Đêm Nô en trong xà lim số 6. (Phần 1)
Vu Anh
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời tháng 4-1985 ngay trong xà lim số 6-Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước.
Nếu có những linh mục cam tâm làm tay sai cho Cộng Sản để được vinh thân ph́ gia, th́ cũng có rất rất nhiều vị kiên trung trong Đức Tin thà chết chứ không làm tôi cho bọn quỷ dữ...
Ngày 29-4-1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lư do của việc chuyển xà lim cá nhân này. Đây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông th́ đúng hơn. Nếu quư vị được nh́n thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào th́ chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù Cộng sản không gông cổ mà thôi.
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng
Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của ḍng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đă bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đă nằm cùm trong biệt giam trong pḥng số 5 được 2 năm th́ một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.
Khi c̣n ở ngoài trại lao động, Ngài là đối tượng theo dơi của đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ cùm ngay.
Tôi là một Phật Tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lư do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và 2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay sau nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lư Trại Giam của Cộng Sản th́ gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam.
Những người xây dựng trại Xuân Phước là ai? Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30-4-1975, sau đó lại biểu t́nh đ̣i trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây th́ có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam , rồi v́ những lư do riêng biệt hầu hết là v́ gia đ́nh c̣n kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, t́nh cảm che lấp lư trí và bị kích động, họ đ̣i quay trở về với lư do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ v́ có người c̣n vợ con, có người c̣n mẹ già không có người săn sóc, có người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người t́nh đằng sau. Cho nên, Cộng Sản mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp h́nh và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để chính quyền Cộng Sản giam giữ chính những đồng đội của ḿnh. Tôi đă có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm ḷng của họ và thấy họ đáng thương quư hơn là đáng trách. Một sĩ quan xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó v́ hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo.. Đến Guam, cứ nghĩ đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm được lư do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”...
Tôi không có ư định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được hiểu là những pḥng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm. Những pḥng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại cải tạo do người Cộng Sản dựng lên, những pḥng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”. Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dăy 10 pḥng biệt giam cá nhân, mỗi pḥng như vậy giống như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ ṭ ṿ nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước. Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt (trong h́nh), có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.
Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng c̣ng số 8 như ta thấy cảnh sát Mỹ c̣ng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không? Thưa không phải như vậy! Làm ǵ chúng tôi lại được ưu đăi đó. Loại c̣ng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái ṿng sắt để khóa hai chân người có h́nh thù giống y chang logo của đồng hồ Omega (minh họa của Bùi Ánh). Khi bị c̣ng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô ṿng sắt h́nh kư hiệu omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ư định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo th́ họ ra lệnh cho trật tự lấy hai ṿng omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo hai ṿng omega nhỏ hơn ṿng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt vào được chiếc ṿng omega, nó đă làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua những bốn lỗ tṛn ở hai ṿng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tṛn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau th́ một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, tḥ ra ngoài ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó ḷng một người tù nào có thể mở khóa v́ mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài th́ mới mở được cùm.
Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt giam ở trại Xuân Phước:
Mức độ 1: Cùm một chân phải,
Mức độ 2: Cùm một chân trái,
Mức độ 3: Cùm hai chân,
Mức độ 4: Cùm hai chân hai tay.
Tôi đă trải qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức độ ba, rồi lại tăng lên mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi 1. Khi c̣n bị cùm mức độ 4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2 tay, thời gian c̣n lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc v́ kiểu cùm độc ác này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ v́ một sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành viên của Hội này là bà Frederick Fuchs (người Bỉ) và ông Pierre Carreaux (cựu chiến binh người Pháp) từ Belgique bay qua Bangkok với một danh sách 14 kư giả, phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam và đ̣i đến Hà Nội để được gặp mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận hồ sơ can thiệp và được phép thăm bà mẹ tôi tại Saigon chứ không được đến trại A-20 gặp mặt tôi. Khi bà Fuchs đ̣i chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào thời điểm tôi được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời gian tôi bị trở lại mức cùm số 4.
Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở mức độ 2, th́ một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào “thăm” A-20. Ông ta lôi một lô những người tù cải tạo đang nằm trong biệt giam tại trại A cũng như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong những thẩm vấn viên cho xem bản sao những lá thư can thiệp đ̣i thả tôi, và 13 kư giả khác trong đó có kèm theo cả những lá thư của bằng hữu và đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của ông Trần Văn Ngô tức kư giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xă thuộc lớp đàn anh chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi:
“Bọn mày thấy đấy, mấy thằng Tây này kể cả mấy thằng kư giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể đánh tháo chúng mày được. Khôn hồn th́ chịu cải tạo để không bị chết trong cùm. Suốt đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được đâu. Ân Xá Quốc Tế hả, c̣n khuya bọn nó mới làm ǵ được chúng tao”.
Tôi không trách ǵ việc can thiệp này mà lại c̣n vui là đằng khác, bởi v́ nó củng cố cho tôi một niềm tin và thấy được tấm ḷng hào sảng của bạn bè đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật tri ân họ.
Những ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ c̣n bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là chỉ c̣n mỗi bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra th́ 150 grams thực phẩm mỗi ngày gồm khoản 5 lát khoai ḿ khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận th́ kể như tàn đời. Cho nên ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó chúng tôi đă là lũ ma đói. Cái khát triền miên đă che đi cái đói. Nếu tôi muốn ăn muốn ăn được khẩu phần dành cho người đang bị trừng phạt phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai ḿ. Tôi không dám hy sinh những muỗng nước quư như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng càng đói lả đi th́ mồ hôi ra như tắm, một t́nh trạng hết sức nguy hiểm. Cha Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ luật im lặng, coi như không có chuyện ǵ xảy ra. Buổi trưa hôm đó, cha Vàng nẩy ra một ư kiến. Ngài nói:
“Anh không thể tránh ăn măi như thế. Nếu Chúa che chở cho ḿnh, phù cũng không chết. Bố tự trách không nghĩ ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai ḿ ít ngấm nước muối hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai ḿ cho bớt mặn”.
Tôi khước từ:
“Bố (trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các tu sĩ của các đạo giáo là bố hết) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”.
Ông cười:
“Sao biết không được, đă thử đâu mà biết không được.”
Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng:
“Thế bố đă thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”.
Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói:
“Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là linh mục th́ cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế ḿnh phải tranh đấu với chính bản thân ḿnh ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn t́nh. Điều này cũng cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trong sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường t́nh th́ nói ǵ nữa”.
Vâng thưa quư vị, giải pháp của Cha Vàng đă khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù h́nh sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” (tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 (số hên?) Xà lim 10 không có “khách”.
Đến xà lim số 6, cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ công an không lon lá ǵ cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay:
“Ít muối thôi, chan đẫm vào, làm sao người ta ăn được”.
Đến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc ǵ đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. V́ làm thế nên anh chàng này không c̣n nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt. Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng ch́a khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa pḥng hỏi:
“Có ǵ đựng thêm nước không”.
Tôi nói:
“Có.”
và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi:
“C̣n đồ đựng nước khác không?”
Cả hai chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào
“Đổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy ra”.
H́nh phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết lư do này đến lư do khác khiến chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng cha Vàng nhận định:
“Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đă tùng xẻo ḿnh ngay từ lúc đầu. Đoán làm ǵ cho mệt…”
Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi v́ hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong t́nh trạng ấy, nhưng ngài mới bị biệt giam hơn một năm nên c̣n lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Ḥa đă lạnh lắm rồi. Tôi c̣n có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn thủ. Tṛ may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng dùng những cọng sắt để làm kim và chỉ th́ bằng những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những tṛ may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng th́ tắc biến. Trước những tṛ đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù cộng sản, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống c̣n của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật ǵ mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai ḿ H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, th́ chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù Cộng Sản bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn ǵ. Tôi nghĩ một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về. Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống v́ tinh thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lư. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về ḿnh, sẽ bất chấp những đ̣n thù. V́ một người biết chấp nhận phần xấu nhất về ḿnh trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng c̣n ǵ phải suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu Việt cộng có bắn ḿnh một viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người cộng sản có thể tính được nhiều tṛ đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người.
Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim. C̣n tắm táp ǵ trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật v́ gió lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi cởi chiếc áo trấn thủ và nói:
“Bố đưa chiếc áo len con, bố mặc chiếc áo của con vào ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở đây không có thuốc, mặc chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”.
Ông nhất định không chịu, nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi, tôi mặc chiếc áo len của ông. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng tắm táp ǵ được cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để tránh gió. Cha Vàng ít run rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm theo ngài. Tôi có cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh th́ chúng tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi:
“Các anh tắm th́ tắm, không muốn th́ thôi. Nếu không th́ ngồi đây phơi nắng (ở Xuân Phước, mùa Đông thường không thấy mặt trời). Cấm không được liên hệ với ai”Nói xong, anh ta bỏ đi.
Nói th́ nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp đều là anh em sĩ quan cải tạo, nên cũng t́m cách tiếp tế cho chúng tôi vài miếng cơm cháy, mấy tán đường. L.S, một người Việt gốc hoa, một tỷ phú, vua máy cày trước 30-4-1975 bị đẩy lên trại này sau khi lănh cái án 20 năm tù sau đợt đánh tư sản mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi khơi khơi, không lén lút ǵ, đến thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó có ít bánh bisquit lạt và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc B1. L.S nói:
“Ngộ biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng nó sẽ tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà nước ‘no’ hết ”.
Xong ông ta bỏ đi.
(Xin xem tiếp phần 2)
nguồn : Ba Cây Trúc
Bookmarks