Khui hồ sơ "Tối Mật" : Mỹ chủ mưu thanh toán anh em TT Ngô Đình Diệm
Ngô Kỷ tổng hợp và chuyển ngữ
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, 44 năm qua, có thể chuyện đă trở thành cũ so với một đời người, nhưng lại quá mới nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ trước đến nay, có rất nhiều cựu tướng lănh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết những cuốn hồi kư nói về ngày đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ quan và mang màu sắc đánh bóng, chạy tội.
V́ viết về "cái tôi" nên các chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo thành một "diễn đàn" để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa măn tự ái và trốn chạy mặc cảm tội lỗi. V́ không đồng ư với lề lối viết đó, nên chúng tôi cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín v́ được tŕnh bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi tiết này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v...
Trong tập tài liệu này, có đề cập đến những chữ như "chính phủ Diệm", "Tổng Thống Diệm", điều đó không nhất thiết Tổng Thống Diệm là người đích thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong nước. Nhưng v́ với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Diệm phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc cấp, luôn cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, ông Ngô Đ́nh Cẩn v.v...
V́ đề tài quá rộng lớn và vô cùng phức tạp, v́ chúng tôi không phải là sử gia, do đó các chi tiết trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà thôi. V́ tôn trọng sự trung thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai tṛ thật khách quan trong khi dịch thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không chỉ trích, không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa...
Chúng tôi chỉ ước ao những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh năm 1963 nhân danh v́ đạo pháp, v́ tự do, v́ dân chủ, v́ nhân quyền, v́ hạnh phúc, v́ độc lập dân tộc, th́ cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng Sản Việt Nam là một tập đoàn "đảng trị", đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lănh tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính trị đối lập, đang liếm gót giày Nga, Tàu, "đế quốc Mỹ", và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những ǵ mà quư vị đă từng hô hào xuống đường, tranh đấu.
Nếu quư độc giả cần thêm tài liệu, h́nh ảnh, hay nguyên bản, xin liên lạc về:
Ngô Kỷ, P.O.Box 836 , Garden Grove , Ca 92842.
Email: ngokyusa@yahoo.com
Tiểu sử và sự nghiệp tổng thống Ngô Đ́nh Diệm
Ông Ngô Đ́nh Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đ́nh có 9 người con. Thân phụ là ông Ngô Đ́nh Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái. Ông Diệm thuộc gia đ́nh Công Giáo và từng có ư muốn lớn lên làm linh mục. Học trường Quốc Học Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật và Quản Trị của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và ra trường đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.
Ông tiến thân rất mau trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ B́nh Thuận tỉnh Phan Thiết.
Là người Việt Nam ái quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. V́ thấy ông Diệm có khả năng và năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm nắm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội Vụ).
Ông Diệm rất thích thú với công việc mới này, ông đưa ra một số biện pháp và chương tŕnh cải tổ guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ chối. Thất vọng và bất măn, ông từ chức và không giữ chức vụ ǵ sau đó nữa cho đến khi ông làm Thủ Tướng vào năm 1954.
Ông Diệm sống tại nhà của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lư do Việt Minh giết anh cả của ông.
Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại đ̣i Pháp nới rộng tự do cho đất nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất vọng.
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2 năm tại Lakehurst , New Jersey . Ông đi ṿng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam . Ông Diệm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Richard Cardinal Cushing, Linh Mục Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William O. Douglas.
Vào năm 1954, khi có triệu chứng Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa Kỳ quyết định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam. Chính phủ Mỹ muốn t́m người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết được ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy được cảm t́nh của nhân dân Mỹ.
Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954, ông Diệm lấy làm lo lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô, và quan lại. Ông phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh giành xâu xé ảnh hưởng tại Việt Nam .
Vào ngày 01 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông Diệm một lá thư và được Đặc Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm 1954 với nội dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm.
Những nhân vật Mỹ chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương T́nh Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và Tướng J. Lawton "Lightning Joe" Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách miền Nam Việt Nam.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ư. Ông Diệm đạt 98.2% phiếu thắng Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đ́nh Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.
Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử, có những lúc Tổng Thống Diệm phải đương đầu với ư muốn bành trướng quân đội Mỹ tại Việt Nam . V́ muốn có chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc đưa lính "tác chiến" Mỹ vào Việt Nam, ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện này đă sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.
Sau những chua cay ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức vụ Tổng Thống, sự nghiệp và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă kết thúc vào năm 1963, mà bắt nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại Huế.
Diễn biến đưa đến đảo chánh
Ngày 05 tháng 05 năm 1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong số cờ đó có cờ của Giáo Hội Công Giáo Vatican tức cờ nửa vàng nửa trắng và h́nh Đức Giáo Hoàng. Biểu tượng này được nh́n như là Ṭa Thánh Vatican công nhận miền Nam và đạo Công Giáo tại Việt Nam , xóa đi h́nh ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.
Ngày 08 tháng 05 năm 1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại Lễ Phật Đản thứ 2.507, nhưng chính quyền không cho phép. V́ tức giận, tối đó một số Phật tử kéo đến biểu t́nh tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong khi xô xát, một quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, t́nh h́nh hổn loạn. Kết quả có 9 người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.
Chính quyền quy kết Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo trộn. Phía biểu t́nh kết án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu t́nh. Theo lời kể của ông Lănh Sự Mỹ tại Huế: "Lính chính quyền hốt hoảng v́ tiếng nổ và la hét của đám biểu t́nh nên xả súng bắn vào đám biểu t́nh". Ông John Mecklin, Phát ngôn viên ṭa Đại Sứ tuyên bố: "Cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa Giáng Sinh". Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép treo cờ Phật Giáo lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam v́ đó là theo luật lệ của chính phủ đă có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.
Vào thời điểm này, Phật giáo có khoảng 10.5 triệu người, và Công Giáo có khoảng 1.5 triệu người.
Hôm sau, ngày 09 tháng 05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh Trưởng Huế biểu t́nh và đ̣i hỏi 5 điểm:
1. Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo.
2. Phật Giáo được quyền b́nh đẳng như Công Giáo.
3. Không được đàn áp Phật Giáo.
4. Phật Giáo được quyền thờ phượng tôn giáo của ḿnh.
5. Chính quyền phải bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm 1963.
Ngày 15 tháng 05 năm 1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào Sài G̣n tŕnh kiến nghị cho Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ư hầu hết các yêu sách, và hứa sẽ điều tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân v́ sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống Diệm đổi ư, không chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất măn.
Ngày 28 tháng 05 năm 1963, Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lănh Đạo Phật Giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu t́nh. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường.
Tại Sài G̣n hàng trăm tăng ni biểu t́nh và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting vắng mặt tại Sài G̣n, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C. Trueheart (Deputy Chief of Mission ) giải quyết.
Ngày 02 tháng 06 năm 1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu t́nh chống chính quyền kỳ thị. Biến thành bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn biểu t́nh, 67 sinh viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm Huế và cho cảnh sát, công an kiểm soát đường phố.
Để tránh đụng chạm, Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm vụ bắn chết người biểu t́nh ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có Thiếu Tá Đặng Sỹ. Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên chính quyền đă thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn chính phủ tiếp xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đ́nh nạn nhân.
Ngày 04 tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đ́nh Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng hai bên bất đồng ư kiến.
Ngày 07 tháng 06 năm 1963, bà Ngô Đ́nh Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và lên án những vị lănh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật dây.
Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo cho các phóng viên, kư giả Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại ngă tư Lê Văn Duyệt và Phan Đ́nh Phùng thành phố Sài G̣n. Hàng ngàn tăng ni, phật tử đứng chung quanh, ḤaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi b́nh thản tự thiêu bằng xăng. Chính quyền tuyên truyền rằng Ḥa Thượng Thích Quảng Đức ngồi b́nh tỉnh là do bị chích ma túy nên không biết nóng.
Bà Ngô Đ́nh Nhu tuyên bố về cái chết của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức: "Tất cả cái mà các vị lănh đạo Phật Giáo đóng góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng (barbecue)". Chính quyền Tổng Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này, ông nói: "Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này là do chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng".
Cái chết của Ḥa Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ng̣i cho Phật Giáo đấu tranh kịch liệt và mạnh mẽ hơn. H́nh ảnh tự thiêu đă gây xúc động nhân dân, chính phủ Mỹ và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng Thống Diệm ra đi.
V́ thấy Đại Sứ Mỹ Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống Kennedy tuyên bố thay thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge trong khi Đại Sứ Nolting đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.
Đại Sứ Nolting chỉ được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ Nolting phát biểu: "Tôi nói thẳng là tôi nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao, họ là những người rất vui mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi v́ họ muốn cho ông Diệm thật nhiều sợi dây thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp đổ ông Diệm làm tôi nghĩ rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman, Roger Hilsman và một số viên chức trong Ṭa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự cố vấn của CIA. Tôi muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ".
Sau này, Tướng Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng) thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2 phe: một phe th́ muốn lật đổ Tổng Thống Diệm v́ nói là "không thể thắng Cộng Sản nếu c̣n Tổng Thống Diệm", c̣n phía ủng hộ Tổng Thống Diệm mà trong đó có Tướng Taylor th́ nói là "có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi với Tổng Thống Diệm, nhưng nếu không đi với Diệm th́ đi với ai?" Mọi người đều im lặng, không ai trả lời được câu này.
Ngày 16 tháng 06 năm 1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo kư bản Thông Cáo Chung, đồng ư thỏa măn các đ̣i hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật Giáo thay thế Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lănh đạo cuộc đấu tranh. Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người Bắc, sinh năm 1922, là "một người khôn lanh, thâm hiểm, không t́nh cảm, có mưu đồ chính trị và đầy tham vọng lănh tụ".
Ngày 25 tháng 06 năm 1963, Trưởng Pḥng CIA John Richardson tại Sài G̣n (CIA Chief Station) thất bại trong việc đứng ra điều đ́nh giữa chính quyền Tổng Thống Diệm và Phật Giáo. Ông Cố Vấn Nhu nói: "Các lănh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và cũng không bao giờ chống Cộng Sản cả". Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ mềm dẽo của Tổng Thống Diệm v́ làm như vậy khiến cho chính quyền khó giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên bố: "Nếu chính phủ không áp dụng luật pháp th́ chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế". Ông Nhu hàm ư rằng trong t́nh trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ đứng ra ngoài t́nh cảm gia đ́nh, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống Diệm.
Khi thấy phong trào đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng Thống Michael Forrestal rằng: "Họ là ai? Tại sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy?”
Những ngày cuối tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng Thống Diệm hàng ngày để đ̣i hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. V́ thấy Tổng Thống Diệm không nghe lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ chính phủ Tổng Thống Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây Tổng Thống Diệm tỏ ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để độc lập với Mỹ.
Ngày 04 tháng 07 năm 1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do ông Nhu tài trợ viết bài tấn công Mỹ và nói Ḥa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu v́ bị chích ma túy.
Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc tŕnh Tổng Thống Kennedy biết t́nh trạng bất ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại bản Thông Cáo Chung kư ngày 16 tháng 06.
Tại Hoa Thịnh Đốn, bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà Nhu ra khỏi chính quyền. Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Ṭa Bạch Ốc. Tại đây, ông Nolting khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và ông Nolting hy vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Mặc dù Tổng Thống Kennedy đă tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting để làm đại sứ tại Việt Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting qua Sài G̣n lần nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm.
Ngày 11 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài G̣n. Tuyên bố với báo chí, ông nói ông qua lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập trường. Ông khuyến khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc tranh chấp với Phật Giáo.
Ngày 18 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến khích, yêu cầu và ngay cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được ǵ khả quan cả, trừ việc Tổng Thống Diệm đồng ư lên đài phát thanh để hứa "cộng tác" chặt chẽ với Phật Giáo. Vụ tự thiêu lần thứ hai xảy ra.
Ngày 19 tháng 07 năm 1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2 phút. Với giọng nói lạnh lùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi người kính trọng chức vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban Chính Phủ khác điều tra các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp tục bao vây các chùa chiền bằng dây kẽm gai.
Ngày 05 tháng 08 năm 1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng xăng.
Ngày 13 tháng 08 năm 1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu.
Tại Ninh Ḥa, một ni cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu.
Ngày sau đó, một vị sư 71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế.
V́ phong trào Phật Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính quyền Tổng Thống Diệm ban t́nh trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội xao động, truyền đơn rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn quàng vào tay ủng hộ Phật Giáo đấu tranh.
Ngày 14 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ. Ông Nolting yêu cầu Tổng Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống Diệm lên tiếng phủ nhận lời tuyên bố "đổ dầu vào lửa" của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống Diệm cho biết ai là người thực sự lănh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm không thực hiện các điều kể trên th́ "chính phủ Mỹ khó có thể tiếp tục giữ t́nh hữu nghị như hiện tại".
Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng việc rối rắm này "không phải do Phật Giáo mà cũng chẳng phải do gia đ́nh ông tạo nên". Tuy nhiên, có lẽ v́ chỗ thân t́nh với ông Nolting nên Tổng Thống Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: "Chính sách liên kết với Phật Giáo của tôi không thể thực hiện được".
Chính phủ Tổng Thống Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo thật mạnh mẽ, với hy vọng là nếu thành công th́ đây là món quà đón tiếp tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.
Ngày 15 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting rời Sài G̣n. Ông Nhu cảnh giác cho các tướng lănh Việt Nam biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng dẫn bằng chứng là Mỹ vừa kư thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có nghĩa là Mỹ đi ḥa hoăn với Cộng Sản.
Ngày 20 tháng 08 năm 1963, mười vị tướng lănh yêu cầu Tổng Thống Diệm ban bố t́nh trạng thiết quân luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài Sài G̣n trở về chùa. Tối đó, ông Nhu tự ư hành động mà không thông báo cho các tướng lănh. Tấn công chùa Xá Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ lên xe. Tại Huế, lực lượng an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn bể tượng Phật và tịch thu 30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn ông, trẻ em đương đầu với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có xe tăng tới, tại chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.
Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi Tổng Thống Diệm ban bố t́nh trạng thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dă Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền. Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1.400 vị tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đă làm cho Mỹ tại Sài G̣n cũng như Hoa Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt gao. Tại Honolulu, ông Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông Nolting gởi cho Tổng Thống Diệm một điện thư: "Đây là lần đầu tiên ông đă nuốt lời hứa với tôi". Hết sức chịu đựng, và không c̣n nhẫn nại được nữa, Tổng Thống Kennedy quyết định giao cho CIA giải quyết vấn đề.
Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng, đài phát thanh Sài G̣n phát thanh lời Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương thảo với Phật Giáo thất bại. Ông tuyên bố toàn nước đặt trong t́nh trạng thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài G̣n mặc áo giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay và canh gác khắp các ngă đường, các cây cầu chính yếu. Xe Jeep trang bị súng lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên xuống đường biểu t́nh bất tuân lệnh thiết quân luật.
BộTrưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa tại Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ cứu trợ phải quay trở lại Mỹ v́ cảnh sát không cho phép máy bay hạ cánh. Chính phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn áp Phật Giáo.
Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9 giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài G̣n.
Ngày 23 tháng 08 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu để nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân đội không có nhúng tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein, CIA Operative, giữ vai tṛ chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo chánh).
Tướng Lê Văn Kim là phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn đ̣i triệt hạ ông Nhu và yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ th́ quân đội sẽ đứng lên lật đổ chính phủ Tổng Thống Diệm.
Bí thư của Tổng Thống Diệm là ông Vơ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống Diệm nếu loại bỏ ông Nhu. Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự kiện, nhưng ông Lodge không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu Mỹ ủng hộ đảo chánh th́ nên núp trong bóng tối.
Bức điện văn tố cáo "ông Nhu đang bị dân chúng chán ghét" được gởi đến bàn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Roger Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu c̣n ông Nhu th́ chẳng những đưa miền Nam Việt Nam vào thảm họa, mà c̣n kéo theo Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Vụ Averell Harriman cũng đồng ư là Mỹ không nên ủng hộ chính phủ Diệm-Nhu nữa.
Ngày 24 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao. Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n tiếp xúc với các tướng lănh để thực hiện đảo chánh.
Trúng vào thứ bảy cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng các phụ tá của họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ Tá Tổng Thống Forrestal có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman. Các người này thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ Lodge. Bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:
"Bộ Ngoại Giao gởi Ṭa Đại Sứ Mỹ tại Sài G̣n để thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD th́ chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài G̣n 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. (Các con số là những kư hiệu mật mă).
"Bây giờ th́ rơ là hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đă lừa họ. Ông Nhu đă lợi dụng t́nh trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rơ là ông Nhu đă âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.
Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng t́nh trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.
Nếu ông (tức Đại Sứ Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối th́ chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được".
Kư tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell Hariman ".
-Còn tiếp-
Bookmarks