Lời giới thiệu: Chương 13 trong cuốn “On China” tiến sĩ Kissinger vừa cho xuất bản, dành nói về trận chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung quốc tháng 2/1979 với nhan đề
“Touching the Tiger’s Buttock The third Vietnam War” (Trận chiến tranh Việt Nam thứ 3: Sờ Đít Cọp). Ông Kissinger đă mang đến cho chương này những thông tin và lư giải chưa bao giờ được nói tới. Theo tiến sĩ Kissinger cuộc chiến đă có những hậu quả thay đổi bàn cờ thế giới và là lư do gián tiếp đưa đến sự sụp đổ của Nga hơn 10 năm sau đó.
Cuộc đấu trí giữa Trung quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết đang được tái diễn và lần này giữa Trung quốc, Hoa Kỳ và Việt Nam. Cao điểm là việc Trung quốc công khai ngăn chận việc ḍ t́m dầu của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lư của Việt Nam ngày 26/5/2011.
Cái khác là vào năm 1979, Việt Nam công khai xem Trung quốc là kẻ thù và Trung quốc đang lo t́m cách phá kế hoạch thôn tính thế giới của Xô viết. Hiện nay trên nguyên tắc Việt Nam là đồng minh với Trung quốc, và Hoa Kỳ là nước đang lo t́m cách ngăn chận ư đồ bá chủ của Trung quốc.
Đối với Việt Nam, dù màu sắc quan hệ giữa Trung quốc và Việt Nam lúc đó và lúc này có khác nhau, nhưng sự lo lắng của người cầm quyền tại Việt Nam vẫn là mối lo móng vuốt của Trung quốc.
C̣n nữa, vào thập niên 1970 tuy thất bại tại Việt Nam Hoa Kỳ vẫn c̣n đủ mạnh để lèo lái thế giới, và Nga chỉ phô trương nhưng thực chất yếu. Hiện nay Hoa Kỳ đang gặp nhiều khó khăn, ngân sách thâm thủng, nợ nần chồng chất, kinh tế suy thoái không biết c̣n có khả năng lănh đạo thế giới tự do không. Và Trung quốc đang mạnh và quyết tâm trở thành đệ nhất siêu cường.
V́ vậy, cái khó của Việt Nam lại càng khó hơn. Nhưng trong thời nào nhân dân Việt Nam cũng nhất quyết không chịu Bắc thuộc.
Tháng 4/1979 thủ tướng Hoa Quốc Phong miêu tả động thái của Liên bang Xô viết (TBN: hiện nay là Liên bang Nga. Trong bài lược thuật này khi nói đến Liên bang Xô viết tôi viết gọn là “Nga”) đối với cuộc xâm lăng 6 tuần của Trung quốc vào Việt Nam mấy tháng trước đó như sau: “Chúng tôi đă có thể “sờ đít cọp, mà cọp không dám vồ”. Cọp đây là Nga.
Trung quốc xâm lăng Việt Nam nói là “dạy Việt Nam một bài học” ngày 17/2/1979 sau khi Việt Nam kư Hiệp ước an ninh với Nga và tấn công lật đổ chế độ Polpot (thân Trung quốc) tại Cam Bốt. Cuộc xâm lăng rất đắt giá đối với Trung quốc, nhưng là một thắng lợi chiến lược của Trung quốc v́ Nga đă không dám hành động, cho thế giới thấy khả năng của Nga rất giới hạn. Nh́n trên phương điện đó trận chiến tranh biên giới 1979 là điểm khởi đầu tiến tŕnh sụp đổ của Nga, mặc dù lúc đó không ai dám bạo gan tiên đoán điều đó. Và trận chiến tranh cũng là cao điểm hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung quốc trong cuộc chiến tranh lạnh.
Việt Nam làm các siêu cường bối rối: Nghĩ cho cùng Trung quốc dính líu vào cuộc chiến với Việt Nam năm 1979 (TBN: đúng ra phải nói là dính líu vào cuỘc chiến chống Hoa Kỳ của Việt Nam)cũng giống như Hoa Kỳ đă can thiệp vào Việt Nam. Cả hai đều đánh giá thấp khả năng chịu đựng của Việt Nam. Hoa Kỳ nghĩ rằng Việt Nam là một nước nhỏ cho nên khi chấp nhận đương đầu với Hoa Kỳ Việt Nam chỉ là con tốt đầu của một chiến lược thôn tính Á châu của Nga và Trung quốc. Các nhà chiến lược Hoa Kỳ nghĩ rằng khi Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam, Nga và Trung quốc thấy không thể ăn được sẽ t́m cách thúc đẩy Hà Nội thương thuyết.
Điều này đă tỏ ra không đúng, v́ Việt Nam có ư định riêng là thực hiện cho bằng được Liên bang Đông Dương do Hà Nội lănh đạo bất chấp Nga và Trung quốc tính toán ǵ.
Trung quốc cũng hiểu nhầm ư định của đảng cộng sản Việt Nam. Trung quốc giúp Bắc việt cốt ngăn không cho Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự tại mạn nam Trung quốc. Trong khi mục tiêu của đảng cộng sản Việt Nam là thống nhất rồi sau đó bành trướng thế lực ra vùng Đông Nam Á.
Để giúp Việt Nam Trung quốc đă gởi qua Việt Nam 100.000 dân quân giúp bảo tŕ hệ thống chuyển vận và tiếp liệu. Nhưng sau khi Hà Nội thắng và thống nhất đất nước Trung quốc đứng trước một mối đe dọa lớn hơn sự hiện diện của Hoa Kỳ.
Việt Nam không bao giờ tin Trung quốc, và điều này có tính lịch sử. Việt Nam bị Trung quốc thôn tính từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 10, thâm nhập ảnh hưởng Trung quốc từ chữ viết đến văn hóa, nhưng Việt Nam không để bị đồng hóa. Từ năm 907 sau khi thu hồi được độc lập các vua chúa Việt Nam đă dùng văn hóa Trung quốc làm chất liệu xây dựng một quốc gia độc lập riêng biệt.
Quá tŕnh chống Trung quốc duy tŕ độc lập làm cho Việt Nam là một dân tộc biết tự hào và giỏi chinh chiến. Nếu Trung quốc xem ḿnh là một nước lớn nằm giữa trời đất(đại trung) th́ Việt Nam cũng tự coi ḿnh là một tiểu quốc nằm giữa (tiểu trung) đối với các nước chung quanh. Trong chiến tranh chống Pháp và chống Hoa Kỳ Việt Nam đă khai thác sự trung lập của Lào và Cam bốt, và sau chiến tranh (1975)đă hành xử như nước đàn anh của hai quốc gia này.
Khi giúp Việt Nam, Trung quốc biết rằng rồi ra Trung quốc và Việt Nam sẽ tranh chấp nhau chiếm thế chủ động tại Đông Dương và vùng Đông Nam Á (TBN: và đó là lư do tại sao Trung quốc không muốn Hà Nội thắng miền Nam, thống nhất đất nước.) Trớ trêu là trong cuộc chiến tranh chống Hoa Kỳ (1963- 1975) Trung quốc giúp Việt Nam đánh đuổi Hoa Kỳ ra khỏi Đông Dương, nhưng thật ra Hoa Kỳ và Trung quốc có mục đích giống nhau. Đó là duy tŕ 4 nước Nam, Bắc Việt Nam, Lào, Cam Bốt độc lập và ngang hàng nhau. Năm 1965 Mao đă nói với nhà báo Edgar Snow rằng Trung quốc có thể chấp nhận sự tồn tại một nước Nam Việt Nam.
Năm 1971 trong chuyến đi bí mật đến Bắc Kinh Chu Ân Lai nói với Kissinger rằng hành động của Trung quốc tại Việt Nam không phải là tính toán chiến lược hay phục vụ chủ nghĩa mà chỉ đơn thuần là nhiệm vụ trả món mợ truyền thống giữa hai quốc gia. Có lẽ Trung quốc nghĩ Bắc Việt không thể thắng Hoa Kỳ, và khi Việt Nam bị chia đôi Bắc Việt Nam phải lệ thuộc vào Trung quốc như Bắc Hàn sau trận chiến tranh 1950- 1953.
Nhưng khi có dấu hiệu Hà Nội có thể thắng Trung quốc bắt đầu cho xây dựng đường sá ở Bắc Lào để chuẩn bị. Năm 1973 sau khi Hiệp Định Paris được kư kết Kissinger và Chu Ân Lai bàn với nhau một giải pháp cho Cam Bốt dựa vào 3 thành phần chính trị: Sihanouk, chính phủ Lon Nol và Khmer Đỏ nhắm mục đích chận ảnh hưởng của Hà Nội. Vụ này không thành v́ quốc hội Hoa Kỳ cấm các hoạt động quân sự của Mỹ tại Đông Dương.
Kissinger thuật lại rằng tháng 2/1973 khi ông đến Hà Nội bàn việc thi hành Hiệp Định Paris vừa được bút phê (initial) hai tuần trước tại Paris, Lê Đức Thọ dẫn ông đến xem viện bảo tàng quốc gia chỉ để chỉ cho ông nơi trưng bày chứng tích của cuộc chiến đấu chống Trung quốc trong suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam.
Sau khi Hà Nội chiếm miền Nam thống nhất đất nước, bất ḥa giữa hai nước không c̣n che đậy được nữa. Với tham vọng lănh đạo vùng Đông Nam Á, Việt Nam trở thành một khâu trong ṿng vây Trung quốc. Để phá khâu, Trung quốc bắt đầu đóng chốt tại Cam Bốt.
Tháng 8 năm 1975, khi Khieu Samphan thăm Bắc Kinh, Đặng Tiểu B́nh nói với Khieu Sampang rằng ”Mỹ đi Nga tới. Hai nước chúng ta có bổn phận hợp tác nhau chống đế quốc và bá quyền.”
Cuối năm 1975, nạn “cáp duồng (giết người Việt) đă đuổi 150.000 người Việt cư trú lâu đời tại Cam Bốt về Việt Nam. Cùng trong khoảng thời gian đó người Việt gốc Hoa bị áp lực rời Việt Nam. Từ tháng 2/1976 đến đầu năm 1977 Trung quốc chấm dứt dần mọi viện trợ cho Việt Nam. Hành động của Trung quốc làm cho Việt Nam càng ngả về Nga. Trong một buổi họp của Bộ chính trị tháng 6/1976 đảng cộng sản Việt Nam công khai xác định Trung quốc là kẻ thù chính của Việt Nam. Cũng trong tháng 6/1976 Việt Nam gia nhập khối kinh tế Comecon do Nga cầm đầu. Tháng 11/1978 Việt Nam và Nga kư Hiệp Ước An ninh (Treaty of Friendship and Cooperation). Tháng 12/1978 quân đội Việt Nam xâm lăng lật đổ chính phủ Polpot thân Trung quốc và thiết lập tại Nam Vang một chính phủ thân Việt Nam.
Trung quốc cảm thấy tứ bề thọ địch. Phía Bắc, 50 sư đoàn Hồng quân Xô viết; phía Tây, Afghanistan nằm dưới ảnh hưởng của Nga. Bắc Kinh cũng nghi Nga đứng sau lưng cuộc các mạng Hồi giáo tại Iran trong tháng 1/1979. Trong khi đó Nga đang thương thuyết giảm vũ khí chiến lược (SALT II) với Hoa Kỳ để yên mặt Tây. Và giờ đây liên minh quân sự với Việt Nam. Trung quốc tự hỏi: Nga c̣n có mục đích ǵ khác ngoài việc thắt chặt ṿng vây Trung quốc?
Tây phương và Trung quốc có những đối sách khác nhau khi bị đe dọa. Tây phương dè dặt để tránh bùng nổ, trong khi Trung quốc có khuynh hướng phản ứng mạnh. Hoa Kỳ đă khuyên Đặng Tiểu B́nh dè dặt sau khi Việt Nam xâm lăng Cam Bốt. Nhưng Đặng, mặc dù biết quân đội Trung quốc không tinh nhuệ như quân đội Việt Nam, vẫn thấy cần động binh trả đũa để nâng tinh thần quần chúng và quân đội.
Để chuẩn bị Đăng kết thân với các nước Đông Nam Á đang bị Việt Nam đe dọa và t́m cách xích lại gần Hoa Kỳ.
Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ: Từ khi tổng thống Carter lên cầm quyền, Trung quốc và Hoa Kỳ xúc tiến việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Chướng ngại chính là quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Đài Loan.
Trước đó tổng thống Ford đă đề nghị thiết lập bang giao với Trung quốc, và sau khi bang giao Hoa Kỳ sẽ duy tŕ một h́nh thức quan hệ nào đó với Đài Loan, nhưng Trung quốc không chấp thuận.
Giữa năm 1978 Hoa Kỳ và Trung quốc đều cảm thấy áp lực của Nga tại Phi châu, Trung Đông và Đông Nam Á nên nhượng bộ nhau trong vụ Đài Loan.
Ngày 17/5/1978 Cố vấn an ninh Zbigniew Brzezinski của tổng thống Carter đi Bắc Kinh. Qua chuyến đi Brzezinski nhận thấy Đặng và Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa “làm ra vẻ” không quan tâm đến an ninh của Trung quốc mà chỉ tŕnh bày bức tranh đe dọa của Nga đối với thế giới, cho rằng Hoa Kỳ đă quá nhân nhượng với Nga, và thuyết phục Hoa Kỳ cùng hành động. Trung quốc hàm ư với Brzezinski nếu Hoa Kỳ do dự Trung quốc sẽ hành động một ḿnh. Đặng và Hoàng Hoa cho rằng chỉ có áp lực mới chận được tham vọng của Nga. Nga chỉ phô trương chứ không mạnh. Và rằng Nga chỉ có thể dọa nạt các nước yếu, nhưng sẽ sợ kẻ làm mạnh.
Về t́nh h́nh ở biên giới phía nam Trung quốc, Hoàng Hoa nói Việt Nam đang thành lập Liên bang Đông Dương với sự yểm trợ của Nga. Hoàng Hoa tiên đoán sẽ có chiến tranh giữa Việt Nam và Cam Bốt chứ không phải chỉ có những vụ đụng độ nhỏ ở biên giới như hiện nay.
Kết quả công tác của Brzezinski là Hoa Kỳ và Trung quốc đồng ư cần gác qua các trở ngại để thiết lập bang giao v́ đó là nhu cầu thiết yếu ổn định thế giới. Ngày 15/12/1978 Hoa Kỳ và Trung quốc tuyên bố bang giao hai nước sẽ được tái lập ngày 1/1/1979 và Hoa Kỳ chính thức mời Đặng Tiểu B́nh thăm viếng Hoa Kỳ trong tháng 1/1979.
Tháng 4/1979 sau khi hai bên đă thiết lập bang giao, quốc hội Hoa Kỳ thông qua luật “Quan Hệ với Đài Loan” (Taiwan Relations Act)cam kết bảo vệ Đài Loan.
Bookmarks