Tạp Văn & Ghi Chép Về Đời Lính
[COLOR="darkred"]Người Lính Không Có Số Quân[/COLOR]
[COLOR="navy"][SIZE="4"][FONT="Arial"]Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền nhiệm,cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.
Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới ṭ te ra trường, giờ đă lên nắm Đai đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến...
Có lẽ họ vẫn c̣n đang thực tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không phải v́ ḿnh tài giỏi ǵ mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội xử lư là một Chuẩn úy, gọi là xử lư cũng không đúng v́ trong cấp số coi Đại đội th́ tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 th́ một ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về.
Ông tên Hồ Trang, khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam v́ dính dáng tới vụ Phật Giáo, ngoài đó ông đă là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt v́ việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí t́nh trong việc chỉ bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng c̣n quá mới, quân trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.
Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho xuống trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đă tàm tàm gọi là đủ lông, đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước đó, ông đă thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh chính ngôn thuận.
Nói về tối đầu tiên tôi dẫn Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi c̣n học Tiểu học:
- Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?
- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu rồi, hồi c̣n Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn xuống sống với chồng nó.
- Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công th́ làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ nó th́ c̣n đánh đấm ǵ được.
- Thiếu uư đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên, biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên nữa.
- Nhưng lỡ có chuyện ǵ làm sao ḿnh báo cáo.
Hôm sau tôi gọi Nở lên tŕnh diện:
- Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ có chuyện ǵ th́ sao?
- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đă đưa nó về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.
Nở thực hiện lời"em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có chuyện ǵ th́ làm sao, rồi má con sẽ phải ḥa thuận với nhau chứ.
Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ th́ Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem c̣n ai không biết chữ gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở về dậy họ học,"ngày măn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ Cộng Ḥa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ ngày đó.
Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở mấy nhà quen trong xă, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.
Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:
Long Xuyên, ngày....
anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi ḿnh hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu ǵ vợ chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái ǵ quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố ch́u chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
Em, Ba.
Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn ǵ không hay nhớ chồng lên đại, tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nh́n thấy,
hoặc có thể biết tôi đă thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ mà là bộ đồ trận rộng thùng th́nh, đầu c̣n đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin ǵ cả, chẳng thà để tôi lờ đi như không biết c̣n hơn là hợp thức hóa cho khó xử.
Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau vùng trách nhiệm họat động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đ́nh Hà (ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.
Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khỏang 500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rơ v́ đă từng đóng quân ở đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngă rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy băng lên v́ t́nh người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch, nhưng v́ không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn,,
Tôi chạy lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng bóp c̣, nhả từng loạt đạn về hướng địch.
Như tôi đă nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai chục tên, đợi ḿnh ơ hờ, liều lĩnh tấn công.
Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng v́ địch tụ ở đâu về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng tập trung ở đây, đợi đêm xuông có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Ḥa, Đức Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.
Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi máy bay ném bom c̣n là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng.
Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một ḿnh vác cây đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch c̣n lo núp. Khi đă rất gần mục tiêu và có g̣ đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được, cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục
ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối, địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể ǵ so với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh, cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở B́nh Long mùa hè đỏ lửa th́ chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn.
Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng huy chương vàng của các nơi khác(!)
Hai ngày sau ĐĐ c̣n được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong[/FONT][/SIZE][/COLOR]
Những Đoá Thơ Cho Phố Núi Pleiku -Nguyễn Mạnh Trinh
[IMG]http://i259.photobucket.com/albums/hh312/haiau09/pleiku-1.jpg[/IMG]
[COLOR="navy"][SIZE="4"][FONT="Arial"]Mấy ngày hôm nay, buổi sáng nào cũng mù mịt sương. Mùa Thu ở đây như gợi lại một nỗi niềm nào.
Lái xe trên đường, trong cái mù mịt của đất trời thấy ḿnh như sống lại một thuở nào, ở không gian thời gian nào tuy thật xa nhưng trong giây phút hiện tại lại thật gần gũi.
Cái tâm trạng bềnh bồng, của tiềm thức chơi vơi trong buổi sáng hôm nay như dẫn từng bước chân trở về, thuở xa xưa, ngày vừa trên hai mươi tuổi.
Lớn lên ở Sài G̣n, cả một thơ ấu nghịch phá, cả một khung trời mơ mộng.
Những ngă tư, những con hẻm, những cổng trường, những mầu hoa Mùa Hạ, những xao xác lạnh cuối năm, tất cả đă thành kỷ niệm. Của một thành phố mà tưởng như chứa cả một phần đời sống của ḿnh.
Rồi tuổi đôi mươi, rời khỏi ghế giảng đường vào lính. Th́ một thành phố, tuy heo hút sơn cùng thủy tận, nhưng lại chan chứa những kỷ niệm của những chàng lính trẻ, ngông nghênh vào đời tưởng như nắm cả vũ trụ trong tay.
Sống ở đó, để thấy nhớ sài G̣n. Nhưng khi đổi về Biên Ḥa gần Sài G̣n th́ lại nhớ lại thời gian đă qua.
Không nuối tiếc nhưng đầy bâng khuâng, và cái không gian se lạnh, cái đêm khuya mưa dầm, cái buổi sáng mù mịt, tất cả trộn lẫn để thành một phong vị khó tả.
Năm tôi lên phố núi tôi vừa qua cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng.
Chưa có kinh nghiệm trường đời nên thường phản ứng trước những chướng tai gai mắt và theo suy nghĩ của nhiều vị chỉ huy, tôi là một đứa ba gai cần phải hành hạ để cho vào khuôn phép.
Ở đâu cũng xa nhà nên tôi t́nh nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi ở đây lập không đoàn th́ cũng là một trong những người khai sơn phá thạch của đơn vị.
Thời gian ở thành phố biên trấn này chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm.
Có những lúc, cơm sấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lănh lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang ở phố đến nửa đêm mới ṃ về phi trường.
Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi sáng c̣n đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đă thành sương khói cho những phi vụ không về.
Ở đây, có sáng mù sương, thấy đời mệt mỏi như chiếc xe dodge già nua ́ ạch leo đầu dốc. Dù rằng tôi lúc ấy chỉ vừa hơn hai mươi tuổi.
Ngày lên Pleiku, có một bài thơ tôi đă làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Han thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương.
Ngày xưa th́ ngăn giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, th́ canh chừng ba biên giới, với những trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn... Bài thơ ấy, làm vào một đêm trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi.
“Ừ mai tao lên Pleiku
Đêm căm hơi đá ngày mù núi xanh
Uống say quên mộng quẩn quanh
Về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang trời
Ngóng thiên thu một cơi đời tịnh yên
Máu xương măi chuyện ưu phiền
C̣n đâu tiếng gọi cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên vai
Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một ḿnh
Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến tranh
Uống đi mai hát quân hành
Nghe trong hơi bốc long lanh mắt người...”
Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, ḿnh như một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Tuổi trẻ, ơi những giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi.
Pleiku, một thành phố nhỏ heo hút ở cao nguyên, nhờ thơ và nhạc, đă thành một nơi chốn đầy thơ mộng. Thành phố ấy, có những tương phản kỳ lạ.
Chiến tranh đă làm phố núi ấy có một bộ mặt, khi th́ lăng mạn thơ mộng với những tà áo dài nữ sinh đi học buổi sớm mai nhưng cũng có lúc ......
. Con đường từ phố đến camp Holloway đầy những quán rượu và những cô gái phấn son ḷe loẹt. Và, thành phố cũng đầy những sắc lính. Những người từ mặt trận trở về, đốt tiền mua vội một đêm vui rồi sáng mai trở lại miền gió cát.
Những người lính đồn trú ở đây, ráng làm quen với cuộc sống ở vùng nắng bụi mưa śnh, trong một giây phút nào, cũng nao nao v́ những tà áo trắng buổi sáng trong sương mù Pleiku, t́m thấy một chút thơ mộng trong đời để làm kỷ niệm Pleiku, những cuộc t́nh có thực đầy dông băo của những người lính và những cô gái giang hồ.
Nhưng Pleiku cũng có những êm ái thánh thiện của t́nh học tṛ áo trắng và người lính dạn dầy trong khói lửa.
Pleiku có con đường đầy quán rượu cho lính G.I. viễn chinh nhưng cũng có con đường có hai hàng cây cao vút rợp bóng lá và những tà áo học tṛ tung bay theo nắng.
Người làm thơ, có lúc cũng cảm khái v́ cái không gian, thời gian của thành phố ấy. Mưa cũng là cái mưa đặc biệt, mỗi mỗi hạt mưa như chứa đựng cả những nỗi niềm của tất cả những địa phương xa lạ thu góp về.
ôi cũng đă sống ở Pleiku gần ba năm. Thời gian ấy trong hơn tổng số bẩy năm ở lính của tôi chắc là đáng kể và đầy chật những điều đáng nhớ.
Ngày đầu tiên khi từ Nha Trang xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Mưa sủi bọt trên mặt nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen.
Gió ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy ḿnh quá nhỏ nhoi trong cái buồn mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong óc của Kim Tuấn, Du Tử Lê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn.
Thơ tự nhiên thành một phần của một ngày, một tháng, một năm, của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện tại. Những giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực. Nặng tê.
Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa qú vàng.
Thế mà cái mầu sắc hoa man dă ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng.
“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”
Hoa qú vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi đă nh́n thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nh́n xuống. Mầu vàng, mênh mang trên những ngọn dồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất.
Hoa qú, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó quên cho cảm xúc. Ơi hoa qú, mầu vàng không phải kiêu sa như mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dă, của thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa qú vàng, như Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn.
Người thơ kể chuyện của ḿnh, một câu chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú.
Cũng đi xuống, đi lên, cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống...
“Đời lang bạt của một người lính thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Đi một ḿnh lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc t́m không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nh́n gă lính không khác ǵ gă lính”.
Nắng cũng là cái nắng không phải của một nơi chốn nào khác, nó mang đến cái hanh hao khó chịu nhưng cũng trong màu nắng ấy lấp lánh những t́nh cảm thầm th́ khó tả.
Lạnh cũng chẳng phải là cái lạnh lẽo b́nh thường mà h́nh như cỏ cây, đường phố, núi non, ở đây cũng se ḿnh và chia sẻ chung vui buồn với con người.
Trong giây phút hiếm có trong đời, cảm xúc đă làm ngôn ngữ tăng thêm lôi cuốn và tạo nhiều ấn tượng. Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như một cách thế sống, đă coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Plei ku và viết những bài thơ để gửi Plei ku.
Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có những xúc động bềnh bồng của tâm tư lăng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ, phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ.
Đọc bài thơ “Hoa Qú Vàng Lạnh Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy.
Trở về những ngày tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi.
Cái lạnh, chưa hẳn là lạnh lẽo Mùa Đông, mà c̣n chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của Mùa Hạ. Lạnh ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong.
Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nh́n về phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm nh́n vời vợi.
“Đứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy ḿnh buốt lạnh mấy ngh́n năm
V́ đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Đă nh́n ḿnh rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
[/FONT][/SIZE][/COLOR]
Trên Đỉnh Chu Pao - Kiều Mỹ Duyên
[IMG]http://i25.tinypic.com/282eycp.jpg[/IMG]
[COLOR="navy"][SIZE="4"][FONT="Arial"] Cao Nguyên là một phần đất thật đẹp của quê hương. Nếu không phải v́ t́nh trạng chiến tranh,
Cao Nguyên quả là một nơi tuyệt vời cho những người muốn sống gần với thiên nhiên. Kontum được xem như là một thị trấn tiêu biểu của vùng này.
Kontum có những ngôi nhà xưa, xây từ lúc người Pháp mới đến đây khai phá, có những đồn điền cà phê xanh mướt, có ḍng sông Dabla nước chảy lững lờ, có những con đường phố với hai hàng phượng vĩ, mùa hè hoa đỏ rực một màu, có những quán cà phê của những cô Thái trắng, cả cà phê và chủ nhân đều làm say ḷng khách ghé đến.
Nhưng hôm nay, Cao Nguyên lửa đạn ngút trời, tôi đến đây mỗi ngày ăn gạo sấy và đi thăm các trại tạm cư của đồng bào tị nạn, đi thăm các căn cứ hỏa lực đang ngày đêm chiến đấu với địch quân để giữ cho Kontum, thành phố được nguyên vẹn, cuộc sống được yên lành.
Từ Kontum, tôi trở về Pleiku bằng trực thăng v́ nghe tin một trận đánh dữ dội vừa xảy ra trên đỉnh núi Chu Pao và quân ta đă hoàn toàn làm chủ t́nh h́nh tại hai căn cứ hỏa lực 41 và 42 cách thành phố Pleiku 15 cây số về hướng Bắc, ở vị trí trấn đóng ngay ngơ vào thành phố.
Nếu hai căn cứ này phải di tản chiến thuật, th́ Pleiku sẽ một sớm một chiều rơi vào tay địch.
V́ vậy, trong hai ngày qua, những trận đánh đẫm máu đă diễn ra tại đây, khiến cho tất cả phóng viên chiến trường trong và ngoài nước đều dồn hết về hai căn cứ này.
Chúng tôi đi bằng đường bộ dưới sự hướng dẫn của Trung Tá Nghiêm thuộc Khối Chiến Tranh Chính Trị Quân Đoàn II. Những phóng viên ngoại quốc người nào cũng mặc áo giáp, đội nón sắt và mang ba lô trên vai như những người lính chiến, chỉ khác là những chiếc máy h́nh trên tay thay thế cho súng cá nhân mà thôi. Ba lô của họ đầy đủ lương khô và nước uống.
Họ cẩn thận cũng phải, v́ đây là xứ lạ quê người, và đang đi vào một vùng rừng núi, một vùng đang giao tranh, bom đạn có thể chụp xuống bất cứ lúc nào.
Đại Úy Hồ Đắc Tùng, Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn 3/44 thuộc Sư Đoàn 23 Bộ Binh được yêu cầu thuyết tŕnh về trận đánh khốc liệt vừa xảy ra ngày hôm qua tại đây
. Đại Úy Tùng xuất thân khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt. Dáng người nhỏ, gầy, mắt sáng, nói tiếng Anh lưu loát.
Chúng tôi được mời xuống hầm chỉ huy của căn cứ hỏa lực 42. Đại Úy Tùng bắt đầu tŕnh bày những diễn tiến:
- Cộng quân thừa hiểu rằng, muốn tiến vào Pleiku, chúng phải đánh chiếm hai cửa ải là căn cứ 41 và căn cứ 42 trước tiên. Vào lúc 1 giờ 30 đêm hôm trước, Cộng quân pháo chừng 500 quả vào căn cứ rồi một đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng và một trung đoàn trợ chiến,
Trung Đoàn 9P, có thêm trung đoàn pháo yểm trợ đă mở một cuộc tấn công đẫm máu vào căn cứ này. Cộng quân tiến vào từ hướng Đông. Lúc đó cánh quân của tôi ở phía Tây đánh dạt chúng qua.
Đặc công của Việt Cộng c̣n trẻ, chừng 15, 16 tuổi, nhưng đă chích thuốc kích thích nên rất liều mạng. Chúng mang vào khoảng 50 kí lô chất nổ để phá căn cứ.
Chúng tôi được Pháo Binh Dù yểm trợ, bắn rất chính xác. Trên không c̣n có L19 và C7 thả hỏa châu soi sáng cả một vùng cho F105 oanh kích địch.
Lúc đó áp lực của Cộng quân thật quá nặng, tôi nhờ tần số của Dù liên lạc với Mỹ xin tia laser. Đến 2 giờ kém mười phút, một chiếc C130 bay đến lượn ṿng ṿng trên trời ở hướng của địch.
Khoảng 6 giờ sáng, phía bên địch tiếng súng thưa thớt dần rồi im bặt.
Sáng hôm đó, chúng tôi phải chôn 160 xác Việt Cộng ở chung quanh căn cứ, lát sau t́m thấy thêm 40 xác bên bờ suối đằng kia cùng với những vết máu rải rác trên mặt đất từ đây vào trong rừng.
Ngừng một lát, giọng Đạí Úy Tùng có vẻ bùi ngùi:
- Đại Úy Lịch thuộc Sư Đoàn Dù chết ngay trên hầm này. Một xạ thủ giữ cây đại liên trên nóc hầm vừa trúng đạn gục xuống, ông nhào tới ôm cây đại liên quạt tiếp vào toán đặc công đang xung phong vào cho đến khi ông trúng đạn quỵ xuống.
Tôi hỏi Đại Úy Tùng:
- Đại Úy có thể cho biết tác dụng của tia laser? Loại máy bay nào được trang bị tia sáng này?
Đại Úy Tùng giải thích:
- Tia laser bắn gần th́ cháy, xa th́ bị mù mắt. Lúc đó, chính tôi cũng lấy làm lạ, v́ đây là lần đầu tiên, tôi thấy máy bay C130 cứ lượn qua, lượn lại về hướng quân địch mà không thấy động tịnh ǵ hết. Sáng ra chôn xác mới hiểu, địch bị bắn mù mắt, cứ đi luẩn quẩn một chỗ.
Tia laser hiếm lắm, chỉ trang bị cho phi cơ Mỹ.
Tôi được mời ở lại căn cứ ăn cơm lính, gạo sấy với đồ hộp. Cơm chưa kịp ăn th́ ầm, ầm... những tiếng nổ long trời lở đất. Tôi nh́n thấy những bao cát trên nóc hầm rung rinh như muốn sập xuống. Máy truyền tin trong hầm chỉ huy làm việc không ngừng: căn cứ 41 đang bị pháo kích.
Tôi nghĩ rằng có thể ḿnh sẽ được chứng kiến tại chỗ một trận đánh ác liệt sắp diễn ra, v́ cái chiến thuật cổ điển của Cộng quân, "tiền pháo hậu xung".
Pháo chừng vài trăm quả là có thể có màn xung phong vào căn cứ. Tôi chuẩn bị máy h́nh và chờ đợi. Nhưng rồi trận pháo kích chấm dứt mà không thấy địch tấn công.
Chúng tôi rời hầm chỉ huy. Những cây cột gần miệng hầm bị trúng đạn cháy c̣n vết đen.
Mùi máu vẫn c̣n phảng phất trong không khí. Những vũng máu đă khô rải rác trên mặt đất. Máu của địch và của những chiến sĩ đă giữ vững căn cứ này.
Chúng tôi ăn cơm bên cạnh miệng hầm. Đại Úy Tùng nói:
- Ngồi đây nếu có ǵ cô chạy xuống hầm cho tiện. Dưa chuột, cà chua, các thức ăn tươi này là của lính tôi mua lại trong các buôn Thượng gần đây. Chừng nào kiếm không có chút rau trái mới phải ăn toàn đồ hộp.
Sau bữa cơm, tôi đề nghị với Đại Úy Tùng và sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Ngô Dzu là cho tôi đi thăm căn cứ 42. Đại Úy Tùng nói:
- Lên trên đó pháo kích dữ lắm. Áo giáp, nón sắt tôi chỉ c̣n một cái, tôi cho cô mượn.
Tôi ngỏ ư cám ơn:
- Xin nhường cho tùy viên của ông Tướng. Tôi mang những thứ đó nặng quá chạy không nổi đâu. Lỡ bị Việt Cộng bắt th́ c̣n khổ hơn là trúng đạn nữa.
Đi làm phóng sự từ chiến trường này qua chiến trường khác, lâu ngày tôi mới nghiệm thấy một điều: thường ở trong những hoàn cảnh cận kề với sự hiểm nguy, người ta hay đùa cợt để cho tinh thần bớt căng thẳng, cho quên đi những lo âu đè nặng trong tâm hồn, hoặc là thoát ra khỏi hiện tại bằng những mộng mơ nào đó....
Bây giờ em ở Pleiku
Cỏ xanh là núi mây mù là sương
Tôi không biết có phải hai câu thơ này là của chính anh sáng tác hay không, nhưng chắc chắn trong giờ phút ấy, anh đang nghĩ đến một người con gái nào đó.
Và những giây phút lăng mạn trong t́nh huống này có lẽ giúp cho người lính chiến thoải mái hơn là ngồi lo âu không biết là địch sẽ trở lại tấn công lúc nào.
Chúng tôi đến căn cứ hỏa lực 42 khi căn cứ này cũng vừa bị một trận pháo dữ dội. Mọi người đang bận rộn với công việc của ḿnh. Người th́ đang ăn cơm, người th́ đang tu bổ lại những hầm mới bị pháo làm hư hại.
Tôi ngỏ ư với Đại Úy Tùng muốn gặp một chiến sĩ nào xuất sắc nhất của đơn vị. Đại Úy Tùng chấp thuận ngay.Mọi người kéo vào hầm chỉ huy. Cứ mỗi lần vào hầm chỉ huy là mỗi lần tôi suưt bị bể trán v́ lo quan sát chung quanh mà quên khom ḿnh xuống chui qua cửa hầm.
Trung sĩ Nguyễn Văn Tạ đứng nghiêm chào ông Tiểu Đoàn Trưởng của ḿnh và ngồi đối diện với tôi.
Anh đánh giặc ĺ nhất đơn vị nhưng lại có vẻ lúng túng khi ngồi nói chuyện với một nữ phóng viên. Tôi mở lời ngay cho anh được tự nhiên:
- Anh làm ơn kể lại cho tôi nghe trận đánh hào hùng của các anh vừa rồi trên núi Chu Pao.[/FONT][/SIZE][/COLOR]
Trận Đánh Cuối Cùng Không Có Đại Bàng
[COLOR="navy"][SIZE="4"][FONT="Arial"] Trong đời hành quân của Đạt, chưa bao giờ hắn tham dự một trận đánh kỳ cục như thế này.
Ngày trước, lội nát mật khu Lê Hồng Phong, đụng lớn cũng có đại bàng, đụng nhỏ cũng có đại bàng, lệnh ra oang oang trong máy; nay địch kéo hàng sư đoàn với cả bầy Molotova và chiến xa vượt qua Cà Ná, qua Vĩnh Hảo, Ḥa Đa... khi địch gần đến Chợ Lầu th́ đại bàng bỗng biến mất.
Lệnh giữ chốt và đóng chốt diệt "cua đỏ" đă ban ra từ hôm trước 18 tháng 3, và cho biết sẽ có chỉ thị tiếp. Sau đó đại bàng im lặng vô tuyến!
Đạt và anh em chuẩn bị đón tăng T54 bằng M72 và ḿn. Đơn vị trải dài từ mé cao điểm triền động phía đông thoai thoải dài xuống mô đất cùi chỏ nhô ra quốc lộ 1 gần trường bắn Lương Sơn.
Hàng loạt M72 được tháo dây chốt an toàn và đặt sẵn bên vị trí khai hỏa. Chỉ việc chụp ống phóng đưa lên vai, nhắm và bắn. Lệnh chuẩn úy Bảy là khai hỏa chính xác, đúng tầm hỏa lực hiệu quả và khai hỏa hàng loạt.
Bắn hụt chiếc đầu là thác cả đám! Khai hỏa chiếc đầu và ngay cả những chiếc đi sau để giảm thiểu tối đa việc địch phản kích đánh bọc sườn. Sau khi bất ngờ gây tê liệt đàn chiến xa tiền quân của địch, toàn bộ đơn vị rút khẩn cấp theo lộ tŕnh định sẵn. Toán thám báo phía Bắc bỗng lên máy:
- Bắc B́nh! Bắc B́nh!
Cả đám Tư Tưởng 54 đă vượt qua cầu Hồng Hà Đống Đa! Bắc B́nh nghe rơ ?
- Nghe rơ 5! Bám sát nó! Đàn kiến đỏ dài hay ngắn?
- Lúc nhúc, nhưng nó ḅ thận trọng, không nhanh!
- Đại Bàng! Đại Bàng! Bắc B́nh gọi!
Bảy ước lượng khoảng non một giờ nữa th́ địch có thể xuất hiện trong tầm nh́n. Từ vị trí trên động cát, Bẩy phóng ống ḍm xuống quốc 1 thuộc xă Hậu Quách.
Chiếc T54 đầu tiên của địch xuất hiện trên đường nhựa, ṇng đại bác chỉa về triền động.
Bảy chợt kích động, nôn nóng. Đây là lần đầu tiên trong đời kể từ ngày ra trường, trung đội Bẩy được giao nhiệm vụ đánh chận tăng địch. Bẩy bốc ống liên hợp trên lưng người lính truyền tin gọi tiếp cấp trên để báo cáo và xin chỉ thị sau cùng:
- Đại Bàng! Đại Bàng! Bắc B́nh gọi!
Bảy gọi năm lần bảy lượt, Đại Bàng không thấy trả lời. Linh tính cho Bảy cái cảm giác bị cấp chỉ huy bỏ rơi, bỏ lại chiến trường không lệnh lạc cho Bẩy và những người lính dưới quyền.
- Gấp quá! Chắc mấy thằng chả lạnh cẳng hổ mất xác rồi! Chuẩn úy tính sao?
- Tao chỉ huy! Tụi ḿnh sẽ đánh một trận để đời và rút nhanh. Ngàn năm một thưở!
Không thể có chuyện để T54 tụi nó vượt qua Lương Sơn tà tà như người đi ăn cỗ! Chơi xả láng rồi biến mất theo kế hoạch!
Mắt Bẩy rực lên. Anh nh́n lên trời, mấy con diều hâu bay lượn nhẹ nhàng như không có chuyện ǵ xẩy ra và sắp xẩy ra. Nó cũng không màng ǵ đến đoàn chiến xa đang nặng nhọc cày xích sắt trên quốc lộ 1 hướng về Phan Thiết.
Anh coi như các loại đại bàng thẩm quyền trên đầu anh đă chết, anh bốc máy gọi Đạt và Ḥa, hai người hạ sĩ quan thân tín can trường dưới quyền:
- Đống Đa! Đống Đa! Bắc B́nh gọi!
- Đống Đa nghe rơ 5!
- Hồng Hà! Hồng Hà! Bắc B́nh gọi!
- Hồng Hà nghe rơ 5!
- Tất cả cho mấy đứa con chuẩn bị mấy
Em Bẩy sẵn sàng cất cất cánh tối đa, gơ đầu nó chính xác đồng loạt, cho nó đi phép vĩnh viễn, rách áo càng nhiều càng tốt, và cải cách ngay!
Suốt chiều dài quân sử quân lực VNCH, không ai biết, không ai hay, không ai ghi công trạng, tên tuổi, chiến tích của những người lính địa phương quân đă đánh một trận đốt tăng thần kỳ ở trường bắn Lương Sơn trưa 19 tháng 4 năm 1975.
Khi đoàn chiến xa địch lọt chuẩn vào tầm hiệu quả của M72, sau đó là những chiếc Molotova chở Bắc quân và kéo theo các loại súng pḥng không...
Bắc quân ngỡ rằng khi đă thoát được trận hải pháo của tuần dương hạm HQ 17 Lư Thường Kiệt ở Cà Ná th́ đường vào Sài G̣n sẽ rất thênh thang.
Nhưng khi qua khỏi đập Lương Sơn không bao lâu th́ bất ngờ bị hàng loạt hỏa tiễn M72 bắn trực xạ từ trên những mô đất cao doi ra quốc lộ 1. Bẩy đă cho đơn vị khai hỏa tối đa, đồng loạt.
Chiếc T54 đi đầu hú lên và bốc cháy bên vệ đường, chiếc thứ hai đứt xích chĩa mũi xuống bờ suối, đại liên khai hỏa phản kích trên pháo tháp ngưng hoạt động.
Pháo thủ đại liên gục chết trên pháo tháp. Hàng loạt xe chở quân đi sau bị trúng đạn bốc cháy. Địch khựng lại, dạt đoàn xe đi sau đánh bọc hậu về phía triền động.
Đại liên và đại bác bắn như mưa về hướng mục tiêu. Bẩy chụp máy:
Đống Đa! Hồng Hà! Bắc B́nh gọi! Có đứa nào bị rách áo không?
Chiến trường sau đó chỉ c̣n nghe đại liên và AK địch. Gần một buổi trời, địch mới chiếm được mục tiêu. Mục tiêu c̣n lại chỉ là những vỏ đạn M16 và những ống phóng M72 trống không...
Cũng trong thời gian địch chế ngự triền động trường bắn Lương Sơn và lục soát cẩn thận trước khi di chuyển tiếp, Bẩy và nguyên một trung đội trừ của anh c̣n nguyên vẹn, băng rừng mật khu Lê Hồng Phong trực chỉ mũi Né.
Khi về đến mũi Né, thày tṛ Bẩy mới hay là các loại đại bàng lớn nhỏ của tiểu khu đă vỗ cánh tung bay tận phương trời nào. Bẩy họp anh em lại:
- Thế là hết! Chúng ta bị bỏ rơi! Nhưng chúng ta đă đánh một trận để đời! Không cần huy chương, không cần lên cấp!
- Bây giờ chuẩn úy tính sao?
- Chúng ta tan hàng! Nhiệm vụ của chúng ta tới đây là hết! Anh em có gia đ́nh ở Phan Thiết th́ thay đồ civil bay về với vợ con. Tôi t́m ghe về Vũng Tàu.
Dường như là quân ta c̣n ở Sài G̣n.
Bẩy chia tay những người lính thuộc quyền. Chưa bao giờ anh bịn rịn và thương họ bằng lúc này
. Vài người theo Bẩy, những anh em c̣n ở lại ôm nhau và ôm người chỉ huy trẻ tuổi gan dạ của ḿnh, nước mắt ràn rụa.
Hai mươi sáu năm sau...
Trong một ngày đại hội của một hội đoàn tại San Jose, Bẩy được người lính cũ mời tham dự. Quê Bẩy ở Vũng Tàu, nhưng đơn vị đầu đời lại ở B́nh Thuận.
Bẩy thương cái tỉnh hiền ḥa này, Bẩy thương những người lính thiện nghệ về đánh ḿn Claymore của tỉnh này, Bẩy vẫn giữ như in cái kỷ niệm đánh T54 ở Lương Sơn với những người lính liều mạng như Bẩy, cái ngày mà toàn thể trung đội trừ của Bẩy biết rơ tư lệnh chiến trường chỉ c̣n lại có một ông chuẩn úy, thầy tṛ cùng đánh một trận, rút nhanh thần tốc và sau đó tan hàng, không lon, không lương.
Bàn của Bẩy có mấy người lính cũ, gọi nhau bằng anh em, có người quen miệng gọi Bẩy là ông thầy.
- Thầy bà ǵ nữa!
Gặp nhau đây là vui rồi! Ừa! Không biết các anh nghĩ sau chứ tôi vẫn c̣n nhứ như in chiếc T54 bị hạ sĩ Đạt chơi lật gọng gần trường bắn Lương Sơn! Thấy nó gầm lên rồi bốc cháy, đả hết biết!
- Vô lon nữa đi ông thầy!
- Lại thầy nữa! Thầy bà ǵ! Bỏ đi bác Đạt!
[/FONT][/SIZE][/COLOR]
Những Người Lính Không Bao Giờ Tan Hàng
[COLOR="navy"][SIZE="4"][FONT="Arial"]Cuộc chiến đă chấm dứt 34 năm, thời gian đủ dài để các thế hệ đàn em, thế hệ con cháu của những người lính QLVNCH năm xưa ngồi giở lại trang sử viết về cha anh ḿnh.
Một trang sử bảo vệ tổ quốc vô cùng đau thương đẫm máu nhưng rất oai hùng.
Đọc để biết tội lỗi của bọn vong nô đă đem CNCS áp đặt vào nước ta gây ra biết bao nhiêu đau thương đổ vỡ cho cả hai Miền. Nam- Bắc
Trong suốt cuộc chiến bảo vệ Miền Nam khỏi rơi vào tay cộng sản, quê hương đă có nhiều nơi xác ngập lối đi, mùi tử khí tối trời. Những trận đánh ở Khe Sanh, Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào dữ dội kinh hoàng hơn cơn ác mộng.
Đọc để biết có “An lộc điạ, sử ghi chiến tích, Biệt Kích Dù, vị quốc vong thân”, nơi mà máu xương của người lính VNCH trộn lẫn với đất để bảo vệ từng tấc đất.
Để biết trong trận hải chiến lịch sử bảo vệ Hoàng Sa, 58 vị anh hùng quân đội đă vùi thây trong ḷng biển cả.
Đọc để hiểu ra trong cuộc chiến đó, người lính VNCH là người trực tiếp hy sinh nhiều nhất.
Cùng với tổ tiên, máu các anh đă làm đất địa-linh. Tấc đất quê hương thật quư giá vô cùng.
Có những mất mát nào có thể so sánh được với vành khăn tang cô phụ không nhận ra được xác chồng?
Có sự bù đắp nào cho những đôi mắt ngây thơ chưa bao giờ biết mặt cha?
Hy sinh tuổi trẻ cho tổ quốc các anh chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”.
Sự chiến đấu bảo vệ Miền Nam tự do của các anh là sự lựa chọn quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Không biết có dân tộc nào trên thế ǵới mà có nhiều người lính tuẫn tiết v́ vận mệnh dở-dang của đất nước như trong cuộc chiến bảo vệ tự do vừa qua không, trong những người vị quốc vong thân đó có từ binh sĩ cho đến cấp tướng.
Cho nên thật căm phẫn khi có những kẻ xưng học thức nhưng vô liêm sỉ xuyên tạc h́nh ảnh người lính quân đội VNCH.
Những kẻ học thức đó, không biết hay giả vờ không biết, ai, mới chính là kẻ gây ra tang thương cho đất nước chúng ta và ai, mới chính là người đang bảo vệ cho quê hương này.
Ngày 30/04/1975 là ngày đất nước chuyển sang một trang sử đau thương mới, là ngày mà người lính VNCH và cả Miền Nam bị phản bội.
Các anh đă phải gạt nước mắt thay áo xếp cờ. Nhưng thực ra đây chính là ngày mà người dân cả hai miền đất nước bắt đầu tập trung lại nhận diện rơ kẻ thù của dân tộc.
Đây chính là ngày người dân Miền Nam nhận diện rơ kẻ nội-thù.
Đây chính là ngày mà người dân Miền Bắc bắt đầu nhận ra sự xảo trá, lừa bịp của những kẻ cầm quyền Miền Bắc lợi dụng ḷng yêu nước của nhân dân để nhằm phục vụ cho một chủ nghĩa ngoại lai hoang tưởng.
Đất nước ly tan, đàn chim Việt tan đàn bay tản mác khắp các phương trời.
Người lính VNCH năm xưa nơi đất khách quê người bằng tất cả ư chí nghị lực đă xây dựng laị từ đầu cuộc sống cho chính ḿnh, xây dựng tương lai cho thế hệ con cháu.
Giờ đây họ và gia đ́nh đă có được hầu như tất cả những ǵ mà hàng triệu người VN trong nước đang mơ ước, đó là cuộc sống tự do b́nh yên no đủ và ổn định.
34 năm trôi qua, ánh mắt sáng quắc ngày nào, những mái đầu xanh cuả các chàng trai mười tám, đôi mươi đầy ước mơ đă thay đổi thành những mái đầu bạc.
Giấc mơ quê hương thanh b́nh chưa thành, nhưng lời thề “Danh-dự, Trách-nhiệm, Tổ-quốc” đă thốt lên một lần là mang theo măi măi.
V́ thế trái tim của người lính VNCH vẫn thổn thức nổi trôi theo mệnh nước khi bọn cầm quyền CSVN c̣n đang mê muội áp đặt một thứ chủ nghĩa không tưởng lên quê hương, một chủ nghĩa đă bị cả loài ngườ́ khinh bỉ lên án là diệt chủng.
Kẻ thù của dân tộc chúng ta là ĐCSVN, chúng dùng đủ mọi phương tiện mánh khóe để xuyên tạc h́nh ảnh người lính VNCH, xuyên tạc lư tưởng tự-do dân-chủ nhân-quyền mà các anh đă xả thân một đời để phục vụ. Đó là lư tưởng mà hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất đă và đang chiến đấu để bảo vệ.
Để ngu muội ḷng dân, bọn chúng đă gán ghép cho người lính VNCH chính những tội lỗi của chúng. Bọn chúng mới chính là kẻ bán nước.
Để bảo vệ đặc quyền đặc lợi, chính ĐCSVN chứ không ai khác đă đem dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc.
Chính chúng đă cắt thác Bản Giốc, ải Nam Quan dâng cho địch, chính chúng đang rước giặc vào nhà để giặc chém ngang lưng tổ quốc với dự án Tây Nguyên.
Chính chúng đă qụy lụy ôm chân Mỹ để cầu mong được Mỹ quay trở lại VN. Chúng bán rẻ nhân phẩm con người VN chỉ để kiếm vốn đầu tư, xin tiền viện trợ.
Chính chúng đă dùng bạo lực khủng bố để trấn áp mọi tiếng nói ôn ḥa đ̣i lẽ phải. Chúng đă gây nên biết bao thảm cảnh dân oan trên khắp cả nước.
ĐCSVN đă làm cho hơn 80 triệu người VN trong nước phải xấu hổ khi ra nước ngoài.
Không xấu hổ sao được khi một đất nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến, từng ba lần đánh thắng quân Mông-cổ, từng phá tan một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, từng lật đổ một trăm năm nô lệ của Tây, mà chính quyền CSV N hiện tại chỉ giỏi đàn áp dân nhưng lại cúi đầu khiếp nhược trước kẻ thù.
-34 năm trôi qua, để mong giữ cho ngọn lửa lư tưởng tự-do dân-chủ cháy măi không bao ǵờ tắt, ngựi lính già vẫn đang cặm cụi bảo vệ và vá lại ngọn cờ tổ quốc, lá cờ mà kẻ thù và những kẻ phản bội đă nhiều lần mưu toan xé nó thêm một lần nữa.
Không ai ghê sợ chiến tranh hơn người lính, người quân nhân
QLVNCH với tấm ḷng nhân bản không lấy hận thù làm vũ khí, đang trải ḷng ḿnh ra cho nhân dân khắp miền Tổ quốc, bao dung với cả những người ngày xưa từng ở bên kia chiến tuyến, v́ thật ra họ cũng chỉ là nạn nhân của bọn cuồng tín lấy chủ nghĩa CS dối trá phi nhân làm chân lư.
Bài viết này xin tặng tất cả các chiến sĩ VNCH đă và đang hy sinh v́ Tổ quốc. Xin được chân thành tặng riêng cho các anh cựu quân nhân QLVNCH trong Khối 1906 Úc Châu, các anh chưa bao giờ tan hàng dù tóc đă bạc, sức đă ṃn.
Các anh vẫn đang âm thầm chia sẻ t́nh yêu của ḿnh cho những dân oan đau khổ, chia sẻ khoản thu nhập chỉ vừa đủ sống cho phong trào dân chủ chung trong nước.
Các anh măi măi xứng đáng là người lính QLV NCH trong ḷng dân tộc.
34 năm cặm cụi vá cờ giữ lửa của các anh, hôm nay lửa đó đang lan dần khắp các miền tổ quốc chỉ chờ ngày bùng lên, các thế hệ đàn em sẽ tiếp nối, và vá lại mảnh đất rách nát của quê hương chúng ta.
2009
Phạm Khắc Châu
[/FONT][/SIZE][/COLOR]
[IMG]http://saigontimesusa.com/bai/thica/images/anhhungvodanh.jpg[/IMG]