TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ VỀ VIỆC
SƯ ĐOÀN 3 BỘ BINH LUI QUÂN TẠI QUẢNG TRỊ VÀO MÙA HÈ ĐỎ LỬA 1972

Năm nay, tháng 7/2010 trong dịp nghỉ hè tại Mỹ, chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư Đoàn 3BB cư ngụ tại vùng Nam California . Trong cuộc trao đổi, anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh lửa, trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên ” Đại Lộ Kinh Hoàng” năm 1972 . Sự kiện đó đă khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng cay về một trận đánh oan khiên tới độ phi lư mà các đơn vị trú pḥng tại đây đă phải gánh chịu và đấy cũng là những băn khoăn, thắc mắc nằm sâu trong kư ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua .

Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên Cứu và Kế hoạch Đặc Biệt, dưới quyền Tr/Tá Phạm Đức Lợi (1) thuộc Phân Khối Không Ảnh/ Pḥng 2/ Bộ Tổng Tham Mưu . Nhiệm vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn biến, mọi đổi thay trên toàn lănh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Ṃn HCM . Trung b́nh mỗi tuần, chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa Kỳ cung cấp . Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu, Thủ tướng Khiêm và Đại Tướng Viên nắm rất rơ t́nh h́nh và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi quân sự . Ba vị lănh đạo cao nhất đă được chúng tôi đệ tŕnh những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm 1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 v́ từ mùa thu 1971, VC đă ráo riết đưa hàng ngàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi Quân Sự .Con đường này đă được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72 . Những tin tức t́nh báo kỹ thuật cũng xác sự kiện đó . VC c̣n thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS . Điều đó có nghĩa là các căn cứ hỏa lực của ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của VC . Mỗi chiều thứ sáu, Đại tá Phạm Ngọc Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết tŕnh trước ba vị lănh đạo quân sự cao nhất của VNCH về t́nh h́nh QS tại ṭa nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục . Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh ǵ, mặc dù nhiều lần chúng tôi đă xin Không Quân HK oanh kích . Sự bỏ ngơ và thái độ khó hiểu của các giới chức Việt / Mỹ lúc đó đă làm cho chúng tôi hết sức kinh ngạc

I/ Mạn đàm với Chuẩn tướng Vũ văn Giai, Cựu Tư Lệnh SĐ3BB

Cuộc chuyện tṛ với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc t́m hiểu thêm để viết về những điều đă khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua . Bởi vậy, tôi ngỏ ư muốn gặp Tướng Giai để hiểu biết thêm về những điều mà tôi nghĩ rằng chỉ có ông mới trả lời chính xác được . Bốn ngày sau, vào trung tuần tháng 7/2010, tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California . Đi cùng với tôi là Tr/tá Nguyễn Tri Tấn, cựu Tr/đoàn phó Trung đoàn 2/SĐ3 . Khi VC tấn công qua sông Bến Hải, ông Tấn là Tiểu đoàn trưởng TĐ3/2/SĐ3 . Ông là người rất gần gũi với Tướng Giai v́ đă cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trước đây

V́ làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đă đặt cho các căn cứ hỏa lực tại vùng nam vĩ tuyến 17 . Do đó, chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn cứ này do Hoa Kỳ hay VN trấn giữ th́ Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm .

Về việc VC sửa soạn tấn công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đă được cố vấn Mỹ báo trước, nhưng trong cương vị của ḿnh, ông không thể làm ǵ hơn được . Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để pḥng thủ ở tuyến sau, v́ theo họ, lực lượng trú pḥng của ta không thể đương cự được . Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng Xuân Lăm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lăm đă phủ nhận để tránh trách nhiệm; Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng . Ngược lại, ông Lăm muốn SĐ3B giữ nguyên vị trí, dù áp lực và các trận địa pháo của địch đă phá vỡ nhiều pḥng tuyến khiến các đơn vị pḥng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt .

Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đă chống lại việc thành lập SĐ3 v́ họ đă chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH . SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH . Do đó, Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm trách . Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại Tá Lê Đức Đạt, TL/SĐ23 v́ ông này không được cảm t́nh của John Paul Vaunn, người Cố vấn Mỹ ” rất đặc biệt ” tại Quân Đoàn 2 lúc đó.

Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn công và với t́nh h́nh sôi động như vậy, SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng trừ bị hay không; Tướng Giai xác nhận là các đơn vị TQLC và BĐQ th́ đă được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu . Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra th́ không có thêm lực lượng nào khác .

Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 c̣n cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle, Tư Lệnh Không Quân Mỹ tại Thái B́nh Dương v́ ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đă bị Mỹ cách chức, lột lon và truy tố !

Cũng trong cuộc mạn đàm này, chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển của t́nh h́nh Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris và từ trước năm 1971, hai bên đă thỏa thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt- Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải . Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản ” Đề nghị mục tiêu oanh kích ” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV của Mỹ ở Saigon, vào thời điểm đó, đă không được thực hiện . Đấy cũng là lư do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ tŕnh mới từ đường ṃn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hỏa lực và các đơn vị pḥng thủ của VNCH tại phía nam của vùng PQS . Rơ ràng là HK đă dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là ” Tiền đồn chống Cộng ” của Thế Giới Tự Do . Tổng thống Thiệu, Đ.T. Viên dư biết các sự kiện đó, nhưng tại sao các ông không t́m một biện pháp nào tương xứng để pḥng bị hoặc đối phó ? Phải chăng VNCH đă được lănh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?

Tướng Giai c̣n cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ư rằng đây sẽ là mồ chôn của VC .

Chúng tôi hỏi là: Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn công vào vùng hỏa tuyến, niên trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư đoàn tân lập với một quân số phức tạp như SĐ3BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng, pháo yểm trợ mạnh mẽ là một sai lầm nghiêm trọng của Bộ TTM ở Saigon hay không ?

Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười, một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh ḷng và xúc động . Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đă được giải tỏa . Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương ḷng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận, nhưng chỉ ít lâu sau đó bị tước đoạt binh quyền và khi VC chiếm được miền Nam, ông lại bị Cộng sản đọa đầy thêm 13 năm nữa . Ông hiện sống âm thầm, ẩn dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khỏe cũng không được khả quan lắm

Có lẽ v́ định mệnh, khi BTL/SĐ3BB di chuyển về căn cứ Ḥa Khánh tại phía nam đèo Hải Vân, gần Ngă Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Saigon ra tăng cường cho P2/SĐ3 . Ngay sau khi tŕnh diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3, tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân ” lấn đất giành dân ” trước khi bản Hiệp Định Paris được kư kết vào ngày 27/1/1973 . Trong gần 3 năm, tôi đă chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn của các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào

Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa . Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít v́ không được bổ sung . Nguyên tắc ” một đổi một ” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện . Điều đó có nghĩa là : VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết ! Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng . Ai chịu trách nhiệm về việc này ?

Tại Ngă Ba Huế, tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21 & 22/3/75 . Đúng một tuần lễ sau, lúc 00 giờ 20 ngày 29/3/75, tôi cũng là một trong những người sau cùng rời căn cứ Ḥa Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng . Hai mươi mốt ngày sau, tôi t́m về được với gia đ́nh và người thân ở Saigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô của VNCH rơi vào tay CS .

II/ Phân tích & nhận định về cuộc lui quân để tái phối trí của SĐ3BB khỏi Quảng Trị năm 1972:

Chúng tôi không nhắc lại chi tiết của các trận đánh v́ trong suốt mấy chục năm qua, nhiều tác giả tham dự trong biến cố này đă viết khá đầy đủ . Hơn nữa, đó cũng không phải là chủ đích của bài viết này .

Theo quan niệm của chúng tôi th́ sự thành công hay thất bại, dù huy hoàng hay chua xót tới đâu, chúng ta cũng có thể phân tích và nhận định một cách khách quan để từ đấy rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng của ông cha chúng .
Để nh́n vấn đề một cách trung thực và chính xác hơn, chúng ta phải nh́n từ ” góc cạnh chính trị ” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó . Tuy nhiên, trên b́nh diện thuần túy quân sự, qua việc thất bại ấy, chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau :

1. Thành phần :

Thành phần chủ lực của SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1 . Đặc biệt, Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn . Khi được chuyển qua SĐ3 th́ 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2 . Đây là một đơn vị dạn dày tác chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến . Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 th́ mỗi Trung đoàn có một tiểu đoàn c̣n lại của Tr/ Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BBB; số c̣n lại là các tân binh quân dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng, pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu th́ việc thất trận không làm ai ngạc nhiên . Vả lại, chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn vị tăng phái đă phải đối đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số và chiến trường đă được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước

2. Tinh thần và khả năng chiến đấu:

Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đă bị VC tràn ngập . Ngay sau đó, việc đầu hàng của Tr/tá Đính, Tr/đoàn trưởng Tr/đoàn 56 tại căn cứ Tân Lâm cùng 1500 binh sĩ dưới quyền đă làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác . Hiện tượng này đă được lập lại trong cuộc di tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước .

Tóm lại, với một tương quan lực lượng như thế và với t́nh h́nh phức tạp từ trung ương đến địa phương như đă tŕnh bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lănh nào, dù tài giỏi đến mấy, cũng khó có thể thay đổi được t́nh thế bởi nó đă vượt ngoài tầm kiểm soát của các cấp chỉ huy . Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị ḿnh chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động của Tướng Giai . Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng Chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang, giao động hết mức .

3. Các yếu tố chính trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:

Trước t́nh h́nh hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngay QĐ đảo chính lật đổ chính phủ Đệ Nhất Cộng Ḥa, người Mỹ đến VN gọi là để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng của vơ khí . QĐ Mỹ đă chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đă thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung Cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN . Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược của cuộc chiến tranh du kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi, chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc . Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến . Giả dụ, nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông, quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên giới các nước bên cạnh . Qua h́nh thái chiến tranh ấy, VC đă làm cho người Mỹ chán nản v́ bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính

Bản chất của người Mỹ là mau chán, tiết kiệm thời gian . Làm việc ǵ họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất, bởi vậy cuối nặm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đă nghĩ đến việc rút quân . Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC tấn công QL/VNCH trong những ngày đầu của Tết Mậu Thân 1968 đă một phần chứng minh điều đó . Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan t́nh báo Mỹ không biết ǵ về cuộc Tổng công kích này trước khi nó xảy ra . Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ, nhưng những người lănh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lư, lịch sử, truyền thống và văn hóa của người bản xứ . Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt của QĐ Mỹ ở VN đă tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT v́ cuộc chiến VN đă bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN . Mỗi năm CSQT đă chi ra hàng trăm triệu Mỹ kim về lănh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phía VC . Các cuộc biểu t́nh chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương . Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH .

Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài, hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi, không liên hệ ǵ đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc pḥng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân . Đă thế, họ c̣n bị cả thế giới lên án th́ việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên . Hơn nữa, phe đối lập tại Thượng và Hạ viện Mỹ đả kích chính phủ để kiểm phiếu trong các mùa bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN . Được sự viện trợ và thúc đẩy của CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất của mỗi bên ngày một lớn . Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lư ǵ, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đ́nh họ phải lo lắng nên họ đ̣i chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con của họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ

4. Mục tiêu của chính phủ HK khi tham chiến tại VN:

Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân, do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lănh thổ của ḿnh v́ sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn . Đó là lư do khiến HK tham dự vào 2 cuộc chiến ở phía bên kia bán cầu và ở Cao Ly .

Sau Thế chiến thứ 2, khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng . Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do, Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách của ḿnh để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế, chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đă làm từ cuối thế kỷ 19 . Riêng tại VN, trong cuộc chiến vừa qua, HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chận CSQT bành trướng về phía ĐNA v́ theo quan điểm của Mỹ lúc ấy, họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ th́ các nước lân bang của VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo của CS . VNCH không c̣n một lựa chọn nào khác . Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đă được nói đến ở trên .

5. Lư do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:

Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi của quần chúng, chính phủ Mỹ c̣n nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về vơ khí để thắng trong cuộc chiến VN th́ Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng . Lúc ấy điểm nóng của chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt – Trung . Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn . Hơn nữa, hơn ai hết, bằng những h́nh ảnh chụp bằng phi cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh, HK biết rất rơ ràng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến v́ sự xung đột về ư thức hệ và v́ cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT . Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phía nam v́ vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ . Qua chiến lược đó, VNCH bắt buộc trở thành vật hy sinh để tế thần, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc tế . Đó là kết quả của chính sách ” ngoại giao bóng bàn ” của Henry Kissenger va Richard Nixon . T́nh nghĩa đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt ! VNCH bị bức tử .

Hai mươi năm sau, Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ . Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố về Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ . Trong bối cảnh ấy, HK lại t́m cách để làm thân với VC để t́m một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu, hầu cân bằng thế lực tại khu vực này của thế giới

III/ Kết luận:

Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH . Họ có thể đúng nếu trên lănh vực bang giao QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín . Tiếc rằng, điều đó sẽ không bao giờ trở thành sự thật như một quy ước bắt mọi người phải tôn trọng, nên mỗi quốc gia đều làm những ǵ có lợi nhất cho ḿnh . Hơn ai hết, HK đă từ lâu theo đuổi chủ trương ấy . Tôi không nhớ tên một nhà lănh đạo nào đó của HK đă thẳng thắn xác định ngụ ư rằng HK không có Bạn, cũng không có Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết . Cuộc chiến VN đă kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân của SĐ3BB tại Vùng Hỏa Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung của cả dân tộc

Khi chính trị chen vào bất cứ lănh vực nào th́ mọi lư lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !

Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đă nằm xuống v́ LƯ TƯỞNG TỰ DO và chúng tôi nghiêng ḿnh trước nỗi thống khổ của những chiến hữu đă bị đọa đầy, khổ nhục sau cuộc chiến đấu ” oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ ” để bảo vệ Đất Nước

THẾ HUY, Paris
Viết xong tại California ngày 19/7/2010
kbchn.com


Ghi chú:

(1) Trung tá Phạm Đức Lợi tức nhà thơ Mạc Ly Châu trong Hội Văn Nghệ QĐ đă tự sát tại nhà riêng ngày 30/4/75 khi VNCH rơi vào tay CS