Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
GS Robert F Turner , C/N 2012/04/06
( Lời Việt Báo . Cuộc Hội Luận Kỷ Niệm 35 Năm Lưu Vong đă thực hiện hôm Thứ Tư 28/04/2010 tại Westminster , Calif . Sau đây là bài thuyết tŕnh của Robert F Turner đă được dịch ra Việt ngữ . Ông quan tâm về VN từ khi c̣n học bậc cử nhân ở đaị học Indiana University , nơi ông viết luận án dày 450 trang về cuộc chiến và được điểm danh dự , và thường xuyên tranh luận với phe phản chiến khắp Hoa Kỳ ) .
Năm 1968 Ông vào Quân Đội và t́nh nguyện sang VN . Từ 1968 tới 1975 , ông thăm Đông Dương 5 lần , đi thăm nhiều nơi ở Nam VN , Lào và Cam Bốt . Ông viết nhiều sách về VN ) .
Xin kính chào quư vị . Tôi xin được ngợi ca ban tổ chức buổi hội thảo quan trọng này và những người đă bỏ thời giờ đến tham dự một sinh hoạt tôi cho là rất quan trọng để suy nghiệm về một phần bi thảm mà cũng hệ trọng của lịch sử Hoa Kỳ .
Cách đây đúng 35 năm cũng vào ngày này , tôi rời Việt Nam lần cuối trong đợt di tản sau cùng tại Sài G̣n . Tôi khởi sự học hỏi về Chiến Tranh Việt Nam năm 1965 khi là sinh viên đại học . Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đă thực tin rằng việc bảo vệ người dân Đông Dương chống Cộng Sản xâm lược là việc đúng , và trong ba năm kế tiếp , tôi tham gia hàng trăm cuộc « hội thảo ngoài trời » của các đại học , hay đấu lư hoặc nhiều chương tŕnh tranh luận .
Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên năm 1968 , rồi trở lại đó hai lần khi là sĩ quan ) . được biệt phái vào một bộ phận của toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam , là Văn pḥng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng . Sau đấy , tôi c̣n qua Việt Nam nhiều lần khi làm cố vấn về an ninh quốc gia cho Uỷ Ban Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ . Là một thành viên của « Viện Hoover về Chiến tranh , Cách mạng và Hoà b́nh » thuộc Đại học Stanford ở California , hơn 35 năm trước , tôi đă viết cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về « Cộng Sản Việt Nam » . Trong hơn hai chục năm , tôi đă có nhiều khoá giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến Tranh Việt Nam .
V́ thời giờ có hạn , tôi phải nói ngắn , nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bài thuyết tŕnh , tôi xin có thêm một lời cảnh báo . Rằng đa số lập luận ngày nay cứ coi là sự « sáng suốt phổ biến » về Chiến Tranh Việt Nam thật ra lại không đúng . Rất đáng tiếc rằng điều ấy có nghĩa là đa số những ǵ được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại gần với thần thoại hơn là lịch sử .
Tôi chỉ xin đơn cử hai thí dụ :
1 - Ngày nay , chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là « bất khả thắng » . Tôi xin được góp tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đă thắng vào đầu thập niên 1970 . ( Và khi nói « chúng ta » , tôi không nghĩ rằng đấy là quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ , cùng với người dân miền Nam ) . Đáng buồn là dưới áp lực của cái gọi là « phong trào hoà b́nh » , Tháng 05/1973 , Quốc Hội Hoa Kỳ đă biểu quyết một đạo luật cấm Tổng Thống chi tiền bảo vệ nạn nhân của Cộng Sản xâm lược tại Đông Dương . Làm như vậy , Quốc Hội đă chuyển thắng thành bại . Quốc Hội cũng ngăn cản nỗ lực tự vệ của Quân lực và người dân miền Nam khi cắt viện trợ tài chánh , xăng dầu , cơ phận và đạn dược cần thiết cho họ có thể chống đạo quân xâm lược theo lối chiến tranh quy ước đi sau các chiến xa chế tạo tại Liên Xô . Khi Quốc Hội phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng Sản tại Đông Dương th́ Liên bang Xô viết và TC gia tăng viện trợ cho Hà Nội .
2- Huyền thoại thứ hai mà tôi muốn nói sơ qua là Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến « phi lư » tiến hành không lư do chính đáng . Nhiều người Mỹ thành thật tin rằng chúng ta lâm chiến tại Đông Dương do hiểu lầm về vụ đụng độ ở Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng 08/1964 . Thật ra , như tôi có tŕnh bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966 và trong cuốn sách « Cộng Sản Việt Nam » xuất bản năm 1975 , đảng Lao động của Cộng Sản Việt Nam đă quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường ṃn Hồ Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam . Sau khi chiến tranh kết thúc , Hà Nội đă nhiều lần xác nhận sự thực đó .
Nói cho đơn giản th́ Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân miền Nam tự vệ v́ cùng một lư do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly năm 1950 : nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đă được ghi trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc . Chuyện ấy cũng hoàn toàn phù hợp với những lư do khiến chúng ta chiến đấu trong hai cuộc Thế chiến . Tôi không có thời giờ khai triển luận điểm pháp lư này nhưng cho rằng việc ngăn chặn Cộng Sản tại Đông Dương cũng quan trọng như việc chống xâm lược trong các cuộc chiến khác , và nếu chúng ta không thể đương cự vào năm 1964 th́ Hoa Kỳ đă thua cuộc Chiến Tranh Lạnh .
Hậu quả của việc bỏ rơi Đông Dương
Bây giờ , xin trở lại đề tài tôi được giao phó : là hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương cho quân Cộng Sản .
Tôi làm việc trong chính phủ vào mấy năm cuối của Chiến Tranh Việt Nam tới hầu hết thập niên 80 . Tôi phục vụ trong Thượng Viện , Ngũ Giác Đài , bộ Ngoại Giao và toà Bạch Cung . Sau đó trong nhiều năm tôi giảng dạy về « Chánh sách Ngoại Giao Hoa Kỳ » tại Phân khoa Chính quyền và Ngoại Giao của viện Đại học Virginia . Tôi có thể nói trong nhiều tiếng đồng hồ nữa về hậu quả địa dư chiến lược của việc Hoa Kỳ xoá bỏ lời cam kết bảo vệ miền Nam và các lân bang của Việt Nam . Liên bang Xô viết đă thấy ra là Hoa Kỳ có những mâu thuẫn tệ hại trong nội bộ và mất ư chí bảo vệ các đồng minh . V́ vậy , Liên Xô đă hành động :
1 - Họ bắt đầu bốc « chí nguyện quân » từ Cuba thả qua Angola để giúp phe Cộng Sản tại đây có thể cướp chính quyền trước các kỳ hạn bầu cử của xứ Angola . Vị Nghị Sĩ của tiểu bang của tôi đă tích cực ngăn cản các đồng viện không biểu quyết một tu chính án cắt hết ngân khoản cho mọi hoạt động của cơ quan CIA có mục tiêu yểm trợ các phe không Cộng Sản tại Angola . Những người chống lại quan điểm ấy - hầu hết là trong đảng đa số đă vừa trao Nam Việt Nam , Lào và Căm Bốt cho Sộng sản - th́ trấn an đồng viện của họ rằng , nếu như có người Cuba tại Angola , th́ sau khi ta rút quân , nhân dân Phi Châu sẽ mau chóng quăng họ ra ngoài . Trong thập niên sau đó , số cán bộ Cuba tại Phi châu da đen đă tăng tới khoảng bốn năm chục ngàn . Và nạn nhân bị tử vong ở đấy được ước lượng là không dưới trăm ngàn người .
2 - Tin rằng Hoa Kỳ sẽ chẳng làm ǵ hết , năm 1979 , Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết và gây ra lực lượng Taliban ở tại đây .
3 - Và lần đầu tiên trong sáu chục năm , Moscow bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La tinh rằng tiến hành « đấu tranh vơ trang » để cướp chính quyền th́ cũng được , từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador , Nicaragua , Honduras , Guatemala , Costa Rica và các nước khác trong vùng . Vô số người lại thiệt mạng v́ chuyện đó .
Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan trọng là địa dư chiến lược . Tôi muốn nói về hậu quả của quyết định của Hoa Kỳ đối với con người .
« Phong trào hoà b́nh » - của phe phản chiến - trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh th́ ḿnh sẽ phát huy « nhân quyền » và « ngăn nạn tàn sát » . Tôi rất ngại nói về những ǵ xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái , v́ trong hội trường này và tại khu « Little Sài G̣n » có nhiều người đă trực tiếp nếm mùi và biết rơ hơn những ǵ mà mọi « học giả » Mỹ có thể muốn biết . Nhưng có một số sự thật th́ đă rơ ràng .
Hăy trước tiên nói về nhân quyền . Tháng Tư năm 1975 , khi sự chiến thắng của Cộng Sản đă thành hiển nhiên cho mọi người , Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đă tuyên bố rằng , sau khi « giải phóng » Miền Nam , « chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học » . Tới Tháng 10 năm 1978 , nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đă báo cáo sự thật : Cộng Sản Việt Nam đă biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà tù v́ họ có quá nhiều tù nhân .
Điều 11 của Hiệp Định Paris kư kết năm 1973 cấm « mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đă hợp tác với một phe bên này hay bên kia » , và c̣n rơ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí , tôn giáo , tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác . Vậy mà Tháng Năm năm 1977 , tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo : « triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào xă hội chủ nghĩa » . Bài báo tuyên bố : « Với bọn phản cách mạng ... nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng » .
Sau đó , một dân biểu duy nhất của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà được phép tham gia cái gọi là Quốc Hội Thống nhất đă tuyên bố : « Chế độ mới cai trị bằng bạo lực và khủng bố ... Không có tự do di chuyển hay lập hội ; không có tự do báo chí , hay tự do tôn giáo , hay ... cả quyền tự do có ư kiến riêng ... Sự sợ hăi tràn ngập khắp nơi » .
Quyền Tự Do Báo Chí
Tháng Chín năm 1970 , Trưởng pḥng Sài G̣n của tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland - ông bạn của tôi vào thời ấy - có viết một bài dài về « quyền tự do báo chí » trong Nam . Ông viết : « Dưới bộ luật báo chí mới , Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất Đông Nam Á ... » . Tôi tin chắc rằng ḿnh không là người duy nhất trong hội trường này có thể xác nhận điều ấy . Riêng Sàig̣n th́ đă có hơn ba chục tờ báo , và nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ .
Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự do ấy , tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sàig̣n vào những chiều Chủ Nhật được nghỉ . Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như « Chiến tranh Nhân dân và Quân đội Nhân dân » của Tướng Vơ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy của Việt Cộng , vài cuốn của lănh tụ Cộng Sản Cuba là Ché Guevarra , và cả các cuốn sách về hay của Mao Trạch Đông .
Sau ngày gọi là « giải phóng » , người Cộng Sản chiếm đóng đă « tạm thời » đ́nh chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập . Chưa đầy một tháng sau , mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay tàng trữ các văn hoá phẩm xuất hiện « dưới chế độ cũ » đều bị cấm .
Tù Chính Trị
Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam thường nêu ra , là cái gọi là « chế độ phát xít » tại miền Nam đă giam giữ hơn 200 ngàn « tù chính trị » . Khi trở lại Đông Dương vào Tháng Năm 1974 - cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào , tôi chú trọng đến việc điều tra những lời cáo giác trên .
Tôi ghé thăm Linh Mục Chân Tín , nổi danh lănh tụ của « lực lượng thứ ba » nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội . Tôi hỏi ông ta là t́m đâu ra con số « 202 ngàn tù nhân chính trị » . Ông ta bảo rằng ḿnh đă hỏi các tù nhân cũ và gia đ́nh thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân . ( Tôi nghi là họ đă cộng lại tổng số của các câu trả lời ) . Sự thật th́ thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam .
Tôi cũng gặp một lănh tụ khác của « lực lượng thứ ba » là bà Ngô Bá Thành , người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về « tù nhân chính trị » có thể gồm cả người như Sirhan Sirhan , là tay cán bộ người Palestine đă ám sát Nghị Sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968 . Mục đích của hắn , bà Ngô Bá Thành giải thích , là « chính trị » khi hắn ám sát một ứng cử viên Tổng Thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ .
Rồi c̣n vụ « chuồng cọp » đầy tai tiếng tại Côn Sơn , được họ mô tả như sau :
- « ... xà lim chôn dưới mặt đất , với các dóng sắt đóng trên trần thay v́ ở dưới . Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng được ... » .
- « ... những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt » .
- « [ Mấy hầm đó ] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể đứng thẳng người » .
Thật ra , tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những « chuồng cọp » này . Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng đồng ư là tôi hơn cao hơn đa số người Việt Nam . Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần - vốn cao tới ba thước ( khoảng 10 bộ ) kể từ mặt đất lên .
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh ( Yao Minh ) người Tầu - tay trung phong của đội bóng rổ Rocket's ở Houston bên Texas - cũng chỉ cao tới bảy bộ và sáu phân - hơn hai thước hai - nên anh ta cũng chẳng gặp khó khăn ǵ để duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái gọi là « chuồng cọp » .
Ít nhất , một số cán bộ chống Việt Nam đă từng cáo giác chuyện « chuồng cọp » biết là họ nói láo . Trước khi qua Việt Nam năm 1974 , tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn để tự ḿnh xem tận mắt , và anh ta có vẻ khó chịu - có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật . Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hoà ở Sài G̣n .
V́ vậy , sau khi thăm Côn Sơn , tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hoà và chưa đầy 48 tiếng sau đă được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ . Đây không là nơi mà ḿnh thích sống , nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết ǵ của những sự lạm dụng phổ biến . Tôi nói riêng với vài người Mỹ đă từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy « tiếng gào thét trong đêm vắng » hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân .
Ngăn chận tàn sát
Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lư luận của họ , rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ « ngăn được nạn tàn sát » . Họ sai lầm tới chừng nào .
Ông bạn Giáo Sư RJ Rummel của tôi ( một người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hoà B́nh ) ước lượng là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được « giải phóng » lên tới 643 ngàn .
- Khoảng 100 ngàn bị xử tử qua quít ngay sau khi Cộng Sản nắm quyền . Qua quít v́ cũng chẳng có một h́nh thức tạm bợ về « tiến tŕnh hợp pháp » hay một toà án .
- GS Rummel cho là 400 ngàn là « thuyền nhân » bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chế độ độc tài và đàn áp đă trùm lên quê hương . Cao Uỷ Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc th́ cho là một phần ba những người vượt biên bằng thuyền đă chết ngoài biển - một số là v́ tầu quá đông người bị ch́m , hoặc chết v́ đói , v́ khát , nhiều người tử nạn sau th́ bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp . Cao Uỷ cũng tường tŕnh rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng Sản ở Đông Nam Á . Nếu áp dụng tỷ số « chết một phần ba » cho con số này th́ ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đă chết trên đường t́m tự do . Con số không xa với ước lượng của GS Rummel .
- GS Lewia Sorley , tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc là « A Better War » - một Cuộc Chiến Khá Hơn - mà tôi ân cần giới thiệu đến quư vị , cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của miền Nam cũ đă chết trong các « Trại Cải Tạo » do chế độ Cộng Sản lập ra .
- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đẩy vào các khu « Kinh Tế Mới » để sống trong những điều kiện nghiệt ngă và chừng 48 ngàn đă chết tại đấy . Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có thể kể lại những kinh nghiệm thật về « Trại Cải Tạo » và khu « Kinh Tế Mới » và khuyên các sinh viên ở đây nên t́m ra họ , ghi nhận câu chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử .
Căm Bốt
Và c̣n chuyện xứ Căm Bốt nữa . Khi Tổng Thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 để yểm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hoà , khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng v́ những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược « phi pháp » . Thật ra , về pháp lư th́ y như Việt Nam , Căm Bốt là « quốc gia thành viên của Nghị định thư » - Protocole States - đă được cam kết bảo vệ chống Cộng Sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954 . Mười năm sau , và với tỷ lệ đầu phiếu là 99 , 6 % , khi Quốc Hội Hoa Kỳ cho phép Tổng Thống Johnson tham chiến tại Đông Dương , quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào . Nghị quyết ấy của Quốc Hội chỉ cần dẫn chiếu « Protocole States » của Hiệp ước SEATO ( South East Asia Treaty Organization ) .
Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đă viết về Khờme Đỏ . Thời ấy , việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nổi với đồng bào Khờ Me của họ thật ra chẳng c̣n là bí mật . Và dĩ nhiên , khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975 , một trong những mục tiêu chính của tôi là để cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt . Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu được chắc là đă chết .
Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đă sống tại nơi ấy . Con số ước đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn , với một số chuyên gia th́ cho là có hơn hai triệu . Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale , nơi mà Chương tŕnh của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đă thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người - hơn 20 % dân số toàn quốc .
Một bài báo về « các vùng thảm sát » của Căm Bốt trên tạp chí National Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng ta những chi tiết này : « Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quư để dùng cho việc tàn sát . Ŕu , dao và gậy tre th́ đắc dụng hơn . C̣n về trẻ em th́ bọn đồ tể chỉ đơn giản giọng chúng vào thân cây » .
Ông Douglas Pike đă quá văng , người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ , có viết như sau về hậu quả nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của ḿnh là sẽ bảo vệ người dân của các nước không Cộng Sản ở Đông Dương : « Dù có ước lượng dè dặt nhất , có nhiều thường dân Đông Dương bị bạo sát sau Chiến Tranh Việt Nam hơn là tổng số nạn nhân trong thời chiến , ít ra là hơn hai triệu ... Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy , c̣n thê thảm hơn những ngày chinh chiến » .
Thật bi đát v́ tôi nghĩ rằng ông Pike có lư . Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây , đôi khi ngay trong hội trường , có những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nếu như ta muốn t́m đến họ và ghi nhận lời chứng của họ . Việc này th́ chẳng ai có tâm trí b́nh thường lại thích làm , nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện . Chúng ta phải kể lại chuyện này - một cách chính xác và cẩn trọng - để người khác sẽ biết rất lâu về sau , khi các nhân chứng cuối cùng không c̣n tại thế nữa . Chúng ta phải kể lại , nếu không chuyện đó sẽ lại tái diễn .
Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đă xảy ra khi Cộng Sản khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không hiểu ǵ về lịch sử hiện đại . Nếu quư vị muốn biết rơ hơn về thảm kịch , tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là « The Black Book of Communism" - « Cuốn Hắc Thư Về Chủ Nghĩa Cộng Sản » . Do một nhóm trí thức Âu châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn , cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20 , chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế đă gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu sinh linh .
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến Tranh Việt Nam có thể c̣n bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó t́m đọc các cuốn sách do chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đă biên soạn .
Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết tŕnh trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này . Với những người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước , xin cho tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi . Tôi yêu quư Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu . Nhưng khi đa số của Quốc Hội phản bội nạn nhân của Cộng Sản xâm lược , họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính ) . , Hải quân và Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ đă dâng hiến mạng sống trong sự hy sinh cao quư nhất cho chính nghĩa này . Họ cũng phản bội sự hy sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đă từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1959 cho đến 1975 .
Chúng ta không cải sửa được điều ác đă xảy ra . Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rơ thảm kịch lớn lao của sự bội tín . Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hăy tự nguyện giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người khác . Quan trọng nhất , hăy chú ư đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng , hăy ghi lại lời kể của họ khi ḿnh c̣n cơ hội . Nếu ḿnh làm được như vậy th́ may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí .
Xin cảm tạ quư vị và cầu cho Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta .
GS Robert F Turner , C/N 2012/04/06
Nguồn:http://www.congdongnguoiviet.fr/Dien...HKboRoiDDh.htm
Bookmarks