]. Heidegger (W.D. 22)
[I]"La fréquentation de la Philosophie peut nous donner l'illusion tenace que nous pensons, puisque après tout sans relâche nous philosophons."[/I] [B]Ai cũng tưởng rằng hễ học triết lư là suy tư, đấy là một lối huyễn hoặc kinh niên.[/B] Và do lẽ đó hiện nay một khuynh hướng hạ bệ khoa danh lư đang được nhóm khởi lên bên triết Tây hiện đại. Nói đang nhóm khởi nghĩa ở là mấy tay anh chị tiền phong. C̣n trong các trường ốc, hàn lâm, thi cử th́ danh lư vẫn chễm chệ ngồi ghế danh dự. Nhưng đó chỉ là việc tất nhiên : [I][B]"tiên chiếm giả đắc"[/B][/I]. C̣n truyện danh lư có mang lại ơn ích chi cho triết lư chăng hay c̣n gây nên trở ngại là truyện cần phải xét.
Heidegger viết : [I]"khi lời Vô Ngôn phải uốn ḿnh trở thành một khí cụ, th́ đó là lúc danh lư ra đời khiến cho triết học gia chạy theo sự vật mà quên ḿnh, [B]theo những sự thực hiển nhiên của tai mắt mà quên mất nhân tính[/B]"[/I]. Heidegger kể lại lời Kant rằng : [I]"từ Aristote, danh lư đă không thể lùi lại một bước và đến nay nó cũng không thể tiến thêm bước nào, và như thế xem chiều nó đă bị bế mạc và xong hẳn"[/I]. Và ông thêm [I]"thực ra không phải xem ra như thế, mà chính là như thế rồi. Và mặc dù những cố gắng của Kant, của Hégel nhưng xét về yếu tính và uyên nguyên th́ đă không tiến thêm được, dù một bước. Nên bước duy nhất c̣n lại có thể làm được là hạ bệ nó xuống, hạ từ nền móng"[/I]. [I]"L'unique pas encore possible consiste à la détrôner et cela à partir de son fondement même."[/I] (F.211).
Ông viết tiếp "cứ sự lịch sử tư tưởng Tây Âu không khởi đầu suy tư điều đáng suy tư, nhưng lại để nó trong quên lăng. [B]Như thế là tư tưởng Tây Âu đă khởi đầu bằng một sự biếng trễ, nếu không phải chính là một sự sa đọa"[/B]. [I]"En fait l'histoire de la pensée Occidentale ne commence pas par ceci qu'elle pense ce que donne le plus à penser, mais par ceci qu'elle le laisse dans l'oubli. La pensée Occidentale commence donc par une négligence, sinon même par une défaillance."[/I] (W.D.154)
Bây giờ chúng ta thử đi sâu vào xem khoa luận lư đă sa đọa từ đâu.
[B]2. Tại sao Achille không đuổi kịp rùa? [/B]
Bởi v́ trước hết Achille phải tới chỗ mà rùa vừa bỏ đi, nên bao giờ rùa cũng chạy trước một quăng. Hoặc nói theo lư luận chia đôi (dichotomie) là nếu thời gian chia được ra vô cùng thời điểm th́ không thể có sự di động, v́ vật động thí dụ mũi tên trước khi tới đích điểm phải bay qua đoạn giữa, và trước khi qua được đoạn giữa th́ phải trải qua đoạn giữa của đoạn giữa, và cứ thế cho tới vô cùng tận. Cho nên tên bắn ra vẫn nằm bất động (Aristote Physica VI.9). Đại để đó là vài [B]mẫu thời danh của khoa lư chứng[/B] mà triết gia ZÉNON (sinh tại Elée Hy Lạp vào lối năm 4 tr.dl) đưa ra để chứng minh rằng dù có chủ trương vạn vật là đa tạp và thời gian có được chia cắt ra vô cùng tận th́ cũng vẫn không thể có sự di động (mouvement) và sự biệt cách (discontinu), [B]nên cũng vẫn là nhất bất động và liên tục[/B] (continu) y như chủ trương của Parménide mà Zénon bênh vực để chống lại chủ trương biến động của Héraclite.
Tuy những luận cứ Zénon đưa ra có tính cách ngụy tạo hầu như hữu ư, nhưng sẽ được các triết gia trải qua 25 thế kỷ đều phải chú tâm phân tích. Aristote xưng tụng Zénon đă có công đặt nền móng cho khoa luận lư, Platon cho đó là những "tṛ chơi nghiêm nghị": [I]"des jeux sérieux"[/I] (Parménide 128 A.D), Bergson cho là [I]nền tảng khoa siêu h́nh về xê dịch và biến động[/I] (la Pensée et le mouvant p.177). Xem thế đủ biết những lư luận đó đă bao trùm bầu trời triết Tây, ai đă học triết cũng từng nghe qua, [B]để rồi bị dắt vào mê hồn trận không thấy lối thoát[/B]. Do đó chúng ta thử đưa lên bàn mổ xẻ hầu t́m hiểu cái thực chất của nền luận lư trong triết học Tây phương.
Nền triết học này đă bận tâm từ lâu lắm về vấn đề biệt cách hay liên tục của thời gian, nói kiểu khác vạn vật là nhất (liên tục) hay là đa (biệt cách).
Chúng ta hăy xem lại vài trang sử của phái Pythagore (570-597 tr.dl) làm thí dụ. Phái này chủ trương vũ trụ có tính chất biệt cách và được mô tả bằng những số chẵn, v́ số chẵn vốn đi với những ư niệm biệt cách. Do đó số chẵn được áp dụng cho mọi khoa học, đặc biệt là toán học và âm nhạc, và tất cả các người trong môn phái ấy đều cho là sự thực duy nhất. Nhưng sau có người phát giác ra những số lẻ và không thể không coi chúng là những tương quan của hai số chẵn, chẳng hạn đường chéo của h́nh vuông mỗi bề 3 phân thí dụ, không phải là số chẵn 4 hay 5. nhưng là số lẻ 4242, thế mà số lẻ số chẵn vẫn ḥa hợp nhau v́ đường thẳng nào cũng có thể coi là đường chéo của một h́nh vuông, nên những số lẻ có thể coi như những trung gian để trám vào quăng cách biệt từ số chẵn này đến số chẵn nọ. Như thế th́ [U]vũ trụ có tính cách liên tục (continu) chứ không phải biệt cách [/U](discontinu), [U]nhất chứ không đa[/U] (un et non multiple).
Thế là toàn thể cơ sở Pythagore bị rung chuyển. Một người trong môn phái là Hippason c̣n vác đàn thất huyền đi hát rong để nói lên cho mọi người hay tính chất liên tục của vạn vật tức rao truyền cho mọi người biết sự sai lầm của môn phái ḿnh. Để bảo toàn học thuyết, anh em tu hội Pythagore phải thủ tiêu Hippason và phao tin là hắn đă bị quỷ bắt.
Tuy khai trừ được Hippason nhưng không khai trừ được khó khăn đă được Hippason nhận thức ra. Đến sau có người đưa ra định nghĩa điểm toán là phi khối lượng, cho nên trong bất cứ đoạn thẳng nào cũng có thể đặt vào đó vô số điểm nhờ đó vẫn bảo tồn được tính chất biệt cách của môn phái. Nhưng với lối giải đáp này th́ ư niệm biệt cách (đa tạp) tuy có đựơc duy tŕ nhưng đă trờ nên mờ nhạt. Và có thể nói là trường phái Pythagore với chủ trương biệt cách đă tắt thở trước những lư luận đuổi rùa và tên bay của Zénon. Nhất là từ khi Aristote (384-322 tr.dl) đưa ra thuyết liên tục mà lại có biến động th́ thuyết biệt cách của Pythagore không c̣n đất đứng.
Theo Aristote th́ vạn vật thành bởi đất, nước, khí, lửa là bốn tố chất khác nhau nên có sự biến động và biệt cách nhưng đồng thời bốn tố chất kia lại nằm trong khí Ether bất biến, nên sự vật cũng có tính chất liên tục (continu). [B]Đó là quan niệm sẽ thống trị triết học Âu Tây cho tới ngày nay mới bắt đầu sụp đổ.[/B] Nó sụp đổ v́ khí Ether ở cùng một b́nh diện hiện tượng y như bốn tố chất kia, nên không thể đem lại cho bốn tố chất kia một thể thái mới :[B] sự vật là biệt cách đa tạp th́ có đặt nó vào ḷng khí Ether, nó cũng vẫn c̣n là biệt cách đa tạp, vẫn là những cá thể riêng rẽ mà chưa ǵ nối kết chúng lại được thực sự, vẫn thiếu tính chất liên tục cơ thể (continu organique). [/B] Nói khác người ta tưởng triết học Aristote có lưỡng tính (liên tục và cách biệt) nhưng thực ra chỉ có một tính chất là cá biệt, phân li mà thôi.
Do đấy [B]phương pháp suy tư cũng chỉ có một chiều là lư trí phân tích, thiếu chiều tâm linh tổng hợp v́ để đạt tổng hợp th́ cần có Tâm.[/B] Vậy mà triết của Aristote [U]mới có trí th́ chỉ đạt tổng cộng chứ không thể nào đạt tổng hợp là cái đưa thêm ra chiều kích mới[/U] cho [B]nên phải kết luận rằng pháp Quy luận theo tam đoạn luận (syllogisme) chưa đuổi được rùa nghĩa là chưa đạt cái tri chân thực toàn triệt.[/B] [B][COLOR="red"]Bởi v́ khi đạt tri chân thực th́ Quy trở nên Linh Quy.[/COLOR][/B] Mà không cứ ǵ Quy, nhưng hết thảy vạn vật khi biết được [B][I]"bản lai diện mục"[/I][/B] cũng thấy [B]đều là vật linh nghĩa là thấy nó nằm trong mối liên hệ u linh với cái Toàn thể, nên có hai chiều là: đa và nhất.[/B]
[B]Triết học chưa thấy Linh quy v́ chưa thấu vào ṿng trong Tự thể như Nhiên[/B] (chose-en-soi) [U]mà vẫn c̣n vướng lại ṿng ngoài đối kháng nhị nguyên : chọn một bỏ một, nên chung cục chỉ là một chiều, độc khối.[/U] Tính chất một chiều đó và c̣n được biểu lộ hiển nhiên trong câu châm ngôn [I]"không có ǵ ở trong lư trí mà trước đă không ở trong các giác quan"[/I] (Nihil est in intellectu nisi prius fuerit in sensu).
Câu trên cho ta thấy giác quan tương đồng với lư trí : cả hai ở cùng một b́nh diện: "intellectu = sensu". [U]Đó là lư do v́ sao triết lư cổ điển bất lực trong sự vượt qua tầm giác quan tai mắt để đi đến ẩn tượng hay là sự vật tự thân[/U], cả không ngờ đến rằng có nữa. Măi cho tới Kant mới khám phá ra ngoài hiện tượng c̣n có sự vật tự thân (noumen).
Nếu ta phân biệt giữa [B]sự thật[/B] (le vrai) và [B]sự thực[/B] (le réel) th́ phải nói [U]triết học cổ điển chỉ biết có sự thật do lư trí kiến tạo bằng dữ kiện giác quan, mà không biết sự thực tự thân[/U] : [B]sự thực này khác hẳn với sự thật do trí óc ḿnh bày bịa ra rồi bắt nó phải tương hợp với sự thật như thế được định nghĩa là "sự tương hợp giữa lư trí và sự vật": " [I]"adoequatio rei et intellectus"[/I][/B]. Ngày nay người ta gọi là [B]chân lư đối vật (vérité-object) nghĩa là do lư trí tạo ra [COLOR="red"]mà không là Thực thể Chân như[/COLOR][/B], nó có sao th́ mở phơi ra như vậy, không bị bóp méo do những ư niệm, những phạm trù của lư trí.
Đấy là điều triết học cổ điển đă không nhận ra nên gọi là [B]triết lư một chiều[/B]. [U]Một chiều không phải là không có chiều khác là "siêu h́nh", nhưng v́ siêu h́nh được kiến tạo bằng các chất liệu trứ h́nh do giác quan thâu thập nên có siêu h́nh cũng kể là không, c̣n tệ hai hơn là khác, v́ nó ru ngủ tâm thức con người không nghĩ đến đi t́m siêu h́nh[/U]. Đă có rồi th́ t́m chi nữa. [B]Đó là điều tai hại gây ra do duy lư.[/B] Tác động chính của lư trí trong việc này là trừu tượng. [U]Trừu tượng là tác động của lư trí khi chọn lấy một hai khía cạnh của sự vật được giác quan thâu thập để kiến tạo ra "sự vật". Sự vật được kiến tạo này tất nhiên là sự vật sứt mẻ, bị cắt hoạn, bị cô lập hóa ra khỏi khung cảnh, ra khỏi môi trường t́nh tự của nó để dễ suy tư.[/U] Sự vật như thế [B]tất nhiên là sự vật khách quan ngoại tại[/B] mà triết học quen gọi là [B]lư niệm[/B] hay[B] đối tượng[/B]. [U]Dùng những ư niệm đó mà kiến tạo nên những hệ thống th́ hệ thống trở thành cái đối tượng ngáng đường đi đến chủ thể tức là Tính thể hay Thực tại tự thân.[/U] [B]Nói khác đi con người mất hết tự do : v́ mọi "chân lư" mọi phán đoán phải tương hợp với các định đề của hệ thống tư tưởng. Nghĩa là những ư nghĩ bé nhỏ ḿnh đă suy ra.[/B] Và như thế th́ dầu Achille có chạy mau đến đâu cũng không đuổi kịp rùa, lỗi không tại Achille, nhưng tại những định đề ràng buộc Achille. Tức là [U]không phải tại người thực sự thiếu khả năng đạt đến tính thể ḿnh, nhưng tại những tiền đề, định đề đă do người tự chọn lấy để trói buộc ḿnh v́ coi chúng như những sư thật bất khả di dịch cần phải tuân theo.[/U] Và [B]khi tuân theo những định đề ước định đó th́ không thể đạt sự thực nội tại là cái vô biên[/B] không theo định đề do lư trí con người đặt ra nên có hạn y như lư trí có hạn vậy.
Sự đặt ra hay lựa chọn định đề này rất thong dong mặc dù người ta không c̣n quyền thong dong để nói ngược lại với những định đề đă chấp nhận, thí dụ đă chọn định đề của h́nh học mặt phẳng th́ nhất định hai đường song song không bao giờ gặp nhau, cái đó bó buộc như thế, không thể nói khác. Nhưng chúng ta lại có thể không nhận những định đề h́nh học đường thẳng, và có quyền chọn những định đề thí dụ của h́nh học đường cong, th́ lúc ấy hai đường song song có thể gặp nhau ở một nơi nào đó. Như thế là con người có thong dong, nhưng nó ở tại chọn hệ thống định đề nào, [U]c̣n khi đă chọn một loại định đề rồi th́ không c̣n tự do đi ngược lại với định đề đă chấp nhận.[/U] Sự quan trọng là biết chọn loại h́nh để đă không ngáng bước mà c̣n giúp giải phóng tâm thức con người. Nhưng sự thong dong thay đổi định đề măi cho đến nay mới được ít người thông minh hé thấy và đă thi hành trong một số trường hợp lẻ tẻ : như các loại h́nh học, toán học, tân luận lư, [B]c̣n t́m cho ra loại định đề khai phóng con người toàn diện th́ chưa. [/B]
Sở dĩ con người không nhận ra sự thong dong đổi toàn bộ định đề là tại những cái ơn ích do các định đề đă chọn đưa lại cho, [B]như các công lư của toán học, h́nh học giúp cho thấy một hai khía cạnh của sự vật rồi ḿnh tưởng rằng đó là tất cả sự thực. Nhưng không phải thế mà đó chỉ là một hai khía cạnh của sự vật mà thôi.[/B] Thí dụ công thức [B]E=mc2[/B] đưa tới việc chế tạo bom nguyên tử th́ không có nghĩa là nó đúng với sự thực toàn thể, nhưng chỉ là đúng với một số liên hệ của sự vật như làm cho nổ. Nhưng làm cho nguyên tử nổ không là biết nguyên tử trong tự thân của nó, mà chỉ là biết dùng một hai khía cạnh của nó cho một hai điểm ích dụng nhỏ bé nào đó. Các định đề triết học hay công lư (axiomes) của toán, lư, hóa cũng chỉ là kiến tạo ra những phương tŕnh để làm việc, [U]để thiết lập nên một số lư thuyết có quán xuyến mà không cần có tương hợp với thực tại toàn diện[/U]. Nhưng đó là những chân lư mới chỉ được khám phá ra trong đầu thế kỷ này, c̣n dọc dài qua bao lâu trước, mọi định đề, mọi lư thuyết hễ có quán xuyến liền được coi như những sự thật toàn diện, những chân lư bất khả li, và không ai nghĩ đến thay đổi hết. Có thay đổi chăng là chỉ trong ṿng cho phép của những định đề đó mà thôi, cho nên hậu quả không thể khác trước, [B]nghĩa là không thể vượt phạm vi nhỏ bé hạn cục của lư trí để đạt tới cái toàn thể viên dung được.[/B] Sau đây chúng ta thử bàn qua tới biện chứng pháp của Hegel làm một thí dụ.
[B]3. Liếc nh́n biện chứng [/B]
Hégel có thể gọi được là một triết học gia rất xuất sắc nhưng chia trí : lúc đầu chủ trương 'động' theo Héraclite đến cuối lại chủ trương 'tĩnh' theo Parménide.
Quả thế, khởi đầu Hegel đă đưa ra nhận xét chân xác về danh lư bị ứ đọng v́ nó là danh lư của những vật cố thể (logique des solides) nên bất động [B]và không đủ khả năng nhận định được thực tại vốn uyển chuyển linh động do [COLOR="red"]yếu tố mâu thuẫn nội tại[/COLOR] của sự vật.[/B] Chính mâu thuẫn nội đó mới là động cơ cho sức sống động, cho sự biến hóa. V́ thế Hégel đưa mâu thuẫn nội tại vào triết học để thế chân nguyên lư cấm mâu thuẫn. Nguyên lư cấm mâu thuẫn có tính cách triệt tam, nhưng cùng với đối lập nương nhau mà lớn mạnh, như câu của Héraclite : [I]"mâu thuẫn là cha đẻ ra mọi tiến bộ"[/I] (la contradiction est le père des progrès).
Do đó so với lư luận cổ điển th́ biện chứng Hégel khác khá nhiều, khác đến chỗ chống đối tiêu diệt luận lư. Nhưng xét đến cứu cánh th́ biện chứng cũng vẫn c̣n nằm trên một b́nh diện thường nghiệm. Không phải Hégel không nói đến b́nh diện khác như "tổng đề" chẳng hạn, [U]nhưng giống ở chỗ biện chứng làm bằng ư niệm, nghĩa là cùng một chất liệu với khoa luận lư, tức cũng dùng những sản phẩm của lư trí để trùm lên sự vật. [/U] [B]Sự vật chẳng bao giờ là đơn thuần, nhưng luôn luôn có lưỡng nghi tính: có lưỡng cực trong hết mọi đợt tiến tŕnh của nó, và [COLOR="red"]thực ra có lưỡng nghi nó mới diễn biến, mới là sự vật theo nghĩa căn cơ…[/COLOR][/B] Đấy là chân lư Truyền thống nhưng đă bị triết học cổ điển quên đi. Ngày nay được Hégel khám phá trở lại, nhưng v́ ông nh́n chưa sâu đủ nên thay v́ lưỡng cực ông lại gọi là mâu thuẫn nội tại. [U]Nhưng gọi là mâu thuẫn th́ không đúng v́ mâu thuẫn là vật đă thành h́nh tích khách quan cá biệt nên mâu chống thuẫn, thuẫn chống mâu, không thể khác được, và ai cũng nhận ra được chuyện đó, có cần chi phải là triết gia mới nh́n được.[/U] [B]Đem mâu thuẫn lên bậc nguyên lư là vô t́nh hạ triết lư xuống bằng tri thức thường nghiệm.[/B] Muốn chống hỏa tai phải dùng thần thủy, ai chả biết. Vậy chỉ nên coi đó như luật tắc cần theo trong thế giới hiện tượng khách quan, không được coi thường, nhưng cũng không được nâng lên bậc nguyên lư triết học. [U]Hégel không thấy sự phân biệt đó, nên đem nguyên lư chống mâu thuẫn vào triết là tổ gây nên lộn xộn.[/U] [B]Trong bản chất sự vật chỉ có lưỡng cực. Lưỡng cực thuộc số sinh, mâu thuẫn thuộc số thành.[/B] Nói khác lưỡng cực chỉ là hai hạn từ của một thể đồng: nóng và lạnh không khác nhau như hai vật biệt cách mà chỉ là hai đầu trên và dưới của một nhiệt trường. Những vật khác nhau, chống đối nhau giác quan ta thâu nhận được cũng chỉ là giới hạn cùng cực của một thể đồng vi tế vượt tầm tai mắt. [B]Nếu dùng có lư trí phân tích, lựa chọn th́ chỉ thấy có sự dị biệt, tương khắc mà không nh́n ra mối tương sinh, tương tức (corrélet) của hai hạn từ.[/B] V́ lư trí cũng như giác quan có hạn nên chỉ có thể thấy một vật trong một lúc mà không thể nh́n bao quát toàn thể và trong một trật. Thế [U]mà có nh́n được tổng quát mới nh́n ra được mối tương sinh tương tức. [/U]Vậy nói cấm mâu thuẫn, hay sự vật thành bởi mâu thuẫn nội tại là bởi [B]chưa phân biệt nổi lưỡng cực với mâu thuẫn[/B], chưa phân biệt v́ c̣n dính sát b́nh diện lư trí, chưa đạt b́nh diện tâm, hay tạm nói theo nay là Hégel [B]chưa biết tới tiềm thức. [/B]
[B]Biện chứng nhịp ba của Hégel chẳng qua là một thứ biến dịch tiền nghiệm do lư trí tạo tác ra rồi đem lồng lên sự vật cách giả tạo, nên sự biến dịch đó cũng [COLOR="red"]mang tính chất giả tạo[/COLOR], và không thoát khỏi cương vị danh lư.[/B] Ở Aristote, chữ "dialectique" có nghĩa là một lối lư luận cái nhiên, một lối suy tư bằng những lư lẽ đạc chừng (probable). Hégel đă muốn duy tŕ danh từ đó nhưng đưa vào một nội dung mới, nội dung hữu thể, nghĩa là thực sự vạn vật diễn biến theo nhịp ba. [B]Nhưng khảo sát lại mới thấy biện chứng đó không có chi hữu thực (ontologique) mà chỉ là giả tạo, do lư trí bày biện chứng lư.[/B] Điều đó người dịch sang tiếng Việt mặc dầu chưa biết (v́ nếu biết đâu c̣n hoan nghênh), nhưng cứ dịch là biện chứng, nên tôi nói là vô t́nh mà dịch đúng danh từ của Aristote, cũng như đúng với nội dung của Hegel, chữ không đúng với ư hướng Hégel, v́ ư hướng đó là muốn cho "dialectique" có nội dung hữu thực [B]mà trong thực thể th́ nó chỉ là một lối liệu biện chứng lư bên ngoài sự thực[/B], cho nên "dialectique" vẫn giữ bản chất và nội dung xưa của danh lư, [B]chưa biết chi tới tiềm thức, vô thức[/B]. Heidegger cũng nhận xét thế khi ông viết : [I]"On voit facilement que tout dialectique est logique dans son essence même si elle se développe comme dialectique de la conscience ou comme dialectique réalise et finalement comme dialectique que matérialiste"[/I] (W.D.159). "Người ta dễ nhận ra rằng tất cả [B]mọi thứ biện chứng vẫn là danh lư từ trong yếu tính[/B], mặc dầu được tŕnh bày như biện chứng của ư thức hay biện chứng của thực tại, hoặc cuối cùng như duy vật biện chứng".
Nói khác đi [B]danh lư không những chỉ có một danh hiệu và một kiểu sắp xếp ư niệm, nhưng có nhiều kiểu sắp xếp khác dưới nhăn hiệu khác mà trong đó có [U]danh hiệu biện chứng[/U].[/B] Tên tuy khác nhưng bản chất là một, [B]nghĩa là chưa rút chân ra khỏi ṿm trời duy lư[/B]. Vẫn c̣n "tout réel est rationnel" nên cũng mới chỉ là bản đồ vẽ cung trăng mà chưa là phi thuyền để lên cung Quảng. [B]Và vẫn sa đọa trong vong thân, tức là khoác lên cho ư niệm trừu tượng một danh từ mới [COLOR="red"]để nó dễ quay lại đàn áp con người như chủ trương chính quyền lấn át cá nhân của Hegel (étatisme)[/COLOR][/B]. [U]Chủ trương đó coi con người như cá vật không đủ túc lư tự thân, nên có thể hy sinh cho cuộc tiến hóa chung, quen gọi là bánh xe lịch sử mà chính quyền là tiêu biểu cụ thể.[/U] [B]Khỏi nói th́ ai cũng thấy ư hệ này được Mácxít tuân theo một cách thành khẩn. [/B]
Điều chứng tỏ tính chất danh lư ư niệm của biện chứng là [B]sự ứ đọng của nó.[/B] Hégel tin rằng ư hệ của ông sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử và quả đă được các triết học gia công nhận là một hệ thống đồ sộ nhất, nhiều người ví với núi Himalaya, và có người gọi ông là "Giáo sư trên hết các giáo sư" (professeur des professeurs) nghĩa là khó có thể kiến tạo một hệ thống đồ sộ hơn, và chỉ có tính cách trường ốc hơn, nghĩa là rất xa thực tại. [B]Bởi v́ cái tổng đề cuối cùng dù có tuyên xưng là Tinh thần cũng chỉ là do lư trí bày biện, không dẫn vào phổ biến trung thực. Biện chứng chính tông phải như là ngọn kim tự tháp, càng đi lên càng mở ra, càng tiến vào vô biên, càng không thấy chỗ ngừng nghỉ. Nho triết nói là "đại hóa lưu hành". Vậy nếu có ngừng th́ không phải là đích điểm, nhưng chính là ứ đọng của những cái lư lẽ do hạ trí bày biện để tŕnh bày tiên kiến tư riêng [U]dầu cho phải bóp méo thực tại[/U]. [/B]
Sự biến dịch đi theo lối hủy bỏ, duy tŕ, thăng hóa. Hégel dùng danh từ ‘Aufhebung’, hay động từ ‘Aufheben’ có cả ba nghĩa trên, nhưng trong thực tế th́ chỉ là hủy bỏ mà thôi (xem "La Phénoménologie de l'Esprit", bản dịch Pháp ngữ của Jean Hippolite tr.19). [B]Nói theo Kinh Dịch th́ Hégel mới biết có tương khắc mà chưa thấu đến tương sinh, tương ḥa.[/B] Heidegger viết : [I]"Ư niệm và phạm trù đă trở thành hai tiêu mục để xếp hạng các sản phẩm của tư duy, động tác và những thẩm định của Tây phương, tất cả ở đó. Đấy là một sự sa đọa : triết lư Hi Lạp đă không ngự trị trên Âu Châu được ở lúc nguyên sơ nhưng chỉ ở những lúc măn chạp vừa khởi đầu đă được đẩy lui đến chỗ hoàn thành cách đồ sộ và tất định nơi Hegel. Lịch sử nếu là chính tông th́ không tận cùng bằng ngừng lại, hay băng hoại kiểu con vật như thế, nhưng nó phải tới đích theo lối quy căn của sứ mệnh"[/I] (F.203). Nói khác đi, [B][COLOR="red"]dầu có đưa biện chứng vào thay danh lư cũng vẫn chưa có suy tư.[/COLOR][/B] [B][I]"Vị chi tư dă"[/I][/B]. Lư do tại đâu? Thưa, tại nhị nguyên thuyết.
[B]4. Bản chất Nhị nguyên [/B]
Bản chất đó là nhận một hạn từ và tuyên dương lên bậc độc hữu. Độc hữu có nghĩa là đẩy lui hạn từ kia. [B]Duy tâm của Hégel đẩy lui hạn từ duy vật của Karl Marx và ngược lại.[/B] Quan trọng không nằm trong chỗ đẩy lui, hủy diệt đối phương. [U]Như vậy là hạn từ được tuyết đối hóa và bị quan niệm như một đối tượng khách thể, ngoại tại, phân trương, nên cần phải chiếm một chỗ, càng quan niệm to bao nhiêu càng cần chiếm chỗ bấy nhiêu, và khi khuếch đại ra đến vô biên th́ cũng cần phải có một lô đất vô biên do đó phải đuổi nhà dành đất, nói vắn tắt là độc hữu[/U] (excusif).
[B]Độc hữu th́ không phải là Thần[/B], dầu có gán cho tên là Tinh thần, nhưng không thay đổi được bản chất. [B]V́ [I]"thần vô phương"[/I][/B]. Không cần nơi chốn, nhưng đâu đâu cũng "ở" được, cần chi phải hủy diệt để độc chiếm. [B]Cho nên hễ có đối tượng, đối thủ, là dấu chưa phải là Thần và chưa phải là cái vô cùng chân thực.[/B] Vô cùng chân thực không đâu là không ở, đến nỗi không c̣n ǵ khác phải bỏ, và không c̣n nơi nào để chứa cái bỏ ra. Nếu có chỗ để chứa, có vật bỏ được th́ lập tức đă đủ để hạn cục cái vô cùng. [U]Cho nên ngay một việc quan niệm có cái khác biệt bên ngoài cái vô cùng, cái tuyệt đối, là đă hạ cái tuyệt đối xuống hàng tương đối,[/U] nghĩa là đối với cái bị tuyệt đối bỏ ra v́ không hợp với tuyệt đối. Cũng bởi lẽ đó tuyệt đối không thể gọi tên, v́ bất cứ tên nào cũng bị giới hạn bởi tên đối lập hoặc đối kháng : sáng bị hạn chế bởi tối, lửa bởi nước, có bởi không… luôn luôn đi đôi như vậy. Và đó là biểu lộ của nhị nguyên thuyết.
[B]Đă là nhị nguyên th́ cả hai hạn chế nhau và cả hai đều có cùng,[/B] và không c̣n mối liên hệ căn bản liên kết nhau nữa, ngoài những liên hệ ngoại tại, nghĩa là như sự vật khách quan bên ngoài kiểu cơ khí máy móc, [B]mà không phải là kiểu cơ thể tự nội. Để được như vậy phải có cái nh́n Nhất thể.[/B] Nh́n như nhị nguyên th́ có thêm bất cứ cái chi như thần lực hay siêu ngă để nối kết hai bờ lại cũng vẫn là sự nối tự ngoại. Đó là nguyên lư phổ biến và chúng ta thử áp dụng vào con người thực sự để xem hậu quả.
[U]Khi đă nhận nguyên lư nhị nguyên, dầu một cách vô thức cũng vậy th́ mọi sự vật đều bị coi như những cái chi rời rạc, nên phải tuân theo định đề nhị nguyên, và theo đó con người chỉ c̣n có xác và hồn mà thiếu thần.[/U] Nhưng sự thiếu này khó nhận ra v́ người ta hay xu xoạn dùng [B]danh từ tâm linh mà dịch chữ ‘psychologie’ là khoa học về hồn[/B], mà lẽ ra chỉ được phép dịch là tâm lư, và cả hai nghĩa đều phải hiểu theo nghĩa thông thường. Chứ như dùng chữ tâm linh mà dịch, là đánh lộn ṣng một cách nguy hại. [B]V́ chữ Linh đồng nghĩa với chữ Thần,[/B] cả hai đều vô phương nên không thể nói ra được, có dùng một hai danh từ như Thần linh, Linh tánh, hay Nhân tánh… chẳng qua là một ẩn số tạm viết ra đây để c̣n chờ đáp số thật mà không thể nói ǵ được hết. Ngược lại với Linh hồn thi nói được, suy luận được, "đo lường" được, nên người ta đă viết hàng trăm ngàn sách nói về linh hồn. [U]Cho nên Linh hồn cũng là vật ngoại tại khách quan, chiếm một không gian là thân xác, nên có cùng tận, tức có thể định nghĩa, phân tích[/U]. Vậy chỉ khác thân xác là giác quan không thấy được trực tiếp, nhưng thấy được gián tiếp qua những tác động, những quan năng như lư trí, trí nhớ, ư chí, cảm xúc, cảm t́nh v.v… [U]Cho nên chữ Linh đi với chữ Hồn chỉ có nghĩa là ‘Supre-Sensible’, "Siêu giác quan trực thị" mà không có nghĩa là Tâm linh khi Linh đi với Thần.[/U] [B]V́ Thần vô phương nên Linh cũng vô phương, không phải "ở trong" như linh hồn, nhưng "ở" như kiểu thần, nghĩa là "không ở" mà vẫn linh hơn là "ở trong", [COLOR="red"]v́ "ở trong" là không "ở ngoài" nên c̣n hạn cục, chưa phải là Toàn thể Viên Dung.[/COLOR][/B] [U]Cái linh hồn đă là "vật thể" có cùng, có giới hạn như thế, lại chỉ tách ra có một phần là lư trí th́ c̣n hạn hẹp hơn nữa, v́ mỗi lúc lư trí chỉ thấy được một khía cạnh riêng rẽ.[/U] Nếu có cộng lại bao nhiêu những cái riêng tư, li cách đó cũng vẫn c̣n cộng thêm được măi, [B]nghĩa là không sao đạt được Toàn thể Viên Dung, và như vậy là bị trói buộc trong hai gọng ḱm của nhị nguyên[/B]. Khi áp dụng vào lư luận th́ gọi là nhị giá, và nếu có cộng thêm để làm ra các lư luận tam giá, th́ cũng vẫn nằm trong giới hạn [B]và không đuổi kịp Thần Kim Quy là cái vô giá vô biên. [/B]
[U]Các vấn đề đặt ra trong cương vị các luận lư nhị giá hay đa giá là những vấn đề giả tạo và không có lối thóat, nếu không quá lộ liễu như nhưng vấn đề "trứng có trước hay gà có trước" th́ cũng đều không có lối thoát, [B]và dẫu sao cũng là vô tích sự.[/B][/U] V́ xoay quanh sự vật ngoại tại chỉ nghĩ đến rùa, đến quăng cách tự rùa tới Achille mà không nghĩ đến Achille là [B]con người là chủ thể, là nguồn suối sinh ra nguyên lư ḥa hợp. Ḥa hợp các khoa học để phụng sự người, ḥa hợp người với người để tiến về nhân tính. [/B]
Triết học hàn lâm hiện đại với các hành ngơi đồ sộ, nào là luận lư các phương pháp khoa học, nào là siêu h́nh đạo đức, và vân vân chỉ khoản, đều bất lực đưa lại cho con người, cho thế giới một nguyên lư thống nhất. Không thiếu sinh viên rất chân thành, những học giả tài ba hết mức, nhưng khó ḷng t́m đâu được nhóm người mang tâm trạng lộn xộn và lưỡng lự cho bằng, như ông Alan W.Watts nhận xét trong quyển ‘The Supreme Identity’: [I]"Modern academic philosophy, the discipline of logic, epistemology, ontology, and the like, is about as far as it could be from providing modern society with any principle of unity. Sincere and brilliant as its disciples may be, it would be difficult to find a group more uncertain and confused in its collective mind[/I]".
[B]Thế giới đang tan ră và cần t́m ra một nguyên lư gây dựng lại ḥa hợp nhưng triết học đă không cung cấp nổi c̣n gây tan ră thêm là khác, bởi v́ để toàn lực vào những vấn đề cỏn con, mụn mảnh không thiết yếu, v́ thế bị xă hội vất vào một xó tối của đại học như một món đồ tiêu khiển của hàn lâm, vô thưởng vô phạt.[/B] [I]“Absorbed in contingences modern philosophy has the disunity of mere contingences. So far from looking to it for a principle of unity, society tucks philosophy away it obscure corners of its universities, retaining it only as an academic hobby”[/I] (Watts id.22). Lư do thảm trạng của thế giới hiện đại là ở đó, và sở dĩ có như vậy [B]v́ triết học đă tỏ ra quá tôi mọi với những định đề nhỏ hẹp do chính ḿnh đă đặt ra[/B] rồi quên bẵng đi, nên tưởng đó là những định đề tự trời rơi xuống bất khả xâm phạm rồi dựa theo đó đặt ra đủ lọai danh lư mà ta có thể kê khai tóm lược tại đây :
- Danh lư của Aristote là một thứ ngữ luật tổng quát giữa có và không.
- Danh lư thứ tự của Descartes truyền phân chia những vấn đề khó khăn ra rồi tổng hợp lại theo thứ tự của tư tưởng.
- Danh lư siêu việt của Kant lên sổ những h́nh thái tiên thiên làm như một cuộc giải phẫu lư trí.
- Danh lư thực nghiệm của Bacon bám sát vào sự kiện.
[B]Tất cả mấy thứ sau đều tuân theo danh lư của Aristote giữa có với không nghĩa là hoàn toàn nhị nguyên của lư trí, chưa biết chi tới tiềm thức là đầu con đường dẫn tới nguồn sống vũ trụ, và do đó chỉ dựa trên những định đề què quặt. Một định đề chân thực phải có 2 yếu tố và về lư thuyết lẫn thực hành. [COLOR="red"]Về lư thuyết cần phải là nguyên lư tối hậu, mà tối hậu thực là không c̣n có chứng minh.[/COLOR] Không c̣n dựa vào lư lẽ nào hết nhưng tự nhiên con người buộc phải chấp nhận. C̣n về thực hành th́ định đề phải dẫn tới hiện thực một nguyên lư suông không tác động tâm hồn dẫn tới hiện thực không là một định đề. Rất nhiều định đề v́ thế chỉ là nguyên tắc.[/B] Một lời truyền lệnh mà thiếu phần lư thuyết th́ chỉ là giới răn, là lệnh truyền (impératif) không phải định đề cần chân nhận như thế để khỏi kéo dài cuộc nô lệ hóa con người, một cách rất tệ hại. [B]Vậy muốn t́m lối thóat chỉ c̣n một cách là đổi lại toàn bộ định đề, toàn bộ nguyên lư cũ và không phải chỉ ở cấp lư luận, ở đợt nhị giá, tam giá, vô số giá, v́ vẫn c̣n là giá cũ ngoại tại, nhưng phải đổi lại tự nền, tự đợt nhị nguyên.[/B] Và do đó là điểm chúng ta sẽ bàn tới trong chương sau.
Triết gia Kim-Định.
II. VÔ NHỊ HAY LÀ PHƯƠNG PHÁP SUY TƯ CỦA TRIẾT ẤN ĐỘ
(xin nhắc lại với bạn đọc, mục này thuộc phạm vi triết lư và triết có nghĩa là triệt thượng triệt hạ ; nên muốn biết "đúng/sai" cần phải hiểu thấu triệt sự vật, v́ sách Đại Học có câu : [I][B]"trí tri tại cách vật"[/B][/I], do đó cần phải đọc đi đọc lại những bài tôi đăng ở đây, để mới có thể hiểu được. Sơn Hà)
[B]1. Tại sao lại vô nhị?[/B]
Sao không nhất nguyên hay tam nguyên mà là vô nhị ? Thưa, v́ nhất nguyên với nhị nguyên cũng là một, khác nhau cách nói mà thôi. V́ nhị nguyên đưa tới chọn một bỏ một nên nhất nguyên là lối giải quyết của nhị nguyên, [B]nó đánh mất mối liên hệ nội khởi và cơ thể giữa vạn vật nên làm mất luôn lưỡng nhất tính của vạn vật là mối liên hệ với Toàn thể.[/B] [B][COLOR="red"]Không liên hệ với toàn thể là chết. Con người chỉ sống khi không bị chặt ra từng mảnh.[/COLOR][/B] Nhận thấy chỗ tai hại đó nên [B]thuyết vô nhị[/B] chủ ư chống lại cái nh́n nhị nguyên (vision duelle : dvaita) có tính cách phân chia thực thể ra vô vàn sự vật riêng rẽ cách biệt. Vô nhị chủ trương vạn vật đồng nhất thể, một thực thể thuộc b́nh diện khác hẳn với sự vật thường nghiệm nên không có giới hạn, phân chia, li cách (advaita) như ở đợt thường nghiệm : [B]tất cả vạn vật trong vũ trụ chỉ là một[/B]. Bao nhiêu những ǵ sai biệt phồn đa trước mắt chỉ là ảo mộng huyễn tướng (maya) chứ không có thực.
Đó là đại cương triết Ấn và có thể hiểu ra hai chiều : tích cực và tiêu cực. Lối hiểu tích cực chấp nhận những sự dị biệt ở đời, lúc đó Maya chỉ là thế giới chia ra nhiều sắc thái và người đắc đạo (jivan muktka) có thể chấp nhận tất cả mọi sự như là những vẻ phong phú, những sắc thái dị biệt của thực thể gọi là Brahma, nên c̣n giữ ư thức cá biệt là jiva (hồn). Lối hiểu này được hoàn bị do Phật giáo Đại thặng trong hạnh Bồ Tát. Thay v́ nhập Niết bàn khi đă đắc đạo th́ Bồ Tát lại trở về với ṿng luân hồi sinh tử để độ chúng sinh. Cái triết lư nằm ẩn trong hạnh Bồ Tát là vừa chấp nhận chủ trương [B]Phật tính là Thái nhất[/B], [B]là Niết bàn[/B], không có phức thể đa tạp hay phân chia; [U]nhưng đồng thời cũng chấp nhận cuộc sống ở thế gian như tục đế mà chân đế không khử trừ tục đế[/U]. Đó là đại để lối hiểu tích cực và phải nói ngay rằng lối này chỉ là thiểu số, c̣n đại đa số triết học gia hiểu vô nhị theo lối tiêu cực.
Lối tiêu cực coi mọi sự vật, mọi biến cố là huyễn ảo nên không chấp nhận là có và bởi thế triết Ấn không đưa ra chủ trương cải tạo xă hội ít ra là cách trực tiếp. Do đó tôn ti ban đầu chỉ là lối phân công, về sau bị đốc ra đẳng cấp (caste) cách vô nhân đạo, [U]đàn bà vẫn bị coi là ma vương huyễn hoặc[/U] (tentatrice cosmique) nên đề cao lối sống độc thân, lối sống hành khổ, diệt sinh, bị coi là thuộc ảo ảnh cần phải diệt trừ. Cho nên ta có thể coi đó như chủ trương của số lớn triết gia Ấn, cũng như đó là nét đặc trưng của nền văn hóa Ấn Độ, và ta có thể căn cứ vào lối hiểu tiêu cực để đưa ra một số suy luận đặng làm sáng tỏ vấn đề suy tư của khóa giảng.
Đứng về phương diện nhị nguyên mà nói th́ [U]vô nhị hiểu lối tiêu cực chính cũng là một nhị nguyên tŕnh bày lối khác, và họ cũng bị mắc bẫy của lư trí giương ra[/U]. Sở dĩ như vậy là tại họ không nh́n ra chỗ hỏng của nhị nguyên. [B]Chỗ hỏng đó ở tại thế giới trừu tượng của lư trí, chứ không ở tại thế giới cụ thể của giác quan.[/B] [U]Cái ngăn cản con người không đạt nổi thực tại tự thân là những ư niệm trừu tượng, chúng đứng ra làm đối tượng ngáng đường [B]là bởi chúng không hướng lên chịu sự điều lư của tâm linh, nhưng lại quay xuống sự vật cách trừu tượng nghĩa là chú ư trọn vẹn đến một khía cạnh nào đó coi như chính Toàn thể Viên Dung[/B], và như vậy trở thành huyễn tướng.[/U] Như thế có huyễn tướng thật nhưng phải t́m chữa ở lư trí là nơi quy tụ các dữ kiện của giác quan, mà không nên đổ thừa cho giác quan. Giác quan là những cơ năng của con người để hội thông với thế giới hiện tượng đặng cấp cho người những kinh nghiệm khả giác cụ thể là điều cần thiết cho đời sống sinh lư của nó. Nay lại khước từ giác quan như những yếu tố huyễn hoặc là đă bắn lầm vào dân vô tội, mà nhẽ ra phải nhắm vào địch thủ là những ư niệm trừu tượng của lư trí. Dân lành vô tội bị khước từ th́ họ sẽ ra bưng sống lẩn lút dưới các h́nh thái của vọng phát vô thức mà chúng ta cần phải bàn tới.
[B]
2. Cơ cấu tâm thức con người. [/B]
Cơ cấu đó nằm trong mấy câu sách căn bản của Trung Dung như sau : [I][B]"thiên mệnh chi vị tính. Suất Tính chi vị Đạo. Tu Đạo chi vị Giáo. Đạo dă giả bất khả tu du ly dă"[/B][/I].
Chữ Mệnh ở đây phải hiểu là những chỉ thị cơ bản hướng dẫn cuộc tiến hóa của con người. Nếu chúng ta muốn dùng ngôn ngữ ngày nay để minh nhiên hóa chữ Mệnh th́ có lẽ chữ “Archétypes” của Jung giúp được phần nào. Chữ này kép bởi “Archai”: là thái sơ, uyên nguyên và “type” là cộng tướng, là mẫu, là giống. Jung dùng chữ đó để chỉ những thần thoại chung của nhân loại, hay những giấc mơ lớn có ư nghĩa tới vận mạng con người, hoặc những phóng tượng (phantaisie) năng trở đi trở lại nhiều lần trong tâm trí hay giấc mơ; hoặc những tiên ông tiên bà hay hiện ra giúp đỡ trong những trường hợp khó khăn của đời người. Tất cả đều phác họa ra cái thế giới vô thức bao la nhưng phác họa cách rất sơ sài, mộc mạc và thường tác giả cảm thấy lơ mơ mà không ư thức được ǵ cả, y như trẻ thơ hay phun nước miếng báo hiệu sắp mưa. Phun nước là một tác động trẻ thơ hay làm khi thấy trẻ phun nước bọt th́ người lớn biết rằng sắp có mưa nhưng trẻ không hiểu chi cả. Hoặc những bức họa siêu thực ng̣ng ngoèo rất khó hiểu, đó có thể là những cơ tượng báo trước những dạng thức sẽ xuất hiện mai ngày của tâm tưởng con người. Trong nhân loại cũng có các cơ tượng như thế và nay được khoa Uyên tâm của Jung và nhiều người kế tiếp đang nghiên cứu coi đó như những biểu lộ của "vô thức" (l'inconscient) nên rất mờ ảo có tính cách gợi ư, chứ ít hợp lư, khác với biểu tượng hay ẩn dụ (allégorie) v́ là sản phẩm của lư trí nên nội dung ở đây đă được ư thức trọn vẹn. Ở sơ tượng, nội dung mới từ cơi vô thức nhô lên nên c̣n rất mờ ảo. Viễn Đông đă dùng h́nh ảnh Nữ Oa thân rắn đầu người. Đầu người chỉ ư thức, c̣n thân rắn dài hơn nhiều lần, nghĩa là c̣n đầy mờ ảo (Werner tr.80). Đó là biểu thị đẹp nhất của sơ tượng, và cũng v́ thế sơ tượng trong triết Đông sớm được khám phá và tinh luyện, nên sau Nữ Oa thành nhận đến 2/3 trong bức chạm Nữ Oa đuôi cuốn với Phục Hy (xem h́nh trong Nhân Bản), nghĩa là nội dung của sơ tượng đă được minh nhiên khá nhiều. Nên chữ tượng trong Kinh Dịch được Chu Hy định nghĩa là "[U]cơi sáng của khí âm dương[/U]" ([I][B]chí trứ chi vi tượng[/B][/I]). Tức có ư nói đến cái biết của Minh triết, bởi tâm thức của triết gia vượt xa cái biết thường nghiệm. V́ thế phần nào sơ tượng trong Kinh Dịch đă đi tới siêu thức, hay gọi chung là Tâm, là Tâm linh, cao hơn "vô thức cộng thông" với các sơ tượng của Jung rất nhiều. Nói vậy không có ư bảo khoa Uyên tâm lặp lại sơ tượng của Kinh Dịch, nên là vô bổ. Ngược lại là khác v́ uyên tâm đi lối phân tích và đối chiếu, nên giúp chúng ta nhận thức lại được giá trị sơ tượng và huyền sử của nền văn hóa Viễn Đông cách minh nhiên hơn.
Khi nói đến [B]ư thức[/B] th́ chúng ta phải hiểu gọn vào cá nhân nghĩa [U]là sự nhận thức ra ḿnh khác biệt với các cá nhân khác, các cá thể khác[/U]. [B]Nếu chỉ có ư thức th́ mới chỉ có tiểu thể và chúng ta không nh́n ra được mối tiềm thức cộng thông, mối liên hệ nền tảng giữa ta với lân nhân, với vạn vật, với trời đất.[/B] [U]Cần phải có siêu thức, hay gọi tắt là Tâm mới nhận ra được mối liên hệ cơ bản kia, và mới có Đại thể chung cho mọi người mọi vật.[/U] Đó là đại khái nội dung của hai chữ Tâm và Tính. [B]Chữ Tâm gần với vô thức cộng thông. C̣n chữ Tính gần với siêu thức, nghĩa là với chữ Tính ta đă có một lối cơ cấu mờ nhạt ẩn trong hai chữ Tâm và Sinh kép vào làm ra chữ Tính.[/B] Nhờ khoa Uyên tâm, chúng ta nhận ra hai chữ đó không chỉ là danh từ suông, nhưng nó hợp với hai loại sơ nguyên tượng mà tôi sẽ gọi là [B]Sinh tượng[/B] và [B]Linh tượng[/B].
Sinh tượng mang nặng tính cách sinh lư, thuộc không gian, nó hướng dẫn con người trong việc bảo sinh và truyền giống. Những bản năng cầu sinh, ố tử, tự vệ, tranh đấu sinh tồn, cũng như bản năng truyền sinh, truyền giống đều thuộc về sinh tượng. [U]C̣n linh tượng mang đậm tính chất linh thiêng thuộc vũ trụ và trỏ vào những chỉ đạo tiến hóa hợp với đường hướng của đại diễn tức cuộc tiến hóa chung của cả vũ trụ càn khôn.[/U] V́ thế nó tế vi và mông lung hơn sinh tượng nên ít được người đời chú ư. Khi Khổng Tử nói : [I][B]"hữu sát thân dĩ thành nhân"[/B][/I] là ông nghĩ đến linh tượng (nhân) vượt hơn sinh tượng (thân). Chỉ có ở một số người đặc biệt th́ những linh tượng mới hiện lên rơ hơn hoặc mau hơn so với quảng đại quần chúng. Đó là những vị Thánh triết, những bậc hướng dẫn tinh thần nhân loại. Nơi họ ta có thể thấy tỉ lệ của Kinh Dịch là [B]tham thiên ([I]linh tượng[/I]) lưỡng địa ([I]sinh tượng[/I])[/B]. Địa chỉ sinh tượng v́ dựa nhiều vào dĩ văng (kinh nghiệm sống được tích lũy qua các đời). [U]C̣n thiên chỉ linh tượng hướng về tương lai v́ lấy cuộc Đại Diễn tức cuộc tiến hóa chung của vũ trụ làm nơi quy chiếu. Cái sứ mạng của con người là phải làm sao cho hai yếu tố đó, cho sinh tượng và linh tượng giao hội b́nh quân với nhau[/U]. [B]Khi có giao hội và b́nh quân chất lượng th́ mới là đạt thân và gọi là Nhân.[/B] Nên [B]Nhân[/B] được định nghĩa là:
[B][I]Thiên địa chi đức
Âm dương chi giao
Quỷ thần chi hội
[/I][/B]
[B]Quỷ thần ở đây phải hiểu là tác động linh ứng, cái thần diệu của âm dương tụ hội nơi người[/B]. Nếu được như thế th́ [I][B]"thiên địa vị yên, vạn vật dục yên"[/B][/I]. [I]"Thiên địa vị yên"[/I] ở đây phải hiểu là cái đức trời đất nơi người, [U]cái sinh tượng và linh tượng được điều ḥa đúng vị trí của chúng[/U]. C̣n [I]"vạn vật dục yên"[/I] [U]th́ hiểu về mọi khuynh hướng thâm sâu nơi con người, gọi là [B]Mệnh[/B], hay là những chỉ thị cơ bản hướng đạo cho cuộc sinh hóa của người[/U]. [B]Riêng chữ dục phải hiểu là giáo dục bao hàm một sự ḥa hợp có ư thức[/B], hay là được tâm thức con người điều hợp nghĩa là chỉ cho một vị trí một công tác.
[U]Ở người dưới phố sống theo lương tri thông tục th́ sinh tượng và linh tượng cũng có chỗ đúng nhưng mặc nhiên vô thức, nên cái mệnh chỉ là định mệnh.[/U] [B]Phải có ư thức mới đạt tới tính mệnh, mà có đạt tính mệnh th́ sinh tượng và linh tượng mới làm tṛn sứ mạng để kêu lên tiếng kêu của chúng trong bản ḥa âm của tiểu thiên địa. [COLOR="red"]Đó gọi là Ḥa. Ḥa là hậu quả của Hội. Khi quỷ thần hội th́ có ḥa, và con người cảm thấy thư thái thỏa măn từ căn để.[/COLOR][/B] C̣n khi quỷ thần không hội th́ quỷ thần tán, và lúc đó quỷ thần không c̣n là cái diệu dụng của âm dương nơi con người như châm ngôn triết quen nói : [I][B]"quỷ thần giả nhi [COLOR="red"]Khí[/COLOR] chi lương năng"[/B][/I], quỷ thần không phải cái chi ở ngoài mà là cái khí của lương năng con người. [U]Nếu không nhận ra th́ quỷ thần trở thành những thực thể đứng độc lập bên ngoài con người, và hơn kém là mặc lốt người, v́ do từ tâm người phóng ra, nên quỷ là quỷ ma, thần là thần tiên [COLOR="red"]mà không c̣n là sự linh diệu của chính con người nữa[/COLOR], nghĩa là con người đánh mất phần tinh hoa cao cả nhất của ḿnh rồi.[/U] Hiện tượng đó Mạnh Tử kêu là [B]"phóng tâm"[/B], ngày nay Jung gọi là [B]"vọng phát vô thức"[/B] (inflation de l'inconscient) tức [U]là những phóng tưởng dựa vào h́nh ảnh sự vật, hoặc chiếu lên sự vật cái nh́n chủ quan thiên lệch của ḿnh, hay tưởng ra những cảnh trí xa lạ và cho là có thật.[/U] Ta có thể gọi đó là [B]vọng tưởng[/B]. Nếu những h́nh ảnh đó phát hiện lên như có thực sự trước cảm quan của người ấy th́ ta gọi [B]vọng tượng[/B].
[B]3. Vọng tưởng, vọng tượng [/B]
Gọi là vọng và đó là những mảnh tiềm thức đầu tư bậy không được điều hợp đúng chỗ trong tâm thức và giữ một vai tṛ được điều lư cách ư thức hay được truy nhận ít ra cách mặc nhiên nơi những người chưa đạt đạo và minh nhiên thấu tỏ ở các vị đă giác ngộ. [U]Giác ngộ chính là nhận thức ra được sự ḥa hợp giữa các nhu yếu con người được thỏa măn, được sắp xếp cái nọ đối với cái kia theo một tôn ti sao cho tất cả triển nở và không cái nào lấn át cái kia,[/U] Nho triết kêu là [I][B]"vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại"[/B][/I] (T.D.) Khi được như thế th́ [I][B]"thiên địa vị yên, vạn vật dục yên"[/B][/I].
Thiên địa trong con người phát xuất dưới h́nh thức linh tượng và sinh tượng, thường c̣n quá mênh mang mập mờ, nên Lăo kêu là [I][B]"hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng"[/B][/I]. Muốn cho bớt tính chất mung lung th́ lư trí t́m cách biến sơ tượng thành biểu tượng, rồi biểu tượng xé nhỏ ra thành nhiều từ ngữ, mỗi từ ngữ chỉ trỏ một vật, một sắc thái. [U]Từ ngữ và biểu tượng làm thành cái thang để con người trèo lên đến sơ nguyên tượng. Đợt thấp nhất của cái thang là các từ ngữ chỉ thị vạn vật[/U]. Khi người ta dừng lại nơi này th́ Nho kêu là [I][B]"tế ư từ"[/B][/I]: vướng mắc lại ở từ ngữ th́ chỉ thấy sự vật riêng biệt không liên hệ chi với nhau. [B]Đó là mầm mống cá nhân ích kỷ[/B]. Danh lư ở hai đợt này.
Đợt hai là biểu tượng chỉ ư nghĩa của một nhóm danh từ. Khi bị ngưng trệ nơi đây th́ biểu tượng đốc ra những truyện vui không có đạo lư, nghĩa là không có sức linh động, v́ nó chỉ có thể sinh động khi được móc nối lại sơ nguyên tượng. [U]Khi sự móc nối có trung thực th́ mới ngộ đạo và biểu tượng trở thành huyền sử, huyền thoại : với ư nghĩa huyền diệu linh thiêng[/U]. C̣n khi sự móc nối giả tạo th́ bấy giờ huyền thoại đọa ra nghĩa huyễn thoại, huyễn hoặc. Điều đó xảy ra khi biểu tượng móc nối với các vọng phát vô thức.
[U]Vọng phát xuất hiện là khi nào đường đi từ ngôn từ đến sơ tượng bị ứ đọng, bị khước từ, khi các mệnh lệnh của cuộc tiến hóa biểu lộ qua sơ tượng không được ư thức tiếp nhận, không được thỏa măn[/U]. Lúc đó ư thức bị tràn ngập, hay là nguyên tượng bao vây ư thức mà ta gọi là vọng phát vô thức. Sở dĩ nguyên tượng tràn ngập ư thức cá nhân là v́ nó mạnh hơn ư thức nhiều vô kể. Bởi ư thức cá nhân chỉ sống trong một thế hệ cá nhân, lâu lắm là một trăm năm, nên vốn liếng kinh nghiệm rất ít so với sinh tượng đă xuất hiện hàng tỉ năm trước. Lấy về đàng to lớn th́ ư thức cá nhân biệt cách, c̣n linh tượng là liên tục v́ nó bao gồm cả cuộc Đại Diễn nghĩa là cuộc tiến hóa của vũ trụ hướng về một tương lai cũng phải dài từng tỉ năm. Như thế làm sao ư thức cá nhân chống lại được. [U]Cho nên khi ư thức đó không biết cách truy nhận, hoặc truy nhận quá đáng một yêu sách nào để lấn át những yêu sách kia, th́ tất nhiên những yêu sách khác phải t́m lối sống bên ngoài con người, đó là lối sống không hợp với nó cũng như với con người, nên gọi là vọng phát[/U].
C̣n chữ vô thức đi kèm có hai nghĩa : một là yêu sách kia vừa ló dạng vào cảnh vực ư thức liền bị đẩy lui th́ nó rút xuống cơi vô thức, [U]rồi từ đó nó chiếu giăi ra ngoại vật hoặc với h́nh thái các sự vật khách quan được hiểu cách cố thể[/U] (figé, solide) h[U]oặc dưới h́nh thái tâm thức được nhân h́nh hóa[/U] (hypostasier) [U]như quỷ thần có đời sống riêng độc lập bên ngoài tầm điều hợp của tâm thức[/U].
Vô thức c̣n có nghĩa thứ hai nữa là tâm thức con người không nhận ra đó chỉ là những sản phẩm của ḿnh chiếu giăi ra, nên lại truy nhận sự hiện hữu của chúng và thiết lập các mối giao tế với những h́nh bóng chiếu giăi đó. Tác động vô thức này làm cho những vọng phát trở nên mạnh mẽ thêm. Câu nói "tin ma ma làm" phải đặt vào đồng văn này mới hiểu hết ư nghĩa, [U]ma chỉ có v́ ḿnh tin, và bước sau là không những ma có mà lại c̣n tác động nữa, thế là tại niềm tin gia tăng[/U]. Nói khác h́nh thái vọng phát chỉ do tâm thức con người mà có, nên nó cũng chỉ sống nhờ vào tâm thức đó truy nhận và tiếp tế. [B]Khi nào tâm thức tỉnh giấc nhận ra cơ cấu của chúng th́ lập tức các vọng phát biến đi[/B], và không c̣n tác oai tác phúc chi hết nữa. Nói theo nho gia trả lời Lê Công về hai con rắn thần hiện ra ngoài cửa nam đánh nhau một con chết. Vua hỏi liệu yêu quái đó c̣n nữa hay không. Thân Nhu trả lời "[U]khi người ta sợ cái ǵ th́ khí trong người tỏa ra làm nên cái h́nh tượng cái đó, cho nên ma phát nguyên từ nơi ḷng người[/U]. Nếu như người không có kẽ hở th́ yêu ma không thể xuất hiện, [U]chỉ khi người bỏ đạo Thường th́ yêu ma mới hưng khởi lên đe và mới có ma[/U]". [I][B]"Yêu do nhơn hưng dă, nhơn vô hấn yêu, yêu bất tự tác, nhơn khí Thường, tắc yêu hưng cố hữu yêu"[/B][/I]. (Tả truyện ch.III Trang Công năm 14. Couvreur 14. 160. So với Psychology of hallucinations, Tyrrel, thấy câu trên thật mới mẻ).
Sở dĩ vũ trụ quan người xưa và cách riêng người Ấn Độ có quá nhiều quỷ thần (Phật tổ đă khai trừ hai triệu quỷ thần của phái Véda : ‘deux millions de dieux védiques’), là tại phần lớn triết học rơi vào ngơ huyền không u tịch : ‘mysticisme acosmique’, nghĩa là không truy nhận những kinh nghiệm giác quan với các hiện tượng bên ngoài, mà cho đó chỉ là huyễn tướng ảo giác, th́ luật sinh tồn bắt buộc chúng phải bao vây tràn ngập tâm thức, đó là điều tất nhiên. Việc bao vây này càng khép chặt khi tâm thức càng chống đối khước từ. [U]Ngược lại ṿng bao vây sẽ buông nới theo đà mở rộng của tâm thức. Khi nào tâm thức mở rộng cho tới tận cùng của vũ trụ để có thể nói cách trung thực câu[/U] [B][I]"Ngô tâm tiện thị vũ trụ, vũ trụ tiện thị ngô tâm"[/I][/B] th́ lúc ấy vọng phát vô thức sẽ biến mất. Có thể nói là chúng đă bị tiêu hóa trọn vẹn, hay nói khác là tâm thức đă nh́n nhận ra đó chỉ là con cháu nhà, nên xếp đặt nơi ăn chốn ở trong "nhà" ([I]thiên địa vị yên, vạn vật dục yên[/I]) th́ c̣n đâu nữa là vọng phát. Bởi thế chúng ta có thể dùng mức độ vọng phát để đo tầm cao thấp của một cá nhân hay một nền văn hóa. [U]Nền văn hóa c̣n mang theo quá nhiều vọng phát, tức các loại dị đoan, tin nhảm, kỳ quái… là tỏ ra c̣n thấp, c̣n yếu ớt, nên cần nương tựa vào ngoại lực, ngoại lực càng trở nên nhiều, nên mạnh, mạnh ít th́ đủ có một đời sống độc lập bên ngoài con người, và từ đấy [B]thay v́ sống chính đáng cách thong dong theo tính tự nhiên[/B] [/U]([I][B]suất tính chi vị Đạo[/B][/I]) [U][B]con người phải sống theo những mệnh lệnh của vọng phát[/B][/U].
Mà v́ vọng phát xuất hiện do sự từ khước của tâm thức nên chúng cũng mang ấn tích sâu đậm của sự từ khước này, nghĩa là nó mang "căm hờn" v́ đă không được sống trong tâm thức với quyền công dân là được truy nhận, mà lại phải sống lẩn lút ngoài bưng dưới h́nh thái bất hợp lệ của vọng phát. V́ thế khi nắm được chính quyền để ra mệnh lệnh th́ những mệnh lệnh đó bao giờ cũng mang tính cách báo thù và nhằm củng cố cho thế lực của nó, nghĩa là lại khước từ một số nguyện vọng căn bản khác của con người để chúng phải lẩn trốn ra bưng tăng viện hàng ngũ của vọng phát. [B]Bởi thế khi người nào không được học biết sống cách tự nhiên theo Đạo làm người, không được [COLOR="red"][I]"suất tính"[/I][/COLOR] th́ thế nào cũng bị rơi vào ṿng luẩn quẩn của hiện tượng vọng phát với tinh thần bất an vốn dính liền, và do đấy con người t́m ra rất nhiều thuật pháp phương thế đặng thoát ra[/B], thí dụ một số Yoga của Ấn Độ hay các khoa lư luận của Tây phương. V́ cả hai nền triết này đều rơi vào vọng phát. Về triết Tây như trên đă nói, nó mang nặng tính chất duy lư, mà duy lư với duy giác là một (intellect = sens). [B]Giác quan chỉ thấy có vật thể chứ không đạt được tâm linh, chỉ biết biểu tượng mà không nh́n ra sơ tượng[/B], th́ tất nhiên sơ tượng phải đi lối vọng phát tăng biện cho các vật thể, và từ đó vật thể được nh́n như những vật tự thân, cố thể, biệt lập, không dính líu chi tới con người để có thể bắt con người chạy theo "chúng". [B]Lư trí không thể biết sự vật chỉ là những mốc giới cùng cực của dịch trường (champ)[/B] nên coi chúng như những sự vật riêng rẽ, khách quan, độc lập ngoài hẳn con người, đă không chút liên hệ c̣n đứng đối lập với con người. Vậy cũng là một lối vọng phát tức là quan trọng hóa hạn từ (hiện tượng) lên bậc sự vật tự thân, và [B]theo luật vọng phát bao giờ cũng đứng trên con người nên người phải suy phục sự vật, tuân theo các luật tất định của chúng gọi là định mệnh[/B]. Từ đấy các khoa luận lư trở thành rất đồ sộ với hệ thống nguy nga, với rất nhiều thay đổi qua các đời từ danh lư đến biện chứng, tân luận lư, khiến cho người chưa quen đâm hoảng với mặc cảm tự ti. C̣n những người đă đi sâu vào th́ nhận ra đó là bấy nhiêu chai lọ thuốc với nạng chống và xe đun để cho triết học gia [I]"trục vật cầu tri"[/I] : dồn hết tâm lực vào rùa và quăng cách xa mà quên bặc cái sinh lực, cái tác động của Achille là chính chân thể. [U]Do đấy triết học chúi hẳn sang phía vọng phát của sinh tượng với hậu quả tất yếu là để cho không gian lấn át thời gian[/U], [B]để cho cá nhân chủ nghĩa tràn ngập tất cả, làm ch́m mất mối tương quan chân thực.[/B]
Ngược lại [B]triết lư Ấn Độ lại chúi sang phía vọng phát của linh tượng, coi thường sinh tượng[/B], [U]nhưng sinh tượng vẫn hiện ra đó, thúc phọc đàn áp đạo sĩ nên đạo sĩ phải nghĩ ra rất nhiều pháp thuật Yoga, vô từ, hay nhất ư[/U] (monoidéisme) [U]tập trung tư tưởng vào cái không không hay là vào một ư nào duy nhất đến độ độc chiếm, đặng cho quên hết được thế giới bên ngoài, và cho thế là lư tưởng[/U]. Đó gọi là [B]"trầm không u tịch"[/B]: ‘mysticisme acosmique’, [B]nó ở tại chối từ không chấp nhận sự ǵ là có, dầu là cái có chính đáng như hạn từ của tương duyên[/B] (les termes d'un corrélat) th́ lúc đó vọng phát của vô thức cũng dâng lên đến cực độ, thí dụ dưới h́nh thức thần Brahma ở xa tắp tít con người măi trên cung Đâu Xuất cách chúng ta cả biết bao muôn ức triệu năm. Xét theo tâm lư là thần linh thật đă xa rời con người lắm lắm. [B]Một khi thần đă xa th́ xă hội rơi vào biết bao bất công, tàn bạo mà đến nay các nhà giác ngộ đang cố tâm sửa chữa với biết bao khó khăn[/B], thí dụ việc giết ḅ cái năm nào suưt làm đổ cả một chính phủ.
[B]4. Huyền niệm hiện ảnh [/B]
Hiện ảnh là một loại hiện tượng của vọng phát linh tượng xảy ra nhiều nhất bên Ấn Độ. Có hiện ảnh là khi một người nào thấy được các vị thiêng liêng hiện ra với ḿnh, nói năng, ban phát mệnh lệnh, an ủi, vỗ về, chỉ dẫn, nhiều lần c̣n cho biết những biến cố này khác ở xa, hoặc chưa đến. Cũng có khi huyền niệm xảy ra dưới h́nh thức xuất thần ngất trí, hoặc nằm bất tỉnh nhân sự có khi sụt bọt răi, nhịp thở nhỏ dần, tim đập rất nhẹ nhiều khi như ngưng hẳn coi không khác chết là bao. Tiếng Anh kêu là ‘[B]trance[/B]’. Ta có thể gọi là [B]đảo thần, bức thần, thánh vật…[/B] [U]Khi người đó lấy lại ư thức th́ đôi khi cảm thấy tâm hồn lâng lâng như bay trong cơi không gian, như lạc vào một thế giới thần tiên đầy sảng khoái,[/U] [B]nhưng chỉ sau ít lâu lại như bị bỏ rơi và cảm thấy cô đơn, ủy mị, tán loạn, mệt mỏi[/B]. Những hiện tượng này hay các hiện tượng tương tự đều phát xuất rất nhiều trong những nền văn hóa mà ư thức không trù liệu, không điều lư chỗ cho các sơ tượng (bên Ấn Độ là các sinh tượng, bên Tây Âu là các linh tượng) nên có lúc làn sóng sơ tượng thay v́ rút vào bưng vô thức để xuất hiện theo lối vọng phát du kích, [U]th́ đây chúng đột nhập vào ư thức và làm tê liệt ư thức trong một quăng thời gian nào đó để nắm lấy chính quyền chỉ huy đời sống[/U]. Trong lúc đó người ấy thấy những sự lạ lùng tai mắt thường không hề thấy, và nói lên những điều vượt hẳn tầm mức thông thường của cộng cảm (le sens commun). Quan sát ở ngoài, người ta thấy họ như đang nhận mệnh lệnh từ một vị cao cả vượt hẳn mức thường như thấy được những việc sau xem được xa, và thường nhân coi đó là những khải thị lạ lùng. Nhưng nếu ta nh́n bao trùm cả lịch sử văn hóa nhân loại để so sánh nhiều ngàn năm đông tây kim cổ th́ sẽ không thấy chi lạ cả.
[B]Trước hết v́ những điều khải thị đó chỉ đạt tới đợt tiềm thức một nhóm người, mà chưa đạt vô thức cộng thông nhân loại.[/B] Do lẽ đó những điều nói ra chỉ vượt ư thức cá nhân và chỉ biết những việc đă xảy ra, [B]c̣n khi nói về tương lai th́ chỉ là chiếu giă những dự đoán[/B] của nhóm người đó. V́ thế những điều nói ra chưa đạt tâm trạng của một dân, hay đúng hơn của một giới dân cùng chung tâm trạng trong một địa phương. Thí dụ cũng là cầu cơ (spiritiste) cả, mà khi lên đồng th́ đồng Pháp bảo rằng có luân hồi, c̣n đồng Mỹ lại chống luân hồi… Có hay không chỉ là sự chiếu giăi tâm trạng của nhóm cầu cơ thuộc từng địa phương, mà tâm trạng này chưa đạt tới mức giải đáp các vấn đề tế vi như luần hồi… nó chỉ lập lại các điều nhóm dân đó tin tưởng, nhưng một cách tổng quát nên lạ cho các cá nhân.
Thứ hai là các loại hiện ảnh và thần giáng này bao giờ cũng có rất nhiều và khắp nơi, nếu làm thống kê chắc cũng tới hàng tá ở mỗi nước, kể cả các nước văn minh.
Thứ ba đây là chứng cớ hiển nhiên và khoa học là một số đă để lại bút tích. Chúng ta chỉ cần đưa các văn kiện đó ra mổ xẻ sẽ nhận ngay thấy tính chất vẫn đục, lộn xộn, đầy mâu thuẫn và nghèo nàn : nên người ta quen chơi chữ rằng [I]"les spirites sont pauvres d'esprit"[/I], nghĩa là chỉ có một số ít ư tưởng kỳ dị, c̣n toàn là một mớ luận lư thường thức thông tục.
Ngay đến những sách của các bậc bức thần có tiếng tăm (visionmaires célèbres) [B]nếu mổ xẻ thấu đáo liền nhận ra c̣n lâu lắm mới đạt tới tŕnh độ Minh triết. Do lẽ đó chúng ta biết đấy không phải là đường chính đạo[/B]. Nhiều khi những ảo kiến đó c̣n di hại cho sức khỏe cả thể xác lẫn tinh thần, như trường hợp bức thần (trance) rất giống với sự chết giả : v́ có một sự phân sáp ư thức ra khỏi thân xác, nên về sau người đó rất dễ trở thành nạn nhân cho mọi luồng tiềm thức hoang dại.
Trong một ít trường hợp may mắn th́ ṿng ư thức được mở rộng hơn phần nào và người đó c̣n giữ được thế quân b́nh gọi là lương tri. Nhưng đó là truyện họa hiếm, và có xảy ra cũng trong trường hợp xuất thần ít khi xảy ra trong trường hợp bức thần. Đôi khi những hiện tượng đó có kèm theo một số quyền năng ngoại lệ như viễn thị, viễn văn, hoặc tiên tri, [B]th́ không có ǵ lạ khi ta hiểu được phạm vi rộng lớn của sơ tượng, v́ nó là "vô thức cộng thông" rộng như vũ trụ[/B], chỉ lạ lùng cho những người mới biết có ư thức cá nhân đă tưởng là tất cả con người chỉ có thế. Do lẽ đó ta hiểu tại sao những vị hiền triết trung thực coi nhẹ những "quyền năng" kia, và ở những người theo Nho triết th́ không có lối huyền niệm đó bao giờ. [B]V́ Nho triết đă trù liệu đủ chỗ cho mọi khuynh hướng, hơn thế c̣n vun tưới, tài bồi cho sơ nguyên tượng chuyển hóa sang ṿng ư thức để mở rộng chân trời ư thức, cũng như để ư thức lan vào vùng tiềm thức như trong câu [I]"âm trung hữu dương căn"[/I] khi hiểu âm là cơi vô thức, dương là cơi ư thức.[/B] Hai cơi dó là hai cực của tâm thức cần được hội thông chuyển dịch thẩm thấu… Và câu [B][I]"ta thay trời mở đất mênh mông"[/I][/B] th́ trời và đất ở đây phải hiểu là hai hạn từ đó, [B]nghĩa là ta phải làm cho vô thức và ư thức giao thoa thẩm thấu[/B]. V́ quan niệm như thế nên coi những hiện tượng xuất thần, đảo thần… chỉ là những bệnh trạng của một nền văn hóa lệch lạc, chứ không là nền Minh triết.
[B]Minh triết chân thực có tính cách vô cùng nên không đối kháng với bất cứ một t́nh trạng tâm thức nào hết.[/B] Bởi đó ngộ đạo chân thực xảy ra êm ái không gây những động kinh, rung động gân năo chi cả. V́ nó không thuộc lư trí hay cảm xúc nên cái nọ đẩy cái kia như buồn đẩy lui vui vậy. Minh triết thực th́ ta không thể gây nên được, c̣n những ảo kiến hay hiện ảnh có thể gây nên được nên ta biết nền móng chính của chúng là lư trí và cảm xúc với ư chí, nghĩa là không cao lắm, c̣n thuộc trọn vẹn miền ư thức cá nhân.
[B]
5. Tâm động [/B]
Để độc giả thấy rơ điều đó, xin đan cử ra đây một phương pháp làm phép lạ, tức là làm cho hiện ảnh xuất hiện thực sự. Phương pháp này quen gọi là [U]Tâm động[/U] (Grotte du Coeur) dùng để gọi lên khung trời ư thức những hiện ảnh. Phương pháp gồm một số động tác mà tác giả phân chia một phần theo kinh nghiệm riêng như sau:
[U]Động tác 1[/U]: Ngồi trong tư thế rất quân b́nh, rồi nhắm mắt lại, xua hết mọi ư tưởng ra, đoạn nghĩ đến một vật ǵ, càng đơn sơ càng hay (thí dụ quả trứng, cái lá…). Cứ nghĩ đến vật đó hoài cho đến khi mở mắt xem lên tờ giấy trắng cũng thấy vật đó. Động tác này sẽ phải tập ít tuần hay ít tháng th́ đạt. Cái đó tùy người. Cần tập chỗ yên tĩnh, tốt hơn về ban sáng.
[U]Động tác 2[/U] : Khi đă thành tự động tác đầu th́ chuyển sang động tác 2 không xem vật nữa, nhưng xem xuống ngực, nh́n thẳng vào tim, ở điểm mà Yoga gọi là tâm xa (anahata) và quán tưởng (visualiser) thấy trái tim to như trái trứng ngỗng và đỏ rực như lửa. Tập như thế ít tuần hay ít tháng tùy người, cho đến lúc thấy tim nóng rực th́ thôi liền (v́ thế người đau tim phải tránh).
[U]Động tác 3[/U] : Khi đă thành công đợt hai là có được tâm động, bây giờ mới nghĩ đến việc làm cho h́nh ảnh xuất hiện trong hang trái tim. Muốn thế hăy chọn một mẫu ảnh, có h́nh nhỏ hơn tâm động để đứng vào vừa được. Phải chọn ảnh ḿnh kính mến ưa thích hơn cả trong tôn giáo của ḿnh, nên tùy mỗi người theo tôn giáo nào th́ chọn ảnh theo tôn giáo ấy. Khi chọn ảnh rồi th́ quán tưởng như động tác 1 cho đến lúc đưa mắt vào đâu cũng thấy tượng h́nh đó, như thế là được.
[U]Động tác 4[/U] : Ở tại đem h́nh tượng đó đặt vào tâm động, nghĩa là lấy trí đặt tượng h́nh nói trên vào ḷ lửa trái tim ḿnh đă quán tưởng được ở động tác 2. Bước này thường là mau. Khi thành tựu sẽ thấy h́nh tượng đó máy động và làm cử chỉ y như người sống thật, trước nhỏ bằng trứng ngỗng sau dần lớn bằng người thật biết cử động, nhưng chưa biết nói.
[U]Động tác 5[/U] : Là làm cho h́nh tượng đó nói được. Muốn thế nên chọn một tiếng vắn tắt như Aum của Ấn Độ, Amen của Kitô… hoặc tiếng khác nhưng không nên dài quá 5, 6 âm. Đó gọi là lời chú (lời để neo chú ư: Mantra). Cần phải chọn tiếng hợp tâm trạng của ḿnh, rồi cũng theo tư thế như các tác động nói trên, ngồi yên và cứ đọc thầm trong óc liên tục và tưởng như tiếng đó phát ra từ tượng chứ không phải do ḿnh. Đó gọi là âm thanh tưởng.
Sau khi đă luận tập đủ (lâu mau tùy người) th́ khi chú ư lắng nghe, liền nghe thấy tiếng tự tượng phát ra, ban đầu chỉ lặp lại những tiếng ḿnh đă chọn, nhưng lâu dần th́ hiện ảnh nói thành từng bài dài để cảnh cáo, khuyên răn, và nhiều lúc báo cho những điều vị lai chưa ai được biết, hoặc ở xa đấy. (Những động tác trên đây sẽ không cần theo thứ tự đối với một số người, cũng như có người không tập mà cũng được, c̣n có người tập ít lâu đă thấy liền. Cái đó tùy người).
Đó là đại để phép làm xuất phát hiện ảnh rất quen biết đối với các người thực hiện Yoga. Nó có công hiệu hầu như máy móc, v́ bên ngoài cơi ư muốn của tâm thức, bởi có phần tác động của tiềm thức, nên ở những người có khiếu tự nhiên, nhất là những phụ nữ có cân năo yếu, thần kinh liệt nhược mà những nhu yếu sinh lư bị dồn ép quá tàn nhẫn th́ có khi chỉ tập một tháng đă thành ảo kiến sĩ (visionmaire) hay nhiều khi thành trước khi tập dù không biết chi hết và v́ thiếu ư thức nên dễ bị hại nhiều hơn lợi. Các nhà tâm lư nhận ra có hai lư do gây nên ảo kiến, vọng tưởng hoặc những hiện tượng viễn thị, viễn thính : một là vào tuổi dậy th́ (puberté) v́ khi có những việc kỳ lạ như là gơ cửa, rung chuông, ném đá th́ thường trong nhà có trẻ đến tuổi dậy th́, nhất là thiếu nữ, v́ người nữa mạnh về trực thị mà yếu về ư thức hơn nam giới nên số ảo kiến sĩ nữ đông hơn nam.
Hai là sự hạ thấp độ ư thức (semi de conscience) như trong lúc gần ngủ hoặc khi dùng các chất làm lu mờ ư thức như Hippi dùng cần sa để siêu thoát… người ta thí nghiệm thấy loại kích thích tâm trí như ‘dexadrine’ không nhạy bằng loại hạ thấp ư thức (amita thí dụ). Năm 1980 một người Mỹ là Sampson ở bên Mỹ say ruợu nên xem thấy động đất bên Indonésie chết 38 ngàn người chính trong xảy ra tai nạn. Một người tên là Cayce biết chẩn bệnh và cho thuốc rất trúng khi bất tỉnh, nhưng lúc ư thức đầy đủ th́ không biết thuốc men ǵ nữa.
V́ những lư do trên, ở đây chỉ có ư giới thiệu để phần nào minh chứng cho những luận bàn về vọng phát, đồng thời để giới thiệu cho người học triết biết cơ cấu của tâm trạng để hiểu và dẫn dắt nêu có gặp dịp đặng tránh tai họa cho người không biết. C̣n chuyện có nên tập luyện hay không th́ tùy người. Tuy rằng có một số sách dạy Yoga khuyên dùng nó như phương tiện hiệu nghiệm để cho cái học quá lư trí khỏi trở thành khô khan, và nhờ phép tâm động mà trở thành sốt sáng. [B]Nhưng đó chỉ là những điều trong sách, và chúng ta nên dè dặt, v́ như đă nói đó chỉ là những vọng tượng phát xuất do cơ cấu yếu đuối của tâm thức.[/B] Sở dĩ giới thiệu ở đây là đem ra một phương pháp thăm ḍ khả năng tiềm ẩn của con người, và có thể coi đó như ch́a khóa đầu tiên mở vào những miền xa lạ, những quyền năng vượt mức thường nhân như thấu thị, thấu nhĩ, các phép trị bệnh gọi là "linh trị" (spititual healing) không phải bảo ta cần thí nghiệm, càng không bảo ta phải đạt tới quyền năng đó, nhưng để ta hiểu phần nào cơ cấu tâm linh của một số hiện tượng thường xảy ra và không để cho các đạo sĩ (charlatans) gây tệ đoan trong dân chúng. [B]Sở dĩ tệ trạng này c̣n rất nhiều th́ một trong các lư do cũng v́ triết lư chưa chiếu giă tia sáng nào vào những cơi vực u linh đó. [/B] Thuật tâm động này giúp ta hiểu phần nào những hiện tượng vượt mức thường : đi trên lửa, bay trên không, ngồi trên tấm ván có nhiều đanh đóng giơ mũi nhọn lên như kiểu các phù thuật bên Ấn Độ (Fakir). Nho kêu là [B]"hành quái"[/B].
Cũng có người dùng phương pháp trên cách khác và gọi là phép [B]Quán tâm[/B] để làm phương tiện tu đức. Muốn thế đạo sĩ quán tưởng thấy tâm ḿnh như vầng trăng tṛn đầy sáng láng và đứng yên trên ngực, thanh tĩnh, vắng lặng không chút bụi nhơ và rất mực trong mát. Đang lúc [B]quán tưởng như thế th́ trăng với tâm là một[/B]. Nếu trăng không nhiễm vết trần ai, th́ vọng tưởng cũng không xuất hiện nơi tâm.
Có người thêm pháp kết tay ấn hoặc niệm chú cho thêm phần linh nghiệm. Tất cả những phương pháp tương tự mà dân chúng thường tin tưởng là những bùa pháp linh nghiệm, có nhiều quyền năng huyền diệu, th́ sự thực chỉ là những phương thế biến chế từ phép tâm động, và không có mục đích nào khác hơn là để giúp ta tu luyện, có thể hợp cho một số người này mà không hợp cho số người khác. Người học triết cũng nên biết đại cương để rộng đường suy tưởng. Trong các phương pháp có thể là hợp với nhiều người và nhiều trường hợp hơn cả là phép Xả sau đây.
[B]
6. Phương pháp Xả : Sawa-sana [/B]
Xả hay là nghỉ toàn diện có ơn ích rất lớn cho việc suy tư chân thực. Hầu hết suy tư đă đi lạc hướng th́ một phần là tại đă không biết Xả. Nên thường dựa ngay trên những ư niệm. Nhưng đó chỉ là những điều hiển nhiên của công cảm (les évidences du sens commun) có tính cách rất phiến diện chỉ để tạm dùng cho đời sống sinh lư, chúng chỉ là dữ kiện cho sự thật thế gian, của tiểu thể, không phải sự thực của Trí tri thuộc Đại Thể. V́ vậy phải biết cách thải bỏ chúng đi trước đă. Yoga đưa ra một phương pháp rất công hiệu có lẽ đó là bước đầu hay nhất, và xin gọi là phép nghỉ toàn diện (cũng gọi là Smriti).
Thường ta gọi là nghỉ khi thôi làm việc, khi đứng không, hay ngồi, hoặc cả nằm nữa. Thực ra đó mới chỉ là nghỉ được một phần tư trong con người của ta. V́ trong lúc ấy trí mường tượng của ta vẫn chạy lung tung, nhân đó cân năo cũng căng lên một nửa, thần kinh cần phải lao tác. Muốn nghỉ toàn diện phải dùng tư thế (asana) Xả (sava) như sau:
Nằm ngửa trên giường hoặc phản hay ghế, đầu để sát giường, nếu có gối th́ chỉ kê cao một chút, nếu quay đầu hướng Bắc hay Đông để theo chiều từ trường của trái đất th́ càng tốt. V́ nằm ngược từ trường cũng làm tốn một ít sinh lực. Tay chân duỗi ra, úp hai bàn tay xuống giường, thả mọi gân cốt cho chảy ra hết như không c̣n thể vâng mệnh lệnh của ḷng muốn nữa. Đó rồi xua hết mọi ư nghĩ ra khỏi ư thức, hễ một ư nào vừa ló ra liền xua đi ngay. Trong khi đó có thể để trí vào gốc mũi, chỗ giữa hai lông mày gặp nhau. C̣n thân thể th́ cứ thả cho giăn hẳn xuống. Cần sao cho thực sự như cảm thấy ḿnh mẩy chân tay dính đét xuống giường. Muốn chóng đạt cảm súc đó nên đem trí khôn qua từng phần thân thể, hết tay rồi chân, thí dụ trước hết đưa trí vào tay tả, tưởng tượng từng đoạn một từ vai trở ra từ từ cho đến ngón tay thấy như chảy ra, dính đét xuống giường. Hết tay tả đưa trí sang tay hữu, rồi hai chân, đến lưng, cổ và nhất là mặt. Thường gần mặt hay co vậy cần làm cho thật giăn ra. Khi đă thành công th́ cảm thấy như tê liệt, dính hẳn xuống giường đến nỗi muốn chỗi dậy lập tức không được. Có người vài tuần đă tập được phép nghỉ này, có người phải từng tháng mới quen, lâu mau tùy người. Sau khi đă đưa trí đi ṿng quanh thân xác th́ lại trở về vị trí cũ ở gốc mũi, nơi nhà khắc tượng Phật quen điểm con mắt thứ ba gọi là Huệ nhăn. Chính việc để trí khôn vào điểm huệ nhă có một sức an nghỉ lạ thường nên nhiều người cho là một phép lạ thiêng liêng, sự thực đó chỉ là một cách giúp cho lập được thế quân b́nh rất hiệu quả.
Phép xả này giúp ta lấy lại sức rất mau. Cả một ngày làm việc mỏi mệt mà xả theo lối này th́ chỉ 15 phút lấy lại được sức như thường. Người mất ngủ một đêm cũng chỉ xả một khắc là đă đỡ mệt. Trước khi ngủ mà Xả th́ dễ ngủ hơn, không mơ hay rất ít, ngủ 4 tiếng khỏe bằng 7 tiếng. [B]Phép này ảnh hưởng rất nhiều đến việc an tĩnh tâm trí, v́ khi gân mạch giăn ra th́ t́nh tự buồn giận tức bực hạ hẳn xuống, nên giúp rất nhiều cho việc gỡ khỏi sự bám víu của những cái hiển nhiên theo lưu tục là điều tối quan trọng cho những ai muốn suy tư chân chính. [/B]
Chương V sẽ nói về sự cần thiết này ở điểm "tuyệt tứ". Đối với một số người phép xả này là phương pháp hay để tuyệt tứ nên chúng tôi giới thiệu ở đây, [B]và có thể coi là tinh hoa của phép Yoga[/B]. V́ khi dùng nó như phép xả mà thôi, nghĩa là chỉ có tính cách tiêu cực và tùy phụ th́ không e ngại biến chứng ra lối huyền niệm xuất thế (mysticisme acosmique) là cái gieo nặng lên tâm hồn một cảm tự ti khi phải hoạt động, nhất là trong thời đại giao động này. Cho nên giới thiệu phép Xả là chúng tôi nghĩ đă chắt lọc lấy cái hay nhất của môn Yoga ai cũng có thể thí nghiệm mà không cần linh hướng (Gourou). Ban đầu cần hiện thực một cách rất tỉ mỉ như đă chỉ dẫn trên. Một khi đă quen th́ sau thi hành bất cứ trong tư thái nào và trường hợp nào, chẳng hạn khi gặp những điều quá trái ư như lâm vào những hoàn cảnh bất khả kháng vượt quá xa tầm chịu đựng hay trù liệu của lư trí, chẳng hạn cảnh tan cửa nát nhà, chiến tranh đổ vỡ, cũng có thể thi hành nếu thực đă quen. [B]Lúc đó phép Xả này đem lại cho ta sự b́nh tĩnh và một sự mát dị tâm hồn do đó giúp ta t́m ra được lối thoát tương đối hay nhất.[/B]
(c̣n tiếp)
II. VÔ NHỊ HAY LÀ PHƯƠNG PHÁP SUY TƯ CỦA TRIẾT ẤN ĐỘ (tiếp theo)
[B]1. "Công hồ dị đoan tư hại dă dĩ" [/B]
Muốn thoát gọng ḱm nhị nguyên là một chuyện, mà thoát được hay chăng lại là chuyện khác. Các triết học Tây Âu chống đối nhau : mỗi môn phái sau được đề nghị ra là để chống môn phái trước : mà tựu trung có thể quy ra Động chống Tĩnh.
Héraclite đưa ra biến dịch ra chống lại bất biến của Parménide. Các môn sau đứng trong thế bất biến của Parménide để chống đối lẫn nhau. Cuối cùng đâu vẫn hoàn đó, nghĩa là vẫn mang gông nhị nguyên.
Triết lư Ấn Độ muốn thoát nhị nguyên bằng khước từ trọn vẹn hiện tượng với chủ trương vô nhị. Và chúng ta đă thấy cứ nói chung vẫn không thoát gọng ḱm nhị nguyên nốt. Sự thất bại lớn lao và lâu dài đó có một lư do sâu xa và rất tế nhị, nên cần chúng ta phải dừng lại suy nghĩ cẩn mật câu nói của Khổng Tử: [B]"chống đối khởi đầu khác[/B] (một trong lưỡng đoan) [B]là điều hại"[/B]. [B][I]Công hồ dị đoan tư hại dă dĩ ![/I], 攻 乎 異 端 , 斯 害 也 已 ![/B]. Tại sao thế ? Lấy ánh sáng Kinh Dịch soi vào chúng ta thấy nguyên ủy sâu xa sự việc nằm trong cái luật Âm Dương. [B]Âm Dương là hai cực, hai tận cùng của dịch trường (champ), nói cao lên là của Nhất thể Viên Dung[/B]. Vậy cái nguyên lư căn bản của cái có cùng (tức mọi hiện tượng, mọi sự vật, mọi biến cố) đều phải thống nhất trong nhị cực. [B]Nhị cực chỉ tất cả những ǵ dị biệt phồn đa, c̣n Nhất thể chỉ nơi hội thông của các dị biệt phồn tạp kia[/B]. Hoặc nói theo lư luận th́ [U]Chân lư căn bản chỉ có một, duy nhất, nhưng có vô số chân lư lẻ tẻ dị biệt hợp cho vô số những khía cạnh của vạn vật[/U]. Những chân lư lẻ tẻ thuộc cái biết thế gian thường nghiệm chỉ cần một lương tri thông thường lành mạnh cũng t́m ra được một số đủ để hành xử ở đời. [B]C̣n Chân lư căn bản th́ là cùng đích của Minh triết (Sagesse) của Đạo lư hay là cái biết siêu linh gọi là Trí tri[/B]. [U]Sứ mạng của suy tư chân chính phải là nhận thức ra chân lư nền tảng đó với những mối liên hệ của các chân lư lẻ tẻ đối với nó[/U]. Được như thế các chân lư lẻ tẻ sẽ gia tăng phần chói sáng và ḥa hợp với nhau.
Thế nhưng trong những lối lư luận Nhị giá hay Vô nhị tiêu cực lại đi ngược với nguyên tắc trên : [B]vô nhị khước từ những chân lư lẻ tẻ dị biệt, c̣n Nhị nguyên không thấy được Chân lư căn bổn, hay nói đúng hơn nhận lầm một trong hai cực làm chân lư căn bổn th́ đó là chân lư giả tạo[/B]. Chân lư nền móng giả tạo này có đặc tính là chống đối nhau như thị phi, bỉ thử, có không… Nay nhị nguyên đem đặc tính đối kháng này gán cho chân lư căn bản th́ tỏ ra không biết chân lư đó. Bởi v́ một khi đối kháng th́ phải ở trên cùng một b́nh diện mới có thể đối kháng. [B]Chỉ có những chân lư hữu hạn mới có thể đối kháng. Vô cùng không thể đối kháng[/B] : v́ đối kháng bao hàm một đối vật, đối tượng khác với vô cùng mà vô cùng chưa bao trùm được. Nhưng nếu chưa bao trùm được th́ đó là vô cùng giả tạo : nói khác [U]đó chỉ là cái có cùng được lư trí phong lên bậc vô cùng, nhưng lư trí có cùng không sao cấp phát vô cùng tính cho cái chi được, "phải có mới cho được"[/U] : ‘nemo dat quod non habet.’ Đấy là luật nền móng nên khi phạm vào sẽ nảy sinh rất nhiều tai hại mà ở đây chỉ bàn đến khía cạnh tâm lư mà thôi. Khía cạnh đó có thể công thức hóa như sau : "chống đối là chấp nhận". Lăo Tử nói lên chân lư này trong câu:
[I][B]"Tương dục nhược chi, tất cố cường chi
Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". [/I](ĐĐK 39)
將 欲 弱 之, 必 故 強 之 ;
將 欲 癈 之, 必 固 興 之 ;
Muốn làm cho yếu đi tức là làm cho mạnh lên đó
Muốn phế bỏ đi tức là làm cho hưng thịnh lên vậy.[/B]
Trang Tử giảng rộng như sau : "lấy sự đối kháng (bất b́nh) để gây dựng an b́nh, th́ loại an b́nh đó vẫn c̣n là đối kháng, vẫn c̣n là bất b́nh. "[I]Dĩ bất b́nh b́nh, kỳ b́nh dă bất b́nh[/B][/I], 已 不 平 平, 其 平 也 不 平 "[B]. (Trang Tử, NHK, Ngự Khấu). Đấy là một luật tâm lư sâu xa mà chúng ta có thể kiện chứng và hiển minh bằng một đoạn văn thời mới của Ruyer, một triết học gia về giá trị học (axiologie) :
[I]"A anti B adopte progressivement les moeurs, les gestes même du parti B. Les deux adversaires sont sur les même plans : ils sont modifíés par une sorte d'induction assimilatrice. Les vraies victoires et les vrais progrès sont, obtenus au contraire lorsqu'on oblige l'adversaire à se dévaloriser lui même en refusant d'entrer dans son jeu, en maintenant avec vigueur son ordre propre dans lesquels les valeurs de l'autre se déforment et perdent tout le sens. Le principe de non-violence de Gandhi repose là-dessus"[/I]. (Ruyer: Le monde des valeurs p.52)
"Trong khi A chống B th́ lần lần A thâu nhận lề lối cư xử của B. V́ cả hai đối nghịch cùng đứng trên một b́nh diện, nên họ bị biến dạng theo lối thâu hóa tẩm nhuận, nghĩa là ngoài chí muốn và ư thức của họ. Ngược hẳn lại những trận thắng trung trực, những bước tiến bộ chân chính chỉ sở đắc khi người ta buộc đối phương phải tự ḿnh hạ giá ḿnh bằng cách từ chối đi vào kế hoạch của họ, bằng luôn luôn duy tŕ nguyên lư an bài đặc trưng của ḿnh theo đó th́ những giá trị đối phương sẽ tự biến dạng và mất hết ư nghĩa. Nguyên lư bất bạo động của thánh Gandhi y cứ trên đó".
Chúng ta có thể kiện chứng thêm bằng ít nhận xét sau. Không đâu chống đối dị đoan cho bằng Âu Châu thế kỷ 18, 19 với óc tôn thờ khoa học cơ khí, nhưng hiện nay có lẽ Âu Châu không thua xứ nào về dị đoan. Lấy thí dụ kinh thành Paris mà nói th́ cứ 120 người đă có một thầy bói, đang khi phải có 514 người có một y sĩ, 5000 người mới có một tu sĩ. Cũng v́ lư do sâu xa đó mà những người chống trả tính kiêu ngạo thường trở thành rất ngạo nghễ v́ đức khiêm cung của họ. Người Cộng sản chống tín điều tôn giáo th́ cuối cùng học thuyết của họ mang nặng tính chất tôn giáo. Có thể kể nhiều thí dụ… Tất cả đều giống đàn gà trong câu truyện ẩn dụ : v́ quá sợ con cáo, nên suốt đêm không ngủ, cứ nh́n tṛng trọc vào con cáo đứng chực dưới gốc cây: cuối cùng hết con nọ đến con kia, theo nhau rơi xuống làm mồi cho cáo.
Ta có thể giải nghĩa như sau; [B]khi lư trí con người đă dồn hết vào một đối tượng[/B] (tượng trưng bằng rùa) [B]th́ không c̣n tâm trí để vào Toàn thể Viên Dung nữa, tức là không để vào Tánh Thể, hay Chủ thể[/B] (tượng trưng bằng Achille) th́ chủ thể bị quên lăng và trở nên yếu đi, nên đối tượng thấm lần vào qua nẻo tiềm thức, nên ư thức không hay biết, và v́ thế cuối cùng rơi vào chính cái mà ư chí muốn tránh hơn hết.
Đó là nguyên do tâm lư giải nghĩa sự sa lầy của thuyết Vô nhị tiêu cực Ấn Độ, cũng như của thuyết Nhị nguyên triết Tây. Khi nh́n tổng quát các khoa lư luận cổ điển hàn lâm, Heidegger đă ví với bá tước Umchhausen sa xuống ao lầy mà cứ cầm lấy búi tóc ḿnh mà lôi lên ([I]Baron Umchhausen s'efforce de se tirer du marais en se prenant lui même aux cheveux[/I]). Lẽ tất nhiên càng kéo búi tóc duy lư th́ càng ch́m sâu măi xuống ao lầy. Các cặp đối kháng : duy tâm với duy vật, thị với phi, bỉ với thử, hữu vi với vô vi… chỉ khác nhau nhăn hiệu với ít tiểu tiết, c̣n đại để giống nhau, miễn biết nh́n sẽ nh́n thấy.
Chân lư trên đây hiện nay đă được nhiều nhà tâm lư học chú trọng đến và có người gọi là "cố gắng trở cờ" nghĩa là thường xảy ra chính điều ḿnh đang cố tránh : người mới tập xe đạp chú trọng tránh con trâu sẽ xô vào con trâu. Người đang ở nơi tôn nghiêm gặp cái buồn cười mà cô gắng nín th́ lại càng ph́ cười. Người đang bị một tư tưởng ám ảnh mà càng gố gắng bỏ, nó càng ám ảnh hơn. Người hay mắc cở cố sức tránh đỏ mặt lại càng đỏ mặt hơn… Ông Coué gọi đó là cái ư chí tự chống lại ḿnh, và ông Baudovin gọi là "cố gắng trở cờ" (effort converti) [U]khi một ư tưởng đă gợi ra một ám ảnh, bao lâu ư tưởng đó c̣n làm chủ lư trí, th́ hết mọi nỗ lực đưa vào chống với ám ảnh trên đều chỉ gia tăng thêm hoạt lực cho nó[/U]. Chữ ám ảnh đây hiểu theo nghĩa rộng và chỉ một ư tưởng nổi bật lên nền trời ư thức hầu như cách độc chiếm. Chính sự độc chiếm đó gây nên hiện tượng "cố gắng trở cờ".
Nhiều nhà tâm lư giải nghĩa rằng sự cố gắng của ư chí giả thiết một sự chống lại, hoặc nói khác bao hàm một động tác và một điều phản động (une action et une réaction) thí dụ nếu tôi chú tâm vào một ư tưởng, th́ điều đó đ̣i một sự cố gắng và một sự chống lại (kéo lại); như vậy không phải là tôi có một ư tưởng, nhưng có hai ư tưởng trái ngược nhau, với hai ám thị chống đối nhau và do đó hoặc trung ḥa nhau, hoặc nghiêng sang phe chống lại : nên xảy ra hiện tượng trái ngược ư muốn. Và cũng v́ lư do đó người ta dễ mắc thói quen xấu cố gắng tránh bỏ hơn thói quen tốt. Vậy phải làm thế nào cả trong việc luyện tập những tính tốt cũng như trong việc suy tư ? Thưa phải đi theo lối "xả" đặc biệt nghĩa là vừa thanh thoát trong tư thế vừa không chú trọng đến đối tượng. Đó là lối suy tư theo quẻ Quán trong Kinh Dịch. Lời Kinh rằng : [I][B]Quán nhi bất tiến, hữu phù ngung nhược. Tượng: Đại quan tại thượng, thuận nhi tốn. Trung chính dĩ quan thiên hạ. [/I]盥 而 不 薦 . 有 孚 顒 若 . 彖 曰 . 大 觀 在 上 . 順 而 巽 . 中 正 以 觀 天 下 ."[/B] Dịch : rửa tay trong sạch mà không tiến (ư nói không can thiệp vào sự diễn biến của mọi sự vật, mọi ư tưởng đi qua). Đầy ḷng tín nhiệm và cung kính (không có ư ngờ vực mà cũng không có ư đánh úp để bắt lấy). Xem từ trên cao xuống một cách thuận theo và từ tốn (đây nói là ư tưởng không nên can thiệp vào đường vận hành của tư tưởng), nhưng lấy cái ḿnh làm trung điểm đặng ngắm nh́n các biến cố, hiện tượng trôi qua.
Đó là lối suy tư của quẻ Quán nó không dùng sức hay cố gắng để ư đến một vật nào hay một ư nghĩ riêng biệt, nhưng để ḷng thanh thoát nhẹ nhàng và không sủng ái một đối tượng chọn lọc (chữ Tiến có nghĩa là cúng tế mà không dùng súc vật, dầu thế cũng không tiến). Nhờ đó ư thức và lư trí như lơ lửng và tiềm thức hầu như nhô lên mặt ư thức làm nảy sinh nhiều tư tưởng bất ngờ và thường rất trung thực bao la. Sở dĩ như thế là v́ [B]thực tại tự thân là một cái ǵ toàn thể[/B], cần toàn thể con người phơi mở ra để đón nhận. Vậy mà khi ta chú trọng đến một vật th́ lư trí cũng như ư muốn bị huy động trọn vẹn. Cả đến những gân mạch cũng trương lên (hăy nghĩ đến bức tượng "kẻ suy tư" của Rodin) toàn thân như co dúm vào một điểm nhỏ. Ngược lại trong lối Tâm tư theo Quan Đạo th́ lư trí cũng như ư muốn không bị huy động để giăng lưới phủ kín khắp nền ư thức, đến nỗi tiềm thức không c̣n chỗ để nhô lên bằng những mơ màng lúc thức, những phóng tượng, v́ đó là những h́nh thái, những sơ tượng mà tiềm thức dùng đặng ḍ đường để xuất hiện. [B]Khi nào tâm trí ta thư thả th́ tiềm thức có thể nhô lên để cùng với ư thức làm nên một trạng thức lưỡng diện là trạng thức thuận lợi nhất cho sự nảy sinh những tư tưởng trung thực vốn cũng lưỡng diện.[/B]
Đó là đại để lối suy tư theo quẻ Quán (Quan Đạo) nó giàn ḥa giữa duy giác (Tây Âu) và tuyệt giác (Ấn Độ). Chúng ta sẽ bàn tiếp trong các chương triệt sau. Ở đây hăy xét trước hết tại sao không nên biệt dụng tai mắt (duy giác).
[B]2. Nhĩ mục chi quan bất tư [/B]
Tai mắt và lư trí là những cơ năng có cùng không sao đạt được cái vô cùng. Dùng những sản phẩm trực thị của chúng (données immédiates sensorielles) là việc của lưu tục, của chân lư thế gian… Bên Viễn Đông môn phái Mặc Địch chủ trương dùng "tai mắt trăm họ" y như nhị nguyên, và cũng dẫn đến những luận cứ giống như của Zénon, nhiều câu y hệt. Chẳng hạn câu "cái giây một thước mỗi ngày lấy đi một nửa, muôn đời không hết" giống hệt lư luận rùa. "Nhanh như tên bắn mà cũng có lúc không đi không ngừng" hay câu "bóng chim bay không hề động đậy" ([I]thi điểu chi ảnh vị thường động dă[/I]. Thục II. 108) th́ giống hệt luận cứ cái tên của Zénon. Nhưng thay v́ đưa những lối luận cứ đó ra để xây nền luận lư như Aristote đă làm, th́ bên Viễn Đông các triết gia từ Tuân Tử đến Vương Sung đều đồng thanh cự tuyệt. Ở đây chỉ trưng làm thí dụ một câu nhẹ nhàng hơn cả của Mạnh Tử, nhưng đầy ắp tính chất hiện thực hợp thời.
Khi Công Đô hỏi thế nào là tiểu thể và Đại thể, Mạnh Tử đă không trả lời trực tiếp bằng xác định : v́ [B]Đại thể là chân lư muôn thuở vô biên không thể xác định[/B] và ông trả lời theo phương pháp tác dụng, nghĩa là theo đường lối hiện thực rằng : [I][B]"nhĩ mục chi quan bất tư, nhi tế ư vật : vật giao vật, tắc dẫn chi nhi dĩ hỹ. Tâm chi quan tắc tư. Tư tắc đắc chi. Bất tư tắc bất đắc dă.[/I] 耳 目 之 官 不 思 , 而 蔽 於 物 , 物 交 物 , 則 引 之 而 已 矣 . 心 之 官 則 思 , 思 則 得 之 , 不 思 則 不 得 也 [/B]. (Mạnh VI.15). [B]Dùng dữ kiện của tai mắt mà suy luận th́ không phải là tư[/B], nhưng chính là vướng mắc vào sự vật, nên vật ở trong (ư niệm) sẽ giao với vật ở ngoài để dắt người suy tư kiểu đó xa khỏi Đại thể hay là Nhân tính. Vậy phải dùng Tâm mới là Tư chân thực mà có tư chân thực mới đắc chân lư nền tảng (Đại thể) c̣n không tư (hay tư theo dữ kiện tai mắt) th́ không thể Đại thể, hay là nguyên lư sống động truyền sinh lực vào cho các tiểu thể là những chân lư vụn mảnh, xé lẻ, dị biệt.
Lư do là v́ tai mắt là những cơ năng dựa vào nhục thể có hạn, [U]c̣n lư trí chỉ là nơi quy tụ nhào nặn những sản phẩm giác quan đó để tạo thành những ư niệm này nọ kia khác, rồi gọi là vật[/U], [B]mà thực sự không là vật tự thân[/B] mà chỉ là nội dung trừu tượng của lư trí, của giác quan : nhĩ, mục, cảm, vị, khứu… Khi người ta không nhận ra bản chất của những dữ kiện đó, c̣n trợ lực cho chúng bằng cách tổ hợp chúng thành hệ thống nọ kia, th́ chúng trở thành ảo ảnh, biến ra giá mắt (oeillère) để dẫn người đó chạy ṿng ngoài, mà Mạnh Tử kêu là [B][I]"vật giao vật tắc dẫn chi nhi dĩ hỹ"[/I][/B].
Vật trong là ư niệm hay đối tượng (objet) giao kết với vật ngoài là h́nh, danh sắc, tướng, nghĩa là cũng trống rỗng như đối tượng bên trong. Hai đàng có họ hàng "rỗng" như thế vào hùa với nhau để dẫn nạn nhân chạy theo ṿng ngoài với những danh từ, biểu tượng trống rộng, nghĩa là không liên hệ với nguyên lư sống động căn bản. Ṿng ngoài như vậy là trỏ vào những "chân lư hiển nhiên của tai mắt trăm họ". Những sự kiện, biến cố đă xảy ra ở một thời điểm và một không điểm nhất định hoặc những tổ hợp các ư kiến của triết học gia này nọ kia khác mà người ta quen gọi là triết học, tất cả đều ở ṿng ngoài [B]nên khi triết học đốc ra khoa dạy các tổ hợp ư kiến đó th́ có học hết các triết gia đông tây kim cổ cũng chỉ là nhọc trí óc gân mạch cân năo mà không mảy may sinh động hứng khởi, không thể gây nên một nếp sống, gợi ra một hướng đi.[/B] Đó gọi là [I][B]"vật giao vật tắc dẫn chi nhi dĩ hỹ"[/B][/I]. [U]Con người bị dẫn đi ṿng ngoài như thế quên mất đường trở lại "nhà" tức là Nhân tính[/U], nên quen dùng tiếng [B]"vong thân"[/B] mà chỉ thị.
Để tránh vong thân phải [B]"thân nhi thành"[/B]. Để tránh [B]"vật giao vật"[/B] phải đạt [B][I]"thiên địa nhân giao hỗ kỳ căn"[/I][/B]. Tam tài giao nhau ở căn để chứ không ở ṿng ngoài. Ṿng ngoài là vật giao vật. [B]Ṿng trong mới là giao hỗ kỳ căn. Căn là tâm con người.[/B] V́ thế mới nói "[B][I]tâm chi quan tắc tư"[/I][/B]. [B]Và chỉ có cái Tư trên căn để đó mới đắc đạo, đắc lư, đắc nguồn suối tuôn trào sáng láng và mạnh mẽ.[/B] Tâm như vậy là cái ǵ vượt nhĩ mục, vượt giác quan, nhưng thực sự là cái chi th́ chúng ta không thể nói được, nhưng chỉ nói về lối suy tư, cảm nghĩ và sống sao đặng cho có thể cảm nghiệm để rồi thể nghiệm. Thế nào là suy tư theo tâm, theo Đại thể ? Thưa, đó là lối của [B]Hoa Đường Lệ[/B].
[B]3. Đường Lệ chi Hoa. [/B]
Đường Lệ là một thứ hoa triết lư hơn hết v́ nó "nở trước búp sau" [B]nghĩa là đi theo "tiết diệu căn cơ" nhất hạp nhất tịch, một mở một đóng[/B] như lối nói của nhà hiền triết Hy Lạp cổ sơ với danh từ Phusis cũng là mở nhưng lại yêu thích khép lại (Phusis Krustesthei Philei). Nếu không khép lại th́ sao có thể mở ra. Cũng như trong triết lư Ngũ hành gieo ra gặt vào phải đi đôi (giá sắc). Hai danh từ gieo gặt mang tính chất nông nhiệp. Ba danh từ Phusis Krustesthei Philei có tính chất trừu tượng giống với nhất nhạp nhất tịch. [B]C̣n Đường Lệ chi Hoa có tính cách nghệ thuật thiên nhiên nói lên một cái nh́n thấu thị, một kinh nghiệm trung thực trước cái tiết diệu uyên nguyên đóng mở, mở rồi đóng để có thể mở nữa cho sự vật luôn luôn đổi mới, cho cái Đức, cái Huyền lực con người luôn luôn được tăng trưởng[/B]. Đó là lối tâm tư nối kết tâm t́nh nghệ thuật với suy tư luận lư, một lối suy tư mà Heidegger kêu là "dichtent-denkende, denkend-dichtende": nghệ sĩ suy tư hay suy tư nghệ sĩ, tức không phải lối lư luận thuần trí thẳng thừng làm tắc nghẽn nhạy cảm tính của t́nh tự, nhưng là lối suy tư đầy cảm ứng như nghệ thuật với những biên giới nhập nhằng vi tế mà câu "Đường Lệ chi Hoa" là một ví dụ. Câu nói như ẩn như hiện đă phát xuất trên 30, 40 thế kỷ mà nay vẫn mang tính chất thời sự nóng bỏng, v́ nó phản chiếu cái luật căn cơ mà Kinh Dịch đă đúc vào câu sau :
[I][B]"Nhất âm nhất dương chi vị đạo.
Kế chi giả thiện dă
Thành chi giả Tính dă...
Bách tính nhật dụng nhi bất tri
Cố quân tử chi đạo tiển hỹ
Hiểu chư Nhân, tàng chư dụng"[/I] (H.T.V)
一 陰 一 陽 之 謂 道 .
繼 之 者 善 也 .
成 之 者 性 也 ...
百 姓 日 用 而 不 知 .
故 君 子 之 道 鮮 矣 .
顯 諸 仁 . 藏 諸 用 [/B].
Đạo là một âm một dương, một đóng một mở. Bước theo cái tiết nhịp uyên nguyên đóng mở đó là Thiện. Mỗi khi thiên lệch khỏi cái tiết điệu đóng mở, giá sắc đó, th́ cần phải phản hồi. Khi nào thành đạt tức không c̣n thiên lệch đi nữa nghĩa là đă nối ṿng ngoài ư thức với ṿng nội tiềm thức, nói vắn tắt là nối mở với đóng, th́ là đạt Nhân tính, đạt cái Đức, cái Huyền lực của Tính là hợp ngoại với nội [B][I]"tính chi đức dă, hợp ngoại nội chi đạo dă,[/I] 性 之 德 也 , 合 外 內 之 道 也 ,"[/B] (T.D).
Đạo chỉ đơn sơ có thế thôi, một mở một đóng và trong đời sống thường nhật ai cũng phải theo : một hô một hấp, một thức một ngủ, một ăn một tiêu, một nam một nữ… Tuy nhiên [B]thường dân không ư thức được đó là Đạo, nên bỏ đi t́m Đạo ở măi đâu xa : xa ḿnh, xa nhà, xa nước, cho nên Đạo quân tử trở thành hiếm hoi[/B]. Phusis là Đạo lư đốc ra vật lư (physique). [B]Logos là lời tự sự có mở có đóng[/B] đốc ra lư luận ṛng (logique) nghĩa là chỉ c̣n có mở. Chỉ có mở mà không biết đóng như lọ nước hoa bay hết hương vị. Triết lư đốc ra triết học giống với hoa nylon mầu sắc có mà hương vị không. Làm thế nào để khỏi sa đọa như thế ? Thưa, phải [B][I]"thiên kỷ phản nhi"[/I][/B] thiên là chỉ có đóng hay chỉ có mở, phải biết trở lại với tiết nhịp căn để là mở đóng giao liên mới đạt nhân tính. [B]Khi có Nhân th́ thấy đóng mở hiển hiện nghĩa là ư thức được thâm sâu rằng Đạo là thế và chỉ có thế.[/B] [U]Chính v́ chỗ đơn sơ đó nên Đạo ấy trở nên ẩn tàng đối với những ai chỉ chạy ṿng Dung (mở) mà không móc nối vào được ṿng Thể (đóng)[/U]. Kinh Dịch viết ra là giúp người đọc móc nối đời sống vào tiết nhịp uyên nguyên nọ. Trung Dung là sách tóm lược Đạo lư Kinh Dịch. V́ thế chúng ta hăy bàn về hai chữ Trung Dung.
[B]4. Trung Dung [/B]
Trung Dung tuy là then chốt của Nho triết, nhưng bị hiểu lầm hơn hết. Một trong những lư do đó có lẽ là không biết đặt nó vào tinh thần Kinh Dịch, mà [B]tinh thần Kinh Dịch là chữ Tùy thời[/B]. V́ thế chúng ta thử nh́n hai chữ Trung Dung dưới khía cạnh chữ Thời để t́m hiểu ư nghĩa. Chúng ta hăy chú trọng vào chữ [B]Dung[/B] v́ chữ này gây nên hiểu lầm nhiều nhất.
Chữ [B]Dung[/B] có ba nghĩa đáng chú ư: một là dùng như [B]Dụng[/B], hai là tầm thường như chữ [B]Phàm[/B], ba là thường thường như chữ [B]Hằng[/B].
Trước hết Dụng là ǵ ?
Thưa, Dụng là dùng, là [B]tạm dùng mà không coi là vật thể[/B]. Đó gọi là [B][I]"chấp kỳ lưỡng đoan"[/I][/B]. (T.D.6). Chấp kỳ lưỡng đoan khác với "chấp nhất". Chấp nhất th́ xả bách nghĩa là bỏ mất đoan kia và tất cả những ǵ tế vi làm nên mối liên hệ với nó. Thí dụ trong âm giai có 7 cung mà chấp có một cung đầu hay cung cuối cùng th́ tức là bỏ mất 6 cung kia với vô vàn tiểu độ (coma) ở giữa 7 cung của toàn âm giai. Khi áp dụng nhị nguyên vào thời gian th́ một là chấp dĩ văng hay là tương lai. Ngược lại với [B][I]"chấp kỳ lưỡng đoan"[/I] là kể đến (tenir compte) cả dĩ văng lẫn tương lai nhưng không đặt quan trọng vào đó như đối tượng, mà chỉ coi như hai đoan, hai tận cùng (teminaisons) của dịch trường (champ), của một liên hệ.[/B] Liên hệ đó gọi là [B]Trung[/B] nằm trong hiện tại, [B][I]"dụng kỳ trung ư dần"[/I][/B] (T.D.6)
Nghĩa thứ hai của [B]Dung là tầm thường (phàm)[/B]. Chính v́ tầm thường nên không ai để ư đến. Nhưng đấy là điểm khốn đốn, đấy là điểm then chốt để sa đọa hay để đạt đạo. Tầm thường là ǵ ? Thưa là ở mức độ thường nhật ai cũng với tới. Thường nhật là ǵ ? Thưa là ở đây và bây giờ. Chúng ta đă học ở chữ Thời để biết [B]dĩ văng thuộc Địa, tương lai thuộc Thiên, c̣n hiện tại ở đây và bây giờ là của Người[/B]. Đạo bất viễn nhơn, nghĩa là Đạo không có ở dĩ văng hay trong tương lai nhưng ở ngay tại nơi đây và bây giờ, ở trong lúc mọi người đang sống, đang dùng. Nhưng người thường không thấy [B][I]"bách tính nhật dụng nhi bất tri"[/I][/B] là v́ có hai thứ bây giờ. Một bây giờ ṿng ngoài, phân cách khỏi dĩ văng và tương lai, nên không thỏa măn con người vốn cầu mong cái ǵ bao la to lớn hơn, do đó nó chạy lui chạy tới như đưa thoi giữa dĩ văng và tương lai : nó lưu lại dĩ văng một mớ tâm trạng bằng thương, nhớ, phiền, tủi, tiếc, xót, đắng cay… lại chi cho tương lai một mớ âu, lo, trù tính, sợ hăi, ưu tư… [B]thành thử c̣n giữ lại cho hiện tại có chút xíu tâm hồn để sống, nên nó sống vọng ngoại, nghĩa là vọng tương lai, mà tương lai chỉ là dĩ văng phóng tới và như thế là vong thân khi hiểu thân là Đại Thể Tâm linh mà chỉ c̣n thu hẹp vào cá thể có giới hạn v́ chỉ dựa vào có dĩ văng và tương lai là những vụn mảnh của không gian, thời gian có giới mốc.
[/B]
Bởi vậy tuy ở trong hiện tại mà vẫn thiếu hiện diện như Heidegger nói [I]"présent sans présence"[/I] hay như Đại học nói rơ hơn là "[B][I]Tâm bất tại"[/I][/B]. Mà Tâm đă bất tại th́ có xem cũng chẳng thấy, có lóng cũng không nghe, có ăn cũng không biết mùi vị. Không thấy, không lóng, không nghe, th́ dẫu có mặt cũng không gọi là hiện diện, v́ tâm trí c̣n để vào dĩ văng và tương lai. Tương lai và dĩ văng phóng bất cứ một ra, mà dĩ văng gắn liền với không gian, v́ biến cố nào đă xảy ra là xảy ra trong một không điểm và một thời điểm, nên dĩ văng không ĺa khỏi được không gian. Không gian có phân trương đo đếm, cắt xẻ ra được. V́ thế người lưu trí vào dĩ văng có tâm trạng bị xé lẻ, ly tán y như không gian, nên mất khả năng nh́n ra hiện tại vĩnh cửu vô biên. [B]Bởi hiện tại là điểm phi không gian, v́ thế nên nó tế vi. Nhưng chính v́ chỗ tế vi, nhờ chỗ phi không gian đó mà nó có thể thoát khỏi không gian, mà thoát khỏi không gian cũng là thoát khỏi thời gian gắn liền với không gian, nghĩa là thoát khỏi những hạn cục bé nhỏ, chật hẹp.[/B] Và như vậy là vượt lên nghĩa thứ ba của [B]Dung là Thường Hằng[/B] : "Eternity".
Nói Thường Hằng cũng là cưỡng dùng như bất cứ danh từ nào vậy. V́ thường hằng không có nghĩa là kéo dài măi măi qua thế hệ này đến thế hệ kia vô cùng. Thường Hằng không có kéo dài kéo ngắn chi hết, nên gọi là [I][B]"vô bản phiêu giả"[/B][/I] hoặc [I][B]"vô thủy vô chung"[/B][/I]. Như vậy có nói hiện tại nối liền với dĩ văng tương lai th́ cũng chỉ là một cách nói tạm dùng, v́ cái bây giờ măi măi không c̣n trôi chảy, v́ hễ có trôi chảy, có kéo dài tức là có đầu có đuôi, [B]mà thường hằng lại vô thủy vô chung, nên cũng [I]"vô hồ xứ giả"[/I][/B]. Do đó rất tế vi khuất mắt của bá tánh, [U]nhưng người học triết nếu đạt đạo th́ hơn thường nhân ở chỗ xem thấy điều mọi người không xem thấy[/U]. [B]Người thường không b́ kịp quân tử ở chỗ đó[/B] chứ không ở những cái phơi trải ra trước tai mắt trăm họ. "[B][I]Quân tử chi sở bất khả cập giả, kỳ duy nhân chi sở bất kiến hồ[/I], 君 子 之 所 不 可 及 者 , 其 唯 人 之 所 不 見 乎 ."[/B] (T.D. 33).
Chính v́ thế nên [B]tiên hiền không đặt quan trọng trên những dữ kiện do tai mắt thâu thập[/B]. V́ những cái đó thường nhân ai cũng chú ư, [B]và điều đáng ngại là người ta chú ư quá đáng đến nỗi giốc toàn tâm trí vào những "sự thực hiển nhiên hằng ngày"[/B]. V́ thế sách Trung Dung nhấn mạnh rằng : [U]người học minh triết cần phải cẩn trọng cái điều mà mắt không thấy, tai không nghe, v́ chính bởi nó không hiện h́nh ra nơi nào cả[/U] : [B][I]"vô hồ xứ giả"[/I][/B] nên nó ở khắp nơi, ở trong vạn vật, [B]nói đúng hơn là nó làm nên vạn vật[/B]. Chính v́ chỗ tế vi hơn người thường đó nên triết gia cần tập luyện cẩn trọng về những cái mắt không thấy, tai không nghe, [B]v́ những cái tế vi đó mới là cái Thường Hằng bao trùm vạn vật và bởi đấy sách nói : không ǵ hiện rơ bằng cái ẩn tàng, không ǵ hiển lộ bằng cái tế vi[/B]. [B][I]"Thị cố quân tử giới thận kỳ sở bất đố, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn. Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi"[/I]. 是 故 君 子 戒 慎 乎 其 所 不 睹 , 恐 懼 乎 其 所 不 聞 . 莫 見 乎 隱 , 莫 顯 乎 微 "[/B] (T.D.I)
[B]Có biết tinh luyện và chuyên nhất như thế mới hiểu được nội dung của hiện tại theo nghĩa h́nh nhi thượng của Trụ là [I]"vô bổn phiêu giả"[/I][/B], cũng chính chữ [B][I]"vô bổn phiêu giả"[/I][/B] bao hàm câu trả lời cho thắc mắc rằng nếu "sống trọn vẹn hiện tại th́ có khỏi xóa bỏ dĩ văng và không dự trù tương lai chăng? Thưa, nếu ta sống hiện tại b́ phu phân biệt với dĩ văng và tương lai th́ có thể như thế. [B]C̣n hiện tại nói ở đây v́ "vô bổn phiêu giả" nên gồm cả dĩ văng và tương lai, nên sống trọn vẹn được nó th́ cũng bao trùm cả dĩ văng tương lai mà lại không bị dĩ văng tương lai trăng trói, v́ xem tự trong ra chứ không từ bên ngoài như trước. [/B]
[B]Đại để đó là nền tảng triết lư của Hiện tại hay là Minh triết của cái bây giờ măi măi, nó căn cứ trên câu [I]"vô bổn phiêu giả trụ dă"[/I][/B]. Bây giờ chúng ta khai thác phần [B][I]"vô hồ xứ giả vũ dă"[/I][/B] chúng ta sẽ gọi nó là cái :
[B]5. Triết lư của "trọn vẹn ở đây"[/B]
[B]Triết lư ở đây là triết lư không ở đâu cả [I]"vô hồ xứ giả"[/I] nên phải đặt nền tảng nơi tâm thức con người. V́ tâm thức con người cũng giống vũ trụ không ở đâu nhưng không đâu không ở.[/B] Ta có thể dùng đồ thị đơn của chu kỳ thiên căn địa chi để diễn tả.
Ṿng tṛn chỉ những hiện tượng, những biến cố ghi bằng (Tí, Sửu).
Xét về mặt hiện tượng th́ Tí, Sửu, Dần có trước có sau và ở đây hay ở kia : Tí có trước Sửu và Dần có sau Sửu nhưng so với trung điểm Mậu Kỷ (K) th́ Tí, Sửu, Dần cùng cách trung điểm Kỷ bằng nhau không trước không sau, không đông tây nam bắc. Và hiện diện trọn vẹn nơi Tí hay Sửu, Dần và cách trực tiếp và đồng thời cùng một lúc (unointuitu) không cần xê dịch v́ không có quăng cách nào hết, và như vậy không vật nào hay biến cố nào không ăn rễ vào trung điểm Kỷ. [B]Kỷ là Đại thể bất dịch[/B], c̣n vạn vật, với các biến cố như ḍng sông ngày đêm trôi chảy không ngừng (b[I]ất xả trú dạ[/I]) [B]dưới "con mắt" của Kỷ là Minh Đức, là Tính mệnh[/B]. Bởi thế khi đă làm sáng được cái Minh Đức th́ không có ǵ không ở đầy đủ nơi ḿnh nên ḿnh cũng không thể ĺa khỏi : [B][I]"kỳ thực thể bị ư kỷ. Nhi bất khả li"[/I], 其 實 體 備 於 己 而 不 可 離 "[/B]. (T.D I.) Do đó không được xa ĺa ḿnh để t́m Đạo, [B]v́ "Đạo không xa người". Đạo không ở xa ḿnh, Đạo không vật này hay vật kia mà gốc ở ngay nội tâm ḿnh (kỷ) như trọng tâm bất kiến[/B].
Hệ luận của nguyên lư đó là thế này : các sự vật, các biến cố luôn luôn biến dịch không quan trọng, [B]nên sự cao cả hay thấp hèn không nên t́m ở sự vật ngoại tại, nhưng phải t́m ngay trong chính ḿnh, trong chính động tác của ḿnh. Nếu động tác hoàn hảo th́ được hoàn hảo bất chấp việc sang hay hèn, chức năng trọng hay khinh[/B]. Y như khi đóng kịch quan trọng không ở vai tṛ cho bằng cách sắm vai tṛ : dầu vai tṛ chỉ là người lính thú mà sắm cho tuyệt hay th́ vẫn cao cả hơn vai ông vua mà đóng dở. Cho nên đă làm cha th́ làm cho hết ḿnh là cha, làm con th́ cũng tận t́nh làm con: quân quân, thần thần, phu phu, tử tử… [U]Chính v́ thế người thấu hiểu triết lư có phong thái nhân loại b́nh hành, không kiểu cách, không điệu bộ, không luôn miệng nói đến siêu h́nh, bàn về đức lư, v́ đối với họ không có ǵ cách biệt giữa linh thiêng với đời sống thường nhật, và một cuộc sống bé nhỏ đến đâu, người đời cho là hèn mọn đến mấy cũng vẫn có đủ khả năng sống thuận theo thiên lư, sống ăm ắp đầy đạo, khỏi cần t́m đạo đâu khác xa hơn[/U]. Ngược lại bao lâu nghĩ rằng Đạo phải t́m ngoài vận mạng của ḿnh, th́ đấy là tả đạo, v́ hễ đạo mà c̣n có thể ở kia mà không ở đấy th́ là đạo hẹp ḥi không phải chính đạo. [B]Chân đạo vô biên : không đâu không ở, nên không ǵ không có đạo : [I]"các hữu thái cực".[/I][/B]
Hệ luận thứ hai là [B]chấp nhận ngay những hoàn cảnh đang có[/B] là thế với những lân nhân như họ đang có đấy, với tất cả những khiếm khuyết của mỗi người. Không phải chấp nhận để ngồi ĺ đó, [U]nhưng có chấp nhận mới dùng nó như bước đầu tiến lên cao hơn, mau hơn[/U]. V́ sự chấp nhận lân nhân như họ đang có, chấp nhận bất cứ chức năng nào mà không nề hà cao thấp như Nguyễn Công Trứ làm lính thú cũng có thể thi hành Đạo. Đấy là lối hành xử theo triết lư "Ở Đây" mà sách Trung Dung bàn như sau : [B]"Quân tử tố kỳ vị nhi hành hồ, bất nguyện hồ kỳ ngoại." 君 子 素 其 位 而 行 , 不 願 乎 其 外 [/B]
[B][I]Chính kỷ nhi bất cầu ư nhân, tắc vô oán
Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân[/I]
正 己 而 不 求 於 人 則 無 怨 .
上 不 怨 天 , 下 不 尤 人 .[/B] (T.D 14)
Người quân tử tùy theo cái chỗ đứng hiện tại của ḿnh để hành xử mà không mong chờ cậy dựa ǵ bên ngoài dầu dưới hay trên. Đặt trọn vẹn trọng tâm vào ḿnh mà không cầu ở người th́ khỏi oán trách. Trên không oán trời, dưới không trách người. Nhờ đó ở vào cảnh huống nào người quân tử cũng an nhiên thư thái : [B][I]"quân tử vô nhập nhi bất tự đắc yên[/I], 君 子 無 入 而 不 自 得 焉 "[/B] (T.D 14).
V́ lư do trên Triết Nho nhấn mạnh đến chữ tự cường, tự ư, tự nội. [B][I]"Thành giả, tự thành dă, nhi Đạo tự đạo dă,[/I] 誠 者 自 成 也 , 而 道 自 道 也" [/B](T.D 25). [B]Tự là tự nội, tự kỷ, v́ là trung tâm, là nguồn suối thiêng, là Toàn Thể Viên Dung. [/B]C̣n khi cậy dựa vào một điểm nào bên ngoài dù là Tí hay Sửu th́ cũng là những điểm hữu hạn, bé nhỏ và nếu có ư nghĩa nào th́ cũng không ngoài mối liên hệ với điểm Kỷ [B]mà ta chỉ biết cách trực tiếp nhờ tâm ta[/B], c̣n qua vạn vật chỉ biết cách gián tiếp bên ngoài. [B]Nhân đó dẫn sang một điểm quan trọng tối hậu là hiện thực là thành, là chí thành.[/B]
[B]6. Chí Thành như Thần [/B]
Xem như trên ta thấy không nên lưu trí vào dĩ văng (Tí) hoặc phóng trí về tương lai (Dần) v́ cả hai nằm ngoài chu vi nên có trước có sau, có đó có đây, đo đếm được, nên chỉ là tiểu thể cá biệt đă ở đây th́ thôi ở đó, xảy ra lúc trước th́ thôi lúc sau. Nếu bám lấy những dữ kiện thuộc trước sau hay đây đó để phân tích và kiến tạo th́ tức là bàn đến rùa và quăng cách giữa rùa với ḿnh mà không đi vào tận nguồn là chính ḿnh. Nếu trở về với Minh Kỷ th́ sẽ giống như triết gia nào đó đă chứng minh sự biến động không bằng lư lẽ nhưng bằng cất bước chạy một ṿng. Ta cần bắt chước triết gia đó không những nói nhưng c̣n hiện thực : [B]hăy trở lại với thâm tâm để Thành, nghĩa là để lần lần nhận thức ra mối liên hệ căn để giữa cái tôi cá thể hạn cục với cái Đại Thể u linh mà Nho triết kêu là cái điểm Kỷ trung tâm. Chính nó mới ăn liền với Toàn thể sung măn. Chính nó mới hiện diện cùng một trật ở khắp nơi nơi vật vật. Đó là ư câu của Nho triết [I]"phản thân nhi thành"[/I] cũng là [I]"thành kỷ"[/I] hay là [I]"mậu kỷ"[/I] tức làm tốt tươi sung măn cải Kỷ. [/B]V́ cái Kỷ đó là nơi hội thông của Thiên Địa vạn vật, hay nói gần vào người hơn là nơi giao hội của Sinh tượng và Linh tượng, tức là hết mọi nhu yếu của con người được giao hội, được ứng đáp th́ c̣n ǵ vui thú bằng : [B][I]"Lạc mạc đại yên"[/I][/B]. Không ǵ vui hơn v́ là cái vui siêu tuyệt, khác với cái vui ở chu vi bao giờ cũng bị giới hạn bởi trước sau. Cái trước có khi là sau, cái sau có khi là tủi, không phải [B]cái vui siêu tuyệt của Kỷ Trung Dung Thường Hằng viên măn[/B] không bị giới hạn nào. Cái vui trung thực này chỉ xuất hiện khi đạt được đợt [B][I]"Thành tính tồn tồn"[/I][/B]. [U]Tồn tồn là kiểu nói bóng chỉ cái bây giờ măi măi[/U]. Nhưng đây là bước đạt Đạo, hay nói theo Trung Dung là [B][I]"thành giả"[/I][/B] cũng gọi là [B][I]"thiên chi đạo dă"[/I][/B]. Thành giả không cần cố gắng mà được, không suy tư mà đắc, ung dung mà trúng đạo. Đó là Thánh nhân, là bậc đi từ Thánh đến Minh gọi là Tính. [B]"[I]Tự thành minh, vị chi tính[/I], 自 誠 明 , 謂 之 性 "[/B] (T.D 21). C̣n thường nhân, những người học triết th́ phải đi theo lối giáo hóa tức là tự [B][I]"Minh thành chi vị giáo"[/I][/B]. Cho nên [B]trước hết phải học để hiểu không phải học để học, nhưng từ học giả bước sang hành giả [I]"minh tắc thành bĩ"[/I][/B]. Nhưng thành ở đây phải đầy hăng say thành khẩn (enthousiasme). [B]"[I]Nhân nhất năng chi kỷ bá chi, nhân thập năng chi kỷ thiên chi[/I], 人 一 能 之 己 百 之 , 人 十 能 之 己 千 之 "[/B] (T.D 22). Không phải người làm một ḿnh làm bằng trăm nhưng khi chuyên chú vào việc đang làm trọn vẹn th́ kể như bằng trăm bằng ngàn, nghĩa là phải hiểu về phẩm về ở đây bây giờ trọn hảo cũng như đầy kiên tâm trí chi (tenacité).
Đó là ch́a khóa mở vào cửa mọi cuộc sáng tạo chân thực là cái bao giờ cũng mang các yếu tố [B]trứ, minh, biến, hóa[/B]. Trung Dung tả hai đức tính trên bằng liên châu luận như sau :
[B][I]"Thành tắc h́nh, h́nh tắc trứ, trứ tắc minh, minh tắc động, động tắc biến, biến tắc hóa,[/I] 誠 則 形 , 形 則 著 , 著 則 明 , 明 則 動 , 動 則 變 , 變 則 化 "[/B] (T.D 23).
[B]Chữ H́nh ở đây nghĩa là cái Đức tuy ẩn mà hiện v́ Đức là Tính, hay đúng hơn là sự biểu lộ cách vi tế của Tính vậy. Cho nên nói Thành th́ phải hiểu là [U]Thành Tính[/U] ở đợt sơ khởi "biểu lộ mập mờ" là Đức.[/B] Khi Thành đă đủ mức th́ h́nh (tính) sẽ trứ tức là sáng thêm lên nữa (minh) sáng thêm nữa làm cho linh động, linh động đưa đến biến, và biến để hóa. Hóa ra cái chi ? Thưa hóa ra thần. [B]Thần là chi ? Thưa là Kỷ khi đă mậu sung, mà [I]"sung thực nhi phát quang huy"[/I] nên chiếu tỏa ra cùng khắp mọi vật ở chu vi : do đấy có thể tác động cách diệu dụng vào khắp vật : đó gọi là [COLOR="red"]"chí thành như thần"[/COLOR][/B]. Trung Dung tả rằng : [B]"[I]duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính tác năng tận nhân tính. Năng tận nhân tính, tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính tắc khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục. Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ thiên địa tham hỹ[/I], 唯 天 下 至 誠 , 為 能 盡 其 性 ; 能 盡 其 性 , 則 能 盡 人 之 性 ; 能 盡 人 之 性 , 則 能 盡 物 之 性 ; 能 盡 物 之 性 , 則 可 以 贊 天 地 之 化 育 ; 可 以 贊 天 地 之 化 育 , 則 可 以 與 天 地 參 矣 . "[/B] (T.D 22). Nếu ta hiểu được cái ṿng chu vi của tí sửu dần… chạy quanh mậu kỷ trên kia, th́ câu trên trở nên một quảng diễn dễ hiểu, tại sao chí thành lại được như Thần có khả năng tham tán với thiên địa [B]v́ tất cả đă hiện diện trực tiếp với Kỷ là Đại ngă Tâm linh đầy huyền lực[/B], và chúng ta hiểu luôn câu sau : [B]"[I]thành giả phi tự thành kỷ nhi dĩ dă, sở dĩ thành vật dă, tánh chi đức dă : hiệp ngoại nội chi đạo dă. Cố thời thố chi nghi dă,[/I] 誠 者 非 自 成 己 而 已 也 , 所 以 成 物 也 . 成 己 , 仁 也 ; 成 物 , 知 也 . 性 之 德 也 , 合 外 內 之 道 也 , 故 時 措 之 宜 也 .". [/B](T.D 25)
[B]Thành giả không phải chỉ thành có ḿnh mà đă xong, c̣n phải thành đạt cho người khác nữa. Thành kỷ tức là đức Nhân, thành vật là Trí tri. Cái huyền diệu của Tính là hợp ngoài vào trong. Ngoài là ngoại vương phụng sự nhân loại. Trong là một thánh thành nhân. Tùy thời thế mà thi hành, mà nhấn mạnh điểm ngoại hay nội, sao cho giữ được thế b́nh quân động đích.[/B] (Bài này quá súc tích nên sẽ được minh họa bằng các bài sau).
(Triết gia Lương Kim-Định)
IV. PHÂN TÍCH MỘT MẪU TRUYỆN PHẢN CHIẾU LỐI TÂM TƯ
[B]1. Suy tư chân thực là quy tư [/B]
Một hôm Khổng Tử nói với mấy môn đệ rằng : "bây giờ nếu trao nước vào tay các anh th́ các anh tính làm những chi, nói nghe thử ?"
- Đứng bật lên như ḷ xo, Lộ đưa ra dự án quân sự rằng : "sau ba năm huấn luyện th́ dân sẽ dũng mănh" ([I]khả sử hữu dơng[/I]).
Khổng Tử mỉm cười trông sang hỏi Nhiễm Hữu : "Cầu, nhĩ hà tư ?"
- Nhiễm Hữu chú ư vào kinh tế thưa rằng : "sau ba năm dân sẽ đủ ăn" ([I]khả sử túc dân[/I]).
Khổng quay sang hỏi Công Tây Hoa : "Xích, nhĩ hà tư ?"
- Xích đặt chủ lực vào ngoại giao, nghi lễ : áo quan, mũ, chương phủ, nên xin làm tiểm tướng.
Sau cùng Khổng hỏi Tăng Tích : "Điểm, nhĩ hà tư ?"
- Điểm liền ngưng tay gảy đàn, để tiếng ngân vang, đứng lên đáp: "chí tôi khác hẳn ba anh kia". Khổng Tử khuyến khích : "có hệ chi đâu, chẳng qua mỗi người nói lên cái chí của ḿnh vậy thôi". Lúc đó ông Điểm mới thưa rằng :
[B][I]"Mộ xuân giả, xuân phục kư thành.
Quán giả ngũ lục nhơn,
Đồng tử lục thất nhơn.
Dục hồ nghi
Phong hồ Vũ Vu
Vịnh nhi quy". [/I][/B]
[B]‘莫 春 者 ,
春 服 既 成 .
冠 者 五 六 人 ,
童 子 六 七 人 ,
浴 乎 沂 ,
風 乎 舞 雩 ,
詠 而 歸.’ [/B]
Phu tử vị nhiên thán viết : [I]“Ngô dữ Điểm dă,”[/I]
[B]夫 子 喟 然 嘆 曰 : ‘吾 與 點 也 !’[/B] (L.XI.25).
Thưa thầy dự án của con là : "Vào cuối mùa xuân khi áo xuân đă thành : rủ một ít bạn trạc mười sáu đôi mươi ra tắm sông Nghi, rồi lên núi Vũ Vu hóng gió, đoạn ca hát mà về". Khổng Tử không dấu được ḷng thán phục, liền hưởng ứng nói "Ngô dữ Điểm dă": ta cùng một chí hướng với Điểm vậy.
Thoạt đọc chúng ta không khỏi ngạc nhiên hỏi tại sao Khổng Tử lại nhận dự án của Điểm : giữa lúc nước tan tành mà Điểm lại rủ bạn đi tắm mát lấy le ! Bỏ mặc quốc sự dân sinh coi như không có chi quan thiết đến thân ḿnh cả. Sao Khổng Tử không chấp nhận dự án của ba ông Lộ, Cầu, Xích có thực tế hơn, giàu chất ưu thời mẫn thế hơn ? Tại sao lại đi ủng hộ Điểm ?
Hay là t́nh thế quá thối nát nên tính đến chuyện giũ bụi đi tu để vui cùng non với nước, theo tiếng hát cung đàn?...
Đó là những thắc mắc xuất hiện nơi tâm trí ta khi mới đọc đoạn sách trên. Nhưng khi nghĩ lại ta thấy Khổng bỏ thăm cho chương tŕnh của Điểm là có lư do, [U]v́ dự án của Điểm đi ngược chiều theo lối không có đối tượng[/U]. Ba người kia có đối tượng rơ ràng thiết thực : họ có làm, riêng Điểm không làm, chỉ đi tắm sông, hóng gió, ca hát, có làm chi đâu ? [B]Toàn chơi cả ! [/B]
[B]Nhưng chính v́ chỗ chơi đó, chính chỗ ngược đời đó khiến ta nhận ra Điểm là người dũng cảm, có gan lên đường thực sự, có mắt tinh đời biết coi nhẹ cái người đời coi trọng đặng coi trọng cái người đời coi khinh.[/B] Nhờ vây mà Điểm đă thoát ra ngoài lưu tục là chỗ "bỏ gốc theo ngọn" ([B][I]xả bổn trục mạt[/I][/B]). Thế mà bổn là Đức, tài là Mạt [B][I]"đức giả bổn dă, tài giả mạt dă"[/I][/B]. Cho nên chương tŕnh của Điểm lấy việc [B]"tu thân vi bổn"[/B] làm gốc. Chương tŕnh đó là :
[B][I]Dục hồ Nghi
Phong hồ Vũ Vu
Vịnh
Nhi quy. [/I][/B]
Chúng ta hăy xét đại cương các đề mục:
[B][COLOR="royalblue"]1. Trước hết là Dục hồ Nghi : tắm ở sông Nghi.[/COLOR][/B]
Ở đây nhất định phải gạt bỏ những ư nghĩa cụ thể, để hiểu theo sự thanh lọc tâm hồn :
[I]"Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi không sờn ḷng ai"[/I] (Đồ Chiểu)
Nước là biểu tượng có tính cách phổ quát để chỉ sự thanh lọc nên hầu như tôn giáo nào cũng có dùng : tắm nước sông Hằng bên Ấn giáo, phép rửa bên các tôn giáo đều ám chỉ bước đầu tiên trên đường đạo là : [B]thanh lọc[/B] (vie purgative).
Nho giáo tuy không là tôn giáo nên không có phép tẩy rửa nhưng mỗi khi phải tiếp xúc với thần minh cũng có nghi tiết [B]"mộc dục"[/B] nghĩa là tắm rửa để chỉ việc thanh lọc, do đó trong Nho giáo hay nói đến nước, coi như nơi phát xuất những tia sáng căn bản về Minh triết, chẳng hạn ư tưởng biến dịch nền móng cho triết lư nhân sinh được Khổng liễu ngộ trong khi ngắm ḍng nước chảy :
[I][B]"Tử tại xuyên thượng viết : thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ, [/I]子 在 川 上 , 曰 : ‘ 逝 者 如 斯 夫 ! 不 舍 晝 夜 .’"[/B] (L.IX 16). Khổng Tử đứng trên bờ sông nói rằng : cũng như nước này chảy đi th́ Đạo thể cũng lưu linh như thế, ngày và đêm không có vật chi ngừng nghỉ…
[U]Câu trên chỉ là một lối khai triển ḍng Truyền Thống của Hà Đồ và Lạc Thư là hai đồ thị nền móng của Kinh Dịch và cả hai đều được khải xuất từ sông Lạc, sống Hà, nghĩa là tự Nước ban ra. [/U]
[B]Nước biểu thị trí
Núi biểu thị nhơn[/B]
Nước đi với non như cặp uyên ương nên ta quen nói "Non nước". V́ thế sau khi tắm dưới sông, th́ trèo lên núi để hóng gió trời. Cũng chính là chuyện thông thường : sau [I]dục hồ nghi[/I] th́ đến [I]phong hồ vũ vu[/I].
[B][COLOR="royalblue"]2. Phong hồ Vũ Vu [/COLOR][/B]
Vũ Vu là một ngọn núi ở nước Lỗ trên đó có lập bàn thờ tế trời đặng cầu mưa.
Sau khi Đấng Kitô chịu phép rửa dười sống Jourdain, th́ lên rừng tĩnh tâm rồi lên núi để các thiên thần đưa lương trời đến bổ dưỡng.
Tẩy sạch bụi trần ở sông Nghi, rồi lên núi Vũ Vu hóng gió gội nhuần ơn mưa móc tự trời đổ xuống : [B][I]"Đạo chi bổn nguyên xuất ư thiên"[/I][/B] (T.D). Gốc của Đạo phát xuất tự trời.
Tiêu cực : [U]tẩy sạch trần cấu[/U].
Tích cực : [U]hứng gió mưa tự trời[/U].
Nói theo tôn giáo là tẩy sạch tâm hồn để đón nhận ơn thiêng từ trời. [B]Nói theo triết là sau khi nh́n nhận ra được tính chất hạn cục, tương đối của các định đề trong luận lư cũng như các công ước xă hội th́ đón nhận cái nh́n bao quát toàn thể ví như nước, như gió, như mưa bao trùm vạn vật bằng một luồng sông linh động. Nho triết thường coi non nước như cặp âm dương.[/B] Tuy mâu thuẫn đối chọi nhưng thực ra là cặp vợ chồng lư tưởng được biểu thị trong câu [B][I]"non nhân nước trí"[/I][/B] chung t́nh.
Non biểu thị t́nh yêu trinh bền. Nước biểu thị cho trí đi lại t́m ra các mối liên hệ quán thông sự vật len lỏi xuyên qua vạn hữu. V́ thế nhiều nho gia lấy việc du ngoạn sơn thủy làm một nguồn gợi hứng thiên nhiên linh diệu : [B]có cảm thông với sơn thủy mới dễ liễu hội được cái lẽ huyền vi của mối t́nh mật thiết giữa trời đất người[/B]. [U]Người thôn dă sống gần thiên nhiên dễ cảm được thực tại hơn người thị dân người trí thức v́ lẽ đó[/U].
Lúc sinh khí đă thâu hóa đầy thâm tâm, tất sẽ vui mừng, vui mừng ắt sẽ ngâm vịnh, ngâm vịnh ắt sẽ dao động. Dao động ắt sẽ nhún nhảy. [B][I]"Nhơn hỉ tắt tư đào. Đào tư vịnh, vịnh tư do, do tư vũ"[/I][/B]. (Đàn cung Kinh)
[B][COLOR="royalblue"]4. Nhi quy [/COLOR][/B]
Là điểm chót sau vịnh. [B]Quy[/B] ở đây có hai nghĩa. Trước hết [B]là trở về nội tâm[/B] : [B][I]"thiên kỳ phản nhi"[/I][/B]. Đây là điểm căn cơ hơn hết trên con đường ngược chiều : tự ngoài vào trong, nghĩa là từ những cái tư riêng được coi như mục đích, th́ nay mục đích được hướng vào chỗ [B]"Kỳ Trung" ở đợt sâu thẳm nhất, nên chỉ c̣n là tiết điệu uyên nguyên[/B] mà mỗi người học đạo phải cố đạt tới. Thành công nhiều ít là tùy độ nắm được Trung nông sâu hơn kém.
Nghĩa thứ hai là trở lại với đời sống thế tục để [B]xử thế[/B], cho đời sống xă hội thấm nhuần đạo lư, cho cơi nhân sinh trở thành nhân đạo. Đổng Trọng Thư nói [B][I]"Tiên quy nhi hậu vi chi[/I], 先 歸 而 後 為 之"[/B] (ĐC 335) là theo lối đó. [B]Muốn cải tạo xă hội mà thiếu Quy, tức thiếu Minh triết để phân biệt được điều lợi hại th́ dẫu thiện chí là yêu thương người mà kết quả lại là làm hại người, bên ngoài ư muốn của ḿnh.[/B]
Điểm là một ṿng trong dây chuyền của Truyền Thống. Đại để đó là ẩn ư của Điểm mà người cháu nội sau này là Tử Tư sẽ quảng diễn bằng câu : [B][I]"Vật hữu bổn mạt, sự hữu chung thủy. Tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hỹ,[/I] 物 有 本 末 , 事 有 終 始 , 知 所 先 後 , 則 近 道 矣."[/B] (1), nghĩa là vật có gốc có ngọn, gốc loạn mà cành trị chưa bao giờ xảy đến được. Cái gốc là chính con người, phải lấy thành nhân làm nền móng trong việc an bang tế thế lâu dài.
V́ thế mà [B][I]"quân tử lập kỳ đại"[/I][/B]. Người quân tử trước hết đặt vững nền móng cho cái đại cái gốc. Mà lập kỳ đại chính là [B]tu thân[/B]. [B]Tu thân mới là bổn gốc[/B], ng̣ai ra kinh tế, chính trị, ngoại giao… tuy không ai dám chối là cần, nhưng cần hơn cả là gốc. [B]Chính gốc mới là phần "thành nhân"[/B]. Nếu chỉ luyện nên những thứ chuyên môn mà không có luyện cho thấy cái toàn thể nơi con người, [B]th́ đừng nói thiếu tâm hồn, mà thiếu ngay cả đến lương tâm nghề nghiệp[/B]. Jung có lần nào đó viết rằng chính những chương tŕnh lớn lao về kinh tế, chính trị… đă làm các dân tộc sa lầy ([I]Les grands programmes politiques, économiques… précisément ce qui a toujours enlisé les peuples[/I]), là v́ những chương tŕnh đó chỉ là những sự xếp đặt do đầu óc trục lợi tính toán, và [U]chỉ biết t́m thế quân b́nh giữa các nhóm thế lực lấy ích lợi làm trọng tâm, [B]mà không được đặt vào tương quan với Toàn thể là Nhân tính con người[/B][/U].
Đành rằng phải có chuyên môn nhưng đồng thời phải dạy cho biết cái Toàn thể tức là Đạo làm người. Có thế mới là [B][I]"tiên quy nhi, hậu vi chi"[/I][/B]. Nếu không trước hết hồi hướng về thâm tâm để ḿnh t́m lại ḿnh rồi mới thực hiện ([I]vi chi[/I]) th́ dầu chuyên môn có giỏi rồi cũng chỉ đến "vinh thân ph́ gia", chứ không mong ǵ giúp ích xă hội.
Điều nhận xét trên áp dụng cho toàn thế giới. [U]Con người hiện nay đă "thành công" rất lớn, nhưng "thành nhân" rất nhỏ[/U]. Con người chưa được sửa soạn đủ để hưởng cái thành công của ḿnh. Thay v́ lấy thành công tô thắm cuộc đời th́ lại dùng để tiêu diệt lẫn nhau. [B]V́ chưa t́m ra cái toàn thể làm gốc để quy tụ các động tác tư riêng nên mọi chương tŕnh trở thành vá víu. [/B]
V́ lư do sâu xa đó, nên tuy Khổng theo dự án của Điểm thoạt coi tưởng như một tṛ chơi mà thực ra lại là lo cho đời từ căn để vậy. Hơn nữa đó mới chính là Nho triết của truyền thống trong câu : [B]"[I]duy tinh duy nhất, doăn chấp quyết trung[/I], 唯 精 唯 一 允 执 决 中"[/B] : [B]có tinh luyện tâm hồn mới đạt được sự thống nhất chân thực[/B]. Lúc đó mới thống nhất được mọi việc lẻ tẻ, những cái dị biệt. Ở chương tŕnh Điểm, hai chữ :
[B]Duy tinh nằm trong Dục Hồ Nghi[/B], dùng nước để tẩy lọc tinh luyện tâm hồn.
[B]Duy nhất là Phong Hồ Vũ Vu[/B] để nhận lấy nguồn sinh lực sinh động của toàn thể.
[B]Doăn chấp là Vịnh[/B] : Vịnh là chúa các nghệ thuật, cũng đồng nghĩa với ḥa hợp điều lư.
[B]Quyết trung là Nhi Quy[/B]: tức là tuy hướng hồi tâm để t́m ra nguồn sống và cũng có nghĩa là trở lại tô thắm cho đời sống xă hội.
Đúng là đường lối suy tư chân thực mà Heidegger gọi là ‘Andenken’: ‘pensée mémoriale’ có thể dịch là [B]Truy tư[/B] hay [B]Quy tư[/B], n[U]ghĩa là suy tư t́m trở lại nguồn gốc căn cơ con người, cũng chính là cái thực tại toàn triệt mà chúng ta khát mong t́m trở lại, gọi là cái khát vọng siêu h́nh, mà không có thành công nào bóp chết được[/U]. Nhưng dùng lư trí th́ chỉ thấy từng khúc vụn vặt. Do đó Việt lư đi theo đường [B][I]"Duy tinh duy nhất"[/I][/B]. Lối đó đ̣i một môi trường.
[B][COLOR="royalblue"]Môi trường[/COLOR][/B]
[U]V́ suy tư chân thực không là suy tư kiểu lư luận bằng ư niệm, nhưng là Quy tư, nghĩa là t́m trở lại nền thống nhất căn cơ của Nhân tính để ḥa ḿnh vào nhịp sống của nhân sinh, của vũ trụ[/U].
Muốn được thế triết lư nhân sinh khác hơn triết học lư niệm ở chỗ nó cần một môi trường ám hợp cho Đạo thể nảy nở được. Triết duy niệm đi t́m chân lư đối tượng (vérité-objet) là cái ǵ chết khô nên để cho lư trí một ḿnh xoay xở suy tư, luận đoán đă đủ. [U]Việt lư ngược lại không chú trọng ư niệm, nhưng thể nghiệm, tức là toàn thân tâm đều cảm nghiệm[/U]. [B]Muốn thế cần giải thoát mọi cơ năng khỏi chấp vào cái bé nhỏ để tất cả có thể cảm thông với toàn thể vũ trụ[/B].
Toàn thân con người chỉ có thể sống khi được hô hấp trong bầu không khí thuận lợi. [U][B]Nho triết đặc biệt chú trọng vào chính trị[/B], v́ chính trị nắm nhiều thế lực nhất trong việc gây bầu khí hướng dấn đời sống của công thể, của xă hội để xă hội nhịp theo cái Toàn thể Vũ trụ, hay ít ra không để những quy ước lấn át cái nhịp tự nhiên con người[/U].
Do đó trong chương tŕnh Điểm không ghi giờ học luận lư mà chỉ ghi việc đi tắm sông, hóng gió, múa và ca, [U]là chú ư tới cái bầu khí, tới cái môi trường thuận lợi cho sự nảy nở hồn nhiên và toàn diện mọi khả năng[/U].
Mỗi chân lư nhân sinh đ̣i hỏi một môi trường cho nó. [U]Môi trường không là cái chứa đựng bên ngoài, nhưng là thành phần cấu tạo ra nó trong tâm trạng người học[/U]. Triết học lư niệm không nhằm điều đó nên không chú ư đến môi trường. [B]Triết Đông ngược lại tất cả đều chú ư đến sự hiện thực nên môi trường trở thành yếu tố quan trọng[/B]. T́m hiểu môi trường của một nền Triết giúp ta hiểu thêm cái sắc thái đặc trưng của nó, và do đó tùy theo với thời thế mà sáng tạo những điều kiện mới thích hợp với những tiến triển khác nhau ở mỗi giai đoạn giúp cho sự nảy nở chân lư nền tảng đă nói trên kia.
Môi trường thường được biểu lộ qua ba yếu tố là [U]khung cảnh[, nhân vật và hoạt trường/U] mà chúng ta sẽ lần lượt bàn tới.
[B][COLOR="royalblue"]Khung cảnh. [/COLOR][/B]
Một hôm Khổng đi đường không biết bến đ̣ nên sai Tử Lộ đến hỏi hai nhà ẩn sĩ là Tràng Thư và Kiệt Nịch, nhưng cả hai từ chối. Tràng Thư đáp : nếu người ngồi xe là Khổng Tử th́ ông ta đă biết lối xuống đ̣ rồi. Riêng Kiệt Nịch đă không chỉ lối lại c̣n gửi lời khuyến cáo Khổng Tử nên theo chân ẩn sĩ để lánh trần rằng : [I]"thao thao giả thiên hạ giai thị dă nhi thùy dĩ dịch chỉ"[/I]. Tất cả mọi nơi đều loạn lạc như thác như lũ th́ mong t́m đâu ra đồng chí đặng cùng ḿnh cải tổ xă hội chứ ?
Tử Lộ đem lời trên thuật lại cho thầy. Nghe xong, Khổng ngậm ngùi nói [B]"[I]Điểu thú bất khả dữ đồng quần, ngô phi nhân đồ dữ, nhi thùy dữ ? Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dữ dịch dă[/I], 鳥 獸 不 可 與 同 群, 吾 非 斯 人 之 徒 與 而 誰 與? 天 下 有 道, 丘 不 與 易 也 ."[/B] (L. XVIII 6). [B]Người ta không thể làm bạn với cầm thú. Nếu ta chẳng sống với người trong xă hội này th́ sống với ai ? [U]Nếu thiên hạ có Đạo rồi th́ cần chi phải sửa đổi cải tạo nữa[/U].[/B]
Câu chuyên trên biểu lộ hai thái độ ở đời với hai khung cảnh. Tràng Thư, Kiệt Nịch thiên về xuất thế, lấy tiên làm mẫu người lư tưởng : chữ Tiên kép bởi chữ nhơn và sơn chỉ người ở núi. Khổng lấy xóm nhân làm chỗ ở : chữ Nhân là "hai người" nói lên [B]xă nhân tính thiết yếu[/B] của con người, chứ không thể đồng quần với điểu thú sống lang bạt trên núi rừng được.
[U]Do đó khung cảnh Nho giáo chính là các loại xă hội nhỏ từ gia đ́nh thôn ấp mở rộng qua lên quốc gia nơi ḿnh đang sinh sống đang hoạt động và cuối cùng là quốc tế ([B]tứ hải giai huynh đệ[/B])[/U]. Như thế môi trường đó không thể t́m xa xôi trên núi rừng, những u tịch cách biệt xă hội loài người.
[B][COLOR="royalblue"]Ư nghĩa tiếng gọi u linh.[/COLOR][/B]
Yếu tố thứ hai của môi trường là nhân vật : [B]Bạn, một yếu tố có tính chất xă hội[/B] được Điểm chú trọng, và [U]đấy là nét được tô đậm trong xă hội theo Việt Nho[/U]. [B]Đó cũng là điều dĩ nhiên khi Việt Nho chú trọng đến Nhân. Chữ Nhân nói lên mối liên hệ mật thiết với lân nhân[/B]. Con người sống trong xă hội không thể không có lân nhân. Ngược lại đó là những đợt thiết yếu trên đường Tâm tư. [U]Con người cần phải vượt qua sự bám víu vào mẹ cha, vào gia đ́nh thôn xóm để đi đến những tổ hợp rộng lớn hơn cốt để đạt đến những môi trường có nhiều khả năng mở rộng tầm mắt giúp cho tâm thức vượt những chân trời bé nhỏ để dễ nh́n ra Toàn thể[/U]. Tuy vậy, muốn cho những tổ hợp đó giúp làm nảy nở nhân chủ tính của ḿnh th́ cần chúng được thấm nhuần [B]bản chất hữu t́nh[/B]. Bởi v́ trong xă hội cũng như giữa các cá nhân, người ta có thể thiết lập nhiều loại tổ hợp.
Nếu ta quan niệm lân nhân như cừu nhân "homo homini lupus" kiểu Hoobes hay như tha nhân xa lạ chỉ liên hệ với ḿnh như đối vật, như cái đó (cela) kiễu tĩnh vật tính chất người [B]th́ lúc đó tổ hợp sẽ bóp nghẹt nhân chủ tính của ḿnh và biến ḿnh thành một cái máy vô hồn để phụng sự cho tổ hợp, cho đảng[/B]. Vậy muốn cho tổ hợp có khả năng giúp ḿnh nảy nở, xứng với mối giao thiệp giữa người với người th́ [B]chỉ có lối coi người như người, như bạn, như thân nhân.[/B]
Do đó trong câu mở đầu sách Luận ngữ nói : có bạn từ phương xa tới th́ c̣n ǵ vui hơn [B][I]"hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?[/I] 有 朋 自 遠 方 來 , 不 亦 樂 乎 ?"[/B]. Vui v́ bạn đến không như sói dữ hay như tha nhân để chinh phục ḿnh, bắt ḿnh làm nô lệ, nhưng như bạn thân để cùng ḿnh trao đổi, để đối thoại, để đưa ḿnh ra khỏi mối nguy cơ của trạng huống cô đơn (vae soli), kéo ḿnh ra khỏi cái tệ trầm không u tịch, là trạng thái không chỉ nên hiểu hạn cục vào cảnh cô đơn vật chất, nhưng c̣n một ư nghĩa sâu xa bí ẩn mà có thể hé thấy trong truyện Narcisse v́ măi nh́n bóng ḿnh đến nỗi phải chết ch́m dưới đáy giếng, [B]nghĩa là bị tê liệt giữa những vọng kiến những ư niệm tư riêng biến ḿnh thành ếch ngồi đáy giếng không thấy được bầu trời bao la là Toàn thể.[/B]
Do đó ta có thể hiểu tại sao trong lịch sử Huyền niệm thấy nhấn mạnh đến yếu tố bạn trên đường Đạo. [U]Khi một người có tâm hồn trống vắng sống bên cạnh người đă có đời sống tâm linh mạnh mẽ, th́ có rất nhiều may mắn được tiếp nhận những luồng thần khí trợ lực mạnh mẽ cho việc tiến bước nhất là ở đợt khởi thủy[/U]. Có lẽ lời Đấng Christ sau ám chỉ phần nào điều đó "khi có hai người trong chúng con hội nhau cầu nguyện th́ Thày ngự giữa". [B]Thầy đây nên hiểu là Đạo Thể bao la. [/B]
V́ những lư do trên nên Việt Nho chú trọng đến yếu tố Bạn. Điểm không mời thầy mà chỉ kéo bạn là đặt nổi ư tưởng : [B]tự ḿnh giác ngộ không cần thầy[/B] (vô sư độc ngộ). Sau này con của Điểm là Tăng tử có nói : "Người quân tử lấy văn để tụ tập bạn hữu, để bạn hữu giúp nhau tiến vào đạo nhân" .[B][I]Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân[/I], 君 子 以 文 會 友 , 以 友 輔 仁 [/B](L.XII.23), là nối tiếp con đường truyền thống vậy. Chính theo hướng đó, Điểm đă nhấn mạnh đến bạn, trong đó có hai hạng :
Trước hết là những người đă đến tuổi "nhận mũ lên đường" gọi là Quán. Loại hai gọi là [B]"đồng tử"[/B] liền sát [U]cái tuổi "xấp xỉ" tới tuần cập kê[/U]. Đây là [B]tuổi nhị bát (16 tuổi)[/B] [U]là lúc những ư niệm, những định đề, cũng như những thói quen và tập tục xă hội sắp kết tinh thành những tảng cứng đóng thành những bức tường bao vây tâm trí, nhất là lúc sắp sửa phải vào đời, phải tự gánh trách nhiệm mà sách nói bóng là áo xuân đă may xong [B][I]"xuân phục kư thành"[/I][/B] một khi đă dấn thân vào đời th́ nguy cơ để ḿnh theo lưu tục, theo lối phán đoán thế gian sẽ rất lớn[/U]. V́ thế muốn giữa vững cuộc đời lưỡng thể th́ [B]cần phải khởi công một cuộc tự giáo dục lấy ḿnh[/B]. Điểm hiểu lẽ [B]"tự đạo"[/B] đó nên không đưa thầy đi cùng, mà chỉ dắt bạn hữu vào lứa tuổi đang sửa soạn bước lên "đợt sống mới", quen gọi là tuổi dậy th́, [B]nghĩa là tự thâm tâm bắt đầu dấy lên những tiếng gọi xa xăm[/B]. Đây là tuổi khám phá ra tha giống, tức là con trai khởi đầu nhận ra con gái không phải là con trai và ngược lại. Nghĩa là nhận ra sự khác biệt không chỉ hạn cục vào những đường cong dị biệt thuộc xác thân, [U]nhưng c̣n có một cái chi sâu xa hơn, tế vi hơn, cái ǵ chèo kéo lạ lùng [B]như hai[/B] sợi dây điện chỉ chực chập [B]thành một[/B][/U], nên luôn luôn có chuyện [I][B]"t́nh trong như đă, mặt ngoài c̣n e"[/B][/I]. Nhưng tại sao e ?
Thưa e [U]không những v́ miệng tiếng thế gian, v́ những húy kỵ do xă hội bịa đặt, nhiều khi tới độ gẩy thành mặc cảm tội lỗi gắn liền với những việc lứa đôi đă bị buộc vào những ư nghĩ rất phức tạp[/U]. [B]Nhưng c̣n e v́ những t́nh tứ tràn ngập nhưng mông lung chưa kịp t́m lời để lên khuôn đặng nói ra[/B]. Đó là chuyện khó, khó không hẳn v́ không nói được, nhưng khó v́ muốn nói mà lại như không nói, không nói mà là nói : "[I]muốn có lại bảo rằng không, rơ muốn lấy chồng lại nói đi tu[/I]". Chính [B]v́ bởi t́nh tứ nó tế vi hơn từ ngữ rất nhiều[/B], nên cảm thương tuy đă đầy hông, mà lựa lời gạ hỏi th́ hổng có ra.
Đó là lư do tại sao e, ấy là chưa kể việc phải thử ḷng thử sức của cô cậu. Tuy nhiên đó mới là lư do phiến diện dễ nh́n nhận. Nhưng c̣n một lư do bí ấn hơn rất nhiều nên không mấy khi được nh́n thấy : [B]đó là tiếng gọi u linh phát xuất từ cơi "vô thức", từ cơi của Nguyên ngôn, như một mệnh lệnh có tính cách nội khởi gây thao thức, gây khát vọng những ǵ cao xa lư tưởng[/B].
Phải, chính chung quanh tuổi "nhị bát" là mùa của muôn lư tưởng đâm bông, [B]mà trổi vượt hơn hết, thúc bách hơn hết là t́m lại Nhà[/B], và do đó có những tiếng kêu [B][I]"thất thị viễn nhi"[/I][/B]. Chữ [B]Thất[/B] đây phải hiểu là [B]Nhân tính[/B], tức [B]là con người Viên Dung Toàn Thể[/B]. Do đó chung quanh tuổi 16, cũng là mùa cất bước lên đường đi t́m "ư trung nhân". Chữ [B]"ư trung nhân"[/B] theo hai nghĩa vừa là [B]"nhân chi sơ" khi tính hăy c̣n bản thiện[/B] (linh tượng), vừa theo nghĩa "anima" của Jung, tức là [B]"Nàng lư tưởng"[/B] mà chàng trai mang trong thẩm cung ḷng ḿnh, hoặc "animus" là [B]"Chàng lư tưởng"[/B] mà nàng mong đợi (sinh tượng). [U]Sự khám phá của Jung có đựơc cái công minh nhiên hóa cái ư niệm [B]đă được Việt lư trực thị và đă gọi tên một cách kỳ tuyệt là "ư trung nhân"[/B] kiểu "xuân như ư"[/U]. Đó là người chồng hay vợ được lư tưởng hóa sẵn trong ḷng cách tiên thiên và sau này chụp lên cô hay cậu nào th́ xấu cũng thấy đẹp, cũng đầy duyên dáng dưới mắt cô hay cậu đó đến độ si mê điên dại, coi như cái [B]"nhà"[/B], [B]nghĩa là cái ǵ đem lại cho sự ấm cúng, thân mật, an vui… mà Nho giáo hay gọi là [COLOR="red"]"nhập ư thất"[/COLOR], th́ chính nghĩa là [COLOR="red"]nhập nhân tính[/COLOR] trở thành chủ nhân để nhịp cùng một nhịp với vũ trụ[/B]. Nhưng v́ "ư trung nhân" có hai nghĩa nên chữ "thất" cũng có nghĩa thứ hai thấp hơn đó là [B]"nhà tôi"[/B]. Và do tiếng gọi ở tuổi nhị bát, chữ "nhà tôi" theo nghĩa bằng xương bằng thịt thường thằng nghĩa thứ nhất là [B]nhân tính[/B]. Sự thắng thế này cũng là đúng luật trên đường trở lại Thái Thất theo câu [B]"đạo quân tử khởi tự lứa đôi để rồi đạt tới Thiên Địa"[/B]. Do lẽ đó, [B]tiếng "nhà tôi" với ư nghĩa là bạn chung t́nh lấn át tiếng gọi của [I]"nhân chi sơ nguyên thủy"[/I][/B]. [U]Nhưng trong lúc hai người mới giao tiếp với nhau th́ hai tiếng gọi có thể mạnh ngang nhau, và mối t́nh trai gái ở tuổi đầu thường vẫn mang đầy tính chất cao thượng lư tưởng, thuần nhiên[/U], và những câu thề thốt [I]"trăm năm kết chặt chữ đồng"[/I] chứa đầy sự thành thật trung trinh (ít ra thời trước). [B]Nhưng càng ngày [COLOR="red"]tiếng gọi tâm t́nh cụ thể càng lấn át tiếng gọi u linh kia[/COLOR], cho tới lúc hầu át hẳn[/B]. [U]Nhất là v́ những tục lệ, công ước, thành kiến xă hội đă được coi như thiêng liêng bóp chết sự thuần nhiên nội khởi của việc giao hợp giữa nam nữ, th́ việc này không c̣n là một khởi đoan để đưa đôi lứa đến việc nghe tiếng gọi của Nguyên ngôn, đặng nhận thức ra mối tương quan với Thực tại Viên Dung là tính bản nhiên con người nữa[/U]. Đó cũng là do sự thất bại của nền luân lư h́nh thức mà ra. [U]Tuy nhiên tiếng gọi đó sẽ c̣n nhiều lần vang lên ở vào quăng chung quanh bốn mươi gọi là tuổi triết lư, và ở một số người họa hiếm[/U], tiếng đó đă nghe ra trong b́nh minh triêu triệt như trường hợp "[B]Triêu Văn Đạo"[/B] sẽ nói đến sau này.
[B]Đạo được nghe đó là tiếng Vô ngôn[/B] gọi con người đă bị chia cắt xé nhỏ ra là chúng ta [U]với lư trí chỉ thấy phần mớ nên rất khác với trạng thái của nhân chi sơ khi tính hăy c̣n tṛn đầy viên măn[/U].
Đó là ư nghĩa của những câu truyện ẩn dụ như trong quyển 'Prédon' của Platon chẳng hạn v́ con người hiện nay với những con người nửa tṛn nửa phẳng như quả dưa hấu đă bị bổ dọc làm đôi chỉ c̣n giữ được cái lưng tṛn, nhưng nửa trước phẳng với một đôi chỗ gồ ghề khác nhau như chống đối với nhau, [B]nhưng thực ra là hai mảnh của một Toàn thể ban sơ nên luôn luôn thèm muốn ráp vào đặng lập lại trạng thái tṛn đầy viên măn sơ nguyên[/B] ([I]Etat androgynique originel est l'état humain complet dans lequel les complémentaires au lieu de s'apposer s'équilibrent parfaitement[/I]) [B]tức là trạng thái viên dung khi hai yếu tố nam nữ rất quân b́nh.[/B]
Đừng tưởng đó là một h́nh ảnh văn chương suông sẻo nhưng là một thực trạng tâm linh lâu lâu được nhắc nhở tới cách xa xôi như trong truyện Evà được nặn ra từ một xương sườn cụt của Adam. Những câu truyện ẩn ẩn hiện hiện đó đều là để nói đến một trạng thức viên măn nhưng đă mất hút trong xa xưa nên chỉ có thể dùng lời bóng bẩy hay kiểu biểu tượng như Kinh Dịch gọi là Tiên Thiên Hậu Thiên hay đôi âm dương xoắn xuưt ăn ngoàm vào nhau mà trong truyền thống nhân loại bất kỳ ở đâu chúng ta cũng có thể nhận thấy.
Tất cả những truyện đó đều ám chỉ thời thái sơ huyền diệu mà con người cơ mang nhớ tưởng, [B]bởi v́ cái thái sơ cũng là cái rất bây giờ nên lâu lâu lại nghe tiếng gọi tuy vô ngôn nhớ có khi thiết tha nài nẵng, có khi thao thức xa xăm [COLOR="red"]nhưng đủ cho người nhận thức ra t́nh trạng ly tính[/COLOR] : nhận ra ḿnh như một lữ khách tha hương đang đi trên đường để đáp lại tiếng gọi của Ai kia đang mong nhớ, đón chờ đặng tái thiết trạng thái sơ nguyên và tỏ nỗi bất nhẫn bằng những câu kiểu [I]"thất thị viễn nhi"[/I]. Nhà xa quá ta ![/B]
[B]Và chính sự t́m về thống nhất đó mà ta gọi là Tâm tư, tức là ḷng canh cánh rạo rực t́m trở lại với cái tôi căn để cái Đại Thể tâm linh cũng gọi là [COLOR="red"]"khắc kỷ"[/COLOR] t́m lại cái [COLOR="red"]"ḿnh"[/COLOR] chân thực, cái [COLOR="red"]"kỳ trung"[/COLOR] uyên nguyên của [COLOR="red"]"nhơn chi sơ" khi tính hăy c̣n tṛn đầy trong thiên quân tinh tuyền[/COLOR] vậy.[/B]
Tiếng gọi đó khởi xuất hiện chung quanh tuổi "nhị bát". [B]Chính v́ một lư do ẩn nhiệm ấy mà Điểm lấy tuổi "đồng tử" làm lúc khởi đầu công việc tự giáo dục lại ḿnh cũng chính v́ đó nên không có thầy nhưng có bạn.[/B] V́ thầy có thể làm nhụt tính tự chủ tự động hoặc bằng quyền uy, hoặc bằng mặc cảm tự ti mà vô t́nh sự hiện diện của thầy gợi ra, là điều không c̣n hợp cho lứa tuối đôi mươi. [B]Ở tuổi này cần phải vun tưới óc tự lập.[/B] V́ thế ngay đến nước cũng dùng lối tự động nghĩa là ḿnh tự tắm, chứ không ai rửa cho ḿnh, bất cứ cái ǵ không giúp vào việc vun tưới óc tự chủ cũng bị gạt bỏ lại.
Ở vào tuổi này tự ḿnh phải phát triển tư cách, phát triển tự chủ tự lập, [B]nên một nền giáo dục căn cứ trên Minh triết phải trù liệu những tục lệ xuất phát, những lễ tuyên dương óc tự lập như kiểu lễ Gia Quan[/B]. Và có lẽ v́ thiếu những lễ đó trong nền giáo dục hiện đại nên mới nảy ra nhiều hiện tượng phản loạn chống lại gia đ́nh, hoặc nhiều khi muốn xa gia đ́nh để vun tưới và củng cố bản lĩnh tự lập như chim tự lập bay ra ràng.
[B]Ở tuổi dậy th́ mà gặp được bạn tốt, những tư tưởng chân chính hướng dẫn th́ con người sẽ tiến những bước rất hệ trọng trên nẻo đường t́m trở lại với Đạo Thể Viên Dung là cứu cánh cuộc đời vậy.
[/B]
[B][COLOR="blue"]Hoạt trường của triết gia [/COLOR][/B]
Trước hết nên minh định rằng triết gia vẫn có thể làm luân lư, tôn giáo, làm chính trị, nhưng làm như chuyện cấp thời, như một việc có thể đi đôi (compatible) với triết nhưng không là triết cũng như bác sĩ làm chính trị : chính trị không do cái học chuyên môn của ông nhưng chỉ là nhiệm vụ công dân, như lư tưởng của ông xét là người, không cần phải học y khoa ông cũng vẫn làm việc chính trị. Với triết gia cũng thế, tuy luân lư chính trị có liên hệ với triết nhiều hơn, nhưng không là căn bổn, đấy mới là chiến lược hoặc chiến thuật là những được tùy thời, thế, cơ [B]c̣n triết lư nằm ở chỗ cùng lư, tận tính ở trung tâm chứ không ở ngoài ngành ngọn chu vi biến đổi. [/B]
Điều cần chú trọng thứ hai là hiệu nghiệm với triết, có người chê Hégel v́ biện chứng đẹp đẽ của ông nằm ch́nh ́nh bên những cảnh xă hội không đẹp chút nào, do đó hoài nghi luôn triết học của Hégel.
Phê phán như thế là quá ngặt. Thuyết Hégel có đúng hay không, trước hết chúng ta hăy xét nội tại chủ trương đó, nếu được th́ ta cần cho là được. Không nên bằng vào t́nh trạng bi đát của xă hội thời ông mà kết án, v́ như thế là đ̣i hỏi ở triết quá nhiều. Ngay những lần ông trời xuất thân (avatars) cũng chẳng làm nổi. Sau cùng vẫn cái nạn bất công, áp bức hung tàn như trước, có biến đổi ǵ đâu ? Huống chi các triết gia làm sao hơn được ? V́ thế, nếu có những chế độ bất công th́ ta nên xét chủ trương triết gia ra sao, chẳng hạn chế độ nô lệ ở xă hội Hy La được Aristote, Platon… biện minh th́ ta gạt bỏ chủ trương của hai ông đi v́ lư do nó đàn áp tự do con người. Ngược lại giả thiết rằng hai ông đưa ra một nền nhân bản trung thực nên bác bỏ chế độ nô lệ, nhưng xă hội chưa chịu chấp thuận nên vẫn cố duy tŕ, th́ bấy giờ ta chưa nên v́ đó mà chê chủ trương hai ông mặc dù không hiệu nghiệm. Một xă hội không đẹp có được những lời đẹp dẫu sao cũng vẫn c̣n đẹp hơn những xă hội không đẹp với những lời không đẹp.
[B]Điều cần xét là những lời đẹp kia có bắt nguồn từ những nguyên lư sâu xa của triết lư hay chỉ là những lời đẹp cầu âu : may mà trúng[/B]. Ở b́nh diện thế gian chỉ có thể những lời cầu âu nghĩa là trúng hay trật là điều may rủi do lương tri chứ không phải do nguyên lư căn để của triết. Tuy nhiên lời đẹp cầu âu vẫn có giá trị hơn lời cầu âu không đẹp. [B]Nhưng trong phạm vi triết lư nếu đă là cầu âu th́ cái đẹp lại càng là cớ che mắt học giả, khiến họ v́ những lời đẹp kia mà không thấy chỗ thiếu sót tự căn cơ. [U]Sở dĩ triết học lư niệm đă sống lây lất được hai mươi thế kỷ[/U] cũng v́ những lời đẹp cầu âu kiểu đó.[/B]
Triết học gây ảnh hưởng rất sâu nên cũng rất khó ḷng kiểm thảo ngay được hậu quả. Cái lợi hại mà cũng là cái phiền toái của triết nằm ở chỗ đó. Nhân thấy đứng trước câu hỏi : nói dễ hay làm dễ ? Chúng ta nên thưa:
[B]- nói dễ
- làm khó
- nói trúng khó hơn
- nói lời uyên nguyên khó nữa.[/B]
Nói kiểu luân lư h́nh thức, nói kiểu giảng giải lên mặt thầy đời, nói kiểu chỉ tay năm ngón… tất cả đều dễ ợt, dễ hơn làm gấp bội lần, ai nói cũng được v́ toàn là những chuyện ăn làm, thị phi theo lưu tục, hiện rơ ra trước tai mắt mọi người ai mà không thấy. [U]V́ ư kiến (opinion) th́ ai không có, cũng như ai cũng có thể biết rằng nghe ngóng tin tưởng vào người khác, [B]nhưng đó mới là cái biết từ ngoài chưa phải là cái biết triết lư nó hệ tại cái trực giác tự nội tâm phát ra[/B], và người ta cần phải tẩy trừ "ư kiến" cũng như những cái biết bằng "tai nghe mắt thấy" th́ mới mong đạt cái biết trực giác[/U]. Nhiều người học triết không hiểu chỗ đó thấy người ta kêu triết không đưa tới hậu quả nhăn tiền, liền muốn sửa lại triết lư cho nó "nhập cuộc" bằng xuống đường, bằng hô một vài khẩu hiệu v.v… Làm thế đă tỏ ra nhầm sự phẫn khí của triết lư với phẫn khí của chính trị (furor philosophicus khác với furor politicus). Thứ sau này có tính cách thời sự nhiều khi cấp tính, nó thuộc về ngày hôm nay mà "ngày hôm nay là ngày của đám tiếu dân" (Nietzsche). [B]V́ những cái hiện tại bao giờ cũng bị quy định do khu vực, nên chỉ có giá trị nhất thời và hời hợt mà triết lư là việc siêu thời sâu thẳm.[/B] Câu "nói dễ" thuộc về đương thời, bày ra trước tai mắt nên ai cũng nói được, v́ thế mà gọi là "nói dễ". Trên đợt nói dễ này c̣n có đợt nh́ "nói khó" nghĩa là đưa ra những phương pháp những phương thức cụ thể, những kế hoạch tỉ mỉ… để giải quyết những vấn đề thuộc xă hội hay chính trị, kinh tế v.v… Khó hơn nhiều v́ nó đ̣i hiểu biết nhiều mới hy vọng t́m ra những giải pháp hữu hiệu. [B]Tuy vậy đó cũng mới là việc của lương tri thông thường[/B] và hậu quả chỉ hạn chế trong một năm, một thời kỳ, người thông minh quen thuộc có thể t́m ra, tuy không chuyên về triết lư.
[B]Sau cùng mới đến triết lư nhằm bàn giải các vấn đề nhân sinh căn bản của con người xét là người với nhân tính của nó v́ thế gọi là siêu thời gian, nên Nietzsche gọi là phi hiện thực (inactuel), chẳng hạn vấn đề "làm thế nào để suy tư thành tựu" hoặc vấn đề về mối liên hệ giữa trời đất hay cứu cánh uyên nguyên con người v.v… là những vấn đề muôn thưở.[/B]
Thiết lập được một nền triết lư như thế dẫu chỉ bằng lối "tổ thuật" mà thôi th́ ơn ích có thể kéo dài từng trăm từng ngàn năm. Tuy nhiên đó là chuyện hy hữu, [B]v́ nó ở măi đợt căn cơ, chỉ cần một lời, nhưng là lời quán thông bao gồm được mọi khía cạnh[/B]. Làm sao nh́n nhận ra được lời đó giữa cảnh ồn ào muôn lời tào lao huyên náo. [B]Đó là chuyện vốn tự thân đă khó lại c̣n khó thêm ở chỗ sâu xa. Tuy nó thiết thực, nhưng sâu thẳm nên người ta dễ lẫn với triết học lư niệm bâng quơ. Do đó triết lư chân chính cũng trở thành khó được truy nhận y như khó có một triết gia biết "tổ thuật" vậy.[/B]
[B]Tổ thuật là t́m ra chỗ then chốt làm cho các vấn đề ăn chịu với nhau cách linh động do nguồn sinh lực tuôn trào ra tự lời uyên nguyên để soi sáng vào mọi ngơ ngách tâm hồn. Đó mới là cái khó vô biên, cái [I]"tri nan hành dị"[/I] của Vương Dương Minh. Đó mới là cái Tri mà người ta chờ mong ở nền Minh triết chân thực.[/B] V́ chỉ nó mới có cái :
[B][I]"Tri viễn chi cận.
Tri phong chi tự
Tri vi chi hiển" [/I]
遠 之 近 ,
知 風 之 自 ,
知 微 之 顯 ,[/B] (T.D 33)
[B]"Biết cái gần của cái căn cơ xa thẳm.
Biết chỗ ngọn nguồn do lai của luồng gió.
Biết được chỗ tế vi của những cái đă hiển hiện ra trước mắt"[/B].
Biết thế mới nói lên lời sáng soi sống động gây nên một nếp sống mới. Đó là cái biết tế vi ngọn nguồn, cái biết của triết gia, chứ không là cái biết gần gũi của cái gió đă tạt vào mặt, thổi ù hai tai. Cái biết đó là cái biết cầu âu của "nói dễ làm khó". [B]C̣n cái biết của triết chân thực khó hơn cả trăm lần nên nhân lọai mới quư hóa triết gia chân chính, và trải từng ngàn năm, lời nói các Ngài vẫn được coi như di sản thiêng liêng, vẫn là một trong tam bất hủ (đức, công, ngôn). [/B]
Đừng thấy xa xôi mà nóng ruột. [B]Văn minh hiện nay là cái văn minh "lắm mồm"[/B] của [I]"civilisation bavarde de bla, bla, bla…"[/I] [B]con người bị ngập lụt trong lời nói sách vở, báo chương, nhưng con người vẫn thấy đói lời[/B]. V́ chưa có một lời rọi tia sáng và sức nóng vào các lời lẻ tẻ, nên con người vẫn xài tạm một số lời có ít nhiều chất nuôi phần lớn là khuyến khích thiện chí nhưng không soi sáng được tâm hồn như những mớ luận lư h́nh thức, triết học cầu âu, tôn giáo vu nghiễn v.v… [B]và vẫn chờ mong trong khắc khoải "Lời" sáng soi đầy sinh lực của hiền triết.[/B]
[B]Loài người đâu chỉ có sống v́ cơm bánh, nhưng c̣n sống v́ lời Thiên khải. Nơi triết lư phải hiểu Thiên khải là Tâm khải[/B], khác hẳn với những lời phát xuất từ lư trí, cảm xúc, dục t́nh, cái đó tràn lan ngập lụt, [B]c̣n lời Thiên khải từng trăm năm đă vị tất được nghe. Và đâu có nó th́ người ta quư hóa duy tŕ, và nó sẽ sống măi măi với nhân loại để làm lương thực tinh thần, để làm đèn soi cho con thuyền bập bềnh trên những sóng cuồng ngôn hầm hè nuốt chửng "Lời tự khải minh" ra vậy. [/B]
Triết học là cốt học phương pháp đi t́m "Lời" đó. "Lời không nói ra được" hay đúng hơn "Lời" không chút chi lệ thuộc vào những lời tầm phào phiến diện nên rất linh động. [B]V́ thế mới dạy phải ngược chiều trở lui, lui măi qua các đợt chèo xuống đến chỗ cùng cực đằng lái. Đấy mới là hoạt trường của triết gia, đấy mới là nơi có thể t́m ra căn cơ giường cột "venenum in cauda". Nọc quư dấu ở đàng đuôi. Đom đóm sáng đàng đít tức là chỗ chí cực như Trang Tử bảo : [I][COLOR="red"]"Đạo vật chí cực"[/COLOR][/I]. [U]Đạo nằm ở chỗ cùng cực của mỗi việc làm đến trọn hảo, ở lời phát xuất tự sâu thẳm của tâm hồn[/U]. [/B]
Nho giáo bảo người quân tử phải [B][I]"thối tàng ư mật"[/I][/B], trở lui đến chỗ ẩn tàng mắt không thấy, tai không nghe, để t́m ra chốn [B]"hội thông"[/B] của vạn vật trong muôn ánh sáng là v́ đó. Để rồi từ đó trở lại soi sáng vào mọi công việc thường nhật từ nhỏ tới to. Thành ra [B]môi trường của triết lư Nho Việt là khắp hết tự tu thân đến tề gia rồi lan ra tới trị quốc b́nh thiên hạ, [COLOR="red"]nhưng điểm phát huy ánh sáng phải là cái nội ngă Tâm linh[/COLOR] vậy[/B].
Kim-Định.
[COLOR="blue"] (1) Câu nầy trích trong sách Đại Học, phần kinh, chương 1 (Kinh nhất chương Đại Học Chi Đạo); sách Đại Học do Tăng Tử, con của Tăng Tích truyền; không hiểu sao KĐ cho là của Tử Tư. (Trương Củng chú thích) [/COLOR]
V. NỮ OA VỚI BỐN CHÂN RÙA
[B]1. Khi rùa bị chặt chân [/B]
Có lần trời đất nghiêng ngửa th́ bà Nữ Oa đă chặt bốn chân con rùa, trời đất liền trở lại cảnh an b́nh lúc trước.
[B]Nữ Oa[/B] là ai ? Thưa, [B]là nền Minh triết uyên nguyên[/B] hơn hẳn Achille không đuổi kịp rùa, c̣n đây không những đuổi kịp mà c̣n bắt và chặt chân. Vậy rùa là ǵ ?
Thưa, [B]rùa đây phải hiểu là linh quy[/B], hay [B]thần Kim Quy nằm trong "Thái Thất" tức là "Nhân tánh" của con người,[/B] Kinh Dịch đă cụ thể hóa linh quy bằng h́nh Lạc thư gồm các số trời đất sắp xếp chen nhau theo h́nh vuông như con rùa :
H́nh vẽ :
[CENTER][IMG]http://www.anviettoancau.net/anviettc/images/stories/2008-11/11.JPG[/IMG]
[/CENTER]
[B]"[I]Lạc Thư cái thủ quy tượng, cố kỳ số đái cửu lư nhất, tả tam hữu thất; nhị tứ vi kiên lục bát vi túc[/I], 洛書 蓋 守 龜 匠, 故 其 數 戴 九 履 一 , 左 三 右 七, 二 四 為 肩, 六 八 為 足 "[/B]: Lạc Thư có h́nh rùa nên số của nó là đội 9 giẫm 1, tả 3 hữu 7; 2, 4, là vai 6, 8 là chân. (1)
Đó là h́nh lạc thư mà Nho học quen gọi là [U]Ma phương v́ cộng chéo hay dọc chiều nào cũng được số 15[/U], và quen gọi là rùa, [B]v́ rùa là một trong tứ linh[/B]. Nhưng thường cái học từ chương dừng lại ở con số ma phương mà không đi xa hơn để t́m hiểu nghĩa sâu xa của linh quy.
Ư nghĩa thâm sâu đó đă được tŕnh bày ít nhiều qua một hai giảng khóa, thí dụ xem trong Chữ Thời:
- Vũ trụ nhân linh trang 293 và 294
- Bài thơ vương đạo h́nh trang 319
- Thái thất h́nh trang 355
- Hoặc đọc bài Ngũ hành từ trang 197-198
- Hoặc áp dụng câu "an thổ, đôn hồ nhân, cố năng ái" trong cách đặt bài vị Văn Tổ (Căn bản triết lư trong văn hóa Việt Nam, trang 23-50).
Ở đây chỉ cần nhắc qua ít điểm liên hệ tới khóa giảng này:
- Các góc chấm đen, chỉ sự tối.
- Và được xếp đặt theo h́nh vuông, chữ Nho kêu là phương, do đó có câu địa phương.
- Và cả bốn góc đều là số chẵn tức là số đất.
- Ngoài ra các số lẻ chỉ trời, ṿng trắng chỉ sáng, và đặt ở bốn hướng, chỉ bốn mùa tức biến dịch có hướng.
- Thập tự nhai ở giữa chỉ Nhân tính hay là nơi giao hội của Đất và Trời nên cũng gọi là Toàn thể Viên Dung.
Lưng hay chân đều là số đất 2, 4, 6, 8 và tượng bằng chấm đen nên [U]mang một ư nghĩa tiêu biểu giống nhau để chỉ những cáu bụi của đời đă kết thành cái ngă che khuất mắt tâm linh làm cho người không nh́n ra được nguyên tánh là nguồn mạch sống động linh thiêng[/U], hoặc nói khác [B]không thể "cách vật" tức là tới tận sự vật hay thực tại tự thân là chỗ hướng về của triết lư trung thực[/B], cho nên tất cả triết Đông đều hướng đến chỗ thanh lọc mà thầy Điểm gọi bằng câu [B]"Dục hồ Nghi"[/B], tắm rửa, tẩy sạch trong nước, [B]nếu không th́ những cái kêu là "chân lư" chỉ là "chân rùa" đầy bùn đất che lấp không cho thấy được Nguyên tánh, Kiến tánh. [/B]
Kinh Phật cũng nói theo chiều hướng đó:
[I][B]"Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến
Kiến do ly Kiến, Kiến bất năng cập"[/B][/I]
Cái Kiến thường ngày do tai mắt thâu nạp chưa phải là Kiến (tánh). C̣n cái Kiến ĺa xa cái Kiến thế gian, mới là Chính Kiến, mà những cái Thường Kiến không sao b́ kịp.
Khổng Tử ít dùng biểu tượng, nhưng cũng thực hiện theo chiều hướng "chặt bốn chân rùa" nên môn đệ có viết về Ông câu sau:
[B]"[I]Tử tuyệt tứ: vô ư, vô tất, vô cố, vô ngă,[/I] 子 絕 四 : 毋 意 , 毋 必 , 毋 固 , 毋 我 "[/B] (L.N IX.4)
Thầy đă trừ tuyệt được 4 điều là : [B]vô ư, vô tất, vô cố, vô ngă.[/B]
Ta hăy đào sâu để t́m hiểu lư do tại sao cần dứt bỏ 4 điều đó. Và để cho dễ nhớ ta có thể gán vào 4 góc của Lạc thư như sau :
[B]Vô ư[/B] là số [B]8[/B]
[B]Vô tất[/B] là số [B]6[/B]
[B]Vô cố[/B] là số [B]4[/B]
[B]Vô ngă[/B] là số [B]2[/B]
Sự gán này chỉ là phương tiện giáo khoa chúng ta phải đi sâu vào nội dung để nhận thức ra ư nghĩa hiện thực của chúng,
[B]2. Vô ư [/B]
Ư là ǵ ? Tại sao lại phải tránh ? Thưa, ư đây trước hết [U]là những ư tượng của các vật thể cá biệt do giác quan đưa vào, và được lư trí thâu nhận[/U] nên rất b́ phu vụn mảnh, ta có thể gọi là đối tượng (gegenstand) tức là [B]cái ǵ ly cách, cá biệt chắn lối không cho thấy Nhất thể[/B].
Ư tượng c̣n một đặc tính nữa là trừu tượng, tức là người quan sát chú ư đến một hai khía cạnh của sự vật, [B]c̣n bỏ tất cả mọi khía cạnh khác nhất là những yếu tố tế vi, nên ư tượng trở thành bé nhỏ, chi ly, cứng đọng.[/B]
Các triết học Nhị nguyên đă dùng những [B]ư tượng[/B] (percept) trên làm [B]ư niệm[/B] (concept) [U]hay làm đối tượng triết học, nghĩa là sắp xếp theo một mối liên hệ nào đó cho có mạch lạc của chân lư và ta gọi tất cả là ư hệ.[/U] Ư hệ v́ thế không đúng với thực tại, nhưng v́ có sự quán xuyến nên đă làm thành cái gông mắt ngựa kéo xe khiến người đeo nó không thể thấy những ǵ bên ngoài. Do đó không thể căn cứ vào tai mắt để suy tư ([I][B]nhĩ mục chi quan bất tư[/B][/I]). V́ căn cứ vào tai mắt chỉ có thể có ư kiến (opinion) là những ǵ tư riêng và bất cứ ai cũng có, [B]nhưng trong trăm ngàn người có ư kiến chưa chắc đă được dăm ba người biết suy tư, khi hiểu suy tư là Quy tư, là t́m về Nguyên ngôn ở tận chốn thẩm cung của tâm linh Đại thể[/B]. Nhưng bởi thường nhân không nhận ra chỗ tế vi đó nên mới đi tới bước thứ hai coi đó là tất định.
[B]3. Vô tất [/B]
[U]Nên hiểu là những công ước xă hội, những nền đức lư h́nh thức, những tục lệ mỗi nơi, mỗi thời đại[/U]… Tất cả được đưa ra do nhu yếu của đời sống, của xă nhân, để bảo vệ quyền sống… Tất cả những điều đó chỉ có giá trị nhất thời, nhưng thường nhà cầm quyền không nhận ra điều đó, nên gán cho chúng tính chất tuyệt đối, trường cửu. Việc đó dễ hiểu v́ nó chước cho nhà cầm quyền sự khổ công t́m cách canh tân đời sống. [B]Điều đáng nói là chính các triết học gia cũng coi đó là những điều tất định[/B], có tính cách trường cửu, mà không nhận ra chúng đă thuộc dĩ văng nên rất dễ xa ĺa ḍng sống là cái luôn luôn ở trong hiện tại, luôn luôn biến chuyển như ḍng sông chảy miết đêm ngày không ngừng nghỉ, bất chấp đến những chân lư yếu tính của các ông triết học lư niệm hàn lâm. [B]Nếu người ta không nhận ra để khởi công giũ bỏ trước tuổi đôi mươi th́ những "chân lư" những ư niệm tất định đó sẽ đóng cặn xuống tâm hồn họ làm thành những khuôn cứng nhắc, những định đề (postulats) bất khả dịch và được gắn bó lại bằng tư t́nh, tư dục.[/B] Chữ Tất thuộc cảm t́nh, nó chỉ trỏ ḷng tŕu mến những cái dĩ văng, coi những ư kiến trên kia là tuyệt đối, bất khả di dịch, muôn sự muôn việc đều phải nhất nhất tuân theo, [U]những con người bị nhất vào những ư hệ có tính cách tất mạnh như thế sẽ bị tước đoạt hết mọi quyền tự quyết nội khởi của nhân chủ để trở thành một vật thể thụ động bị sai khiến từ bên ngoài[/U]. Và khi sự sai khiến đó không được nhận thức ra th́ sẽ đi đến giai đoạn ba là cố chấp bám víu.
[B]4. Vô cố [/B]
Bước vô cố khó hơn lên một độ, v́ cố chấp thuộc ư chí tham dục, nên ở đợt này c̣n có những thế lực khác với triết học nhị nguyên như những loại vu nghiễn, hương nguyện, là những người thường trọng thể hóa những tục lệ hay công ước của một xă hội tư riêng trong một giai đoạn nào cần thiết cho một thời, một nơi, nay được họ công kênh lên bậc tuyệt đối, mặc cho những tính chất vĩnh cửu, và nhất là linh thiêng, th́ lúc đó nó ngấm sâu vào tận xương tủy để huy động toàn thể con người : ư, t́nh, chí. [B]Ư và T́nh đă bị huy động trọn vẹn và nó trở thành cố chấp, nhỏ hẹp, độc hữu… nuốt trôi hết mọi sinh lực. Con người trở nên tù nhân bị cùm xích chân tay ḷng trí vào cái tư riêng đă được linh thiêng hóa[/B]. Thế là bị buộc chân vào một góc (góc 4) không theo được con đường tiến hóa đưa về tới ngọn nguồn là Nhất thể hay Nguyên tánh nữa. Và [B]như thế là hắn lấy tất cả những cái Ư, Tất, Cố trên kia làm cái Ngă[/B] của hắn.
[B]5. Vô ngă [/B]
Ngă là đợt cuối cùng trên quá tŕnh nô lệ hóa con người. Ở Ư con người bị mang gông mắt như ngựa kéo xe. Ở Tất thêm xúc cảm, tư t́nh gia tăng đeo lên mắt một thứ kính màu : đen, đỏ, trắng, tím, tùy tính khí. Ở Cố th́ cả đến ư chí cũng bị cột luôn, và huy động chân tay ôm gh́ lấy cái ư kiến kia như là của ḿnh. Cuối cùng [B]đến Ngă th́ ư kiến không c̣n là của ḿnh nữa, nhưng đă đồng hóa với ḿnh rồi, được coi là chính ḿnh[/B], nên đặt với số 2 trong bảng Lạc Thư để chỉ mức độ đồng nhất hóa đă tiến lên đến cùng cực, từ số 8 chỉ ư, qua 6: tất, 4: cố, đến ngă chỉ c̣n có 2 nên rất khó nhận ra nguồn gốc tự ngoại và do đó con người tự đồng hóa với những ư kiến tư riêng và coi trọng bằng hay hơn cả cái ngă, đến nỗi dễ dàng hy sinh mạng sống để bênh vực cái ư kiến đă được ngă hóa đó. [B]Thế nghĩa là ở đợt này, ư kiến chiếm trọn ngôi vị con người. Nhân tính bị vùi đi và chủ quyền bị nắm trọng vẹn trong tay ngă[/B]. Ngă là ǵ nếu không là sự tổng hợp của các ư kiến, cảm t́nh, thói tục, sự vật, ảnh h́nh do giác quan thâu vào làm thành hệ thống sai sử con người, hoặc [B]nói theo tiếng đời nay là con người bị cơ cấu hóa nên chỉ c̣n là một nhân h́nh bị sự vật sai sử giật giây, và che lấp hẳn[/B]. Con người có Nhân Chủ tính với quyền tự do tự nội. [B]Đấy là duyên cớ gây ra thảm trạng vong thân của con người xa ĺa nhân tính[/B] với tiếng kêu "[I][B]thất thị viễn nhi[/B][/I] !" [U]và đă trở thành con nhộng bị bao bọc trong tổ kén, nếu không căn thủng được (không tuyệt tứ) th́ chẳng bao giờ trở thành bướm bay lượn trên các giàn hoa để hút nhụy tinh tuyền[/U].
V́ thế [B]đă là người có máu triết gia th́ bao giờ cũng khởi đầu bằng một phen "tuyệt tứ"[/B] tức phá đổ các bức tường ước lệ, những "chân lư" minh hiển được mọi người chấp nhận. [B]Cuộc phá đổ càng triệt để th́ óc triết càng lớn[/B] : khác nhau chăng là do tính t́nh, hoàn cảnh, môi trường… mà cuộc phá đổ có tính cách êm đềm hay rầm rộ. Nhưng chính việc phá đổ phải có v́ thiếu công tác này sẽ không vượt qua ṿm trời nhỏ bé thấp hẹp, để đến miền Toàn thể bao la, đến tận nguồn suối, nơi sẽ vọt ra tự ḷng ḿnh một luồng tư tưởng mạnh mẽ đưa ḿnh lên một b́nh diện khác. [U]C̣n như không phá nổi ṿng vây "tứ địa" th́ không đuổi kịp rùa tức là không nếm được mùi vị của triết, của Đạo và tiếp tục đời sống phàm tục trôi theo ḍng thế gian, [B]nhưng nhất là khi bầu khí văn hóa của hắn mang đậm chất vong thân th́ có học cách ǵ đi nữa cũng là nhai nắm vỏ trấu khô[/B][/U]. Trong những trường hợp tương tự, [B]chỉ có bậc phi thường mới thoát ra khỏi 4 bức tường của cái ngục nội tại nằm nay trong chính ḿnh[/B] đó.
Nên ghi nhận cả 4 điểm cần cởi bỏ không điểm nào nói về tội lỗi mà chỉ nói đến sản phẩm của cơ năng ư chí, t́nh cảm… [B]V́ đây là Nho triết xây trên vũ trụ quan Thiên Địa Vạn Vật Nhất Thể nên không bàn về tội[/B]. Tội thuộc tôn giáo có nhiệm phép để tha nên tương đối dễ. [B]Ở đây là chuyện Tâm thức nên phải tự ḿnh gỡ lấy ḿnh nên khó hơn nhiều.[/B]
V́ thế truyền thống triết Đông đă trù liệu nhiều biện pháp để giúp hậu duệ trên đường [B]Tâm Đạo[/B].
[B]6. Những phương thế [/B]
Những chân lư quư trọng hơn hết phải nói lên được những phương thế. Thiếu nó, triết chỉ là triết học mà không sao bước vào được ba đợt sau (hành, lập, quyền). Ngược lại [B]có phương thế, triết học trở thành triết lư để rồi đạt tới Đạo học, hay là Minh triết. [/B]
[B]Triết lư Đông phương vốn là một Đạo học, nên cả ba nền triết Đông phương đều chú trọng đến phương pháp[/B]. Lăo, Thích chú trọng đến thiền định. Đó là một phương pháp mà giá trị đă được bảo đảm ít ra cho một số người hay cho giai đoạn đầu, nên [B]Nho giáo cũng tham dự theo diễn tŕnh : định, tĩnh, an, lự[/B]. Thiền nằm trong hai bước định và tĩnh. Đó là phương pháp chung của giai đoạn thiền Ấn Độ. [U]Nhưng về sau từ đời tổ Huệ Năng trở đi th́ tĩnh thiền, tọa thiền trở ra hành thiền, tức là một thứ thiền linh động tích cực đi vào đời sống cách mạnh mẽ nên rất gần với Nho giáo[/U]. [B]Riêng Nho giáo v́ là một Đạo xử thế nên ngoài định, tĩnh c̣n chú ư đến an và lự[/B]. Chữ An khác hơn Tĩnh ở chỗ có tính cách tích cực, nên cũng gọi được là một thứ suy tư, nhưng không suy tư lư luận, mà là trầm tư (pensée tranquille), [B]tức là một thứ suy tư mà không suy tư, không tư mà tư, một lối áp dụng Việt lư tức là lên xuống vô thường, động tĩnh không thấy. Động mà không động, tĩnh mà không tĩnh, hành mà không hành, tạm gọi là An hành, An vi.[/B]
Nó c̣n được nhấn mạnh trong chữ Lự. Chữ này ở đây cùng nghĩa với chữ "hư", nên vừa có nghĩa là mưu toan (lự) vừa có nghĩa là hư không, lo mà không lo. Đó là lối quyền biến, có mà không, không mà có vậy.
Đường lối đó đă được hiện thân nơi nghệ thuật. [B]Nghệ thuật là hậu quả của tâm t́nh khi đă tinh luyện đến độ [I]"kiến tánh"[/I], "[I]triêu văn đạo"[/I] nên biến hóa như thần[/B], có tác phong cải hóa rất sâu xa, và đồng thời nó cũng là "dấu chân người to lớn" mà kẻ mới học Đạo, mới bước lên đường nên nương theo để t́m về với Tính thể, [U]và lúc đó nghệ thuật được coi như phương tiện như hướng đạo chỉ đường cũng có một hiệu năng giáo hóa vừa bảo đảm mà lại uyển chuyển linh động hơn hẳn lối lư luận[/U]. V́ lư đo đó tuy ở khởi thủy hai tổ Lăo và Thích không lưu ư mấy tới nghệ thuật (xem Cửa Khổng) nhưng về sau môn đệ đều chấp nhận nghệ thuật và có thể nói c̣n đi rộng hơn, như thấy trong nghệ thuật uống trà, bắn tên của Thiền đạo. V́ thế, thiền định cũng như nghệ thuật trở thành di sản chung cho nền văn hóa Viễn Đông. Thiền đă được bàn rộng trong các tác phẩm thiền khá nhiều, nên ở giảng khóa này chỉ đề cập đến nghệ thuật ở chương VI.
Trước khi bước vào ta nên xem qua lại một hai nghi thức và biểu tượng tổ tiên đă dùng để truyền lại cho hậu duệ tầm quan trọng cũng như phương thế về câu tuyệt tứ: chặt bốn chân rùa như sau.
[B]
7. Nợ tang bồng trong trắng vỗ tay reo. [/B]
Câu thơ trên của Nguyễn Công Trứ lấy hứng từ một trong các thể chế lập ra giúp mỗi người biết hướng sống. Đó là nghi tiết bắn 4 phát tên bằng cây dâu (tang bồng) ra 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc [B]mà ngụ ư minh triết là sau này đứa bé phải biết "tuyệt tứ" tức vượt ṿng tứ địa để đạt đợt tham thiên[/B]. Đó là ư 4 chữ [I][B]"thiên viên địa phương"[/B][/I] (vượt địa lên 3 trời). Đấy là một nghi lễ nhằm phát triển Nhân chủ tính của con người ngay từ lúc lọt ḷng mẹ.
Về sau ư nghĩa này sẽ được nhắc lại long trọng trong [B]Lễ Gia Quan, mục đích là nhắc nhở cho người bước vào tuổi "thành nhân" cái nợ "tuyệt tứ" đặng văn hồi nhân chủ[/B]. V́ ư nghĩa sâu xa như vậy nên cần được sửa soạn chu đáo bằng những cuộc [B]"trai ngoại"[/B] là "tẩy rửa trong nước sông Nghi", và [B]"trai nội"[/B] bằng lên núi Vũ Vu đón nhận "gió trời" (1)
(1) Theo nghĩa thông thường th́ bắn 4 phát tên chỉ cái chí làm trai phải tung hoành dọc ngang. Đó là ư nghĩa thường, c̣n trong bài này dùng theo nghĩa uyên nguyên, và có thế th́ hai chữ tung hoành mới đầy đủ. V́ theo nghĩa thường của Văn học th́ thực ra mới có hoành chưa có tung là chiều kích tâm linh, và nếu thế th́ bắn tên bằng chi cũng được khỏi cần tên bằng cây dâu, đúng ra phải là "không tang" cây dâu rỗng th́ bắn ra 4 mới lấy lại được 16 (4*4=16).
Cuộc lễ tuy đă sửa soạn cẩn trọng và thi hành cách nghiêm chỉnh, nhưng công hiệu [B]cần phải duy tŕ trong suốt đời, nên lập thêm thể chế "tứ quư" là 4 cuộc "tĩnh tâm" vào cuối 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông đặng tuyệt tứ liên tục[/B]. Liên tục trút bỏ cáu bụi do mỗi mùa đă rắc vào tâm hồn để chặt lấy cái tinh túy tế vi. Có tuân theo được ư nghĩa sâu xa đó th́ lúc cuối đời mới trong hát được câu [I][B]"nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo"[/B][/I]. Bởi chưng ngoại trừ những bậc siêu quần như Phật Tổ mà ẩn dụ nói khi mới sinh đă bước được xong 7 bước về 4 hướng. [B]Cái "ư tại ngôn ngoại" chỉ có nghĩa là bậc "sinh nhi tri chi" nghĩa là vừa lọt ḷng mẹ đă vượt qua tứ đại để đạt tam tế, cộng lại là bảy, chỉ bảy nấc thang tiến hóa của con người đă được vượt qua[/B]. Nhưng đó là lối tiến giả thiết của Việt nhân lư tưởng. C̣n ngoại giả phàm nhân đều phải đi từ thấp tới cao : từ lễ bắn tên đến lễ gia quan để rồi trải qua các thứ quư xuân, quư hạ, quư thu, quư đông trong mỗi năm mới [B]mong lúc 70 tuổi th́ có ṭng tâm[/B], cũng bất du cử. Cử là thước vuông chỉ tứ địa. C̣n chữ "tâm mới bằng ba" thêm vào nữa mới ra số 7 chỉ con người đạt cả nội thánh (3) và ngoại vương (4).
Có vượt được 7 nấc thang tiến hóa đó th́ lúc nhắm mắt xuôi tay, việc đưa xác xuống đặt dưới đất mới có ư nghĩa là trở về địa mẫu. V́ Địa mẫu cũng chính là [B][I]"hoàng thiên hậu thổ"[/I][/B]. Và hai chữ [I][B]"thiên viên"[/I] số 3[/B] cộng với [B][I]"địa phương"[/I] số 4[/B] lại xuất hiện lần cuối cùng dưới h́nh thức chùm sao [B][I]"thất tinh"[/I][/B] được khắc trong cái ḥm, để làm thành cái xe long mă Hà Đồ chở Người sang cuộc đời sinh sinh bất tuyệt. Và v́ thế giờ chết được gọi là lúc [B]"sinh th́"[/B], [B]nghĩa là lúc khởi đầu cuộc sinh sinh, tức trở lại với Toàn thể Viên Dung nơi hội thông của Tam tài : Trời Đất, Người tượng bằng Thập tự nhai đặt giữa Lạc thư[/B].
Trên đây là thử nhắc lại bằng mấy nét đơn sơ cái tinh hoa của nền Minh triết Viễn Đông. Và câu [B][I]"tử tuyệt tứ"[/I][/B] không chỉ là câu sách trống rỗng, [B]nhưng là cả một diễn tiến của nếp "sống nhân sinh", của cái "đạo làm người" mà bất cứ một ai đă sinh ra trong cơi Viễn Đông cũng được nền văn hóa tùy nghi phương tiện giúp đỡ để đi tới đích của Đạo làm người, làm nhân chủ.[/B]
Đó là đại khái cái đạo làm người mà tiên tổ ta đă chấp nhận và muốn cho mọi con dân đều[B] "minh tâm khắc cốt"[/B], nên c̣n gửi vào nhiều cử chỉ thường nhật như câu truyện sau:
[B]8. Cuộc thi gia chánh trong huyền sử nước Việt [/B]
Đó là việc vua Hùng Vương muốn truyền ngôi cho con nào t́m ra món ăn ngon nhất. Kết cuộc không phải những người lên rừng hay xuống bể t́m vật lạ. Nhưng được cuộc là Tiết Liêu đă làm nên cặp bánh giầy bánh chưng [U]bằng những vật liệu ngay trước mắt[/U] ([B][I]Đạo bất viễn nhân[/I][/B]).
Việc này nên được suy nghĩ kể từ các trường gia chánh (chuyên môn dạy làm bánh tây ngọt) cho đến các học giả vọng ngoại, khinh thường những di sản tiền nhân, rồi đến các nhà chính trị hay đi cóp nguyên văn chính thể nước người. [B]Tất cả bấy nhiêu đều nên coi gương Hùng Vương trị nước phải có Đạo nằm trong mọi thể chế[/B]. [B]Đạo biểu thị bằng Bánh Giầy (có lẽ đọc trại chữ Giời) và các thể chế là Bánh Chưng (đọc trại chữ Trương - étendue, chỉ những ǵ cụ thể)[/B]. Hùng Vương thứ 18 thực đáng làm tổ nước Việt, v́ Việt là tiến lên 9 độ, lùi xuống 9 độ (Hùng Vương 18 là 2 lần 9, [B][I]c̣n 9 là Bàn Cổ nhất nhật cửu biến[/I][/B]), tức là bao cả nội thánh (bánh trời) và ngoại vương (bánh trương). [B]Trời 3 đất 4 là 7 nấc tiến hóa con người mà ai đạt hết mới đáng làm vua, nghĩa là làm Người Nhân Chủ[/B]. Bởi cái ư nghĩa vừa sâu xa thăm thẳm, vừa thiết thực đến tận thâm tâm mỗi con người [U]nên "Bánh trời bánh trương" được tiền nhân ta cho là món ăn quư trọng nhất, "ngon nhất", nghĩa là thâm thúy hơn, nên đă được dùng làm quà biếu trong những dịp trọng đại như lễ cưới, và nhất là dịp tết Nguyên Đán là dịp mà người ta chúc cho nhau những ǵ đẹp đẽ hơn cả[/U]. [B][COLOR="red"]C̣n ǵ cao siêu và ư nghỉa bằng lời chúc nằm ẩn trong bánh trời bánh trương, nghĩa là chúc nhau nên người, theo nghĩa Người có Nhân chủ tính[/COLOR][/B].
Không thể t́m ra lời chúc nào cao đẹp hơn nữa, nhưng lâu ngày quên mất ư nghĩa và nay có nhắc tới cũng chỉ c̣n là biểu tượng suông. [B]V́ không c̣n cảm quan sắc bén để thâm hiểu đạo lư nên [I]"ăn mà không biết được mùi vị hương thơm"[/I][/B]. Trước kia Nho giáo đă để mất kinh nhạc, c̣n giữ có Kinh Lễ, th́ nay người Việt chúng ta cũng để mất ư nghĩa của chiếc bánh giời chỉ c̣n lại bánh chưng vuông 4 góc tứ địa, nên tứ địa không sao trở thành tứ linh. V́ thế mới xảy ra cảnh [B][I]"thực bất tri kỳ vị"[/I][/B]. Tại sao? Thưa, v́ :
[B][I][COLOR="red"]Tâm bất tại yên[/COLOR],
Thị nhi bất kiến,
Thính nhi bất văn,
Thực nhi bất tri kỳ vị. [/I]
心 不 在 焉 ,
視 而 不 見 ,
聽 而 不 聞 ,
食 而 不 知 其 味 . [/B] (ĐH.7)
Do lẽ đó sau [B][I]"dục hồ Nghi"[/I] tả hăy rủ nhau lên [I]"núi Vũ Vu"[/I] để t́m lại cái Tâm đă bị phóng ra ngoài[/B], mới mong "nh́n th́ thấy, ḷng th́ nghe và ăn th́ biết được mùi vị".
(Kim-Định)