Tiến sĩ Yinghong Cheng (Tŕnh Ánh Hồng)
Gửi cho BBCVietnamese.com từ ĐH Delaware State, Mỹ
Khi chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam nổ ra năm 1979, tôi chỉ mới là anh sinh viên đại học. Là những "thanh niên yêu nước", chúng tôi rất phấn khích v́ sau thật nhiều năm, quân đội của chúng tôi h́nh như đă t́m ra đối tượng để biểu dương khả năng của ḿnh.
Những người lính trẻ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 chống láng giềng Trung Quốc.
Chúng tôi chờ đợi tin chiến thắng từ chiến trường, nhưng truyền thông nhà nước im lặng trong nhiều ngày như thể chẳng có ǵ xảy ra giữa hai nước, cho đến khi quân đội Trung Quốc chiếm Lạng Sơn. Truyền thông nhà nước ca ngợi chiến thắng và rồi tuyên bố v́ quân ta đă hoàn thành sứ mạng "dạy một bài học" cho kẻ "bá đạo", Trung Quốc nay sẽ lui quân.
Sự im lặng đó thực sự cho chúng ta biết nhiều điều vào ngày hôm nay. Nó lờ đi lo ngại của người dân quanh một cuộc chiến với nước láng giềng, cách hành xử đặc trưng của một chính phủ kiểm soát và lung lạc thông tin cùng dư luận. Ngoài ra, nó hé lộ sức kháng cự mà quân Trung Quốc gặp phải từ đối phương, một điều mà sẽ làm chính phủ Trung Quốc mất mặt.
Ngày hôm nay, chúng ta đă biết thêm nhiều chi tiết quanh cuộc chiến. Ví dụ, một số cựu chiến binh đă viết bài trên mạng về một kế hoạch quân sự gây sốc: viên tướng Trung Quốc chỉ huy cuộc xâm lăng đề nghị tiến đánh Lào, nước đồng minh với Việt Nam, để phân cắt Việt Nam làm hai và bao vây quân Việt Nam ở miền Bắc. Mục tiêu là hủy diệt một phần lớn quân Việt Nam, với khả năng chiếm luôn Hà Nội. Kế hoạch đó không được chấp nhận v́ nó gây hại cho h́nh ảnh quốc tế của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc cũng để ư đến miền bắc của ḿnh - Liên Xô sẽ không cho họ đi quá xa.
Nhưng một mục tiêu lớn của kế hoạch đó - hủy diệt Việt Nam thật nhiều để nước này không c̣n có thể thách thức Trung Quốc - đă được thực hiện. Bài báo này tự hào nói quân Trung Quốc đă nă đại bác không thương tiếc trên đường tấn công, và khi lui quân th́ cũng phá hủy không thương tiếc.
Bài báo viết: "C̣n nhiều hơn những ǵ bọn Mỹ làm với Việt Nam." Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn bị sốc không nói nên lời khi ông ta nh́n thấy những thiệt hại do quân Trung Quốc để lại.
Dĩ nhiên, những câu chuyện này không hoàn toàn mới cho tôi, nhất là phần nói về sự phá hủy. Nhưng điều làm tôi không thoải mái là giọng điệu các bài viết trên mạng: nó phấn khởi nhưng cũng tiếc nuối rằng đă không phá đủ và v́ thế mà Việt Nam một lần nữa đang làm Trung Quốc giận dữ, thách thức Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa.
Những bài viết này không đại diện cho toàn thể nhân dân Trung Quốc, nhưng chừng nào đa số c̣n im lặng, chúng sẽ c̣n lan tỏa và lây nhiễm vào con người. Với vai tṛ cường quốc toàn cầu gia tăng của Trung Quốc và t́nh cảm dân tộc chủ nghĩa đi kèm, việc thiếu vắng tiếng nói đối lại thật đáng ngại.
Sau nhiều năm, hai câu hỏi về cuộc chiến vẫn chưa được trả lời. Thứ nhất, v́ sao Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979? Câu trả lời của chính phủ Trung Quốc là Việt Nam khi ấy đang xâm lấn lănh thổ Trung Quốc, Việt Nam đang hành hạ người Việt gốc Hoa, Việt Nam đồng minh với Liên Xô chống lại Trung Quốc, Việt Nam xâm lược Campuchia để lật đổ một chính phủ thân Trung Quốc.
Nhưng không có lư do nào ở trên thuyết phục chúng tôi về một cuộc chiến tàn khốc. Một giải thích, mà tôi có xu hướng tin tưởng hơn, là Đặng Tiểu B́nh muốn có cơ hội thiết lập sự lănh đạo tối cao thông qua việc điều động quân đội và đạt thành tựu quân sự.
Câu hỏi thứ hai gây thắc mắc hơn: các xung đột biên giới không phải là hiếm, nhưng v́ sao người Trung Quốc bộc lộ sự thù ghét người Việt như vậy trong một cuộc chiến biên giới? Trong hai thập niên, họ đă là "đồng chí và anh em", và bỗng dưng được mô tả là kẻ thù xấu nhất.
Nhưng với Trung Quốc, điều này cũng đă từng xảy ra. Người Nga được bảo là "anh em của chúng tôi" trong thập niên 1950 và rồi trở thành kẻ thù số một của Trung Quốc trong cuối thập niên 1960. Ấn Độ là bạn thân của Trung Quốc trong thập niên 1950 nhưng Trung Quốc cũng đánh nhau với Ấn Độ vào đầu thập niên 1960. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc bị lung lạc bởi nhu cầu chính trị của chính thể độc đảng, và ngày nay, nó cũng gần như y như vậy.
( C̣n tiếp...)
Bookmarks